Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và một số kiến nghị
lượt xem 10
download
Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và một số kiến nghị
- Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba CAÛ I CAÙ C H - TÖ PHAÙ P PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP VÀ TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Trịnh Đức Thảo1 Tóm tắt: Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước là công cụ, phương tiện để bảo đảm hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả. Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam hiện nay Từ khóa: kiểm soát quyền lực; quyền lực nhà nước; pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước; kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhận bài: 05/05/2018; Hoàn thành biên tập: 13/06/2018; Duyệt đăng: 24/07/2018 Abstract: the Law on controlling state power between state agencies is the tool, measure to ensure the effectiveness of controlling state power. The article analyzes some reasoning matters, assesses reality and suggests solutions of finalizing law on controlling power state between state agencies in implementation of legislative, executive and judicial rights in Vietnam nowadays. Keywords: controlling power; state power; the law on controlling state power; controlling state power. Date of receipt: 05/05/2018; Date of revision: 13/06/2018; Date of approval: 24/07/2018 1. Khái niệm, nội dung và vai trò của pháp hóa quyền lực nhà nước, đưa quyền lực nhà nước luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các trở về với đúng nghĩa của nó là quyền lực của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền nhân dân”3. Từ những phân tích trên có thể hiểu: lập pháp, hành pháp và tư pháp kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những Kiểm soát quyền lực nhà nước là việc đánh cách thức, biện pháp trên cơ sở pháp luật các giá, xem xét, theo dõi nhằm ngăn chặn những chủ thể ngăn chặn, loại bỏ những hành vi sai trái hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể thực của các thiết chế thực hiện quyền lực nhà nước; hiện quyền lực nhà nước. Có ý kiến nhấn mạnh nhằm phát hiện và điều chỉnh được việc thực thi đến mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước quyền lực nhà nước; bảo đảm cho quyền lực nhà cho rằng kiểm soát quyền lực nhà nước là hoạt nước được sử dụng và thực thi đúng mục đích và động nhằm ngăn ngừa hay “loại bỏ những nguy đạt được hiệu quả cao. cơ, những việc làm sai trái của Nhà nước, cơ Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật phải quan, nhân viên nhà nước trong việc tổ chức và luôn được các chủ thể tôn trọng và thực hiện một thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho cách triệt để. Nhà nước ban hành pháp luật, sử quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện dụng pháp luật như là công cụ để quản lý xã hội; đúng Hiến pháp, pháp luật, đạt được mục đích tuy nhiên, mọi hoạt động của các cơ quan nhà mong muốn”2. Ý kiến khác cho rằng kiểm soát nước, cán bộ, công chức đều phải tuân theo pháp quyền lực nhà nước là nhằm “khắc phục sự tha luật. Hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước 1 Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Giảng viên cao cấp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 2 Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr35 3 Trần Ngọc Đường (2012), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr88 3
- HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP cũng phải được điều chỉnh bởi pháp luật mới đạt Trước hết, pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà hiệu quả cao. Có thể hiểu pháp luật về kiểm soát nước thể chế hóa quan điểm, chủ trương của quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo đảm là tổng thể các quy phạm pháp luật, có mối liên quyền lực nhà nước vận hành hiệu quả, mạnh hệ chặt chẽ, thống nhất; điều chỉnh các quan hệ mẽ, chính đáng, đúng mục đích, phục vụ nhân xã hội phát sinh trong hoạt động kiểm soát quyền dân tốt hơn. Quyền lực nhà nước là quyền lực lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong công, phục vụ cho lợi ích chung, bao gồm lợi ích việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và của giai cấp thống trị và các giai cấp khác và toàn tư pháp; do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bộ xã hội. Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà ban hành theo trình tự, thủ tục luật định; được nước là phương thức bảo đảm các quyền con biểu hiện thông qua hệ thống các văn bản quy người, quyền công dân. Pháp luật về kiểm soát phạm pháp luật nhằm đạt được mục tiêu của quyền lực nhà nước là biện pháp để giới hạn kiểm soát quyền lực nhà nước. phạm vi hoạt động của quyền lực nhà nước, làm Về nội dung, pháp luật về kiểm soát quyền cho quyền lực nhà nước vận hành trong khuôn lực nhà nước có các nhóm quy định các nguyên khổ nhất định theo nguyên tắc công dân được tắc kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ làm những gì mà pháp luật không cấm, cán bộ, quan nhà nước; xác lập địa vị pháp lý của các chủ công chức, viên chức nhà nước được làm những thể cũng như đối tượng của kiểm soát quyền lực gì mà pháp luật cho phép. Theo tinh thần đó, nhà nước; đồng thời, xác định phạm vi, hình kiểm soát quyền lực nhà nước bảo đảm cho Nhà thức, phương pháp, trình tự, thủ tục và hậu quả nước hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Pháp pháp lý của kiểm soát quyền lực nhà nước giữa luật được coi là “cái lồng” để “nhốt” quyền lực các cơ quan nhà nước; được biểu hiện trong các nhà nước. Từ đó, Nhà nước hoạt động trong văn bản quy phạm pháp luật. phạm vi, chức năng nhiệm vụ của mình mà Về hình thức, pháp luật về kiểm soát quyền không xâm phạm, can thiệp đến các quyền con lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước được người, quyền công dân. biểu hiện trong hệ thống các văn bản pháp luật, 2. Thực trạng pháp luật về kiểm soát sắp xếp theo một trật tự pháp lý từ Hiến pháp, Bộ quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà luật, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết, Nghị định, nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư liên quan đến việc hành pháp và tư pháp ở Việt Nam hiện nay thực hiện quyền lực nhà nước và kiểm soát việc Theo nội dung và tinh thần của Hiến pháp thực hiện quyền lực nhà nước; quy định, ràng năm 2013 về phân công, phối hợp và kiểm soát buộc hành vi của các chủ thể và đối tượng liên việc thực hiện quyền lực nhà nước, thực trạng quan đến kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa hệ thống các văn bản pháp luật đó Hiến pháp có các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền giá trị hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiếp pháp kiến lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam hiện tạo nên mô hình, cơ chế pháp lý kiểm soát quyền nay có thể chia thành bộ phận như: quy định lực nhà nước, quy định những nguyên tắc nền pháp luật kiểm soát việc thực hiện quyền lập tảng, địa vị pháp lý của các chủ thể kiểm soát hiến, lập pháp; quy định pháp luật kiểm soát việc quyền lực nhà nước. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật thực hiện quyền hành pháp; quy định pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp. quan nhà nước cần và phải chú ý đến việc bổ * Quy định pháp luật kiểm soát quyền lực sung, sửa đổi các quy định trong Hiến pháp; nhà nước trong việc thực hiện quyền lập hiến, đồng thời, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp lập pháp: Hiến pháp và pháp luật xác định đối liên quan đến kiểm soát quyền lực nhà nước. tượng của kiểm soát quyền lập pháp là kiểm soát Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước “thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp”, “làm giữa các cơ quan nhà nước có vai trò quan trọng. luật và sửa đổi luật”, ghi nhận nguyên tắc xác 4
- Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba định phạm vi quyền lập pháp như nguyên tắc giới và tư pháp”. Theo đó, hoạt động lập pháp của hạn quyền con người, quyền công dân phải do Quốc hội vẫn nằm ngoài cơ chế pháp lý kiểm luật định, việc thực hiện một số quyền con người, soát quyền lực nhà nước… quyền công dân, quyền bầu cử, ứng cử, thành Các quy định pháp luật về kiểm soát Quốc lập, điều chỉnh địa giới hành chính phải do luật hội trong thực hiện quyền lập hiến và lập pháp định. Pháp luật giới hạn phạm vi quyền lập pháp có những bất cập, hạn chế. Quốc hội tự kiểm soát bằng quy định thẩm quyền ban hành văn bản quy hoạt động của Quốc hội và các cơ quan thuộc phạm pháp luật của các chủ thể khác ngoài Quốc Quốc hội về tính hợp hiến của các dự án luật hội như thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm trước khi Quốc hội thảo luận, thông qua (tiền pháp luật của Chính phủ (Điều 96, Điều 100 kiểm) nhưng Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc Hiến pháp năm 2013), thẩm quyền ban hành văn hội hiện hành không quy định rõ cơ chế, quy bản quy phạm pháp luật của Chính quyền địa trình để Quốc hội tự xem xét lại tính hợp hiến phương (Điều 112 Hiến pháp năm 2013). Pháp của các đạo luật. Pháp luật cũng chưa quy định luật quy định về lập pháp ủy quyền (thẩm quyền cụ thể về cách giải quyết, trách nhiệm của cơ ban hành pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc, quan thẩm tra, thẩm định và cơ quan trình dự án thẩm quyền ban bành văn bản của Chính phủ, luật về tính hợp hiến của các dự án luật, pháp các cơ quan nhà nước khác và chính quyền lệnh, nghị quyết trong trường hợp có ý kiến khác địa phương)… nhau về tính hợp hiến giữa Ủy ban pháp luật của Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây, Quốc hội với cơ quan trình dự án. Hiến pháp và thực trạng pháp luật về kiểm soát việc thực hiện pháp luật không quy định Quốc hội có thẩm quyền lập hiến, lập pháp còn nhiều bất cập: quyền bãi bỏ những đạo luật có dấu hiệu trái Việc kiểm soát thực hiện quyền lập hiến, Hiến pháp. Ủy ban pháp luật của Quốc hội có kiểm soát việc thực hiện quyền lập hiến ở nước thẩm quyền xem xét các kiến nghị của các cơ ta không giao cho một cơ quan chuyên trách, độc quan hữu quan về những văn bản có dấu hiệu trái lập. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Hiến pháp (Điều 70, Luật Tổ chức Quốc hội năm pháp luật hiện hành trách nhiệm bảo hiến thuộc 2014) nhưng không nói rõ văn bản đó có bao về Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện gồm luật của Quốc hội không. Điều 15 Luật Tổ kiểm sát nhân dân, các cơ quan nhà nước khác chức Quốc hội quy định Quốc hội chỉ có thẩm và công dân. Tuy nhiên việc bảo hiến được giao quyền bãi bỏ văn bản của Ủy ban thường vụ cho nhiều cơ quan dẫn đến tình trạng né tránh Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, trách nhiệm, hay tâm lý “cha chung không ai Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ khóc” làm cho nhiệm vụ bảo hiến kém hiệu quả. quan khác do Quốc hội thành lập khi các văn bản Nội dung bảo hiến còn bị hạn chế, mới chỉ tập đó trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc trung vào việc giám sát tính hợp hiến của các văn hội theo đề nghị của các chủ thể có thẩm quyền. bản luật mà chưa bao hàm các văn bản dưới luật. Như vậy, cho đến nay, chưa có quy định nào về Quy trình, thủ tục, trình tự và phương thức hoạt nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế kiểm tra, phát hiện động bảo hiến còn chưa đầy đủ, cụ thể nên việc và xử lý các đạo luật đã ban hành có dấu hiệu vi xem xét hành vi bị cho là vi hiến hay văn bản phạm Hiến pháp kể cả từ phía các cơ quan nhà pháp luật bị cho là trái Hiến pháp không hiệu nước khác lẫn tự kiểm soát của Quốc hội4. quả. Đến nay thiết chế chuyên trách bảo vệ Hiến Một số quy định pháp luật về kiểm soát việc pháp vẫn chưa được thiết lập theo tinh thần mà thực hiện quyền lập pháp Quốc hội chưa bảo đảm Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã khẳng định: tính đồng bộ, thống nhất mà còn nhiều mâu “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm thuẫn. Khoản 3, Điều 2 của Hiến pháp ghi nhận Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước là 4 Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.113 5
- HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP “…có sự…kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước *Quy định pháp luật kiểm soát quyền lực trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành nhà nước trong việc thực hiện quyền hành pháp và tư pháp”. Tuy nhiên Điều 94 của Hiến pháp: pháp luật xác định đối tượng của kiểm pháp lại quy định: Chính phủ là cơ quan “chấp soát quyền hành pháp, quyền và nghĩa vụ của hành” của Quốc hội. Tính chất “chấp hành” đối các chủ thể có thẩm quyền kiểm soát quyền với Quốc hội của Chính phủ giống như “vòng hành pháp. Hệ thống các thiết chế về kiểm soát kim cô”; vì thế, Chính phủ không thể kiểm soát quyền lực hành pháp không ngừng hoàn thiện, được Quốc hội theo đúng tinh thần của nguyên phát huy vai trò trong hoạt động giám sát. Các tắc này. Thực tiễn các quy định pháp luật cho hình thức kiểm soát quyền hành pháp đa dạng, thấy rằng, mối quan hệ giữa Quốc hội - cơ quan phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và phương thực hiện quyền lập pháp… với Chính phủ - cơ thức hoạt động của mỗi cơ quan. Cụ thể, giám quan thực hiện quyền hành pháp - mới chỉ thể sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đối với hiện ở một chiều theo hướng kiểm soát hoạt động Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp thông của Chính phủ mà chưa có chiều ngược lại là qua hoạt động xem xét báo cáo, văn bản quy Chính phủ kiểm soát hoạt động của Quốc hội. phạm pháp luật, chất vấn, thành lập Ủy ban hay Hiện nay, Tòa án là thiết chế thực hiện chức Đoàn giám sát, bỏ phiếu tín nhiệm. Chủ tịch năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp. Ở hầu nước kiểm soát cơ quan hành pháp thông qua hết các quốc gia trên thế giới, Tòa án được coi là quy định về trách nhiệm của Chính phủ báo cáo thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước, có thẩm công tác của Chính phủ với Chủ tịch nước, Chủ quyền kiểm soát việc thực hiện quyền lập pháp tịch nước có quyền xem xét các báo cáo của của Nghị viện. Tuy nhiên, Toà án nhân dân ở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; có quyền đề nước ta, cụ thể là Toà hành chính “không có chức nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ năng xem xét lại và phán quyết các văn bản của tướng Chính phủ; có quyền yêu cầu Chính phủ Quốc hội hoặc các văn bản quy phạm pháp luật họp bàn các vấn đề cần thiết. Toà án - cơ quan của các cơ quan hành chính nhà nước mà chỉ có thực hiện quyền tư pháp - có vai trò trong kiểm thẩm quyền xem xét và phán quyết đối với các soát thực hiện quyền hành pháp thông qua xét văn bản hành chính cá biệt”5. Từ những quy định xử của Toà hành chính đối với quyết định hành của Hiến pháp và pháp luật, thực tiễn vận hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan hành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước cho chính và các cá nhân có thẩm quyền của các cơ thấy chưa có cơ quan nào có thẩm quyền kiểm quan đó. Kiểm toán nhà nước là thiết chế độc soát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong lập lần đầu tiên được hiến định có nhiệm vụ, hoạt động lập pháp của Quốc hội mà Quốc hội quyền hạn kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài tự thực hiện chức năng kiểm soát nội bộ đối với chính, tài sản công của các cơ quan hành chính Quốc hội và đối với các cơ quan thuộc Quốc hội nhà nước. Kiểm soát quyền lực hành pháp trong nhưng trên thực tế hoạt động tự kiểm soát của nội bộ cơ quan hành chính nhà nước thông qua Quốc hội đạt hiệu quả không cao. Nói cách khác, các hoạt động thanh tra, kiểm tra của Chính phủ pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa đối với nền hành chính nhà nước nói chung, của các cơ quan nhà nước đang thiếu vắng những quy cơ quan hành chính nhà nước cấp trên đối với định để thực hiện việc kiểm soát tính hợp hiến cấp dưới, của cơ quan quản lý ngành đối với cơ của các đạo luật từ phía cơ quan nhà nước khác, quan hành chính khác, của thủ trưởng cơ quan Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm đối với công chức. sát). Đây là “lỗ hổng” của pháp luật về kiểm soát Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây, quyền lực (lập pháp) ở Việt Nam hiện nay. thực trạng pháp luật kiểm soát quyền lực nhà 5 Tào Thị Quyên (2017), Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn, tháng 1/2017. 6
- Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba nước trong việc thực hiện quyền hành pháp có cũng không khác gì các chủ thể tham dự khác những bất cập, hạn chế như: như Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ. Hiến Các quy định về trình tự, thủ tục, công cụ pháp năm 2013 chưa quy định vị trí, tư cách của giám sát quyền lực hành pháp của Quốc hội chưa Chủ tịch nước khi tham dự các phiên họp của hoàn thiện và đồng bộ. Cơ chế kiểm soát quyền Chính phủ. Vì vậy, giá trị, hiệu lực pháp lý của lực nhà nước của Quốc hội đối với Chính phủ các ý kiến phát biểu của Chủ tịch nước khi tham chưa thật hiệu quả. Các hình thức Quốc hội sử dự các phiên họp này chưa được làm rõ. dụng để kiểm soát như xét báo cáo, chất vấn, Hiến pháp và pháp luật tuy không trực tiếp thành lập đoàn giám sát, thành lập ủy ban lâm quy định về quyền giám sát của Tòa án đối với thời, hay hoạt động của các cơ quan thuộc Quốc các cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, có thể suy ra hội, hình thức lấy phiếu tín nhiệm đối các chức rằng hoạt động kiểm soát của Tòa án đối với các danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chuẩn cơ quan hành pháp được thực hiện thông qua chưa phải là những biện pháp đủ mạnh để quy hoạt động xét xử, đặc biệt là khi xét xử các vụ kết trách nhiệm của các đối tượng chịu sự kiểm án hành chính. Thông qua hoạt động xét xử soát. Trong khi đó, hoạt động kiểm soát quyền hành chính, Tòa án thực hiện hoạt động giám lực trong hệ thống cơ quan hành pháp chủ yếu sát của mình đối với hoạt động của các cơ quan mang tính nội bộ6. hành pháp và các cơ quan khác của nhà nước Về mặt thực tiễn, năng lực của đại biểu trong việc ban hành các quyết định hành chính, Quốc hội trong sử dụng các công cụ pháp lý để thực hiện hành vi hành chính. Nhưng Tòa án chỉ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao còn có quyền phán quyết về tính hợp pháp hay chưa mạnh mẽ. Đại biểu Quốc hội hoạt động không hợp pháp của của các quyết định hành kiêm nhiệm, giữ các chức vụ trong bộ máy hành chính, hành vi hành chính, mà không có quyền pháp còn nhiều, dẫn đến giảm tính độc lập trong bãi bỏ đối với quyết định hành chính, hành vi giám sát của Quốc hội. Năng lực bộ máy giúp hành chính. việc cho Quốc hội trong việc thông tin, tổng * Các quy định pháp luật về kiểm soát hợp và tham mưu còn hạn chế, hiện nay chủ yếu quyền lực nhà nước trong việc thực hiện quyền thông qua các vụ chuyên môn thuộc Văn phòng tư pháp: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử và Quốc hội. Cho đến nay, Quốc hội vẫn chưa thực thực hiện quyền tư pháp. Kiểm soát quyền tư hiện quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành pháp là làm sao để hoạt động xét xử của Tòa án viên của Chính phủ. Các quy định về trình tự, không bị lạm dụng, không vi phạm pháp luật, thủ tục tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm còn nhiều dẫn đến oan sai; và ngược lại các cơ quan khác bất cập, thiếu tính khả thi như việc quy định không được can thiệp vào hoạt động xét xử của phải có ít nhất 20% tổng số đại biểu Quốc hội Tòa án, bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo có đề nghị thì việc bỏ phiếu tín nhiệm mới được pháp luật của hội đồng xét xử. Có nhiều thiết tiến hành7. chế thực hiện hoạt động kiểm soát quyền tư Quy định pháp luật về kiểm soát của Chủ tịch pháp: Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, nước đối với Chính phủ chỉ thể hiện thông qua hệ thống cơ quan hành pháp, hệ thống cơ quan các quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc đề Viện kiểm sát và hệ thống Tòa án (tự thực hiện nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ nhiệm vụ kiểm sát trong nội bộ ngành), các cơ tướng Chính phủ. Vai trò của Chủ tịch nước đối quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, cơ quan với Chính phủ thông qua hình thức tham dự các bổ trợ tư pháp. phiên họp của Chính phủ chưa được thể hiện rõ Bên cạnh những kết quả đạt được, pháp luật nét bởi vì khi tham dự, vai trò của Chủ tịch nước kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực 6 Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), (2016), sách đã dẫn, tr161-163 7 Xem: Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn (điểm c, khoản 1, Điều 11). 7
- HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP hiện quyền tư pháp tồn tại những bất cập: Quốc 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ nhân dân đối với Tòa án còn rất hình thức, không quan nhà nước trong việc thực hiện quyền cụ thể, chủ yếu thông qua báo cáo, chất vấn tại lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam các kỳ họp của các cơ quan dân cử. Hoạt động hiện nay kiểm soát trong nội bộ ngành Tòa án cũng chưa 3.1. Đối với quyền lập pháp đạt hiệu quả cao vì pháp luật chưa có quy định cụ - Xác định rõ trình tự, thủ tục để Quốc hội tự thể về tiêu chuẩn, chất lượng của một bản án và xem xét lại tính hợp hiến của các đạo luật do của quyết định giám đốc thẩm. Tương tự, pháp Quốc hội đã thông qua khi có dấu hiệu vi phạm luật đang thiếu vắng những quy định về yêu cầu, Hiến pháp. Điều 119 Hiến pháp đã tạo cơ sở hiến trình tự, thủ tục công bố bản án. Điều này gây ra định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp không ít khó khăn khi các chủ thể thực hiện do luật định. Theo đó, cần tiếp tục nghiên cứu quyền kiểm soát đối với hoạt động xét xử của xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp do Luật định Tòa án. để thực hiện trong thời gian tới. Một số quy định pháp luật chưa đúng tinh - Mở rộng thẩm quyền của Chủ tịch nước thần của Hiến pháp năm 2013 về phân công trong hoạt động lập pháp: Bổ sung quy định Chủ thực hiện quyền tư pháp và chức năng của Tòa tịch nước có quyền yêu cầu Quốc hội phải xem án. Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án có xét lại một luật hay pháp lệnh. chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp; - Quy chế hóa hoạt động phối hợp thực nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm trong xét hiện quyền lập pháp giữa các cơ quan của xử; tòa án phải độc lập khi xét xử, thực hiện Quốc hội và các cơ quan của Chính phủ, các nguyên tắc suy đoán vô tội trong hoạt động xét Bộ, ngành để phân định rõ nhiệm vụ của từng xử. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 2 Luật tổ chức Tòa công đoạn, gắn với trách nhiệm của tập thể, cá án nhân dân năm 2014 lại quy định: “khi thực nhân người đứng đầu trong quy trình xây dựng hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có pháp luật. Thực hiện biện pháp để Chính phủ quyền: …khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu là cơ quan thực hiện quyền hành pháp phải có cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu quyền kiểm soát đối với Quốc hội. Theo đó Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Chính phủ phải có quyền “bảo lưu ý kiến hay Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung rút các dự án luật” khi Chính phủ có những lý chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình do chính đáng. sự… khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc - Hoàn thiện quy định về ủy quyền lập pháp bỏ lọt tội phạm”. của Quốc hội. Hoàn thiện các quy định về ủy Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao và Tòa quyền lập pháp và thiết lập cơ chế kiểm soát chặt án nhân dân cấp cao vẫn chưa có thẩm quyền giải chẽ (cả tiền kiểm và hậu kiểm) của Quốc hội đối thích Hiến pháp và luật. Điều này gây khó khăn với việc ban hành văn bản được ủy quyền. Đây cho Tòa án khi thực hiện hoạt động kiểm soát là biện pháp nhằm tạo thêm cơ chế tự kiểm soát thông qua hình thức giám đốc thẩm. việc thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội. Bên Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền cạnh đó, cần quy định cụ thể về những căn cứ, công tố và kiểm soát hoạt động xét xử của Tòa án điều kiện cũng như cơ sở khoa học và thực tiễn tuy nhiên thật khó tách bạch giữa hai chức năng khi Quốc hội ban hành nghị quyết “thí điểm” này trong một chủ thể, trong cùng một thời điểm. nhằm giải quyết hay thực hiện nhiệm vụ thuộc Vì vậy, trong nhiều phiên tòa thiếu sự bình đẳng thẩm quyền của Quốc hội. giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, một số nguyên 3.2. Đối với quyền hành pháp tắc trong hoạt động xét xử như công bằng, tranh - Quy định cụ thể hơn về quyền hạn xem xét luận công khai, bình đẳng chưa được áp dụng báo cáo công tác của Chủ tịch nước đối với việc triệt để. thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng 8
- Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba Chính phủ và các chức danh trong hệ thống hành được xác định đối với việc xét xử vụ án hình sự pháp do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo Hiến pháp mà còn đối với việc xét xử vụ án dân sự, lao và pháp luật. động, kinh tế và hành chính. - Phân định thẩm quyền và mối quan hệ giữa - Cần có quy định cụ thể yêu cầu về nội Chủ tịch nước và Chính phủ khi Chủ tịch nước dung đối với quyết định giám đốc thẩm và các yêu cầu Chính phủ họp, bàn về những vấn đề mà bản án của Tòa án. Quyết định giám đốc thẩm Chủ tịch nước thấy cần thiết theo quy định của phải giải thích cụ thể về vấn đề pháp luật có Hiến pháp năm 2013. liên quan tới vụ án và các bản án của Tòa án - Bảo đảm sự minh bạch, trách nhiệm giải phải xác định đúng vấn đề giải quyết của vụ trình trong hoạt động của cơ quan hành pháp. án và đưa ra lời giải đáp một cách cặn kẽ và Phải có quy định rõ ràng về trách nhiệm thông thuyết phục. tin của các cơ quan hành pháp để bảo đảm Quốc - Nghiên cứu hoàn thiện khung khổ pháp lý hội kiểm soát hiệu quả hoạt động của Chính phủ. về kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong Thiếu thông tin, thông tin không trung thực thì việc thực hiện quyền tư pháp theo hướng mở không thể kiểm soát hiệu quả Chính phủ. rộng nghĩa vụ công khai bản án và hồ sơ vụ án để - Nghiên cứu hình thức lấy phiếu tín nhiệm hay làm cơ sở cho các cơ quan nhà nước khác và báo hình thức bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Thủ tướng chí, người dân giám sát xét xử một cách chính Chính phủ, các thành viên Chính phủ hay tập thể xác, thực chất và hiệu quả. Đồng thời, việc công Chính phủ khi thực hiện chính sách không hiệu quả khai bản án cùng với yêu cầu về nội dung của hoặc để xảy ra tham nhũng lớn trong bộ máy hành bản án sẽ là cơ sở để Quốc hội, Uỷ ban thường vụ pháp, làm thất thoát ngân sách nhà nước. Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của - Tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tiến lực nhà nước của các Bộ, cơ quan ngang bộ bằng hành kiểm soát hoạt động xét xử một cách khách hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và giám quan, công bằng và hiệu quả. sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc - Nâng cao tính minh bạch trong hoạt động hội, trong đó tập trung giám sát việc sử dụng của Tòa án: một là, cần phải minh bạch hóa việc ngân sách nhà nước hàng năm được Quốc hội xác lập chứng cứ; hai là, thủ tục công bố án lệ phân cho các Bộ, cơ quan ngang bộ là một nội cần được minh bạch hóa. dung giám sát hàng đầu. - Nâng cao hơn nữa trách nhiệm, chuyên - Tăng cường hiệu quả của cơ chế tự kiểm môn cũng như phẩm chất đạo đức của những tra trong hệ thống cơ quan hành chính nhà người làm việc trong cơ quan tư pháp. Việc nước. Xác định rõ trách nhiệm của người đứng tuyển chọn và bổ nhiệm các chức danh kiểm sát cầu cơ quan hành chính nhà nước với tập thể viên và thẩm phán cần trải qua quá trình sát đơn vị, người đứng đầu cơ quan hành chính hạch nghiêm khắc, kiên quyết loại bỏ những cán với tập thể cấp ủy khi có sai phạm. Nghiêm túc bộ thoái hóa, biến chất, yếu năng lực chuyên thực hiện việc đề cao trách nhiệm cá nhân, chế môn khỏi ngành tư pháp. tài nghiêm túc đối với người đứng đầu mỗi cơ - Nghiên cứu, thực hiện ngân sách độc lập quan hành chính trong hoạt động thanh tra, cho hoạt động của hệ thống Tòa án. Hiện tại Tòa kiểm tra. án khó có thể độc lập về ngân sách hoạt động mà 3.3. Đối với quyền tư pháp chịu sự chi phối và lệ thuộc cơ quan hành pháp. - Hoàn thiện cơ chế hợp lý để Tòa án cấp Thực tế, nhiều Tòa án không đủ ngân sách để trả dưới phải tuân thủ quyết định giám đốc thẩm nên phí luật sư tham gia các vụ án bào chữa chỉ định, được thiết lập trên cơ sở quy định trách nhiệm không đủ chi phí xét xử lưu động. Do vậy, cần bồi thường của Tòa án nhân dân cấp dưới nếu thực hiện chế độ ngân sách độc lập cho Tòa án và bản án của họ bị hủy bởi quyết định giám đốc bỏ chế độ “khoán chi” đối với các hoạt động thẩm. Trách nhiệm bồi thường này không chỉ hành chính của Tòa án./. 9
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Pháp luật Việt Nam về kiểm soát độc quyền - TS. Đinh Thị Mỹ Loan
24 p | 163 | 22
-
Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý về kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước ở nước ta
9 p | 128 | 16
-
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
7 p | 96 | 13
-
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền
7 p | 85 | 11
-
Các điều kiện bảo đảm thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
9 p | 62 | 10
-
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013
6 p | 102 | 10
-
Pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
7 p | 217 | 9
-
Kiểm soát quyền lực nhà nước khi thu hồi đất theo dự thảo Luật Đất đai sửa đổi năm 2022
9 p | 9 | 5
-
Tuân thủ quy luật khách quan trong xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
5 p | 57 | 5
-
Giải quyết tranh chấp hành chính với việc kiểm soát quyền lực nhà nước
6 p | 67 | 5
-
Kiểm soát quyền tư pháp của tòa án Việt Nam
5 p | 48 | 4
-
Tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ hiện nay
4 p | 37 | 4
-
Tài phán tài chính - cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của tư pháp đối với hành pháp
7 p | 53 | 3
-
Pháp luật về kiểm soát quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay
11 p | 22 | 3
-
Hoàn thiện pháp luật về quan hệ kiểm soát quyền lực nhà nước giữa Quốc hội và Chính phủ
10 p | 49 | 3
-
Kiểm soát quyền lực ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
3 p | 40 | 2
-
Đề cương chi tiết học phần Luật cạnh tranh (Mã học phần: LKT102028)
18 p | 7 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn