intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát huy giá trị di sản Hán Nôm trong các di tích ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi

Chia sẻ: ViShizuka2711 ViShizuka2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

41
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Di sản Hán Nôm là những thư tịch, tài liệu được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, di sản Hán Nôm là sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại, nơi lưu trữ những giá trị văn hóa lịch sử của dân tộc và di sản này, hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều trên khắp cả nước ta, trong đó có Lý Sơn - một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ngãi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát huy giá trị di sản Hán Nôm trong các di tích ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi

Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN HÁN NÔM<br /> TRONG CÁC DI TÍCH Ở ĐẢO LÝ SƠN, QUẢNG NGÃI<br /> ? Cao Nguyễn Ngọc Anh - Nguyễn Thái Hòa<br /> * **<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Mở đầu<br /> Di sản Hán Nôm là những thư tịch, tài liệu được<br /> viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, chứa đựng nhiều<br /> giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng. Nhiều nhà<br /> nghiên cứu cho rằng, di sản Hán Nôm là sợi dây liên<br /> kết giữa quá khứ và hiện tại, nơi lưu trữ những giá trị<br /> văn hóa lịch sử của dân tộc và di sản này, hiện nay vẫn<br /> còn tồn tại khá nhiều trên khắp cả nước ta, trong đó<br /> có Lý Sơn - một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ngãi.<br /> Theo Nguyễn Đăng Vũ trong bài viết “Bằng cấp đi<br /> Hoàng Sa thời Minh Mạng và mấy điều suy luận” có<br /> đề cập đến di sản Hán Nôm ở đảo Lý Sơn: “Trong số<br /> hàng nghìn trang tư liệu Hán Nôm mà chúng tôi sưu tập Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, “…đó là<br /> được hoặc do các dòng họ cung cấp không phải tất cả thời kỳ giáo dục Hán tự ở Giao Châu khá phát triển,<br /> đều ghi chép về hoạt động của đội Hoàng Sa, có khi chỉ có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch sử Việt Nam…”.2<br /> nói về việc mua bán đất đai, thuế má, lập đền miếu, gia<br /> Sau thế kỷ thứ X, mặc dù Việt Nam đã giành được<br /> phả, hôn nhân hoặc có khi chỉ là đơn kiện tụng, nhưng<br /> độc lập tự chủ, thoát  khỏi ách thống trị của phong<br /> tất cả đều có giá trị. Bởi nhờ các tài liệu này mà chúng<br /> kiến phương Bắc, nhưng do hơn một ngàn năm phải<br /> tôi hiểu hơn về lịch sử, nguồn gốc cư dân, chính sách<br /> chịu ách đô hộ, nên chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục<br /> phát triển kinh tế, xã hội, các địa danh thời trước, những<br /> được duy trì và sử dụng như một phương tiện quan<br /> lễ nghi ….”.1 Tuy nhiên, theo thời gian, khối tài liệu này<br /> trọng để phát triển văn hóa Việt Nam.3<br /> đang đứng trước nguy cơ thất thoát, mai một. Bài viết<br /> này, chúng tôi đề cập đến thực trạng di sản Hán Nôm Còn chữ Nôm, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam:<br /> ở đảo Lý Sơn và đề ra một số ý kiến nhằm bảo tồn “Chữ Nôm (ngôn ngữ) là chữ viết cổ ghi tiếng Việt,<br /> phát huy loại hình di sản độc đáo này. thuộc loại hình chữ vuông, được tạo ra trên nguyên<br /> tắc và trên cơ sở của chữ Hán với cách đọc Hán - Việt.<br /> 1. Di sản Hán Nôm - nơi lưu giữ những giá trị<br /> Ngôn ngữ này có thể hình thành vào thế kỷ IX, X và<br /> văn hóa của dân tộc<br /> hoàn chỉnh dần vào các thế kỷ sau. Nó được dùng<br /> Từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, chữ Hán trong sáng tác văn học từ thế kỷ XIII - XV. Và đặc biệt<br /> vào Việt Nam theo con đường giao lưu và thống trị ở thế kỷ XVIII - XIX, đã xuất hiện ngày càng nhiều tác<br /> của người Hán. Văn tự này càng trở nên phổ biến dưới phẩm tiêu biểu viết bằng chữ Nôm (ví dụ Truyện Kiều).<br /> thời Đông Hán, khi Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao Châu. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi chữ Quốc ngữ<br /> <br /> *<br /> ThS., Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.<br /> **<br /> TS., Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.<br /> <br /> Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> 23<br /> Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> được dùng phổ biến thì chữ Nôm không còn được Đảo Lý Sơn, là nơi hiện còn lưu giữ nhiều di sản<br /> sử dụng nữa”.4 Như vậy, chữ Nôm là một sản phẩm Hán Nôm, bao gồm tờ lệnh, gia phả, phổ hệ, khế ước,<br /> sáng tạo của trí tuệ người Việt trong hoàn cảnh lịch thuế khóa… của triều đình, của quan lại địa phương,<br /> sử cuối thời Bắc thuộc, đầu thời tự chủ. Bản thân sự của tộc họ vẫn được truyền đời nâng niu, gìn giữ. Qua<br /> ra đời của nó cũng đã phản ánh một ý chí tự lực tự việc tìm hiểu nguồn tư liệu này, sẽ giúp chúng ta biết<br /> cường dân tộc. Được hình thành và tồn tại qua hàng được nguồn gốc hình thành các làng, vạn, miếu, đền<br /> ngàn năm, chữ Nôm không chỉ đóng vai trò là một thờ, chùa... phong tục tập quán, văn hóa đặc trưng<br /> công cụ giao tiếp sinh động của người Việt mà còn là của cư dân và đặc biệt là chủ quyền của Việt Nam đối<br /> phương tiện chuyển tải giá trị và những biểu đạt văn với hai quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc - Hoàng Sa,<br /> hóa, phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan của cha Trường Sa.<br /> ông ta trong nhiều thế kỷ.5<br /> 2. Đảo Lý Sơn và các di tích tại đảo Lý Sơn<br /> Ngày nay, khi bước vào các di tích, hầu như đều<br /> Lý Sơn là một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ngãi,<br /> bắt gặp các di sản Hán Nôm. Chúng là nguồn tài liệu<br /> có diện tích 9,965 km2, dân số 20.195 người, nằm cách<br /> không chỉ chứa đựng những thông tin về di tích mà<br /> đất liền khoảng 25 hải lý về phía đông bắc gồm một<br /> còn nhiều thông tin liên quan đến các lĩnh vực khác<br /> đảo lớn (Cù Lao Ré) và một đảo bé (Cù Lao Bờ Bãi).6<br /> như kiến trúc, lịch sử, tôn giáo… Cũng nhờ vào các<br /> văn bia, văn bản chữ Nôm và chữ Hán mà các nhà Theo tài liệu lịch sử, người Việt Bắc Bộ di cư vào<br /> nghiên cứu xác định được tuổi và cả những thông Quảng Ngãi theo ba đợt: Đợt thứ nhất ở thời nhà Hồ<br /> tin về lịch sử hình thành hay kỹ thuật xây dựng, chế vào hai châu Thăng Hoa và Tư Nghĩa năm 1402. Năm<br /> tác, niên đại xây dựng và số lần trùng tu… Ngoài ra, 1471, đợt di dân thứ hai vào thời vua Lê Thánh Tông.<br /> những văn bản được lưu giữ trong các nhà thờ tộc họ Đợt di dân thứ ba khi Nguyễn Hoàng vào Nam mở<br /> như gia phả, địa bạ, văn tế… còn cho chúng ta biết về mang vùng đất phương Nam vào năm 1558. Đây là<br /> quá trình di dân của dòng họ, nguồn gốc cư dân và ba cuộc di dân chính do nhà nước tổ chức, ngoài ra<br /> bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. còn có những cuộc di dân tự do của nông dân miền<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 24 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> Bắc ở thời Trần hay thời loạn Nam Bắc triều.7 đề cập đến cai đội Phạm Văn Nguyên. Đến năm Ất<br /> Mùi (1835), vua Minh Mạng đã phái Cai đội Thủy quân<br /> Cư dân Việt đến khai khẩn làng mạc trên đảo Lý<br /> Phạm Văn Nguyên đem lính và giám thành cùng các<br /> Sơn vào khoảng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Trong<br /> phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chuyên<br /> Non nước xứ Quảng của Phạm Trung Việt cho rằng<br /> chở vật liệu ra dựng miếu và dựng bia đá trên đảo<br /> thời điểm khai khẩn đảo Lý Sơn của người Việt là vào<br /> Hoàng Sa.<br /> năm 1604. Họ là những cư dân vùng An Hải, Sa Kỳ của<br /> huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh. Theo các cụ già kể lại, ở Lý Nhà thờ họ Phạm Văn ở thôn Đông, xã An Vĩnh,<br /> Sơn có thờ 15 vị tiền hiền của 15 dòng họ khác nhau, còn lưu giữ bài vị Phạm Hữu Nhật và mộ Thủy quân<br /> được xem là những người đầu tiên đến khai phá vùng Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật.<br /> đất này. Ở phía tây đảo Lý Sơn có 7 vị tiền hiền của các<br /> Đình làng An Vĩnh, nơi lính Hoàng Sa tế thần trước<br /> dòng họ: Phạm Khắc, Phạm Văn, Võ Xuân, Võ Văn, Lê, khi xuất quân. Sau chiến tranh, đình làng An Vĩnh đã<br /> Nguyễn, Đặng đã đến lập nên phường An Vĩnh. Tám bị hư hại nhiều, chỉ còn lại nền đất. Đầu năm 2010,<br /> vị tiền hiền còn lại của các dòng họ: Nguyễn, Dương, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi đã<br /> Trương, Trần, Võ, Nguyễn Đình, Nguyễn Văn, Lê đã đến có dự án khôi phục đình làng An Vĩnh, đến ngày 16<br /> khai khẩn một vùng đất rộng lớn ở phía đông đảo Lý tháng 4 năm 2010 dự án đã hoàn thành.<br /> Sơn, lập nên phường An Hải. Trải qua thời gian, không<br /> rõ vì lý do gì ở làng An Hải và An Vĩnh đều không có Ngoài ra, trên đảo Lý Sơn có nhiều di tích khác<br /> thờ vị tiền hiền của dòng họ Lê.8 như: Dinh Bà Thiên Y A Na, các lăng thờ cá Ông ở mỗi<br /> xóm, chùa Hang… Tại những di tích này, tư liệu Hán<br /> Với đặc điểm là một hải đảo, nằm ở vị trí có khoảng Nôm cũng rất phong phú.<br /> cách gần quần đảo Hoàng Sa nhất so với các nơi khác<br /> nên ở Lý Sơn đã hình thành hải đội Hoàng Sa hoạt 3. Thực trạng di sản Hán Nôm ở Lý Sơn<br /> động trên biển Đông từ rất sớm. Dù đội Hoàng Sa đã Di sản Hán Nôm gắn liền với sự hình thành và phát<br /> chấm dứt hoạt động từ lâu, nhưng hình ảnh về những triển của các di tích lịch sử văn hóa. Theo thống kê<br /> người lính trong đội Hoàng Sa xưa vẫn tồn tại bởi dấu bước đầu của chúng tôi qua các đợt khảo sát9 cũng<br /> ấn của họ còn để lại trong nhiều di tích. Tại đảo Lý như qua các công trình nghiên cứu về Lý Sơn của<br /> Sơn, hiện nay còn rất nhiều di tích gắn liền với hoạt những người đi trước, thì số lượng di sản Hán Nôm ở<br /> động của đội Hoàng Sa như: Âm Linh tự, mộ cai đội Lý Sơn còn lại chủ yếu bao gồm: tờ lệnh, hoành phi,<br /> Phạm Quang Ảnh, nhà thờ tộc họ Phạm Quang, nhà câu đối, gia phả, văn tế, địa bạ và hương ước.<br /> thờ họ Phạm Văn, đình làng An Vĩnh…<br /> Tờ lệnh: Được lưu giữ ở các họ tộc: Võ Văn, Phạm<br /> Âm Linh tự nằm ở thôn Tây xã An Vĩnh, là nơi phối Quang, Phạm Văn, Đặng, Nguyễn. Nội dung về việc<br /> thờ linh vị của người đi lính Hoàng Sa và các vị thần cử người đi Hoàng Sa để làm nhiệm vụ đo đạc thủy<br /> khác. Âm Linh tự được xây dựng vào giữa thế kỷ XVII, trình, tìm kiếm sản vật, bảo vệ lãnh thổ. Đây là một tư<br /> thời các chúa Nguyễn. Âm Linh tự có kiến trúc theo liệu vô cùng quý giá không chỉ với họ tộc mà còn có ý<br /> hình chữ công: chính giữa là nhà thờ chính, phía đông nghĩa trong việc khẳng định chủ quyền thiêng liêng<br /> là nơi nhà hội và nơi nấu ăn khi cúng tế, phía tây là nơi của Tổ quốc.<br /> thờ thần. Mặt trước sân Âm Linh tự là tháp thờ ghi 4<br /> Ngày 9.4.2009, tộc họ Đặng ở thôn Đồng Hộ, xã<br /> chữ Hán: “Chiến sĩ trận vong”, nhằm tưởng nhớ những<br /> An Hải, huyện Lý Sơn đã hiến tặng tư liệu này cho nhà<br /> người lính đã hi sinh khi bảo vệ đảo Hoàng Sa. Vào<br /> nước. Đó là tư liệu cổ, được viết bằng chữ Hán, do gia<br /> ngày 16.3 âm lịch hàng năm, ở Âm Linh tự tổ chức<br /> tộc họ Đặng truyền đời lưu giữ suốt 175 năm qua. “Tài<br /> tế lính Hoàng Sa và những người bỏ mạng trên biển.<br /> liệu gồm 4 trang giấy dó, khổ 24 x 35,5 cm, tương đối<br /> Nhà thờ tộc họ Phạm Quang ở thôn Đông, xã An còn nguyên vẹn. Nội dung chính của tài liệu nêu rõ:<br /> Vĩnh, còn lưu giữ các tài liệu, gia phả bằng chữ Hán Việc tỉnh Quảng Ngãi được lệnh của Bộ Binh và triều<br /> có liên quan đến cai đội Phạm Quang Ảnh và những đình quyết định cử binh thuyền đi Hoàng Sa thi hành<br /> người trong tộc họ đi lính Hoàng Sa... Theo nhiều tài việc công. Binh thuyền gồm 3 chiếc, mỗi chiếc 8 thủy<br /> liệu lịch sử, vào tháng Giêng năm Ất Hợi (1815), vua thủ, tổng cộng có 24 thủy thủ. Các ông Võ Văn Hùng<br /> Gia Long sai Phạm Quang Ảnh đi Hoàng Sa để đo đạc lo việc tuyển chọn ngư dân giỏi, có nhiều kinh nghiệm<br /> thủy trình. Trong gia phả của tộc họ Phạm Quang còn đi biển và thông hiểu biển cả; Đặng Văn Siểm làm đà<br /> <br /> Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> 25<br /> Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> công cùng 8 người khác (đều có tên và quê quán ở chúng tôi được biết, ở nhà thờ họ Nguyễn Quang ở<br /> trang cuối). Tài liệu cổ trên được ban hành ngày 15 thôn Tây, An Hải, nhà thờ họ Võ Văn ở thôn Tây An<br /> tháng 4 năm Minh Mạng thứ 15 (tức năm Giáp Ngọ - Vĩnh và các nhà thờ tiền hiền khác vẫn còn lưu giữ<br /> 1834). Người thừa hành là Đặng Văn Siểm và Dương nguồn tư liệu này.<br /> Văn Định. Trên văn bản có nhiều dấu ấn. Ngoài dấu<br /> Gia phả: Là bản ghi chép tên họ, tuổi tác, ngày giỗ,<br /> ấn của quan Bố Chánh sứ và quan Án sát Quảng Ngãi,<br /> vai trò và công đức của cha mẹ, ông bà, tiên tổ và mộ<br /> cùng nhiều dấu ấn nhỏ đóng nơi ghi tên người và<br /> phần của một gia đình lớn hay một dòng họ. Trước<br /> những chữ cần lưu ý đối với người tiếp nhận văn bản.<br /> đây, các nhà thờ tộc họ ở Lý Sơn đều có gia phả viết<br /> Tư liệu quý giá này sở dĩ vẫn còn nguyên vẹn suốt 175<br /> bằng chữ Hán Nôm, tuy nhiên hiện nay, chỉ có nhà<br /> năm qua là nhờ được làm bằng chất liệu giấy dó, viết<br /> thờ họ Võ Văn là còn lưu giữ, còn các tộc họ khác đều<br /> bằng mực tàu, đựng trong hộp gỗ làm từ một loại gỗ<br /> viết lại bằng chữ Quốc ngữ.<br /> quý chịu đựng được sự khắc nghiệt của khí hậu hải<br /> đảo, và nhất là sự bảo quản, giữ gìn hết sức cẩn thận Hoành phi, liễn đối: Chữ trên hoành phi thường<br /> của tộc họ Đặng. Theo quy định của tộc họ Đặng, từ ngắn gọn, súc tích, chủ yếu nhằm ghi nhận dấu vết,<br /> 20 đến 30 năm gia tộc họ Đặng mới được mở hộp gỗ tên tuổi, đặc điểm nổi bật và công trạng của các vị<br /> một lần để cho con cháu được nhìn thấy báu vật này thần gắn bó với nguồn gốc lịch sử của những nơi thờ<br /> trong dịp tế xuân vào tháng 2 âm lịch”.10 phụng.12 Hầu hết các hoành phi, liễn đối được sắp đặt<br /> ở những vị trí chính diện và trang trọng nhất trong<br /> Văn tế: Văn tế trong các di tích ở Lý Sơn cũng chiếm<br /> các đình, chùa, miếu, lăng. Dinh Bà Thiên Y A Na ở<br /> một tỷ lệ đáng kể. Hiện nay, hầu như ở đình làng, nhà<br /> thôn Đông, xã An Hải có các câu đối như sau:<br /> thờ tộc họ, âm linh tự đều còn lưu giữ văn tế.<br /> - “Thần minh phổ tế hộ an dân<br /> Địa bạ: Là loại sổ ghi chép, thống kê về ruộng đất<br /> của các làng, xã trên cơ sở sự khám đạc và xác nhận Linh trấn kim đài cư thưởng cảnh”.<br /> của chính quyền. Mục đích lập  địa bạ là  để quản lý Tạm dịch:<br /> ruộng đất, thu tô thuế, vạch định ranh giới giữa các<br /> Thần cứu giúp và bảo hộ dân được bình an rộng<br /> đơn vị hành chính và tránh sự tranh chấp ruộng đất.<br /> khắp<br /> Vua Minh Mệnh đã từng nhấn mạnh việc lập Địa bạ<br /> là để “vạch rõ bờ cõi cho hết mối tranh giành”.11 Theo Linh thiêng cõi trần ở nơi đài vàng cảnh đẹp.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 26 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> nhiều bài vị khắc tên của những người từng đi lính<br /> Hoàng Sa như bài vị của cai đội Phạm Quang Ảnh,<br /> Phạm Hữu Nhật, Võ Văn Khiết… Tại dinh thờ Thiên Y A<br /> Na, trước tượng Bà có linh vị khắc chữ Hán với những<br /> mỹ từ: “Sắc hoằng huệ phổ tuế linh mặc tướng trang uy<br /> dực bảo trung hưng Thiên Y A Na diễn ngọc phi thượng<br /> đẳng thần, tả linh châu thái tử thần tướng, hải linh bảo<br /> thái tử thần tướng”.13<br /> Hương ước: Để quản lý các thành viên, trong làng<br /> đã xây dựng hương ước làng, mọi người đều phải<br /> tuân theo với ý nghĩa “Phép vua thua lệ làng”. Hương<br /> ước là bản ghi chép các điều lệ liên quan đến tổ chức<br /> xã hội cũng như đời sống xã hội trong làng, các điều<br /> lệ hình thành dần trong lịch sử, được điều chỉnh và<br /> bổ sung mỗi khi cần thiết. Hiện nay, ở đình làng An<br /> Hải và An Vĩnh còn lưu giữ hương ước bằng chữ Nôm.<br /> Sắc phong: “Sắc phong là nguồn tư liệu có giá trị<br /> về nhiều phương diện: lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng.<br /> Nó bao gồm sắc phong chức tước cho quý tộc, quan<br /> chức của các vương triều và sắc phong thần do nhà<br /> vua phong tặng và xếp hạng cho các vị thần được thờ<br /> phụng trong các đình, đền, miếu…”.14 Qua sắc phong<br /> có thể thấy được thái độ chính trị, khuynh hướng tôn<br /> giáo, tín ngưỡng, văn hóa của cả triều đại. Trước đây,<br /> ở Lý Sơn có sắc phong ở đình làng An Hải, An Vĩnh,<br /> lăng cá Ông… nhưng hiện nay, các sắc phong đều<br /> - “An hội thanh tâm duy đức thạnh<br /> không còn.<br /> Bảo phò xích tử hiển thần oai”.<br /> Tóm lại, thông qua các loại hình kể trên, để thấy<br /> Tạm dịch: rằng ở Lý Sơn hiện nay, vẫn còn lưu giữ nhiều di sản<br /> Hán Nôm rất có giá trị. Tuy nhiên, trong số đó, có lẽ<br /> An bình với tấm lòng sáng chỉ có đức hạnh<br /> chỉ có những tờ lệnh là được phiên âm, dịch nghĩa<br /> Che chở cho dân hiển bày oai dũng của thần. và phổ biến rộng rãi hơn cả, còn lại là chưa được<br /> Hay câu đối trước án thờ ở Âm linh tự: quan tâm, hoặc nếu có, thì cũng chỉ riêng lẻ, dưới góc<br /> độ khai thác tư liệu nhằm phục vụ cho các bài viết<br /> “Địa nhựt tịch, dân nhựt phiên, bạt hải lư vong nghiên cứu, tham luận hoặc kiểm chứng tư liệu lịch<br /> vòng lợi lạc. sử có liên quan… Vì vậy mà những di sản này, vẫn<br /> Sơn như lệ, hà như đới, thiên thu miếu mộ dũng chưa phát huy được giá trị của nó và ngày càng đối<br /> thần côn” diện với nguy cơ hư hỏng, hao hụt bởi thời gian.<br /> <br /> Tạm dịch: 4. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hán Nôm<br /> trong các di tích<br /> Đất mỗi ngày mỗi mở rộng ra, dân mỗi ngày mỗi<br /> đông thêm, vượt qua biển rộng đều sống đời lợi lạc “Theo thống kê của Hội Bảo tồn di sản Hán Nôm<br /> Việt Nam thì ngày nay, trên thế giới chưa đến 100<br /> Núi như đá mài, sông như đai áo, ngàn năm miếu<br /> người đọc được chữ Nôm. Riêng phần chữ Hán, tuy<br /> mộ còn rực rỡ cái oai dũng của thần.<br /> có nhiều người biết đọc và dịch hơn nhưng cũng<br /> Bài vị: Là những tấm thẻ ghi tên tuổi và chức vị của không phổ biến trong đời sống. Điều đó khiến một<br /> người được thờ tự. Bài vị khắc tên và chức vụ của các phần quan trọng của lịch sử và văn hóa Việt Nam<br /> thần, các vị tiền hiền hậu hiền,… Ở Lý Sơn còn lưu giữ không được người dân biết đến”.15<br /> <br /> Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> 27<br /> Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> Lý Sơn có rất nhiều đình, chùa, miếu, đền và nhà<br /> thờ họ còn lưu giữ tài liệu Hán Nôm, nhưng người đọc<br /> được hầu như rất ít. Nhiều nguồn tư liệu Hán Nôm đã<br /> bị mất do rất nhiều nguyên nhân như chiến tranh, khí<br /> hậu và một số chính sách mà chưa kịp phiên âm, dịch<br /> nghĩa hoặc sao chép. Nhiều di tích như đình làng An<br /> Vĩnh, An Hải, lăng cá Ông,… đã bị hủy hoại. Sau này,<br /> mặc dù nhà nước có chính sách khôi phục, nhưng các<br /> hiện vật, sắc phong, hoành phi, câu đối gắn liền với di<br /> tích còn lại cũng không nhiều... Vì vậy, để bảo tồn và<br /> phát huy giá trị di sản Hán Nôm ở đảo Lý Sơn, chúng<br /> tôi xin được đề xuất một số biện pháp như sau:<br /> Cần tiến hành nghiên cứu, thống kê chi tiết các<br /> loại hình di sản Hán Nôm trong di tích cũng như trong<br /> dân gian. Trên cơ sở đó, tiến hành đánh giá, phân loại<br /> những loại hình có nguy cơ mai một, hư hỏng để có<br /> những biện pháp bảo quản hiệu quả nhất. Đồng thời<br /> phép sao chụp, nhằm làm phong phú thêm kho tàng<br /> qua đó, hướng dẫn cho người dân - chủ sở hữu di sản<br /> di sản Hán Nôm của Lý Sơn - Quảng Ngãi nói riêng và<br /> Hán Nôm, những biện pháp bảo quản cơ bản nhằm<br /> cả nước nói chung; cung cấp những thông tin có liên<br /> hạn chế tình trạng hư hỏng của di sản trước sự tác<br /> quan đến di sản hoặc tham gia biên dịch, diễn giải<br /> động của thiên nhiên và con người.<br /> các di sản Hán Nôm…<br /> Những tư liệu Hán Nôm như gia phả, văn tế,<br /> Tổ chức trưng bày, giới thiệu các loại hình di sản<br /> hương ước của làng xã, họ tộc là không thể hiến tặng,<br /> Hán Nôm ở Lý Sơn đến với đông đảo quần chúng<br /> mua bán. Ngay cả việc tiếp cận cũng rất khó, vì những<br /> nhân dân trên đảo cũng như du khách, giúp họ hiểu,<br /> di sản này thường để trong tráp rồi khóa lại, chỉ đến<br /> trân quý và tự hào hơn về những di sản của cha ông.<br /> ngày vía thần tại đền miếu với đầy đủ các thành phần<br /> trong ban quý tế mới được mở ra. Do vậy, cần tạo Kết hợp với phòng Giáo dục và Đào tạo xây dựng<br /> dựng quan hệ, niềm tin và một tinh thần trách nhiệm chương trình giáo dục về lịch sử và văn hóa của địa<br /> vì cộng đồng… để người dân có thể cho phép sao phương, đặc biệt thông qua các tờ lệnh và nhiều tài<br /> chụp, ghi chép lại các di sản. liệu Hán Nôm khác, để nhấn mạnh đến vai trò của<br /> người dân Lý Sơn qua các thời kỳ đã góp phần bảo vệ<br /> Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc bảo tồn<br /> chủ quyền biển đảo của đất nước. Ngoài ra, chương<br /> các di sản Hán Nôm, cụ thể là tư liệu hóa, số hóa các<br /> trình còn đưa các em học sinh đến tham quan tại các<br /> di sản này theo chuẩn Dublin Core.16 Bên cạnh đó, cần<br /> di tích và diễn giải về nội dung, ý nghĩa, giá trị của di<br /> biên dịch toàn bộ tư liệu Hán Nôm hiện có ra chữ Quốc<br /> sản Hán Nôm.<br /> ngữ, đưa lên mạng internet để nhiều người có thể<br /> truy cập, tìm hiểu, nghiên cứu, nhất là giới trẻ nhằm Cần khuyến khích, ưu tiên đầu tư kinh phí cho<br /> nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc. những đề tài nghiên cứu về di sản Hán Nôm, đặc<br /> biệt là những đề tài Hán Nôm có liên quan đến chủ<br /> Có chính sách đào tạo, khuyến khích những người<br /> quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa<br /> làm công tác quản lý, nghiên cứu, sưu tầm văn hóa<br /> và Trường Sa…<br /> Hán Nôm. Đặc biệt là đội ngũ làm công tác bảo tồn<br /> - bảo tàng cần được trang bị một trình độ nhất định, Kết luận<br /> để khi tiếp xúc với tư liệu Hán Nôm, có thể đọc và Di sản Hán Nôm ở Lý Sơn là nguồn tài liệu vô cùng<br /> hiểu được nội dung và giá trị của di sản này. quý giá. Nhưng di sản ấy đang ngày càng bị đe dọa<br /> Xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị bởi nhiều nguyên nhân. Vì thế, cần ý thức rằng, việc<br /> của di sản Hán Nôm thông qua việc kêu gọi và khuyến bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hán Nôm cũng<br /> khích người dân cùng tham gia như: có ý thức trong chính là bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa<br /> việc giữ gìn và phổ biến di sản; hiến tặng hoặc cho của dân tộc.<br /> <br /> 28 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> Những kết quả của việc nghiên cứu di sản Hán là một thông tin chính xác, cần tìm hiểu thêm. Hiện nay ở<br /> Nôm ở Lý Sơn sẽ là cơ sở pháp lý, khoa học quan đình làng An Vĩnh chỉ thờ lục tộc tiền hiền và làng An Hải<br /> trọng cho việc khẳng định chủ quyền biển đảo thiêng thờ thất tộc tiền hiền.<br /> liêng của Tổ quốc. Đồng thời, đó cũng là những tư 9<br /> Thời gian khảo sát: 2008, 2010, 2012 và tháng 3.2016<br /> liệu cần thiết cho những ai quan tâm đến vùng đất và 10<br /> http://daolyson.info/2016/01/dong-ho-dang-hien-<br /> con người nơi này. tang-tu-lieu-khang-dinh-chu-quyen-hoang-sa.html<br /> Việc nghiên cứu di sản Hán Nôm cũng là cách thể 11<br /> http://www.archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20<br /> hiện sự trân trọng của hậu thế đối với di sản của cha ti%E1%BA%BFt.aspx?itemid=140&listId=c2d480fb-e285-<br /> ông, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Thế 4961-b9cd-b018b58b22d0&ws=content<br /> nên, sự lãng quên đối với di sản này, dù vô tình hay cố 12<br /> http://www.baotangbrvt.org.vn/index.php?Module=<br /> ý, chúng ta đều sẽ có tội với tiền nhân - những người Content&Action=view&id=95&Itemid=300<br /> đã dày công tạo dựng. 13<br /> Sở Văn hóa thông tin Quảng Ngãi, Văn hóa cư dân đảo<br /> C.N.N.A. - N.T.H. Lý Sơn, (Quảng Ngãi, 2006), 154.<br /> 14<br /> www.thongtinkhcndaklak.vn/thanhtuu/xhnv/xhnv_<br /> 51.doc<br /> 15<br /> http://dch.gov.vn/pages/news/preview.aspx?n=392<br /> &c=60<br /> 16<br /> Xem thêm: Ngô Thanh Nhàn, “Vấn đề số hóa kho tư<br /> liệu Hán Nôm theo chuẩn Dublin Core tại Viện thông tin<br /> Khoa học xã hội”, http://www.cla.temple.edu/vietnamese_<br /> center/nomstudies/issi_vsc_digitization.pdf, truy cập lúc<br /> CHÚ THÍCH 10g28, ngày 17.6.2016.<br /> 1<br /> Nguyễn Đăng Vũ, “Bằng chứng đi Hoàng Sa thời Minh Tài liệu tham khảo<br /> Mạng và mấy điều suy luận”, đăng trong Sở Văn hóa, Thể 1. Ban chấp hành Đảng Bộ huyện Lý Sơn. 2000. Lịch sử<br /> thao và Du lịch Quảng Ngãi, Biển đảo Quảng Ngãi lịch sử - Đảng bộ huyện Lý Sơn. Xí nghiệp in Quảng Ngãi.<br /> kinh tế - văn hóa, (Hà Nội: Lao động, 2013), 104.<br /> 2. Sở Văn hóa thông tin Quảng Ngãi. 2002. Quảng Ngãi<br /> Ngô Đức Thọ - Trịnh Khắc Mạnh, Cơ sở văn bản học Hán<br /> 2<br /> đất nước - con người - văn hóa. Quảng Ngãi.<br /> Nôm, (Khoa học Xã hội, 2007), 133.<br /> 3. Sở Văn hóa thông tin Quảng Ngãi. 2006. Văn hóa cư<br /> 3<br /> Thích Hoằng Trí, “Giá trị di sản Hán Nôm trong nghiên dân đảo Lý Sơn. Quảng Ngãi.<br /> cứu Phật học”, http://phatgiao.org.vn/nghien-cuu/201212/<br /> 4. Phạm Trung Việt. 2005. Non nước xứ Quảng. Hồ Chí<br /> Gia-tr i- di-san-Han-Nom-trong-nghien- cuu-Phat-<br /> Minh: Thanh Niên.<br /> hoc-9014/, truy cập lúc 11:06, ngày 15.6.2016.<br /> 5. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi. 2013. Biển<br /> 4<br /> Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách<br /> đảo Quảng Ngãi lịch sử - kinh tế - văn hóa. Hà Nội: Lao động.<br /> khoa Việt Nam, Từ điển Bách khoa Việt Nam, (Hà Nội: Trung<br /> tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, 1995), Tập 1, 6. http://dch.gov.vn/pages/news/preview.aspx?n=392<br /> 543. &c=60<br /> 5<br /> Nguyễn Kim Dung, “Bảo tàng với việc khai thác và 7. http://www.thongtinkhcndaklak.vn/thanhtuu/xhnv/<br /> phát huy di sản chữ Nôm”, http://dch.gov.vn/pages/news/ xhnv_51.doc<br /> preview.aspx?n=392&c=60, truy cập lúc 13g45, ngày 8. http://daolyson.info/2016/01/dong-ho-dang-hien-<br /> 16.6.2016. tang-tu-lieu-khang-dinh-chu-quyen-hoang-sa.html<br /> 6<br /> Niên giám Thống kê huyện Lý Sơn 2010. 9. http://www.archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20<br /> 7<br /> Sở Văn hóa thông tin Quảng Ngãi, Văn hóa cư dân đảo ti%E1%BA%BFt.aspx?itemid=140&listId=c2d480fb-e285-<br /> Lý Sơn, (Quảng Ngãi, 2006), 46-48. 4961-b9cd-b018b58b22d0&ws=content<br /> 8<br /> Theo tài liệu mà chúng tôi thu thập được khi đi điền 10. http://www.baotangbrvt.org.vn/index.php?Module<br /> dã ở Lý Sơn, các cụ già ở Lý Sơn giải thích lý do họ Lê bị mất =Content&Action=view&id=95&Itemid=300<br /> ngôi vị tiền hiền ở cả hai làng vì đã vi phạm quy ước trong 11. http://dised.danang.gov.vn/LinkClick.aspx?fileticke<br /> cúng tế ở đình, có tội với thần linh. Đây có thể chưa phải t=u5R%2FNnQRs8M%3D&tabid=61<br /> <br /> <br /> Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> 29<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1