intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Pharmacorama

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

48
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chelat mới gắn được nguyên tố sắt Deferasirox là 1 chất chelat mới của sắt, dẫn xuất từ bishydroxyphenyltriazole, hoạt động khi uống bụng đói, 30 phút trước bữa ăn, được hấp thụ qua đường tiêu hóa, sinh khả dụng khoảng 70%. Trong huyết tương, thuốc gắn vào protein huyết tương, đi vào tế bào và loại thải chính qua đường mật. Khi có dạng sắt 3 (Fe3+) 2 phân tử deferasirox họp với ion Fe3+ thành 1 chelate bền sáu cạnh. Giống như những chất chelat sắt khác, deferasirox cũng chelat nhôm với ái lực mạnh nhưng thua...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Pharmacorama

  1. Pharmacorama Chelat mới gắn được nguyên tố sắt Deferasirox là 1 chất chelat mới của sắt, dẫn xuất từ bis- hydroxyphenyltriazole, hoạt động khi uống bụng đói, 30 phút trước bữa ăn, được hấp thụ qua đường tiêu hóa, sinh khả dụng khoảng 70%. Trong huyết tương, thuốc gắn vào protein huyết tương, đi vào tế bào và loại thải chính qua đường mật. Khi có dạng sắt 3 (Fe3+) 2 phân tử deferasirox họp với ion Fe3+ thành 1 chelate bền sáu cạnh. Giống như những chất chelat sắt khác, deferasirox cũng chelat nhôm với ái lực mạnh nhưng thua sắt. Thuốc có ái lực yếu hơn với kẽm và đồng. Deferasirox tăng loại thải sắt trong phân (qua mật) và giảm nồng độ sắt trong mô, nhất là trong gan, nhưng sẽ giảm công hiệu ở tim. Thuốc được chỉ định điều trị quá tải mãn tính chất sắt. Một trong những nguyên nhân quá
  2. tải sắt là bệnh beta-thalassemia cần truyền máu đỏ nhiều lần để thay thế hemoglobin cấu trúc sai lạc. Truyền nhiều máu sẽ đưa đến quá tải sắt, có thể đánh giá khi đo mức ferritin, dùng để điều chỉnh điều trị. Deferasirox đầu tiên được Hoa-kỳ và Thụy sĩ cấp phép lưu hành dười tên biệt dược Exiade, viên nén 125, 250, 500 mg. Liều lượng 20 mg/Kg và chỉ dùng 1 liều. Chất chelat sắt thường dùng là deferoxamin dưới tên biệt dược Desferal dùng ở dạng tiêm. Ngoài ra, còn có chất chelat sắt khác hoạt động ở dạng uống là deferiprone ( Ferriprox). Tác dụng thuốc đồng vận tác dụng dài beta-2 trong trường hợp cơn suyễn nặng Một phân tích meta về hiệu quả thuốc đồng vận beta-2 tác dụng dài khi lên cơn suyễn và tử suất ở người hen suyễn vừa được công bố trong Annals of Internal medicine 2006;144; 904-912 : Meta-Analysis: Effect of Long-Acting ß-Agonists on Severe Asthma Exacerbations and Asthma - Related Deaths. Bảng phân tích meta này đưa đến kết luận sử dụng thuốc đồng vận beta-2 tác dụng dài như salmeterol và formoterol, so với giả dược, tăng cơn
  3. suyễn cần phải nằm bệnh viện hay đe dọa tiên lượng và tử vong. Từ nhiều năm, nghi ngờ an toàn thuốc đồng vận beta-2 trong điều trị hen suyễn không phải lúc nào cũng có kết quả rõ ràng. Kết quả của nghiên cứu meta này không gây an tâm và tác giả đặt nghi vấn về duy trì nhóm thuốc này trên thị trường. (kết hợp với budenoside) ở Pháp và salmeterol có tên Serevent và Seretide (kết hợp với Fluticasone). Dùng liều cao thuốc lợi tiểu cho bệnh nhân suy tim tăng cao tử suất. Khi liều thuốc lợi tiểu quai tăng ở bệnhnhân suy tim tiến triển, nguy cơ tử vong cũng tăng, theo điều tìm thấy trong nghiên cứu của đại học UCLA. bác sĩ Gregg c. Fonarow trưởng nhóm nghiên cứu bảo đây là nghiên cứu đầu tiên nhìn đặc biệt và sự liên hệ giữa liều lượng của thuốc lợi tiểu quai và tử vong. Khi tìm hiểu xem thuốc có góp phần gây hậu quả nghịch lâm sàng trong dân số bệnh nhân, chứng minh có liên quan với liều lượng không là điều tất yếu. Thuốc lợi tiểu là loại thuốc thường được kê đơn và dùng để trị bệnh tim và những bệnh khác. Thuốc kích thích thận tháo nhiều nước hơn khỏi cơ thể qua ngã nước tiểu. Thuốc lợi tiểu quai là loại thuốc lợi tiểu mạnh.
  4. Fonarow và cộng sự nghiên cứu 1 354 bệnh nhân suy tim tiến triể n nhận điều trị tại cơ sở của họ giữa 1985 và 2004. Tuổi trung bình là 53,76% là phái nam khả năng tim máu suy giảm khoảng 24%. Các nhà nghiên cứu chia bệnh nhân thành 4 nhóm nhỏ, tùy theo liều lượng thuốc lợi tiểu quai. Cả 4 nhóm đều giống nhau về tuổi tác, phái tính, chỉ số thể trọng, nguyên nhân suy tim, bệnh sử cao huyết áp và trước đó có dùng thuốc lợi tiểu spironolactone. Nhóm dùng liều cao nhất trung bình có khả năng bơm máu thấp nhất, mức Na và hemoglobin thấp và mức cao chất đánh dấu sinh hóa bệnh thận. Trong báo cáo của báo bệnh tim Hoa-kỳ nửa tháng 6 năm 2006, số người sống sót giảm khi tăng liều thuốc lợi tiểu quai. Tỷ số sống sót ước lượng trong 2 năm là 83% ở liều thấp nhất, 81% ở nhóm nhỏ thứ hai, 68% ở nhóm nhỏ thứ ba và 53% ở nhóm cao nhất. Ngay cả sau khi dữ liệu được điều chỉnh để loại bỏ các yếu tố có thể làm tăng tử suất như tuổi tác, cường độ các thuốc điều trị khác, chức năng thận, hút thuốc và cao huyết áp, -thuốc lợi tiểu quai vẫn là yếu tố tiên đoán độc lập về tử vong. Nhóm dùng liều cao so với nhóm liều thấp, nguy cơ tử vong tăng gấp 4 lần. Fonarow đưa ra giải thích liên hệ giữa thuốc lợi tiểu quai và tử vong do suy tim. Thuốc lợi tiểu quai, nhất là khi dùng liều cao,
  5. khích hoạt một phần hệ thần kinh được biết làm tăng nguy cơ tử vong bệnh nhân suy tim, và làm tệ hại hơn chức năng thận và rối loạn chất điện giải. Tuy nhiên, Fonarow công nhận, thuốc lợi tiểu quai đang dùng là phương cách điều trị duy nhất cho bệnh nhân suy tim để chữa xung huyết cùng với kiêng cử muối. Ông khuyên bác sĩ điều trị bằng liều thấp nhất có thể được thuốc lợi tiểu quai để giảm xung huyết. Một số bác sĩ thích dùng liều cao hơn cần thiết thuốc lợi tiểu quai để giúp bệnh nhân không bị ứ nước. Nghiên cứu này đề nghị nên tránh dùng như vậy. Theo: The American Journal of Cardiology, June 15, 2006. Dược Sĩ Lê Văn Nhân
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2