intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phân tích khả năng sinh lợi của nghề nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng tại tỉnh Quảng Ngãi

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

110
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đo lường khả năng sinh lợi của nghề nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng tại tỉnh Quảng Ngãi dựa trên các chỉ tiêu: (i) thặng dư của người sản xuất, (ii) lợi nhuận của người sản xuất, (iii) lợi nhuận ròng. Mẫu khảo sát gồm 62 hộ nuôi với diện tích là 45 ha chiếm tỉ lệ khoảng 23% tổng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh của Quảng Ngãi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phân tích khả năng sinh lợi của nghề nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng tại tỉnh Quảng Ngãi

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 2/2016<br /> <br /> THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br /> <br /> PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG SINH LỢI CỦA NGHỀ NUÔI THÂM CANH<br /> TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI<br /> PROFITABILITY ANALYSIS FOR THE INTENSIVE WHITE LEG SHIRMP FARMING<br /> IN QUANG NGAI PROVINCE<br /> Lê Kim Long1, Phạm Thị Thanh Bình2<br /> Ngày nhận bài: 27/02/2016; Ngày phản biện thông qua: 16/5/2016; Ngày duyệt đăng: 15/6/2016<br /> <br /> TÓM TẲT<br /> Nghiên cứu đo lường khả năng sinh lợi của nghề nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng tại tỉnh Quảng Ngãi<br /> dựa trên các chỉ tiêu: (i) thặng dư của người sản xuất, (ii) lợi nhuận của người sản xuất, (iii) lợi nhuận ròng.<br /> Mẫu khảo sát gồm 62 hộ nuôi với diện tích là 45 ha chiếm tỉ lệ khoảng 23% tổng diện tích nuôi tôm thẻ chân<br /> trắng thâm canh của Quảng Ngãi. Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù nghề nuôi thâm canh tôm thẻ chân<br /> trắng ở Quảng Ngãi là tương đối hấp dẫn đối với các nhà sản xuất nhưng dưới lăng kính bền vững thì nghề<br /> nuôi này đã bắt đầu bước vào trạng thái bão hòa, phần lớn sự hấp dẫn của ngành đến từ việc chưa tính toán<br /> đến ngoại tác tiêu cực ra môi trường. Hơn nữa, với thực trạng công nghệ nuôi trồng thủy sản hiện tại ở Quảng<br /> Ngãi, kết quả khảo sát cho thấy nuôi tôm thâm canh với mật độ cao hơn 150 con/m2 mặc dù có xu hướng cho<br /> doanh thu lớn nhưng khả năng sinh lợi lại thấp và đặc biệt lượng ô nhiễm phát thải cũng rất lớn. Đây chính<br /> là thời điểm các nhà quản lý cần nghiên cứu và ban hành các chính sách nhằm từng bước nội sinh hóa chi phí<br /> môi trường vào quá trình sản xuất để tiến tới một nền sản xuất chuyên nghiệp và bền vững. Các hỗ trợ người<br /> nuôi như phát triển công nghệ, triển khai kỹ thuật nuôi và hỗ trợ vốn sản xuất cũng là những giải pháp cần<br /> được chú trọng.<br /> Từ khóa: khả năng sinh lời, tôm thẻ chân trắng, nuôi thâm canh, Quảng Ngãi<br /> ABSTRACT<br /> This study analyzes profitability for the intensive white leg shrimp farming in Quang Ngai province based<br /> on 3 indicators: (i) producer’s surplus, (ii) producer’s profit and (iii) net profit per ha. A total of 62 shrimp<br /> farmers praticing intensive aquaculture with the area of 45 ha (about 23% of the intensive white leg shrimp<br /> farming in Quang Ngai province) were randomly surveyed. The result shows that the intensive white leg<br /> shrimp farming in Quang Ngai province is quite promising for producers if the negative effect on environment<br /> is neglecged. The steady state due to open-acess mechanism for this aquaculture has, however, been reached.<br /> Furthermore, given existing technology, although farmimg with high density (above 150 individuals per m2)<br /> has more revenue, its profitability is rather low – expencially inducing more poluttion. For sustainable<br /> development, policies for endogenousing environment costs into production process should be considered<br /> by policy makers and managers. Farmer supports such as technology development, technique training and<br /> finance are also focussed.<br /> Keywords: profitability, white shrimp, intensive farming, Quang Ngai<br /> <br /> , Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> 1 2<br /> <br /> 32 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Từ năm 2001, tôm thẻ chân trắng đã bắt<br /> đầu trở thành đối tượng nuôi quan trọng đối<br /> với sự phát triển kinh tế vùng duyên hải, Việt<br /> Nam. Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng tập trung<br /> chủ yếu ở các tỉnh miền trung và khu vực đồng<br /> bằng sông Mê-Kông với diện tích nuôi gia tăng<br /> nhanh chóng từ 13.455 hecta năm 2005 tới<br /> 22.192 hecta năm 2010 [8]. Đặc biệt, theo dữ<br /> liệu của VASEP, trong năm 2012, mặc dù diện<br /> tích nuôi tôm thẻ chân trắng chỉ chiếm 5,9%<br /> diện tích nuôi thủy sản cả nước (hay 38.169<br /> ha) nhưng sản lượng đạt tới 27,3% tổng sản<br /> lượng nuôi cả nước (177.817 tấn) [11]. Đến<br /> năm 2014, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng cả<br /> nước đã đạt 98.866 ha (tính theo vụ nuôi) với<br /> tổng sản lượng là 324.581 tấn [9].<br /> Quảng Ngãi là một trong những tỉnh đầu<br /> tiên trong cả nước phát triển nuôi tôm thẻ<br /> chân trắng thương phẩm. Từ năm 2005 đến<br /> năm 2011, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng<br /> gia tăng nhanh chóng từ 190 ha lên 450 ha<br /> (tính theo vụ nuôi) và chiếm 97,5% diện tích<br /> nuôi trồng của toàn tỉnh trong năm 2011. Đến<br /> năm 2014, tổng diện tích nuôi tôm thẻ chân<br /> trắng của Quảng Ngãi đạt 1.029 ha (tính theo<br /> vụ nuôi). Trong đó, tổng diện tích nuôi tôm<br /> thẻ chân trắng thâm canh của Quảng Ngãi<br /> đạt 426 ha (tính theo vụ nuôi) hay 193 ha tính<br /> theo diện tích mặt nước nuôi (bình quân 2.2<br /> vụ/năm) trong năm 2014 [7]. Việc dịch chuyển<br /> nhanh chóng từ nghề nuôi tôm sú sang tôm thẻ<br /> chân trắng là một xu thế tất yếu của người nuôi<br /> chuyển từ đối tượng rủi ro cao, sang đối tượng<br /> nuôi mới ít rủi ro hơn [7].<br /> Sự dịch chuyển từ nuôi tôm sú sang tôm<br /> thẻ chân trắng bước đầu đã mang lại nhiều<br /> thành công. Tuy nhiên, việc chạy đua theo<br /> lợi nhuận, thiếu quy hoạch và không tuân thủ<br /> các quy định (mùa vụ nuôi, chất lượng giống,<br /> mật độ, quy trình chuẩn bị ao, các biện pháp<br /> phòng trị bệnh, xả thải sau khi nuôi) đã làm gia<br /> tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh và gây thiệt<br /> hại đáng kể cho nhiều người nuôi trên khắp<br /> cả nước. Martinez & Leung (2004) và Bunting<br /> <br /> Số 2/2016<br /> (2013) chỉ ra rằng nguồn gốc gây ô nhiễm trong<br /> nuôi tôm là là Ni-tơ và Phốt-pho phát thải (chủ<br /> yếu là Ni-tơ) do dùng thức ăn nuôi tôm quá<br /> mức. Đây chính là nguyên nhân làm thay đổi<br /> hệ sinh thái và ô nhiễm nguồn nước [1, 4]. Hiện<br /> nay, nghề nuôi trồng thủy sản vẫn được xem là<br /> sinh kế của người nghèo ở Việt Nam cũng như<br /> phần lớn các nước đang phát triển ở Châu Á<br /> [1]. Do vậy, vấn đề tính toán chi phí làm sạch<br /> môi trường do chất thải của nghề nuôi cũng<br /> như xác định đối tượng phải trả chi phí này vẫn<br /> chưa được quan tâm ở Việt Nam cũng như các<br /> nước đang phát triển ở Châu Á [6]. Với nghề<br /> nuôi tôm thẻ chân trắng có quyền tiếp cận mở<br /> và việc dịch chuyển tự phát trong những năm<br /> qua, câu hỏi về tính bền vững của nghề nuôi<br /> thẻ chân trắng trở nên rất quan trọng đối với<br /> các nhà quản lý của Quảng Ngãi.<br /> Mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản<br /> lý cũng như các chủ hộ nuôi là khả năng sinh<br /> lợi của nghề nuôi. Dù vậy, khía cạnh tiếp cận<br /> và mối quan tâm lại không đồng nhất. Từ giác<br /> độ vi mô, các hộ nuôi tôm thường quan tâm<br /> nhất đến mục tiêu khả năng sinh lợi của nông<br /> hộ. Ở phạm vi quản lý ngành, các nhà hoạch<br /> định chính sách phải quan tâm cả mục tiêu<br /> hiệu quả về mặt kinh tế của nghề nuôi, đồng<br /> thời phải bảo vệ tài nguyên môi trường thiên<br /> nhiên để đảm bảo sự phát triển bền vững trong<br /> dài hạn. Do đó, phân tích khả năng sinh lợi của<br /> nghề nuôi ở các góc độ tiếp cận khác nhau là<br /> một nhu cầu bức thiết và phải thực hiện ngay<br /> nhằm giúp các nhà quản lý khuyến cáo chủ<br /> trang trại và đề ra các biện pháp, chính sách<br /> nhằm phát triển nghề nuôi bền vững.<br /> Việc phân tích khả năng sinh lợi của các<br /> đơn vị sản xuất từ các giác độ tiếp cận khác<br /> nhau nhằm đề xuất các chính sách phát triển<br /> bền vững đã được áp dụng rất rộng rãi để<br /> trong ngành nuôi trồng thủy sản. Ví dụ, Folke<br /> (1994) cho nghề nuôi cá hồi ở Thụy Điển [3];<br /> Buschmann và ctg (1996) cho nghề nuôi biển<br /> ở Chi-lê [2]; và Irz & Mckenzie (2003) cho các<br /> hộ nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Pampaanga,<br /> Philippines [5].<br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 33<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> Mục tiêu của nghiên cứu này là: phân tích<br /> khả năng sinh lợi của nghề nuôi thâm canh<br /> tôm thẻ chân trắng thương phẩm của tỉnh<br /> Quảng Ngãi dưới cả góc độ quan tâm của nhà<br /> sản xuất cũng như các nhà quản lý ngành để<br /> đề xuất một số khuyến nghị cho chính quyền<br /> và chủ nông hộ nhằm phát triển nghề nuôi<br /> bền vững.<br /> II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 1. Cơ sở lý thuyết<br /> Nghiên cứu về khả năng sinh lợi với quy<br /> trình như sau [10]:<br /> Tổng doanh thu<br /> - Chi phí biến đổi<br /> = Thặng dư của nhà sản xuất<br /> - Chi phí cố định<br /> = Lợi nhuận của nhà sản xuất<br /> - Chi phí môi trường<br /> = Lợi nhuận ròng<br /> Khả năng sinh lợi của trại nuôi trong nghiên<br /> cứu được đo lường bằng các chỉ số: Thặng dư<br /> của nhà sản xuất/ha; Lợi nhuận sản xuất/ha và<br /> Lợi nhuận ròng/ha [10].<br /> Chi phí môi trường được tính chính là<br /> chi phí cần bỏ ra để xử lý (làm sạch) hoàn<br /> toàn chất gây ô nhiễm (xem Folke, 1994;<br /> Buschmann và ctg, 1996) [2, 3]. Theo Martinez<br /> & Leung (2004), lượng Ni-tơ phát thải gây ô<br /> nhiễm trực tiếp ảnh hưởng đến việc nuôi tôm<br /> được tính theo công thức [4]:<br /> Ni-tơ gây ô nhiễm = Ni-tơ trong thức ăn Ni-tơ tích lũy trong tôm - Ni-tơ bay hơi<br /> Ở Việt Nam cũng như nhiều nước đang<br /> phát triển nói chung, nghề nuôi tôm vẫn được<br /> xem là sinh kế của người dân ven biển và<br /> được khuyến khích phát triển nên chi phí môi<br /> trường do phát thải ô nhiễm chưa được quan<br /> tâm đúng mức. Hiện vẫn chưa có nghiên cứu<br /> nào công bố chi phí làm sạch Ni-tơ phát thải<br /> gây ô nhiễm của nghề nuôi trồng ở Việt Nam<br /> hay các nước Châu Á [6]. Do vậy, nghiên cứu<br /> này sử dụng mức chi phí trung bình để xử lý<br /> <br /> 34 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Số 2/2016<br /> 1 kg Ni-tơ gây ô nhiễm trong nghề nuôi là 9,6<br /> USD (giá trị nhỏ nhất là 6,4 USD và lớn nhất<br /> là 12,8 USD) được tính toán trong nghiên<br /> cứu của Folke (1994) để phân tích khả năng<br /> sinh lợi của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng của<br /> Quảng Ngãi [3]. Nhiều nghiên cứu cũng đã<br /> sử dụng kết quả của Folke (1994) trong phân<br /> tích khả năng sinh lợi của nghề nuôi trồng như<br /> Buschmann và ctg (1996) cho nghề nuôi cá<br /> biển ở Chi-Lê và Ly (2009) cho nghề nuôi tôm<br /> hùm ở Miền trung, Việt Nam [2, 6].<br /> Hơn nữa, Ly (2009) cũng áp dụng cách<br /> tiếp cận đối chứng bằng cách tính toán ảnh<br /> hưởng của Ni-tơ phát thải đến năng suất của<br /> nghề nuôi tôm hùm để tìm ra “chi phí ẩn của<br /> Ni-tơ ô nhiễm”. Kết quả nghiên cứu cho thấy<br /> với mức giá tôm hùm bình quân giao động<br /> từ 21,4 - 45,2 USD/kg trong giai đoạn 2007 2009, chi phí ẩn của 1 kg Ni-tơ ô nhiễm giao<br /> động từ 9,9 - 21 USD. Cách tiếp cận này cho<br /> thấy mức chi phí môi trường do Ni-tơ ô nhiễm<br /> cao hơn nghiên cứu của Folke (1994) và phụ<br /> thuộc vào mức giá tôm hùm trên thị trường [6].<br /> 2. Dữ liệu nghiên cứu<br /> 2.1. Địa bàn và qui mô nghiên cứu<br /> Đối tượng khảo sát là các hộ nuôi tôm thẻ<br /> chân trắng tại tỉnh Quảng Ngãi, số lượng hộ<br /> nghiên cứu là 62 với tổng diện tích là 45ha<br /> chiếm khoảng 23% tổng diện tích nuôi tôm<br /> thẻ chân trắng thâm canh toàn tỉnh trong<br /> năm 2014.<br /> 2.2. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu<br /> Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn<br /> giản bằng cách dựa vào danh sách các hộ nuôi<br /> thâm canh tôm thẻ chân trắng, sau đó rút thăm<br /> ngẫu nhiên không lặp lại từ danh sách lập để<br /> chọn ra các hộ cần điều tra. Số liệu thu thập<br /> bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ hộ.<br /> 3. Phương pháp phân tích dữ liệu<br /> Mô tả thống kê các chỉ số khả năng sinh lợi<br /> tiêu biểu trong phân tích kinh tế là: (i) Thặng dư<br /> của người sản xuất/ha; (ii) Lợi nhuận của nhà<br /> sản xuất/ha và Lợi nhuận ròng/ha.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 2/2016<br /> <br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> 1. Đặc điểm của mẫu<br /> Bảng 1. Thống kê mô tả mẫu<br /> Tiêu chí<br /> <br /> ĐVT<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Độ lệch chuẩn<br /> <br /> Giá trị lớn nhất<br /> <br /> Giá trị nhỏ nhất<br /> <br /> Diện tích/hộ<br /> <br /> ha<br /> <br /> 0,74<br /> <br /> 0,54<br /> <br /> 3,00<br /> <br /> 0,20<br /> <br /> Mật độ nuôi<br /> <br /> con/m<br /> <br /> 144<br /> <br /> 60<br /> <br /> 330<br /> <br /> 60<br /> <br /> Năng suất/năm<br /> <br /> tấn/ha<br /> <br /> 22,86<br /> <br /> 8,58<br /> <br /> 45,00<br /> <br /> 8,00<br /> <br /> Số ngày nuôi/vụ<br /> <br /> ngày<br /> <br /> 78<br /> <br /> 8<br /> <br /> 95<br /> <br /> 55<br /> <br /> vụ<br /> <br /> 2,18<br /> <br /> 0,43<br /> <br /> 3,00<br /> <br /> 1,00<br /> <br /> Số vụ/năm<br /> <br /> 2<br /> <br /> năm 2014 của Quảng Ngãi (xem [7]). Việc thiết<br /> kế mẫu và kết quả của mẫu khảo sát đã được<br /> tham khảo với các chuyên gia của Sở Nông<br /> nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Ngãi.<br /> Tính đại diện của mẫu, vì vậy, đảm bảo cho<br /> việc suy diễn cho tổng thể nghiên cứu.<br /> <br /> Bảng 1 mô tả đặc trưng của mẫu nghiên<br /> cứu. Kết quả của mẫu cho thấy các hộ nuôi ở<br /> Quảng Ngãi có đặc điểm chính là: (i) diện tích<br /> bình quân là 0,74 ha (giá trị nhỏ nhất 0,2 ha<br /> và lớn nhất là 3 ha); (ii) mật độ nuôi bình quân<br /> là 144 con/m2 (giá trị nhỏ nhất 60 và lớn nhất<br /> là 330); (iii) năng suất bình quân năm là 22,86<br /> tấn/ha (giá trị nhỏ nhất 8 và lớn nhất là 45 tấn);<br /> (iv) số vụ nuôi bình quân trong năm là 2,18 (giá<br /> trị nhỏ nhất 1 và lớn nhất là 3 vụ). Các đặc<br /> điểm này của mẫu có mức độ tương thích cao<br /> với Báo cáo về tình hình sản xuất tôm nước lợ<br /> <br /> 2. Phân tích khả năng sinh lợi<br /> Kết quả về khả năng sinh lợi của nghề<br /> nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm tại tỉnh<br /> Quảng Ngãi năm 2014 được trình bày như<br /> trong bảng 2.<br /> <br /> Bảng 2. Thống kê mô tả khả năng sinh lợi của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng<br /> Quảng Ngãi trong năm 2014<br /> <br /> (ĐVT: Triệu VNĐ)<br /> <br /> Tiêu chí<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Độ lệch chuẩn Giá trị lớn nhất Giá trị nhỏ nhất<br /> <br /> 1. Doanh thu/ha<br /> <br /> 2783<br /> <br /> 1107<br /> <br /> 5625<br /> <br /> 721<br /> <br /> 2. Chi phí biến đổi/ha<br /> <br /> 1956<br /> <br /> 702<br /> <br /> 3993<br /> <br /> 738<br /> <br /> 3. Thặng dư của nhà sản xuất/ha (3) = (1)-(2)<br /> <br /> 827<br /> <br /> 616<br /> <br /> 2049<br /> <br /> -510<br /> <br /> 4. Chi phí cố định/ha<br /> <br /> 519<br /> <br /> 150<br /> <br /> 840<br /> <br /> 190<br /> <br /> 5. Lợi nhuận của người sản xuất/ha<br /> <br /> 307<br /> <br /> 561<br /> <br /> 1331<br /> <br /> -1188<br /> <br /> 8. Ni-tơ gây ô nhiễm (kg)<br /> <br /> 719<br /> <br /> 352<br /> <br /> 1775<br /> <br /> 196<br /> <br /> 9. Chi phí môi trường/ha<br /> <br /> 145<br /> <br /> 71<br /> <br /> 358<br /> <br /> 39<br /> <br /> 10. Lợi nhuận ròng/ha<br /> <br /> 162<br /> <br /> 543<br /> <br /> 1214<br /> <br /> -1316<br /> <br /> (Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra).<br /> <br /> Theo lý thuyết kinh tế, các nhà sản xuất<br /> thường đưa ra quyết định tiếp tục sản xuất<br /> hay dừng lại trong ngắn hạn dựa trên cơ sở<br /> thặng dư của người sản xuất. Trong ngắn hạn,<br /> nếu thặng dư sản xuất lớn hơn định phí thì<br /> lợi nhuận của người sản xuất dương nên dĩ<br /> nhiên doanh nghiệp sẽ tiếp tục sản xuất; thặng<br /> dư sản xuất dương và nhỏ hơn định phí thì<br /> <br /> doanh nghiệp vẫn nên tiếp tục sản xuất vì định<br /> phí vẫn được bù đắp một phần; thặng dư sản<br /> xuất âm thì doanh nghiệp nên dừng sản xuất<br /> [10]. Bảng 2 cho thấy thặng dư của người<br /> sản xuất trung bình là 827 triệu đồng/ha và rõ<br /> ràng lớn hơn định phí (519 triệu đồng), với giá<br /> trị nhỏ nhất là -510 triệu đồng/ha, giá trị lớn<br /> nhất là 2049 triệu đồng/ha, độ lệch chuẩn là<br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 35<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> 616 triệu đồng. Kết quả này cho thấy (i) nghề<br /> nuôi tôm thẻ chân trắng ở Quảng Ngãi vẫn sẽ<br /> tiếp tục duy trì tái sản xuất (thặng dư sản xuất<br /> bình quân/hec-ta của nghề dương) dù một số<br /> trang trại nuôi có thể sẽ dừng sản xuất (khoảng<br /> 13% số hộ nuôi, xem bảng 3).<br /> Chỉ số lợi nhuận sản xuất trên tài sản đầu<br /> tư là chỉ số tổng hợp và quan trọng nhất để<br /> đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất của một<br /> doanh nghiệp hay một ngành sản xuất. Chỉ số<br /> này càng cao cho thấy hiệu quả của họat động<br /> sản xuất càng lớn, và do vậy thành quả cho nỗ<br /> lực đầu tư và chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư<br /> càng lớn. Điều này sẽ khuyến khích và tạo điều<br /> kiện cho nhà đầu tư mở rộng sản xuất trong<br /> dài hạn [10]. Để đơn giản, nghiên cứu này sử<br /> dụng chỉ số lợi nhuận của nhà sản trên một<br /> đơn vị diện tích (ha) để tính toán và đánh giá<br /> hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi. Mặc dù đây<br /> không phải là chỉ số tốt nhất để đo lường hiệu<br /> quả sản xuất của các hộ nuôi, nhưng đây là chỉ<br /> số rất thường được sử dụng trong phân tích<br /> hiệu quả sản xuất trong ngành nông nghiệp,<br /> lâm nghiệp hay thủy sản - khi mà đất đai là<br /> tài nguyên rất quan trọng trong quá trình sản<br /> xuất (xem [5]). Kết quả tính toán trong bảng 2<br /> cho thấy lợi nhuận bình quân của người sản<br /> xuất/ha của nghề nuôi tôm ở Quảng Ngãi trong<br /> <br /> Số 2/2016<br /> năm 2014 là 307 triệu đồng, giá trị nhỏ nhất<br /> là - 1188 triệu đồng/ha, giá trị lớn nhất là 1331<br /> triệu đồng/ha. Kết quả tính toán cho thấy có<br /> sự chênh lệch lớn giữa giá trị nhỏ nhất và giá<br /> trị lớn nhất về lợi nhuận của nhà sản xuất thu<br /> được trên mỗi ha, đồng thời với độ lệch chuẩn<br /> lớn đã thể hiện sự khác biệt về hiệu quả kinh<br /> tế của việc nuôi tôm thẻ chân trắng giữa các<br /> nông hộ là rất lớn. Điều này ngụ ý nghề nuôi<br /> tôm thẻ chân trắng này có mức độ độ rủi ro cao<br /> (khoảng 29% hộ có lợi nhuận âm, xem bảng 3)<br /> nhưng cũng là nghề hấp dẫn do các hộ lãi có<br /> giá trị lợi nhuận lớn.<br /> Cụ thể hơn, với chu kỳ nuôi bình quân<br /> là 2,18 vụ trong năm 2014, lợi nhuận bình<br /> quân của người sản xuất là 307/2,18 = 140<br /> triệu đồng cho mỗi vụ nuôi (khoảng 3 tháng).<br /> Tổng chi phí sản xuất cho mỗi vụ nuôi (một<br /> chu kỳ sản xuất) là (1956 + 519)/2,18 = 1135<br /> triệu đồng. Do vậy, tỉ suất lợi nhuận bình<br /> quân trên tổng chi phí sản xuất của cho 01 vụ<br /> nuôi là 12%. Với lãi suất bình quân vay ngân<br /> hàng (trung bình của thời kỳ 2013-2015) cho<br /> sản xuất là 1% cho 01 tháng thì tỉ suất lợi<br /> nhuận của nhà sản xuất thực tế thu được<br /> bình quân là 3% mỗi tháng. Đây là mức tỷ<br /> suất lợi nhuận khá hấp dẫn các nhà sản xuất<br /> ở Quảng Ngãi.<br /> <br /> Bảng 3. Thống kê tình hình các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng ở Quảng Ngãi năm 2014<br /> Tiêu chí<br /> <br /> Số hộ (hộ)<br /> <br /> Tần suất (%)<br /> <br /> Số hộ có thặng dư âm<br /> <br /> 8<br /> <br /> 13<br /> <br /> Số hộ có thặng dư dương<br /> <br /> 54<br /> <br /> 87<br /> <br /> Số hộ có lợi nhuận âm<br /> <br /> 18<br /> <br /> 29<br /> <br /> Số hộ có lợi nhuận dương<br /> <br /> 44<br /> <br /> 71<br /> <br /> Số hộ có lợi nhuận ròng âm<br /> <br /> 23<br /> <br /> 37<br /> <br /> Số hộ có lợi nhuận ròng dương<br /> <br /> 39<br /> <br /> 63<br /> <br /> Thặng dư của người sản xuất<br /> <br /> Lợi nhuận của người sản xuất<br /> <br /> Lợi nhuận ròng<br /> <br /> (Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)<br /> <br /> 36 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2