Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 2/2016<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG SINH LỢI CỦA NGHỀ NUÔI THÂM CANH<br />
TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI<br />
PROFITABILITY ANALYSIS FOR THE INTENSIVE WHITE LEG SHIRMP FARMING<br />
IN QUANG NGAI PROVINCE<br />
Lê Kim Long1, Phạm Thị Thanh Bình2<br />
Ngày nhận bài: 27/02/2016; Ngày phản biện thông qua: 16/5/2016; Ngày duyệt đăng: 15/6/2016<br />
<br />
TÓM TẲT<br />
Nghiên cứu đo lường khả năng sinh lợi của nghề nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng tại tỉnh Quảng Ngãi<br />
dựa trên các chỉ tiêu: (i) thặng dư của người sản xuất, (ii) lợi nhuận của người sản xuất, (iii) lợi nhuận ròng.<br />
Mẫu khảo sát gồm 62 hộ nuôi với diện tích là 45 ha chiếm tỉ lệ khoảng 23% tổng diện tích nuôi tôm thẻ chân<br />
trắng thâm canh của Quảng Ngãi. Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù nghề nuôi thâm canh tôm thẻ chân<br />
trắng ở Quảng Ngãi là tương đối hấp dẫn đối với các nhà sản xuất nhưng dưới lăng kính bền vững thì nghề<br />
nuôi này đã bắt đầu bước vào trạng thái bão hòa, phần lớn sự hấp dẫn của ngành đến từ việc chưa tính toán<br />
đến ngoại tác tiêu cực ra môi trường. Hơn nữa, với thực trạng công nghệ nuôi trồng thủy sản hiện tại ở Quảng<br />
Ngãi, kết quả khảo sát cho thấy nuôi tôm thâm canh với mật độ cao hơn 150 con/m2 mặc dù có xu hướng cho<br />
doanh thu lớn nhưng khả năng sinh lợi lại thấp và đặc biệt lượng ô nhiễm phát thải cũng rất lớn. Đây chính<br />
là thời điểm các nhà quản lý cần nghiên cứu và ban hành các chính sách nhằm từng bước nội sinh hóa chi phí<br />
môi trường vào quá trình sản xuất để tiến tới một nền sản xuất chuyên nghiệp và bền vững. Các hỗ trợ người<br />
nuôi như phát triển công nghệ, triển khai kỹ thuật nuôi và hỗ trợ vốn sản xuất cũng là những giải pháp cần<br />
được chú trọng.<br />
Từ khóa: khả năng sinh lời, tôm thẻ chân trắng, nuôi thâm canh, Quảng Ngãi<br />
ABSTRACT<br />
This study analyzes profitability for the intensive white leg shrimp farming in Quang Ngai province based<br />
on 3 indicators: (i) producer’s surplus, (ii) producer’s profit and (iii) net profit per ha. A total of 62 shrimp<br />
farmers praticing intensive aquaculture with the area of 45 ha (about 23% of the intensive white leg shrimp<br />
farming in Quang Ngai province) were randomly surveyed. The result shows that the intensive white leg<br />
shrimp farming in Quang Ngai province is quite promising for producers if the negative effect on environment<br />
is neglecged. The steady state due to open-acess mechanism for this aquaculture has, however, been reached.<br />
Furthermore, given existing technology, although farmimg with high density (above 150 individuals per m2)<br />
has more revenue, its profitability is rather low – expencially inducing more poluttion. For sustainable<br />
development, policies for endogenousing environment costs into production process should be considered<br />
by policy makers and managers. Farmer supports such as technology development, technique training and<br />
finance are also focussed.<br />
Keywords: profitability, white shrimp, intensive farming, Quang Ngai<br />
<br />
, Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
1 2<br />
<br />
32 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Từ năm 2001, tôm thẻ chân trắng đã bắt<br />
đầu trở thành đối tượng nuôi quan trọng đối<br />
với sự phát triển kinh tế vùng duyên hải, Việt<br />
Nam. Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng tập trung<br />
chủ yếu ở các tỉnh miền trung và khu vực đồng<br />
bằng sông Mê-Kông với diện tích nuôi gia tăng<br />
nhanh chóng từ 13.455 hecta năm 2005 tới<br />
22.192 hecta năm 2010 [8]. Đặc biệt, theo dữ<br />
liệu của VASEP, trong năm 2012, mặc dù diện<br />
tích nuôi tôm thẻ chân trắng chỉ chiếm 5,9%<br />
diện tích nuôi thủy sản cả nước (hay 38.169<br />
ha) nhưng sản lượng đạt tới 27,3% tổng sản<br />
lượng nuôi cả nước (177.817 tấn) [11]. Đến<br />
năm 2014, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng cả<br />
nước đã đạt 98.866 ha (tính theo vụ nuôi) với<br />
tổng sản lượng là 324.581 tấn [9].<br />
Quảng Ngãi là một trong những tỉnh đầu<br />
tiên trong cả nước phát triển nuôi tôm thẻ<br />
chân trắng thương phẩm. Từ năm 2005 đến<br />
năm 2011, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng<br />
gia tăng nhanh chóng từ 190 ha lên 450 ha<br />
(tính theo vụ nuôi) và chiếm 97,5% diện tích<br />
nuôi trồng của toàn tỉnh trong năm 2011. Đến<br />
năm 2014, tổng diện tích nuôi tôm thẻ chân<br />
trắng của Quảng Ngãi đạt 1.029 ha (tính theo<br />
vụ nuôi). Trong đó, tổng diện tích nuôi tôm<br />
thẻ chân trắng thâm canh của Quảng Ngãi<br />
đạt 426 ha (tính theo vụ nuôi) hay 193 ha tính<br />
theo diện tích mặt nước nuôi (bình quân 2.2<br />
vụ/năm) trong năm 2014 [7]. Việc dịch chuyển<br />
nhanh chóng từ nghề nuôi tôm sú sang tôm thẻ<br />
chân trắng là một xu thế tất yếu của người nuôi<br />
chuyển từ đối tượng rủi ro cao, sang đối tượng<br />
nuôi mới ít rủi ro hơn [7].<br />
Sự dịch chuyển từ nuôi tôm sú sang tôm<br />
thẻ chân trắng bước đầu đã mang lại nhiều<br />
thành công. Tuy nhiên, việc chạy đua theo<br />
lợi nhuận, thiếu quy hoạch và không tuân thủ<br />
các quy định (mùa vụ nuôi, chất lượng giống,<br />
mật độ, quy trình chuẩn bị ao, các biện pháp<br />
phòng trị bệnh, xả thải sau khi nuôi) đã làm gia<br />
tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh và gây thiệt<br />
hại đáng kể cho nhiều người nuôi trên khắp<br />
cả nước. Martinez & Leung (2004) và Bunting<br />
<br />
Số 2/2016<br />
(2013) chỉ ra rằng nguồn gốc gây ô nhiễm trong<br />
nuôi tôm là là Ni-tơ và Phốt-pho phát thải (chủ<br />
yếu là Ni-tơ) do dùng thức ăn nuôi tôm quá<br />
mức. Đây chính là nguyên nhân làm thay đổi<br />
hệ sinh thái và ô nhiễm nguồn nước [1, 4]. Hiện<br />
nay, nghề nuôi trồng thủy sản vẫn được xem là<br />
sinh kế của người nghèo ở Việt Nam cũng như<br />
phần lớn các nước đang phát triển ở Châu Á<br />
[1]. Do vậy, vấn đề tính toán chi phí làm sạch<br />
môi trường do chất thải của nghề nuôi cũng<br />
như xác định đối tượng phải trả chi phí này vẫn<br />
chưa được quan tâm ở Việt Nam cũng như các<br />
nước đang phát triển ở Châu Á [6]. Với nghề<br />
nuôi tôm thẻ chân trắng có quyền tiếp cận mở<br />
và việc dịch chuyển tự phát trong những năm<br />
qua, câu hỏi về tính bền vững của nghề nuôi<br />
thẻ chân trắng trở nên rất quan trọng đối với<br />
các nhà quản lý của Quảng Ngãi.<br />
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản<br />
lý cũng như các chủ hộ nuôi là khả năng sinh<br />
lợi của nghề nuôi. Dù vậy, khía cạnh tiếp cận<br />
và mối quan tâm lại không đồng nhất. Từ giác<br />
độ vi mô, các hộ nuôi tôm thường quan tâm<br />
nhất đến mục tiêu khả năng sinh lợi của nông<br />
hộ. Ở phạm vi quản lý ngành, các nhà hoạch<br />
định chính sách phải quan tâm cả mục tiêu<br />
hiệu quả về mặt kinh tế của nghề nuôi, đồng<br />
thời phải bảo vệ tài nguyên môi trường thiên<br />
nhiên để đảm bảo sự phát triển bền vững trong<br />
dài hạn. Do đó, phân tích khả năng sinh lợi của<br />
nghề nuôi ở các góc độ tiếp cận khác nhau là<br />
một nhu cầu bức thiết và phải thực hiện ngay<br />
nhằm giúp các nhà quản lý khuyến cáo chủ<br />
trang trại và đề ra các biện pháp, chính sách<br />
nhằm phát triển nghề nuôi bền vững.<br />
Việc phân tích khả năng sinh lợi của các<br />
đơn vị sản xuất từ các giác độ tiếp cận khác<br />
nhau nhằm đề xuất các chính sách phát triển<br />
bền vững đã được áp dụng rất rộng rãi để<br />
trong ngành nuôi trồng thủy sản. Ví dụ, Folke<br />
(1994) cho nghề nuôi cá hồi ở Thụy Điển [3];<br />
Buschmann và ctg (1996) cho nghề nuôi biển<br />
ở Chi-lê [2]; và Irz & Mckenzie (2003) cho các<br />
hộ nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Pampaanga,<br />
Philippines [5].<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 33<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Mục tiêu của nghiên cứu này là: phân tích<br />
khả năng sinh lợi của nghề nuôi thâm canh<br />
tôm thẻ chân trắng thương phẩm của tỉnh<br />
Quảng Ngãi dưới cả góc độ quan tâm của nhà<br />
sản xuất cũng như các nhà quản lý ngành để<br />
đề xuất một số khuyến nghị cho chính quyền<br />
và chủ nông hộ nhằm phát triển nghề nuôi<br />
bền vững.<br />
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Cơ sở lý thuyết<br />
Nghiên cứu về khả năng sinh lợi với quy<br />
trình như sau [10]:<br />
Tổng doanh thu<br />
- Chi phí biến đổi<br />
= Thặng dư của nhà sản xuất<br />
- Chi phí cố định<br />
= Lợi nhuận của nhà sản xuất<br />
- Chi phí môi trường<br />
= Lợi nhuận ròng<br />
Khả năng sinh lợi của trại nuôi trong nghiên<br />
cứu được đo lường bằng các chỉ số: Thặng dư<br />
của nhà sản xuất/ha; Lợi nhuận sản xuất/ha và<br />
Lợi nhuận ròng/ha [10].<br />
Chi phí môi trường được tính chính là<br />
chi phí cần bỏ ra để xử lý (làm sạch) hoàn<br />
toàn chất gây ô nhiễm (xem Folke, 1994;<br />
Buschmann và ctg, 1996) [2, 3]. Theo Martinez<br />
& Leung (2004), lượng Ni-tơ phát thải gây ô<br />
nhiễm trực tiếp ảnh hưởng đến việc nuôi tôm<br />
được tính theo công thức [4]:<br />
Ni-tơ gây ô nhiễm = Ni-tơ trong thức ăn Ni-tơ tích lũy trong tôm - Ni-tơ bay hơi<br />
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước đang<br />
phát triển nói chung, nghề nuôi tôm vẫn được<br />
xem là sinh kế của người dân ven biển và<br />
được khuyến khích phát triển nên chi phí môi<br />
trường do phát thải ô nhiễm chưa được quan<br />
tâm đúng mức. Hiện vẫn chưa có nghiên cứu<br />
nào công bố chi phí làm sạch Ni-tơ phát thải<br />
gây ô nhiễm của nghề nuôi trồng ở Việt Nam<br />
hay các nước Châu Á [6]. Do vậy, nghiên cứu<br />
này sử dụng mức chi phí trung bình để xử lý<br />
<br />
34 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Số 2/2016<br />
1 kg Ni-tơ gây ô nhiễm trong nghề nuôi là 9,6<br />
USD (giá trị nhỏ nhất là 6,4 USD và lớn nhất<br />
là 12,8 USD) được tính toán trong nghiên<br />
cứu của Folke (1994) để phân tích khả năng<br />
sinh lợi của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng của<br />
Quảng Ngãi [3]. Nhiều nghiên cứu cũng đã<br />
sử dụng kết quả của Folke (1994) trong phân<br />
tích khả năng sinh lợi của nghề nuôi trồng như<br />
Buschmann và ctg (1996) cho nghề nuôi cá<br />
biển ở Chi-Lê và Ly (2009) cho nghề nuôi tôm<br />
hùm ở Miền trung, Việt Nam [2, 6].<br />
Hơn nữa, Ly (2009) cũng áp dụng cách<br />
tiếp cận đối chứng bằng cách tính toán ảnh<br />
hưởng của Ni-tơ phát thải đến năng suất của<br />
nghề nuôi tôm hùm để tìm ra “chi phí ẩn của<br />
Ni-tơ ô nhiễm”. Kết quả nghiên cứu cho thấy<br />
với mức giá tôm hùm bình quân giao động<br />
từ 21,4 - 45,2 USD/kg trong giai đoạn 2007 2009, chi phí ẩn của 1 kg Ni-tơ ô nhiễm giao<br />
động từ 9,9 - 21 USD. Cách tiếp cận này cho<br />
thấy mức chi phí môi trường do Ni-tơ ô nhiễm<br />
cao hơn nghiên cứu của Folke (1994) và phụ<br />
thuộc vào mức giá tôm hùm trên thị trường [6].<br />
2. Dữ liệu nghiên cứu<br />
2.1. Địa bàn và qui mô nghiên cứu<br />
Đối tượng khảo sát là các hộ nuôi tôm thẻ<br />
chân trắng tại tỉnh Quảng Ngãi, số lượng hộ<br />
nghiên cứu là 62 với tổng diện tích là 45ha<br />
chiếm khoảng 23% tổng diện tích nuôi tôm<br />
thẻ chân trắng thâm canh toàn tỉnh trong<br />
năm 2014.<br />
2.2. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu<br />
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn<br />
giản bằng cách dựa vào danh sách các hộ nuôi<br />
thâm canh tôm thẻ chân trắng, sau đó rút thăm<br />
ngẫu nhiên không lặp lại từ danh sách lập để<br />
chọn ra các hộ cần điều tra. Số liệu thu thập<br />
bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ hộ.<br />
3. Phương pháp phân tích dữ liệu<br />
Mô tả thống kê các chỉ số khả năng sinh lợi<br />
tiêu biểu trong phân tích kinh tế là: (i) Thặng dư<br />
của người sản xuất/ha; (ii) Lợi nhuận của nhà<br />
sản xuất/ha và Lợi nhuận ròng/ha.<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 2/2016<br />
<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
1. Đặc điểm của mẫu<br />
Bảng 1. Thống kê mô tả mẫu<br />
Tiêu chí<br />
<br />
ĐVT<br />
<br />
Trung bình<br />
<br />
Độ lệch chuẩn<br />
<br />
Giá trị lớn nhất<br />
<br />
Giá trị nhỏ nhất<br />
<br />
Diện tích/hộ<br />
<br />
ha<br />
<br />
0,74<br />
<br />
0,54<br />
<br />
3,00<br />
<br />
0,20<br />
<br />
Mật độ nuôi<br />
<br />
con/m<br />
<br />
144<br />
<br />
60<br />
<br />
330<br />
<br />
60<br />
<br />
Năng suất/năm<br />
<br />
tấn/ha<br />
<br />
22,86<br />
<br />
8,58<br />
<br />
45,00<br />
<br />
8,00<br />
<br />
Số ngày nuôi/vụ<br />
<br />
ngày<br />
<br />
78<br />
<br />
8<br />
<br />
95<br />
<br />
55<br />
<br />
vụ<br />
<br />
2,18<br />
<br />
0,43<br />
<br />
3,00<br />
<br />
1,00<br />
<br />
Số vụ/năm<br />
<br />
2<br />
<br />
năm 2014 của Quảng Ngãi (xem [7]). Việc thiết<br />
kế mẫu và kết quả của mẫu khảo sát đã được<br />
tham khảo với các chuyên gia của Sở Nông<br />
nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Ngãi.<br />
Tính đại diện của mẫu, vì vậy, đảm bảo cho<br />
việc suy diễn cho tổng thể nghiên cứu.<br />
<br />
Bảng 1 mô tả đặc trưng của mẫu nghiên<br />
cứu. Kết quả của mẫu cho thấy các hộ nuôi ở<br />
Quảng Ngãi có đặc điểm chính là: (i) diện tích<br />
bình quân là 0,74 ha (giá trị nhỏ nhất 0,2 ha<br />
và lớn nhất là 3 ha); (ii) mật độ nuôi bình quân<br />
là 144 con/m2 (giá trị nhỏ nhất 60 và lớn nhất<br />
là 330); (iii) năng suất bình quân năm là 22,86<br />
tấn/ha (giá trị nhỏ nhất 8 và lớn nhất là 45 tấn);<br />
(iv) số vụ nuôi bình quân trong năm là 2,18 (giá<br />
trị nhỏ nhất 1 và lớn nhất là 3 vụ). Các đặc<br />
điểm này của mẫu có mức độ tương thích cao<br />
với Báo cáo về tình hình sản xuất tôm nước lợ<br />
<br />
2. Phân tích khả năng sinh lợi<br />
Kết quả về khả năng sinh lợi của nghề<br />
nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm tại tỉnh<br />
Quảng Ngãi năm 2014 được trình bày như<br />
trong bảng 2.<br />
<br />
Bảng 2. Thống kê mô tả khả năng sinh lợi của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng<br />
Quảng Ngãi trong năm 2014<br />
<br />
(ĐVT: Triệu VNĐ)<br />
<br />
Tiêu chí<br />
<br />
Trung bình<br />
<br />
Độ lệch chuẩn Giá trị lớn nhất Giá trị nhỏ nhất<br />
<br />
1. Doanh thu/ha<br />
<br />
2783<br />
<br />
1107<br />
<br />
5625<br />
<br />
721<br />
<br />
2. Chi phí biến đổi/ha<br />
<br />
1956<br />
<br />
702<br />
<br />
3993<br />
<br />
738<br />
<br />
3. Thặng dư của nhà sản xuất/ha (3) = (1)-(2)<br />
<br />
827<br />
<br />
616<br />
<br />
2049<br />
<br />
-510<br />
<br />
4. Chi phí cố định/ha<br />
<br />
519<br />
<br />
150<br />
<br />
840<br />
<br />
190<br />
<br />
5. Lợi nhuận của người sản xuất/ha<br />
<br />
307<br />
<br />
561<br />
<br />
1331<br />
<br />
-1188<br />
<br />
8. Ni-tơ gây ô nhiễm (kg)<br />
<br />
719<br />
<br />
352<br />
<br />
1775<br />
<br />
196<br />
<br />
9. Chi phí môi trường/ha<br />
<br />
145<br />
<br />
71<br />
<br />
358<br />
<br />
39<br />
<br />
10. Lợi nhuận ròng/ha<br />
<br />
162<br />
<br />
543<br />
<br />
1214<br />
<br />
-1316<br />
<br />
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra).<br />
<br />
Theo lý thuyết kinh tế, các nhà sản xuất<br />
thường đưa ra quyết định tiếp tục sản xuất<br />
hay dừng lại trong ngắn hạn dựa trên cơ sở<br />
thặng dư của người sản xuất. Trong ngắn hạn,<br />
nếu thặng dư sản xuất lớn hơn định phí thì<br />
lợi nhuận của người sản xuất dương nên dĩ<br />
nhiên doanh nghiệp sẽ tiếp tục sản xuất; thặng<br />
dư sản xuất dương và nhỏ hơn định phí thì<br />
<br />
doanh nghiệp vẫn nên tiếp tục sản xuất vì định<br />
phí vẫn được bù đắp một phần; thặng dư sản<br />
xuất âm thì doanh nghiệp nên dừng sản xuất<br />
[10]. Bảng 2 cho thấy thặng dư của người<br />
sản xuất trung bình là 827 triệu đồng/ha và rõ<br />
ràng lớn hơn định phí (519 triệu đồng), với giá<br />
trị nhỏ nhất là -510 triệu đồng/ha, giá trị lớn<br />
nhất là 2049 triệu đồng/ha, độ lệch chuẩn là<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 35<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
616 triệu đồng. Kết quả này cho thấy (i) nghề<br />
nuôi tôm thẻ chân trắng ở Quảng Ngãi vẫn sẽ<br />
tiếp tục duy trì tái sản xuất (thặng dư sản xuất<br />
bình quân/hec-ta của nghề dương) dù một số<br />
trang trại nuôi có thể sẽ dừng sản xuất (khoảng<br />
13% số hộ nuôi, xem bảng 3).<br />
Chỉ số lợi nhuận sản xuất trên tài sản đầu<br />
tư là chỉ số tổng hợp và quan trọng nhất để<br />
đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất của một<br />
doanh nghiệp hay một ngành sản xuất. Chỉ số<br />
này càng cao cho thấy hiệu quả của họat động<br />
sản xuất càng lớn, và do vậy thành quả cho nỗ<br />
lực đầu tư và chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư<br />
càng lớn. Điều này sẽ khuyến khích và tạo điều<br />
kiện cho nhà đầu tư mở rộng sản xuất trong<br />
dài hạn [10]. Để đơn giản, nghiên cứu này sử<br />
dụng chỉ số lợi nhuận của nhà sản trên một<br />
đơn vị diện tích (ha) để tính toán và đánh giá<br />
hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi. Mặc dù đây<br />
không phải là chỉ số tốt nhất để đo lường hiệu<br />
quả sản xuất của các hộ nuôi, nhưng đây là chỉ<br />
số rất thường được sử dụng trong phân tích<br />
hiệu quả sản xuất trong ngành nông nghiệp,<br />
lâm nghiệp hay thủy sản - khi mà đất đai là<br />
tài nguyên rất quan trọng trong quá trình sản<br />
xuất (xem [5]). Kết quả tính toán trong bảng 2<br />
cho thấy lợi nhuận bình quân của người sản<br />
xuất/ha của nghề nuôi tôm ở Quảng Ngãi trong<br />
<br />
Số 2/2016<br />
năm 2014 là 307 triệu đồng, giá trị nhỏ nhất<br />
là - 1188 triệu đồng/ha, giá trị lớn nhất là 1331<br />
triệu đồng/ha. Kết quả tính toán cho thấy có<br />
sự chênh lệch lớn giữa giá trị nhỏ nhất và giá<br />
trị lớn nhất về lợi nhuận của nhà sản xuất thu<br />
được trên mỗi ha, đồng thời với độ lệch chuẩn<br />
lớn đã thể hiện sự khác biệt về hiệu quả kinh<br />
tế của việc nuôi tôm thẻ chân trắng giữa các<br />
nông hộ là rất lớn. Điều này ngụ ý nghề nuôi<br />
tôm thẻ chân trắng này có mức độ độ rủi ro cao<br />
(khoảng 29% hộ có lợi nhuận âm, xem bảng 3)<br />
nhưng cũng là nghề hấp dẫn do các hộ lãi có<br />
giá trị lợi nhuận lớn.<br />
Cụ thể hơn, với chu kỳ nuôi bình quân<br />
là 2,18 vụ trong năm 2014, lợi nhuận bình<br />
quân của người sản xuất là 307/2,18 = 140<br />
triệu đồng cho mỗi vụ nuôi (khoảng 3 tháng).<br />
Tổng chi phí sản xuất cho mỗi vụ nuôi (một<br />
chu kỳ sản xuất) là (1956 + 519)/2,18 = 1135<br />
triệu đồng. Do vậy, tỉ suất lợi nhuận bình<br />
quân trên tổng chi phí sản xuất của cho 01 vụ<br />
nuôi là 12%. Với lãi suất bình quân vay ngân<br />
hàng (trung bình của thời kỳ 2013-2015) cho<br />
sản xuất là 1% cho 01 tháng thì tỉ suất lợi<br />
nhuận của nhà sản xuất thực tế thu được<br />
bình quân là 3% mỗi tháng. Đây là mức tỷ<br />
suất lợi nhuận khá hấp dẫn các nhà sản xuất<br />
ở Quảng Ngãi.<br />
<br />
Bảng 3. Thống kê tình hình các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng ở Quảng Ngãi năm 2014<br />
Tiêu chí<br />
<br />
Số hộ (hộ)<br />
<br />
Tần suất (%)<br />
<br />
Số hộ có thặng dư âm<br />
<br />
8<br />
<br />
13<br />
<br />
Số hộ có thặng dư dương<br />
<br />
54<br />
<br />
87<br />
<br />
Số hộ có lợi nhuận âm<br />
<br />
18<br />
<br />
29<br />
<br />
Số hộ có lợi nhuận dương<br />
<br />
44<br />
<br />
71<br />
<br />
Số hộ có lợi nhuận ròng âm<br />
<br />
23<br />
<br />
37<br />
<br />
Số hộ có lợi nhuận ròng dương<br />
<br />
39<br />
<br />
63<br />
<br />
Thặng dư của người sản xuất<br />
<br />
Lợi nhuận của người sản xuất<br />
<br />
Lợi nhuận ròng<br />
<br />
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)<br />
<br />
36 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />