VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ TRUNG HIẾU
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở MỘT SỐ
NƯỚC ĐÔNG Á VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI – 2023
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ TRUNG HIẾU
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở MỘT SỐ
NƯỚC ĐÔNG Á VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 09.31.01.06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS. Lê Ngọc Tòng
2. TS. Lê Thị Ái Lâm
HÀ NỘI – 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và
được công bố theo đúng quy định. Toàn bộ kết quả nghiên cứu của luận án chưa
từng được ai công bố tại bất cứ công trình nào.
Nghiên cứu sinh
Đỗ Trung Hiếu
i
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho phép tôi xin trân trọng cảm ơn Học viên khoa học xã hội-
Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức và tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn đến các Quý Thầy, Cô giáo - những
người đã giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt thời gian bốn năm NCS
vừa qua.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS-TS. Lê Ngọc Tòng và TS. Lê
Thị Ái Lâm, người hướng dẫn khoa học đã chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo các cơ quan, Ban lãnh đạo của Công ty
TNHH đầu tư thương mại SII, các DN CNHT trong và ngoài nước… đã quan tâm,
hỗ trợ, cung cấp tài liệu, thông tin cần thiết, tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu và
hoàn thành luận án.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình tôi, những người thân và bạn bè đã
luôn hỗ trợ, động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án./.
Nghiên cứu sinh
Đỗ Trung Hiếu
ii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. ................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án .................................................. 4
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án ................................................................ 5
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ............................................................. 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ............................................................ 7
7. Kết cấu của luận án ............................................................................................ 7
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở CÁC NƯỚC ĐÔNG Á VÀ VIỆT NAM .............. 8
1.1. Những công trình nước ngoài có liên quan ................................................. 8
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu cơ sở lý luận về công nghiệp hỗ trợ ..... 8
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phát triển công nghiệp hỗ trợ. ........ 10
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách và bài học phát triển
công nghiệp hỗ trợ. ...................................................................................... 11
1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam ..................................................... 12
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận công nghiệp hỗ trợ. .. 12
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phát triển CNHT ............................ 13
1.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách và giải pháp phát
triển công nghiệp hỗ trợ. .............................................................................. 15
1.3. Những kết luận rút ra từ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án ................................................................................................................. 17
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 19
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ... 20
2.1 Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hỗ trợ ............................................. 20
2.1.1. Một số khái niệm liên quan đến phát triển công nghiệp hỗ trợ ......... 20
2.1.2. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ ở một số nước và Việt Nam .............. 22
iii
2.1.3. Phạm vi của ngành công nghiệp hỗ trợ ............................................. 23
2.1.4. Các giai đoạn phát triển của công nghiệp hỗ trợ ............................... 24
2.1.5. Đặc điểm ngành công nghiệp hỗ trợ .................................................. 25
2.1.6. Vai trò của ngành công nghiệp hỗ trợ ............................................... 29
2.2. Nội dung cơ bản của việc phát triển CNHT ............................................. 33
2.2.1. Khái niệm phát triển công nghiệp hỗ trợ ........................................... 33
2.2.2. Nội dung phát triển công nghiệp hỗ trợ ............................................. 34
2.2.3. Tiêu chí đánh giá mức độ phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam. ... 36
Tiểu kết Chương 2 .............................................................................................. 44
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG Á ...................................................................... 45
3.1. Khái quát thực trạng phát triển CNHT của một số nước Đông Á
(Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan) .................................................................. 45
3.1.1. Thực trạng chung phát triển CNHT của các nước Đông Á. .............. 45
3.1.2. Thực trạng phát triển CNHT tại Nhật Bản ........................................ 48
3.1.3. Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Trung Quốc ................. 52
3.1.4. Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Thái Lan ...................... 57
3.2 Các nhân tố tác động đến CNHT của một số nước Đông Á. .................... 60
3.3 Một số thành tựu đạt được và hạn chế trong phát triển CNHT ở các
nước Đông Á ....................................................................................................... 64
3.3.1. Một số kết quả đạt được trong phát triển CNHT ở Nhật Bản ........... 68
3.3.2. Một số kết quả đạt được trong phát triển CNHT ở Trung Quốc ....... 77
3.4 Bài học kinh nghiệm trong phát triển CNHT của một số nước Đông Á. ...... 90
3.4.1. Những bài học thành công ................................................................. 90
3.4.2. Những bài học thất bại ....................................................................... 97
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 100
Chương 4: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ BÀI HỌC PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ PHÙ HỢP CHO VIỆT NAM ........................... 101
iv
4.1. Thực trạng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam nghiên cứu ở một số
ngành công nghiệp. ........................................................................................... 101
4.1.1. Thực trạng công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp dệt may .. 101
4.1.2. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp điện tử ..................... 104
4.1.3. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp ô tô .......................... 106
4.1.4. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp da giày .................... 110
4.2 . Đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam ......... 112
4.2.1. Những kết quả đạt được trong phát triển Công nghiệp hỗ trợ ở
Việt Nam .................................................................................................... 112
4.2.2. Hạn chế và nguyên nhân .................................................................. 116
4.3. Quan điểm và định hướng về phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt
Nam đến năm 2030 ........................................................................................... 124
4.3.1. Quan điểm về phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến năm 2030. 124
4.3.2. Định hướng về phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến năm 2030. ..... 126
4.4. Một số bài học phù hợp nhằm phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ
tại Việt Nam từ các nước Đông Á ................................................................... 127
4.4.1. Bài học chung phát triển ngành CNHT tại Việt Nam ..................... 127
4.4.2.Nhóm bài học rút ra phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành ô
tô, dệt may và điện tử, da giày ................................................................... 143
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 155
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 152
PHẦN PHỤ LỤC 01 ......................................................................................... 162
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
TỪ VIẾT TẮT CỤM TỪ TIẾNG VIỆT
CNCNC Công nghiệp công nghệ cao
CSDL Cơ sở dữ liệu
CLKN Cum liên kết ngành
CNHT Công nghiệp hỗ trợ
CN Công nghiệp
CN CBCT Công nghiệp chế biến chế tạo
CNĐT Công nghiệp điện tử
DN Doanh nghiệp
DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
GTGT Gía trị gia tang
KCN Khu công nghiệp
LK Liên kết
KH-CN Khoa học – công nghệ
NK Nhập khẩu
QLNN Quản lý nhà nước
SHTT Sở hữu trí tuệ
Trung tâm Phát triển doanh nghiệp SIDEC công nghiệp hỗ trợ
TTKT Tăng trưởng kinh tế
XK Xuất khẩu
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
Từ viết tắt Cụm từ tiếng Anh Cụm từ tiếng Việt
ASEAN The Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Asia-Pacific Economic Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu APEC Cooperation Á-Thái Bình Dương
BOI Thailand Board of Investment Ủy ban đầu tư Thái Lan
European-Vietnam Free Trade Hiệp định Thương mại tự do EVFTA Agreement Việt Nam-EU
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
The Japan External Trade Cơ quan xúc tiến ngoại JETRO Organization thương Nhật Bản
JICA Japan International Cooperation Agency Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
MNCs Multinational corporations Công ty đa quốc gia
Ministry of International Trade Bộ Kinh tế công nghiệp và MITI(METI) and Industry Thương Mại
Small and medium-sized Doanh nghiệp nhỏ và vừa SMEs enterprises
Supporting Industry Trung tâm Phát triển doanh SIDEC Development Enterprise Center nghiệp công nghiệp hỗ trợ
TNCs Transnational Corporations Công ty xuyên quốc gia
UNIDO The United Nations Industrial Development Organization Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc
VASI Vietnam association for supporting industries Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
VCCI Vietnam Chamber of Commerce and Industry Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VDF Việt Nam Development Forum Diễn đàn phát triển Việt Nam
vii
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Danh mục sơ đồ
Sơ đồ 2.1: Mô hình lợi thế cạnh tranh của M. Porter [116] ................................. 20
Sơ đồ 2.2: Các phạm vi của công nghiệp hỗ trợ................................................... 23
Sơ đồ 2.3: Các giai đoạn phát triển của ngành CNHT ......................................... 24
Sơ đồ 2.4: Phân loại công nghiệp hỗ trợ theo hệ thống ngành sản xuất .............. 27
Sơ đồ 2.5: Quan hệ giữa công nghiệp chính và công nghiệp hỗ trợ [17, tr78] .... 29
Sơ đồ 3.1: Mô hình mạng lưới sản xuất hiện đại trong ngành công nghiệp hỗ trợ
của các nước Đông Á hiện nay [24, Trang 13) .................................................... 45
Sơ đồ 3.2: Kết cấu công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô của Nhật Bản ........................ 69
Sơ đồ 3.3: Chuỗi cung ứng các sản phẩm điện tử Nhật Bản [2, Tr.23-24] .......... 71
Sơ đồ 3.3: Chuỗi cung ứng sản phẩm da của Nhật Bản ....................................... 75
Sơ đồ 3.4: Chuỗi phân phối các sản phẩm điện tử Nhật Bản ............................... 76
Sơ đồ 4.1 Vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu ............ 103
Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 3.1: Tỷ trọng hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
một số nước Đông Á ............................................................................................ 47
Biểu đồ 3.2: Thống kê đầu tư FDI và khu vực Đông Á so với các khu vực
khác của châu Á .................................................................................................... 48
Biểu đồ 3.3: Công nghiệp sản xuất ô tô Nhật Bản giai đoạn 1990-2014 ............. 68
Biểu đồ 3.4: Giá trị sản xuất thị trường linh kiện điện tử Nhật Bản 2010-2015 .. 72
Biểu đồ 3.5: Sản xuất trong nước và nhập khẩu giày da ...................................... 77
Biểu đồ 3.6: Lượng xuất khẩu giày da từ Trung Quốc từ năm 2009 đến 2018 ... 82
Biểu đồ 3.7: Xuất khẩu linh kiện ô tô Thái Lan ................................................... 87
Biểu đồ 4.1: Nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may của Việt Nam qua các năm
2013 - 2019. ....................................................................................................... 102
Biểu đồ 4.2: Giá trị sản xuất ngành linh kiện điện tử ......................................... 105
Biểu đồ 4.3: Nhập khẩu phụ kiện ô tô của Việt Nam giai đoạn 2010-2018 ...... 107
viii
Biểu đồ 4.4: Sản lượng sản xuất lắp ráp ô tô tại Việt Nam 2010-2018 ............. 108
Biểu đồ 4.5: Kim ngạch nhập khẩu linh kiện phụ tùng ô tô năm 2020-2021 .... 108
Biểu đồ 4.6: Thị phần xuất khẩu ngành giày da Việt Nam 2018 ....................... 110
Danh mục bảng
Bảng 3.1: Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ nổi bật ................................ 46
của một số nước Đông Á ...................................................................................... 46
Bảng 3.2: Nguồn nhân lực tại một số Khu nghiên cứu ở Trung Quốc................. 55
Bảng 3.3: Chính sách thuế ưu đãi cho FDI đầu tư vào các KCN theo quy
hoạch ..................................................................................................................... 59
Bảng 3.4: Giá trị linh kiện ô tô xuất khẩu, nhập khẩu của Nhật Bản ................... 69
Bảng 3.5. Xuất, nhập khẩu và cán cân thương mại ngành dệt may Nhật Bản ..... 74
Bảng 3.6: Sản xuất các sản phẩm điện tử ở Thái Lan giai đoạn 2010-2015 ........ 85
Bảng 3.7: Tỷ lệ xuất khẩu một số sản phẩm chính của Thái Lan năm 2011 ....... 86
Bảng 4.1. Năng lực cung ứng của lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng ........... 106
cho ngành điện tử VN ......................................................................................... 106
Biểu đồ 4.5: Kim ngạch nhập khẩu linh kiện phụ tùng ô tô năm 2020-2021 .... 108
ix
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là ngành cung cấp đầu vào cho hầu hết các ngành
công nghiệp khác, nên ngành CNHT phát triển sẽ góp phần quan trọng vào sự phát
triển của toàn bộ nền công nghiệp và rộng hơn là nền kinh tế của mỗi quốc gia.
CNHT phát triển giúp cho nền kinh tế phát triển bền vững, hạn chế tác động của
khủng hoảng kinh tế từ bên ngoài, ví dụ như khủng hoảng kinh tế năm 2008, các
nước như Trung Quốc, Nhật Bản ít bị tác động của khủng hoảng nhờ CNHT phát
triển. Còn đối với quá trình công nghiệp hóa, CNHT là ngành có nhu cầu lớn nhất
trong việc sử dụng công nghệ hiện đại nhất. Do vậy phát triển CNHT sẽ thúc đẩy quá
trình chuyển giao công nghệ và nội lực hóa công nghệ, tạo nền tảng đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Ngoài ra, phát triển công nghiệp hỗ
trợ góp phần cải
công nghiệp hỗ trợ đó đi trước một bước để mở đường,với tác dụng như vậy, ngành
CNHT được xem là mắt xích quan trọng trong việc phát triển kinh tế đất nước.
Đông Á, trong những năm gần đây, được đánh giá là một trong những khu vực
năng động nhất thế giới với mức tăng trưởng kinh tế trung bình 5%- 6% mỗi năm.
Đặc biệt phải kể đến các nước Nhật Bản, Trung Quốc và Thái Lan. Đây đều là các
nước láng giềng có nhiều nét tương đồng với Việt Nam cả về văn hóa, truyền thống,
tín ngưỡng, dân số, vị trí địa lý, điều kiện kinh tế... Riêng Thái Lan có nét tương đồng
với Việt Nam nhất vì có cùng quy mô dân số, diện tích, nằm trong khu vực Đông
Nam Á, đều có thời gian bị các nước thuộc địa xâm chiếm nên sau khi các nước được
giải phóng độc lập nền kinh tế đất nước đều bắt đầu từ cột mốc rất thấp. Ngoài ra các
chỉ số phát triển kinh tế hiện tại của Việt Nam đang có nhiều điểm tương đồng với
kinh tế các nước này vào khoảng 10-15 năm trước cụ thể như các hiệp định FTA sẽ
tác động tích cực đến hoạt động sản xuất xuất khẩu, tỷ lệ cơ cấu dân số trẻ, khu vực
kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, tầng lớp trung lưu tăng mạnh, các chỉ số thể hiện
tiềm năng đẩy mạng công nghiệp hóa dần thay thế cho Nông, Lâm, Ngư nghiệp. Điều
này cho thấy Việt Nam cần có những nghiên cứu về sự phát triển kinh tế của các
nước đặc biệt liên quan đến thành công về công nghiệp hóa để làm bài học kinh
nghiệm cho mình. Nổi bật nhất trong sự thành công trong quá trình công nghiệp hóa
1
của Nhật Bản, Trung Quốc và Thái Lan đều có điểm chung chính là phát triển ngành
CNHT. Những nước này đều xây dựng chính sách công nghiệp hỗ trợ thúc đẩy xuất
khẩu và hướng tới nâng cao trình độ của ngành CNHT thông qua đầu tư dài hạn vào
công nghệ, xây dựng cơ bản và con người. Tuy nhiên, đi vào từng chính sách cụ thể
thì có thể nhận thấy không có một công thức chung cho việc phát triển CNHT, mà ở
mỗi quốc gia lại có những bài học kinh nghiệm khác nhau với mục đích chung là biến
ngành CNHT trở thành ngành chủ chốt tạo góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của
mỗi quốc gia.
Việt Nam sau khi hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN và ký kết các Hiệp
định thương mại tự do cũng đưa ra mục tiêu phát triển công nghiệp hỗ trợ là chiến
lược chung cho toàn xã hội nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế. Thế nhưng thực trạng
ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam bị đánh giá còn chậm phát triển, chưa đáp
ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp, đặc biệt là cung cấp linh
kiện cho các doanh nghiệp, các tập đoàn có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, số
lượng doanh nghiệp chuyên về công nghiệp hỗ trợ còn ít, trình độ chỉ ở mức trung
bình, thậm chí còn thấp và lạc hậu so với khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới.
Đây là một trở ngại lớn cho sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế nước ta
trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng. Các quy định pháp luật hiện hành cũng
còn không ít bất cập, vướng mắc nên không tạo ra các cơ chế, chính sách mạnh mẽ
thúc đẩy CNHT phát triển. Do cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế, công nghiệp hỗ trợ ở
Việt Nam chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của các đối tác và khả năng
cạnh tranh đang còn thấp. Cho đến nay, Hiện nay, một số ngành công nghiệp có thế
mạnh của Việt Nam như điện tử, dệt may, da giày, lắp ráp ô-tô, xe máy… hầu như
chưa có công nghiệp hỗ trợ đi kèm, nên phải phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập
khẩu, khiến sản xuất còn manh mún, bị động, chi phí cao.
Thực tế, ngành CNHT của Việt Nam những năm gần đây cũng được chú
trọng, tuy nhiên phát triển chưa tương xứng do còn nhiều vướng mắc về cơ chế, chính
sách và cả từ chính doanh nghiệp. Bài học về sự phát triển CNHT của các nước như
Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan… sẽ là kinh nghiệm quý báu để các DN trong nước
học hỏi và ứng dụng. Việt Nam cần tận dụng lợi thế là các nước đi sau áp dụng các
bài học, kinh nghiệm phát triển CNHT của các nước đi trước một cách phù hợp đối
2
với tình tình thực tế của nước ta. Do vậy cần có những nghiên cứu sâu sắc về thực
trạng phát triển CNHT của các nước Đông Á để có thể đúc rút những kinh nghiệm,
bài học nhằm mục đích xây dựng được bộ giải pháp đúng hướng phát triển ngành
CNHT phù hợp với điều kiện và nhu cầu của đất nước.
Với nhận thức như vậy, tác giả đã lựa chọn và thực hiện đề tài “Phát triển
công nghiệp hỗ trợ ở một số nước Đông Á và Bài học cho Việt Nam” cho Luận án
tiến sĩ kinh tế quốc tế của mình, hy vọng từ kinh nghiệm rút ra được từ nghiên cứu
CNHT ở các nước Đông Á và từ thực tế Việt Nam, sẽ giúp đề xuất được một số định
hướng, bài học phù hợp để góp phần đẩy nhanh phát triển CNHT của đất nước, giúp
Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về ngành CNHT và phát triển CNHT,
Luận án sẽ phân tích, đánh giá thực trạng phát triển CNHT trong ở một số nước Đông
Á, trong đó sẽ có những bài học thành công và những bài học thất bại cùng các
nguyên nhân của sự thất bại đó, đồng thời đưa ra được sự tương đồng của Việt Nam
với các nước Đông Á từ đó xây dựng được bộ bài học kinh nghiệm theo đúng hướng
phát triển ngành CNHT phù hợp với điều kiện và nhu cầu của nước ta đến năm 2030.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Những nhiệm vụ cơ bản nghiên cứu của luận văn cụ thể như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến CNHT và phát triển CNHT.
- Nghiên cứu thực trạng phát triển CNHT của một số quốc gia Đông Á cụ thể là
Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, chỉ ra những bài học thành công và những tồn tại
cùng các nguyên nhân chủ yếu của chúng và từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
- Phân tích thực trạng CNHT của Việt Nam, đánh giá mức độ phát triển của Việt
Nam, từ đó chỉ ra những đặc điểm và vấn đề mà CNHT Việt Nam đang gặp phải.
- Dựa trên bài học rút ra từ các nước Đông Á và thực trạng phát triển CNHT của
Việt Nam hiện nay để đưa ra quan điểm định hướng đề xuất, kiến nghị các bài học
phù hợp với tình hình thực tế tại nước ta nhằm đẩy mạnh phát triển CNHT.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển CNHT
ở một số quốc gia cụ thể: Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan nhằm phục vụ các ngành
công nghiệp chính, tăng khả năng cạnh tranh, phát triển kinh tế bền vững. Việc tác
giả lựa chọn một số nước cụ thể Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan là vì các nước này
là các quốc gia có tốc độ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ nhanh nhất thế giới
nhưng đã từng có xuất phát điểm, có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Các nước
này cùng thuộc một khu vực địa lý ở Đông Á giống Việt Nam, nhờ có những mô
hình, giải pháp, cách làm hay về phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ mà các nước
này đạt được những thành tựu như ngày hôm nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về thực trạng phát triển CNHT
tập trung chủ yếu vào các vấn đề về cơ chế, chính sách ở một số nước Đông Á bao
gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam ở một số ngành CN như điện tử-
tin học, ô tô, dệt may, da giầy.
- Về không gian và thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng Phát triển
công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc từ năm 1990 đến 2020. Tác
giả lựa chọn phạm vi thời gian này là bởi đây là khoảng thời gian các nước Đông Á
có sự biến đổi và phát triển ngành CNHT rõ rệt và vượt bậc nhất, sau thời điểm
nghiên cứu này thì mức độ phát triển của các nước càng trở nên bão hòa và khó thống
kê hơn. Riêng thực trạng phát triển CNHT của Việt Nam tác giả thực hiện nghiên cứu
giai đoạn từ năm 2007- 2022, nhằm có cái nhìn cập nhật nhất về tình hình nước ta và
giai đoạn này cũng khá tương đồng với xuất phát điểm nghiên cứu của các nước
Đông Á. Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên tác giả tập trung trọng tâm vào một số
ngành tiêu biểu như: điện tử-tin học, ô tô, dệt may, da giày,...tác giả lựa chọn những
ngành này vì đây là những ngành nghề mà các nước Đông Á kể trên đã gặt hái được
nhiều thành tựu đáng nể. Đồng thời, Chính phủ Việt Nam cũng ưu tiên phát triển các
ngành nghề này thông qua ban hành Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công
nghiệp hỗ trợ có hiệu lực từ ngày 1/1/2016. Theo đó, tổ chức, cá nhân nghiên cứu và
phát triển sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản phẩm công
4
nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển bao gồm Dệt may, da giày, điện tử, lắp ráp ô tô, công
nghiệp công nghệ cao sẽ được tài trợ từ Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ,
hỗ trợ từ các Quỹ, nguồn kinh phí khác dành cho nghiên cứu, phát triển và đào tạo.
Việc tập trung vào phát triển các ngành nghề này là hết sức cần thiết phù hợp với xu
hướng thế giới cũng như điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam.
- Góc độ nghiên cứu: Góc độ vĩ mô- Cơ chế và chính sách nhà nước (Chính
phủ) đối với phát triển CNHT.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp với
vận dụng các quan điểm,đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước, Luận án sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
(i) Về phương pháp thu thập dữ liệu:
Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp:
Nguồn dữ liệu thứ cấp được lấy từ cơ sở dữ liệu của Bộ Công thương, Trung
tâm SIDEC – Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công nghiệp – Bộ Công
thương; Bộ kế hoạch đầu tư; Tổng Cục Thống kê; Tổng cục Hải quan; Trademap.org,
UNComtrade ... Cụ thể: Các số liệu về thực trạng các ngành công nghiệp và CNHT
của các ngành đó được lấy từ nguồn Trang Web Tổng cục Thống kê; trang web Tổng
cục Hải quan; Trung tâm hỗ trợ DN CNHT (SIDEC) - Viện nghiên cứu chiến lược,
chính sách công nghiệp – Bộ Công thương, ngoài ra tác giả tham khảo số liệu, sơ đồ
được từ các báo cáo nghiên cứu từ các cơ quan nhà nước, nghiên cứu khoa học của
các quốc gia nghiên cứu và được trích dẫn cụ thể.
Các dữ liệu khác liên quan đến CNHT và các sản phẩm CNHT của các quốc gia,
cũng như chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ được thu thập từ các trang web Bộ
Công thương, Bộ kế hoạch và đầu tư; Chính phủ, các nguồn khác tổ chức CNHT, Hiệp hội
các doanh nghiệp CNHT, Trung tâm Phát triển doanh nghiệp CNHT – Bộ Công thương,
các đề tài nghiên cứu, luận án, bài báo, bài phân tích,… có liên quan.
Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp:
Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: Tác giả sẽ tiến hành phỏng vấn, điều tra
các đối tượng là các tổ chức liên quan đến CNHT của các nước Đông Á và Việt Nam.
5
Tác giả cũng có các cuộc phỏng vấn với các chuyên gia nghiên cứu tại Việt Nam và
Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan; các nhà hoạch định chính sách liên quan đến
CNHT ở Việt Nam. Toàn bộ số liệu khảo sát được xử lý bằng phần mềm thống kê
SPSS.
(ii) Về phương pháp phân tích dữ liệu
Các phương pháp phân tích dữ liệu cơ bản trong nghiên cứu kinh tế được sử
dụng trong nghiên cứu của luận án bao gồm:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: Hệ thống hóa những vấn đề lý
luận chung về phát triển CNHT dựa trên việc kế thừa các tài liệu tham khảo, các công
trình nghiên cứu trong và ngoài nước về CNHT; xây dựng hệ thống lý thuyết mới về
khái niệm, nội dung phát triển CNHT, các bộ tiêu chí đánh giá phát triển CNHT,
được áp dụng cho các chương 2,3,4 của luận văn.
+ Phương pháp thống kê mô tả: Được sử dụng để sắp xếp, phân loại và xử lý
tổng hợp số liệu thu thập, từ đó xây dựng các bảng biểu, đồ thị để phân tích dữ liệu
đánh giá thực trạng phát triển CNHT các nước Đông Á và Việt Nam và từ đó rút ra
được kết quả phát triển CNHT, các yêu tố ảnh hưởng và bài học kinh nghiệm.
+ Phương pháp thống kê so sánh: Sử dụng các số liệu thống kê để phân tích, so
sánh, đánh giá các chính sách, biện pháp, hành động mang tính định hướng, chủ động
phát triển công nghiệp hỗ trợ ở các nước Đông Á đã thực hiện. Từ đó so sánh tương
quan các nét tương đồng giữa Việt Nam và các nước Đông Á để rút ra các bài học áp
dụng phù hợp thực tiễn Việt Nam Được áp dụng cho các chương 2,3,4.
+ Phương pháp thu thập và hệ thống hóa các số liệu. Luận án sử dụng phương
pháp này để phân tích, đánh giá, tổng kết các công trình đã nghiên cứu, các kinh nghiệm,
các dữ liệu thực tiễn liên quan đến đề tài luận án. Trong đó, do tính chất mới của vấn đề,
luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study), vốn thích hợp cho
việc phát hiện các vấn đề mới, cũng như cho việc đề xuất các giả thuyết cho các nghiên
cứu tiếp theo trên diện rộng hơn. Được áp dụng cho các chương 2,3,4.
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh được sử dụng để phân tích, đánh
giá, nhận diện các vấn đề đặt ra, so sánh tương quan về tình hình phát triển và xác
định các bài học kinh nghiệm phù hợp áp dụng vào thực tiễn của ngành CNHT tại
Việt Nam. Được áp dụng cho các chương 2,3,4 của luận văn.
6
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, Hệ thống hóa một cách toàn diện một số vấn đề luận về CNHT, các nội
dung phát triển CNHT và các nhóm tiêu chí đánh giá cũng như nhân tố tác động tới
CNHT để làm cơ sở phân tích trong toàn bộ luận án.
Hai là, Trình bày, phân tích và đánh giá thực trạng phát triển CNHT ở một số
nước Đông Á thông qua các nội dung phát triển CNHT, chỉ ra những thành công,
những hạn chế và tồn tại, và xác định nguyên nhân của chúng.
Ba là, sau khi tổng kết và khái quát những đặc điểm và vấn đề của CNHT và
phát triển CNHT của Việt Nam, và trên cơ sở những bài học kinh nghiệm từ các quốc
gia Đông Á Luận án sẽ đề xuất một số quan điểm và bài học phù hợp nhằm thúc đẩy
quá trình phát triển CNHT ở Việt Nam trong điều kiện HNKTQT sâu rộng đến năm
2030.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án sẽ là tài liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy chuyên
ngành Kinh tế học ở Việt Nam nói chung và là tài liệu nghiên cứu lý luận về phát
triển công nghiệp hỗ trợ nói riêng.
- Luận án cung cấp các luận cứ, cơ sở khoa học cho Việt Nam trong việc
hoạch định các chính sách cho phát triển CNHT; rút ra bài học kinh nghiệm phát triển
CNHT từ ba nền kinh tế phát triển nhất Đông Á (Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc) từ
đó gợi mở một số bài học nhằm giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong phát triển
CNHT ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Luận văn bao gồm các phần: Danh mục các chữ viết tắt, Danh mục các Bảng,
Hình,Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo thì được chia thành 4
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về phát triển công nghiệp hỗ trợ ở các
nước Đông Á và Việt Nam
Chương 2: Cơ sở lý luận về phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Chương 3: Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ của một số nước Đông Á
Chương 4: Quan điểm định hướng và bài học phát triển công nghiệp hỗ trợ áp dụng
cho Việt Nam.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở CÁC NƯỚC ĐÔNG Á VÀ VIỆT NAM
1.1 .Những công trình nước ngoài có liên quan
Hiện nay, có một số công trình khoa học của các nước nghiên cứu về CNHT
dưới các khía cạnh khác nhau mà tác giả tìm hiểu và phân loại cụ thể dưới đây:
1.1.1 Nhóm công trình nghiên cứu cơ sở lý luận về công nghiệp hỗ trợ
- Cuốn sách: “White paper on Industry and Trade” (Sách trắng về hợp tác kinh
tế) của Bộ thương mại và công nghiệp quốc tế Nhật Bản, năm 1985, nơi thuật ngữ
công nghiệp hỗ trợ (CNHT) được dùng để chỉ “Các doanh nghiệp vừa và nhỏ”
(SMEs), các doanh nghiệp góp phần tăng cường cơ sở hạ tầng công nghiệp ở các
nước châu Á. Trong cuốn sách này các tác giả làm rõ được các khái niệm liên quan
về doanh nghiệp CNHT bằng cách đi sâu làm rõ các vai trò của các công ty sản xuất
linh kiện, phụ kiện trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa (CNH- HĐH) của
các nước ASEAN. Khi đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa được thúc đẩy phát triển, hỗ
trợ các doanh nghiệp lớn, các ngành công nghiệp nói chung và được coi là các doanh
nghiệp hỗ trợ [8].
- Công trình nghiên cứu: “Production Networks and Industrial Clusters:
Integrating Economies in Southeast Asia” (Mạng lưới sản xuất và cụm công nghiệp:
Các nền kinh tế mới nổi tại Đông Á), 2008, Ikuo Kuroiwa và Toh Mun Heng, công
trình với cách nhìn tổng quan về mạng lưới sản xuất (MLSX) và cụm công nghiệp
(CCN) tại ASEAN, như cơ chế MLXS, mối quan hệ giữa cụm CCN và MLSX tại khu
vực này. Nghiên cứu đã phân tích CCN điện tử tại Indonexia và Malaysia, cũng như
phát triển của các CCN ô tô và MLSX tại Thái Lan, trên cơ sở đó đề xuất hướng hợp
tác kinh tế khu vực.
- Công trình nghiên cứu: “Green Practices in Supply Chain Management:
Case Studies” (Nghiên cứu: Thực hành trong quản lý chuỗi cung ứng xanh), 2020,
Mehmet Sıtkı Saygili, , Ziynet Karabacak , Quản lý chuỗi cung ứng xanh (GSCM) đã
nổi lên trong vài năm qua như một mô hình quản lý quan trọng. Các công ty đã xem
xét chuỗi cung ứng của họ (SC´s) và nhận thấy những lĩnh vực mà cải tiến hoạt động
có thể tạo ra mức hiệu suất tốt nhất hạn chế ảnh hưởng đến môi trường, xã hội. Mục
đích của nghiên cứu này là cung cấp thông tin về các phát triển và phạm vi của khái
8
niệm quản lý chuỗi cung ứng xanh trong khuôn khổ của nghiên cứu tài liệu và trình
bày các trường hợp từ các ứng dụng chuỗi cung ứng xanh của các công ty trong lĩnh
vực khác nhau. Từ đó có đủ cơ sở, đánh giá tác động môi trường, xã hội và kinh tế
của môi trường xanh thực tiễn tại các công ty nghiên cứu.[102]
- Công trình nghiên cứu: “The Competitive Advantage Of Nations” (Lợi thế
cạnh tranh của các quốc gia), Harvard Business Review được xuất bản thành sách của
tác giả M.E. Porter, công bố năm 1990, NXB. Đại học Havard - New York Mỹ.
Trong đó, CNHT đã được phân tích như là một trong năm yếu tố quyết định đến lợi
thế cạnh tranh của một quốc gia; đây được xem là yếu tố quyết định lớn thứ ba của lợi
thế quốc gia trong việc cạnh tranh quốc tế. Kinh nghiệm rút ra ở đây là các nhà cung
cấp quốc tế tạo ra lợi thế cạnh tranh thông qua các ngành công nghiệp hỗ trợ bằng
cách họ cung cấp các đầu vào chi phí-hiệu quả nhất một cách sớm nhất, nhanh chóng,
hiệu quả và đôi khi có cả ưu đãi đối với các nước có nền công nghiệp hỗ trợ đang
phát triển, đổi lại các công ty này có thể dễ dàng tìm nguồn nguyên liệu từ nước
ngoài, các thành phần, hoặc các công nghệ hỗ trợ mà không cần phải bỏ tự bỏ vốn sản
xuất chúng [101].
- Công trình nghiên cứu: “Investigation report for industrial development:
supporting industry sector” (Báo cáo điều tra phát triển công nghiệp: lĩnh vực công
nghiệp hỗ trợ) – Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), (2005), Tokyo. Tài liệu
này đã đưa ra báo cáo điều tra phát triển công nghiệp về “ngành công nghiệp hỗ trợ”,
đã đánh giá vai trò quan trọng và thực trạng CNHT trong các ngành công nghiệp
Nhật Bản; kết luận về mối liên hệ, tính liên kết trong sản xuất sản phẩm cũng như cho
ngành công nghiệp nói riêng, nền kinh tế Nhật Bản nói chung. Cụ thể đối với sản
phẩm, bộ phận, chi tiết của Nhật Bản sản xuất tại Việt Nam phụ thuộc vào các yếu tố
chất lượng, chi phí, thời gian để có thể cạnh tranh trên thị trường, do vậy để giảm chi phí
và thời gian giao hàng, đồng thời đảm bảo được chất lượng sản phẩm thì cần thiết sự
phát triển lành mạnh của các ngành công nghiệp hỗ trợ này [94].
- Công trình nghiên cứu “Supporting Industries: A Review of Concepts and
Development” (Các ngành công nghiệp hỗ trợ: Đánh giá các khái niệm và phát triển)
– Nguyen Thi Xuan Thuy, năm 2006. Tài liệu này đề xuất các định nghĩa về công nghiệp
hỗ trợ có thể sử dụng ở Việt Nam, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, xúc tiến hợp tác cho
các địa phương, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp hỗ trợ, kỹ nghệ
mối liên kết thử nghiệm, và mạng lưới sản xuất đặc biệt quan trọng, đồng thời cũng chỉ
9
rõ được những điểm đồng nhất về xuất phát điểm, đặc điểm kinh tế của Việt Nam với
một số nước trên thế giới như Trung Quốc, Malaysia, Hàn Quốc từ đó rút ra các bài học
kinh nghiệm có thể áp dụng ở Việt Nam [113].
- Công trình nghiên cứu: “Promotion of surporting Industries- The key for
attracting FDI in development countries” (Thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ - Chìa khóa
để thu hút FDI ở các nước đang phát triển), Do Manh Hong, 2008. Công trình trên thể
hiện được vai trò của ngành CNHT như chìa khóa thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư và các nước đang phát triển, vai trò này được đánh giá ngành càng quan trọng
trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Các nước đang phát triển cần tạo một môi
trường đầu tư hấp dẫn theo con đường duy nhất là xây dựng và phát triển một ngành
CNHT đủ lớn, có khả năng mang lợi lại cho dòng vốn FDI một cách hiệu quả và bền
vững [88].
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phát triển công nghiệp hỗ trợ.
- Công trình nghiên cứu: “Strengthening of Supporting Industries: Asian
Experience” (Tăng cường các ngành công nghiệp hỗ trợ: Kinh nghiệm Châu Á), của Asian
Productivity Organisation (Tổ chức Năng suất châu Á), xuất bản năm 2002. Tác phẩm tập
trung trình bày về các chính sách phát triển CNHT qua các giai đoạn ở Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan. Các chính sách này chủ yếu tìm hiểu vào một số nội dung chính như: quy
định về tỷ lệ nội hóa và hỗ trợ mạnh mẽ, thu hút đầu tư nước ngoài, khả năng liên kết
doanh nghiệp là điều kiện cần và đủ để phát triển ngành CNHT [85].
- Công trình nghiên cứu “Multinational Enterprises and Technological Effort
by Local Firms: A Case Study of the Malaysian Electronics and Electrical Industry”
(Tập đoàn đa quốc gia và các nỗ lực công nghệ của doanh nghiệp địa phương: trường
hợp nghiên cứu ngành công nghiệp điện và điện tử Malaysia), Noor, Halim, Clarke.
Roger, Driffield và Nigel cho thấy vai trò của chính phủ trong công cuộc đổi mới,
sáng tạo từ các nhà cung cấp nội địa trong ngành điện tử. [91].
- Cuốn sách: “Japanese - Affiliated Manufactures in Asia” (Các nhà sản xuất
Nhật Bản tại Châu Á), được thực hiện bởi Tổ chức Xúc tiến Ngoại Thương Nhật Bản
(JETRO), năm 2003, đã phân tích tình hình thuê ngoài và cung ứng các sản phẩm hỗ
trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô của Nhật Bản ở Châu Á (ASEAN
và Ấn Độ). Từ đó chỉ ra cơ hội thách thức mà các nhà sản xuất Nhật Bản tại Châu Á
đang gặp phải nhằm đưa ra các giải pháp khắc phục [91].
- Công trình nghiên cứu “Survey on comparision of background, policy
10
measures and outcome for delelopment of supporting industries in ASEAN” (Khảo sát
về so sánh nền tảng, các biện pháp chính sách và kết quả cho việc loại bỏ các ngành
công nghiệp hỗ trợ trong ASEAN), năm 2011 của Goodwill Consultant JSC và Diễn
đàn phát triển Việt Nam. Trong đó, các tác giả đã phân tích Malaysia và Thái Lan, là
hai trong số các nước ASEAN đã có nhiều chương trình dành cho CNHT từ những
năm 1980. Thông qua việc phân tích các vấn đề: bối cảnh; tổ chức chính sách; ảnh
hưởng chính sách và kết quả đạt được. Các tác giả đưa ra 07 vấn đề: Khủng hoảng -
chất xúc tác; tác động qua lại giữa lợi ích quốc gia và lợi ích nước ngoài thời kỳ toàn
cầu hóa; xúc tiến mở và xúc tiến bắt buộc; áp dụng có điều chỉnh; sự quan tâm đến
xúc tiến CNHT; các biện pháp chính sách và việc tổ chức thực hiện. Các tác giả đưa
ra những so sánh với Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng CNHT Việt Nam từ
đó rút ra các bài học để phát triển CNHT [90].
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách và bài học phát triển công
nghiệp hỗ trợ.
- Công trình nghiên cứu: “Effects of the Crisis on the Automotive Industry in
Developing Countries A Global Value Chain Perspective” (Ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng đối với ngành công nghiệp ô tô ở các nước đang phát triển Quan điểm
về chuỗi giá trị toàn cầu) của tác giả T.J. Sturgeon và J.V. Biesebroeck, nghiên cứu
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009 đối với CN ô tô ở các
nước đang phát triển xét trong chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs). So sánh các con đường
phát triển ô tô giữa ba nước Mexico, Trung Quốc và Ấn Độ, rút ra khuyến nghị chính
sách cho sự phát triển ngành CN này là tăng cường nội địa hóa sản phẩm và hướng
phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm ở trong nước [116].
- Công trình nghiên cứu: “Survey report on overseas business operation by
Japanese manufacturing companies” (Báo cáo khảo sát các bộ phận ở nước ngoài của các
công ty lắp ráp Nhật Bản) do Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) công bố năm
2004, đã chỉ ra rằng chi nhánh các tập đoàn Nhật Bản ở châu Á, đặc biệt là Thái Lan,
Malaysia, Indonesia đã sử dụng hệ thống thầu phụ được hình thành với vai trò trợ giúp
mạnh mẽ các doanh nghiệp sản xuất linh kiện có vốn đầu tư từ Nhật Bản. [92]
- Công trình nghiên cứu: “Development of Supporting Industries for
VietNam’s Industrialization increasing positive vertical externalities through
collaborative training” (Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa của Việt Nam, gia tăng các ngoại tác tích cực theo ngành dọc thông qua
11
hợp tác đào tạo), Junichi Mori, Master of Arts in Law and Diplomacy Thesis, 2005.
Công trình này nhằm xác định "các ngành công nghiệp hỗ trợ" và giải quyết các câu
hỏi: Các ngành công nghiệp hỗ trợ có vai trò gì trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế? Sau khi tầm quan trọng và hiệu quả của các ngành công nghiệp hỗ trợ phải được
thảo luận, câu hỏi làm thế nào để phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ vẫn còn.
Câu hỏi thứ hai là: Làm thế nào để có thể hỗ trợ các ngành công nghiệp hỗ trợ phát
triển? Có nên để chính phủ đóng một vai trò trong việc điều chỉnh một số không hoàn
hảo trong thị trường? Nếu vậy, những loại lựa chọn chính sách nào của chính phủ có
thể cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam [103].
1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận công nghiệp hỗ trợ.
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp quốc gia: “Cơ sở khoa học xây dựng
chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, năm 2020, trường Đại học
Ngoại Thương. Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu cơ sở khoa học để xây
dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0), làm tiền đề xây
dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2021-2030.
Mục tiêu cụ thể:
- Xây dựng khung phân tích cơ sở khoa học để xây dựng chiến lược phát triển
nguồn nhân lực Việt Nam
- Phân tích hiện trạng chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn
2011 – 2020
- Dự báo xu thế phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh CMCN 4.0 tại Việt Nam
- Đề xuất khung chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2021 –
2030 trong bối cảnh CMCN 4.0
- Trong Cuốn sách: “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá
Việt Nam”, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, của Trần Văn Thọ, có Chương
10: Phát triển công nghiệp hỗ trợ, Mũi đột phá chiến lược. Trong đó, tác giả cho
rằng, Đông Á là khu vực năng động nhất trên địa cầu hiện nay. Làn sóng công nghiệp
đang chuyển động mạnh tại vùng này. Từ đó đi đến trả lời các câu hỏi: Vị trí của Việt
Nam ở đâu trên bản đồ công nghiệp Đông Á? Sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc tác
động như thế nào đến Việt Nam? Hiệp định tự do thương mại (FTA) và trào lưu
12
hướng đến Cộng đồng Đông Á có ý nghĩa như thế nào đối với Việt Nam? “Từ đó tác
giả đã tập trung phân tích hầu hết các vấn đề liên quan đến công nghiệp hoá, đề khởi
các chiến lược, chính sách, biên pháp nhằm tăng sức cạnh tranh của kinh tế Việt Nam
để đối phó hữu hiệu với các thách thức và tận dụng các cơ hội phát triển ở Đông Á”
[75].
- Cuốn sách “Xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam”, do GS. Kenichi Ohno,
Diễn đàn phát triển Việt Nam - VDF, (2007) chủ biên, NXB. Lao động Xã hội, đã
đưa ra kết quả khảo sát về thực trạng các ngành CNHT; đánh giá tổng quan về thực
trạng và vấn đền phát triển CNHT Việt Nam hiện nay, tổng kết lịch sử ra đời và năm
khái niệm liên quan CNHT đề xuất cho Việt Nam đồng thời cuốn sách cũng đưa ra
nguyên nhân đòi hỏi cần phải xây dựng cơ sở dữ liệu trong chiến lược phát triển
CNHT do FDI dẫn dắt [33].
- Bài viết “Mô hình nào cho cụm liên kết ngành ở Việt Nam”, Phạm Đình Tài, Tạp
chí Tài chính, số 4, 2013, đã chỉ rõ vai trò của cụm liên kết ngành như một công cụ
chính sách quan trọng, như kéo theo sự gia tăng phát triển các doanh nghiệp trong
ngành CNHT. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành CNHT sẽ thu hút được nguồn vốn
đầu tư, các đầu tư nước ngoài và tiếp cận được khoa học công nghệ hiện đại. Bài viết
khẳng định sự phát triển cụm liên kết ngành sẽ là điều kiện cần thiết cho sự phát triển
ngành CNHT. [50].
- Bài viết “Phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trước làn sóng đầu tư mới của
các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản”, Tạp chí kinh tế châu Á- Thái Bình Dương,
Trần Quang Lâm, Đinh Trung Thành (2007) đã chỉ ra tầm quan trọng của CNHT như
là một trong những điều kiện quan trọng, không thể thiếu nhằm tạo dựng môi trường
đầu tư thuận lợi để thu hút FDI của các TNCS nước ngoài.
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phát triển CNHT
- Luận văn thạc sĩ kinh tế: “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản và bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam”, Nguyễn Thu Thủy, Trường Đại học Ngoại thương,
2010, đã chỉ rõ được thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam và Nhật Bản
giai đoạn 2005-2010, tác giả đã rút ra được nhiều bài học cho ngành CNHT của Việt
Nam hiện nay qua ba ngành công nghiệp hỗ trợ chính: ô tô, điện tử, dệt may [54].
- Trong công trình nghiên cứu: “Phát triển công nghiệp hỗ trợ của các nước Châu
Á và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 42/2010, Đào Ngọc Tiến
đã đề cập đến thực trạng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ở một số nước Châu Á
13
như Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan,… các nước đi đầu trong việc phát triển CNHT
trong 5 năm từ 2005-2010. Đây là công trình được tác giả nghiên cứu khảo sát thông
qua việc thống kê lượng vốn mà các nước đầu tư vào các ngành CNHT. Từ những
nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra một số giải pháp cho Việt Nam thông qua các bài
học kinh nghiệm từ các nước đi trước [52].
- Công trình nghiên cứu “Phát triển công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản, Thái Lan,
Malaysia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Hội thảo quốc tế “Phát triển công nghiệp
hỗ trợ: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số nước châu Á” do Trường Đại học Ngoại
thương tổ chức tại Hà Nội, 10/2009, Đào Ngọc Tiến đã đưa ra các ví dụ thành công trong
mô hình phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Nhật Bản và các nước láng giềng Châu Á, từ đó
giúp đưa ra những định hướng và giải pháp giúp phát triển CNHT tại Việt Nam [52].
- Trong công trình nghiên cứu: Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, từ quy hoạch đến
Kế hoạch hành động thông qua quan hệ đối tác Monozukuri Việt Nam - Nhật Bản,
Diễn đàn phát triển Việt Nam, NXB. Lý luận Chính trị Hà Nội. Kennichi Ohno, 2008,
có đưa ra có bộ phương án đề xuất cho nhằm phát triển CNHT tại Việt Nam thông
qua thông qua nghiên cứ so sánh quy trình Monozukuri giữa Việt Nam và Nhật Bản :
Việt Nam phải cải thiện mạnh mẽ năng lực doanh nghiệp trong nước nhằm tạo ra giá
trị nội địa, Xây dựng quan hệ đối tác song phương về monozukuri, Cùng sản xuất
hàng hóa cần kỹ năng cao thông qua phân công lao động: Nhật Bản: quy trình
monozukuri cần nhiều vốn và công nghệ Việt Nam: quy trình monozukuri sử dụng
nhiều lao động [32].
- Luận án tiến sĩ kinh tế: “Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở
Việt Nam”, Hà Thị Hương Lan, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2014, đã
làm rõ những vấn đề lý luận về CNHT, đặc biệt làm rõ vai trò và những tiêu chí đánh
giá mức độ phát triển CNHT; Luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng CNHT trong
một số ngành công nghiệp ở Việt Nam, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế,
nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong phát triển CNHT. Từ đó đề xuất một số
quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển CNHT trong một số ngành công
nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế [36].
- Năm 2007, Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) trong dự án Hợp tác nghiên cứu
giữa NEU và Grips đã xuất bản một cuốn sách có tựa đề “Xây dựng công nghiệp hỗ
trợ tại Việt Nam” chỉ rõ những tồn tại cần khắc phục trong công nghiệp hỗ trợ ở Việt
Nam. Cũng trên tinh thần đó, năm 2009, trường Đại học Ngoại thương Hà Nội đã kết
14
hợp với Trung tâm hợp tác phát triển nguồn nhân lực Nhật Bản (VJCC) đã tổ chức
Hội thảo: “Phát triển CNHT: Kinh nghiệm Nhật Bản và một số nước châu Á”. Hội
thảo đưa ra các ví dụ thành công trong mô hình phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Nhật
Bản và các nước láng giềng Châu Á, từ đó chỉ ra những định hướng, giải pháp để
phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam [23].
-Bài viết: “Phát triển dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nhằm thu hút các doanh nghiệp
nhỏ và vừa của Nhật Bản vào phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam” trên Tạp chí
Kinh tế và phát triển, Số 185, tháng 11 năm 2012, trang 56-63, tác giả Phạm Thị
Huyền đã cho thấy các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) tại Nhật Bản có xu hướng
đẩy mạnh hợp tác và đầu tư ra nước ngoài và đang rất quan tâm đến thị trường Việt
Nam. Liệu Việt Nam có thể là điểm đến lựa chọn của họ? Việc đón dòng vốn đầu tư
này là cần thiết cho Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa tới 2020, đặc
biệt là phát triển công nghiệp hỗ trợ.
1.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách và giải pháp phát triển
công nghiệp hỗ trợ.
- Công trình nghiên cứu “Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan,
Malaysia và Nhật Bản: Bài học kinh nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách của
Việt Nam” do Kennichi Ohno, Diễn đàn Phát triển Việt Nam, chủ biên, được NXB.
Lý luận Chính trị công bố năm 2006. Các tác giả đã cố gắng thu thập những văn bản
chính sách chính sách công nghiệp quan trọng, nghiên cứu về cách thức trao đổi
thông tin giữa chính phủ và công đồng doanh nghiệp đưa ra các vấn đề về chính sách
công nghiệp ở các nước Châu Á đã thành công trong ngành CNHT và nêu một vài
gợi ý cho chính sách phát triển CNHT của Việt Nam. [31]
- Công trình nghiên cứu “Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam”
do Kennichi Ohno và Nguyễn Văn Thường chủ biên, 2005, NXB. Lý luận Chính trị,
đã tập hợp những công trình nghiên cứu xuất sắc của các nhà nghiên cứu Việt Nam
và Nhật Bản về ngành công nghiệp Việt Nam, trong đó có ngành CNHT. Cuốn sách
đã đề cập đến các chính sách phát triển của CNHT với tư cách là một bộ phận trong
chính sách phát triển công nghiệp. Với rất nhiều tư liệu quý được công bố lần đầu mà
còn chứa đựng nhiều ý tưởng khoa học mới về chiến lược/chính sách phát triển công
nghiệp Việt Nam [53].
- Công trình nghiên cứu: “Chính sách thúc đẩy phát triển CNHT; Lý luận, thực
tiễn và định hướng cho Việt Nam” [48] do Lê Xuân Sang, Nguyễn Thị Thu Huyền
15
(Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương), thực hiện năm 2011. Công trình này
chủ yếu bàn về một số vấn đề lý luận và thực tiễn quốc tế trong hoạch định chính
sách thúc đẩy CNHT trên thế giới và trong nước. Phần đầu bài viết điểm qua một số
vấn đề lý luận về vai trò, ý nghĩa và sự phát triển của ngành CNHT trên thế giới. Phần
thứ hai giới thiệu một số kinh nghiệm quốc tế (của Malaysia và Thái Lan) trong thúc đẩy
CNHT phát triển. Phần cuối cùng tác giả đề xuất một vài định hướng, chính sách nhằm
để đẩy nhanh quá trình phát triển CNHT của quốc gia. [48].
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: “Chính sách phát triển CNHT ở Việt
Nam đến năm 2020”, Mã số: KX.01.22/06-10, do Hoàng Văn Châu (2010) làm chủ
nhiệm. Đề tài đã nghiên cứu một cách tổng thể về lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, nghiên
cứu kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, từ
đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, nghiên cứu về thực trạng CNHT tại
Việt Nam và các chính sách phát triển có liên quan đến từng ngành CNHT. Trên cơ
sở nghiên cứu đó tác giả đề xuất hệ thống chỉ tiêu đánh giá sự phát triển CNHT bao
gồm 5 nhóm, 7 quan điểm cần quán triệt, đề xuất các thể chế và chính sách chung cho
sự phát triển CNHT và chính sách riêng cho từng ngành. Đây là một công trình
nghiên cứu công phu về CNHT của Việt Nam [16].
- Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công
nghiệp, Bộ Công thương, (2010), “Nghiên cứu chính sách tổng thể phát triển công
nghiệp hỗ trợ trong điều kiện hội nhập”, đã đưa ra những vấn đề chung về CNHT,
phân tích thực trạng hiện nay của CNHT Việt Nam thông qua các ngành cơ khí, lắp
ráp ô tô, công nghệ điện tử, dệt may,… Từ những đánh giá chung, nhóm tác giả đã đề
xuất các chính sách và giải pháp phát triển CNHT Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế.[80]
- Bài viết: “Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ của các nước Đông Á và bài
học kinh nghiệm đối với Việt Nam” của Phạm Thanh Hiền, Trần Thị Lan Hương, trên
Tạp chí Kinh tế và phát triển, Số 179 (II), tháng 5 năm 2012, trang 97-102, đã phân
tích các chính sách phát triển CNHT ở một số nước Đông Á có xuất phát điểm như
Việt Nam. Từ những đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho thấy sự phù hợp
với xu thế phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Qua thực tế
phát triển CNHT ở Việt Nam và với bài học kinh nghiệm của các nước Đông Á giúp
cho việc đề xuất giải pháp phát triển ngành CNHT ở Việt Nam: Phát triển SMEs
trong các ngành CNHT; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển công
16
nghệ; Hoàn thiện và bổ sung các chính sách ưu đãi để thu hút FDI phát triển CNHT
tại Việt Nam; Thúc đẩy các mối liên kết công nghiệp [30].
1.3. Những kết luận rút ra từ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Các nghiên cứu kể trên đã phản ánh được nhiều mặt về CNHT và phát triển
CNHT ở một số nước Đông Á như Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam.
Đây đều là các tài liệu có giá trị tham khảo cao cụ thể:
(1) Về lý luận, khái niệm CNHT và phát triển CNHT.
Về lý luận, các đề tài này đã hệ thống được một số lý thuyết quan trọng về CNHT
như khái niệm, vai trò, điều kiện phát triển, tiêu chí phát triển, nhân tố ảnh hưởng đến
sự phát triển CNHT,...Tuy nhiên, hệ thống cơ sở lý thuyết về phát triển CNHT vẫn
còn một số hạn chế như sau:
Về khái niệm và phạm vi của CNHT: ở mỗi công trình nghiên cứu có cách tiếp
cận, định nghĩa khác nhau về CNHT với các phạm vi rộng, hẹp khác nhau, điều này
đã dẫn đến sự khó khăn khi tiếp cận các số liệu phân tích thực trạng phát triển CNHT,
đồng thời là sự khó khăn trong quá trình xác định đối tượng là DN CNHT để xây
dựng, thực thi các chính sách hỗ trợ, ưu đãi. Do đó, vấn đề đầu tiên tác giả cần chú
trọng là việc xác định khái niệm, phạm vi CNHT của đề tài luận án phù hợp với điều
kiện của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Về tiêu chí đánh giá sự phát triển, ở các công trình nghiên cứu trước, việc tiếp cận
các tiêu chí đánh giá sự phát triển vẫn còn khá chung chung, dẫn đến các số liệu phân
tích thực trạng phát triển CNHT còn yếu; đặc biệt là, các tiêu chí đưa ra chưa bám sát
theo khái niệm và các vấn đề cơ bản của Phát triển ngành CNHT.
(2) Về thực trạng:
Đối với các nghiên cứu nước ngoài, các đề tài liên quan đến phát triển CNHT chủ
yếu tập trung ở các nước Châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, … với
khoảng thời gian cách đây ít nhất hơn 20 năm – cung cấp một số kinh nghiệm trong
quá trình phát triển CNHT tại các quốc gia.
Đối với nghiên cứu trong nước, các đề tài đã đưa ra được một số đánh giá về thực
trạng phát triển CNHT Việt Nam nói chung, CNHT trong một số ngành nói riêng như
ngành điện tử gia dụng, ngành giày dép, ô tô, xe máy, … Tuy nhiên, phần phân tích
thực trạng phát triển CNHT còn khá chung chung, chưa làm nổi bật được thực trạng
phát triển, những khó khăn và hạn chế trong quá trình hoạt động của các DN CNHT
gắn với từng ngành CN chính cụ thể.
17
(3) Về bài học, kinh nghiệm:
Các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định phát triển CNHT góp
tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế, đồng thời là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia
tăng cho ngành công nghiệp, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, tạo
điều kiện thu hút được đầu tư nước ngoài, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền
công nghiệp toàn cầu. Mặc dù vậy, hệ thống các quan điểm, định hướng, giải pháp cụ
thể, có tính khả thi và bền vững trong bối cảnh hiện nay thì chưa được tác giả đi sâu
phân tích và giải thích một cách rõ ràng.
(4) Một số khoảng trống nghiên cứu được rút ra từ các nghiên cứu trên:
- Phát triển công nghiệp chế biến chế tạo là một quá trình lâu dài thường kéo dài
hàng chục năm, cần phân bổ nguồn lực quốc gia thích đáng;
- Nhà nước đóng vai trò bệ đỡ, hỗ trợ đồng hành cùng doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp, tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình phát triển;
- Tập trung vào các giải pháp hỗ trợ để nâng cao trình độ về công nghệ, nhân lực,
nguồn vốn cho các doanh nghiệp có tiềm năng trong các ngành công nghiệp ưu tiên
ngang tầm khu vực và thế giới để dẫn dắt nền công nghiệp;
- Đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi và kinh tế vĩ mô ổn định để tạo ra tinh
thần sản xuất trong xã hội, khuyến khích hướng nguồn vốn đầu tư xã hội vào khu vực
sản xuất.
- Phát triển CNHT phải đi đôi với việc phát triển kinh tế đất nước theo hướng
xanh, bền vững, song song với thúc đẩy chuyển đổi số để đáp ứng yêu cầu của toàn
cầu hóa. Đảm bảo Việt Nam không bị bỏ lại phía sau.
Kết quả các công trình nghiên cứu đã đưa ra được một số thực trạng và giải pháp
nhằm phát triển CNHT ở một số nước Đông Á và rút ra bài học kinh nghiệm cho các
nước đi sau. Có thể thấy, điểm hạn chế của các công trình nghiên cứu này là phân tích
và giải thích một cách chưa rõ ràng các giải pháp cụ thể, có tính khả thi và bền vững
trong bối cảnh hiện nay. Chưa đúc rút ra bài học phù hợp với điều kiện phát triển
Kinh tế cũng như CNHT ở Việt Nam dựa trên liên hệ thực tiễn cũng như là điểm
tương đồng giữa Việt Nam với các thời kỳ phát triển của các nước Đông Á.
18
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở các nghiên cứu đi trước có liên quan đến CNHT các tác giả đã giải
quyết được một số vấn đề cơ bản về lý luận như vai trò, nhân tố ảnh hưởng và tiêu trí
đánh giá về ngành CNHT. Về khía cạnh thực tiễn các nghiên cứu về công nghiệp hỗ
trợ ở một số nước Đông Á cụ thể là các ví dụ thành công trong mô hình phát triển công
nghiệp hỗ trợ ở các nước Đông Á, từ đó giúp đưa ra những định hướng và giải pháp giúp
phát triển CNHT tại Việt Nam, tuy nhiên các ví dụ này thường không mang tính liên hệ
mà rời rạc, chưa thực sự áp dụng được với thời kỳ mới hiện nay, do vậy những khoảng
trống cần tiếp tục làm sáng tỏ chính là đưa ra các bài học một cách hệ thống thông qua
khung cơ sở về phát triển CNHT của các nước Đông Á. Các nghiên cứu trước đây chủ yếu
nghiên cứu các ngành CNHT rời rạc của một số nước Đông Á và tập trung vào một số
nhân tố tác động như thị trường, chính sách, nguồn nhân lực ….chưa một nghiên cứu nào
hệ thống toàn bộ những ngành công nghiệp hỗ trợ hiện nay với các tiêu chí đánh giá phù
hợp với điều kiện hiền nay của Việt Nam. Hơn nữa các nghiên cứu ở một số nước Đông Á
như Nhật Bản, Trung Quốc và Thái Lan còn rời rạc, chưa có sự so sánh để thấy được mặt
mạnh và những mặt còn hạn chế cũng như tìm ra được quy luật phát triển ngành CNHT.
Dựa vào những vấn đề chưa được giải quyết này tác giả đặt ra những vấn đề
cho luận án về mặt lý luận và thực tiễn chính là xây dựng một hệ thống cơ sở lý luận
và xây dựng khung chính sách, nội dung cho phát triển CNHT từ đó rút ra các bài học
kinh nghiệm của các nước Đông Á theo khung hệ thống này, từ đó đưa ra các bài học
phát triển CNHT phù hợp với thực trạng hiện tại của Việt Nam.
19
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
2.1 Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hỗ trợ
2.1.1 Một số khái niệm liên quan đến phát triển công nghiệp hỗ trợ
a) Thuyết lợi thế so sánh
Lý thuyết lợi thế so sánh do David Ricardo đưa ra năm 1897 trong cuốn “Những
nguyên tắc kinh tế chính trị và thuế khóa”. Nội dung cơ bản của học thuyết này là dù
một quốc gia có thể có lợi thế tuyệt đối về nhiều sản phẩm nhưng họ chỉ nên tập trung
chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế cao nhất, còn những sản
phẩm có lợi thế thấp hơn thì nên nhập khẩu. Áp dụng quy luật lợi thế so sánh tại
doanh nghiệp, như vậy các doanh nghiệp nên tập trung vào những công đoạn, bộ
phận mà họ có lợi thế cao nhất để tạo ra giá trị cao nhất còn những công đoạn khác
thì nên mua ngoài từ các doanh nghiệp hỗ trợ.
Về Lợi thế cạnh tranh quốc gia và ngành, theo Porter (1990), thì năng lực cạnh tranh
quốc gia sẽ giúp nâng cao hiệu quả tối ưu nhất về năng suất của lao động và vốn. Đó là
“Giá trị của hàng hóa được sản xuất ra bởi một đơn vị lao động hay vốn” [101- trang 48].
Như vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của một ngành hay một quốc gia chính là việc làm
cho năng suất lao động của ngành đó, quốc gia đó tăng lên.
Sơ đồ 2.1: Mô hình lợi thế cạnh tranh của M. Porter [101]
Lý thuyết này được vận dụng đối ngành CNHT như sau: mỗi quốc gia nên
20
chuyên môn hoá vào sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà quốc gia đó có lợi thế so
sánh và nhập khẩu sản phẩm mà quốc gia đó không có lợi thế so sánh. Mục đích
chính là tạo điều kiện phát huy tăng cường sản xuất những sản phẩm có lợi thế so
sánh, tăng nhập khẩu những sản phẩm không có lời thế nhằm giảm giá thành đầu vào
cho ngành công nghiệp chính. Michael Porter cho rằng, có bốn nhân tố cơ bản ảnh
hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của một quốc gia hay một ngành, gồm: (i)
điều kiện cầu; (ii) điều kiện cung; (iii) chiến lược, cấu trúc và đối thủ của công ty; và
(iv) các ngành công nghiệp hỗ trợ & liên quan”.
b) Chuỗi giá trị
Cụm từ “Chuỗi giá trị” đề cập tới đầy đủ tất cả các hoạt động cần thiết để tạo
ra một sản phẩm hay dịch vụ nào đó từ trạng thái khái niệm qua khâu sản xuất, giao
cho khách hàng và xử lý sau khi sử dụng; Cụ thể trong phạm vi toàn cầu, chuỗi giá trị
bao gồm các hoạt động: thiết kế, sản xuất, tiếp thị, phân phối và dịch vụ hậu mãi của
các doanh nghiệp trên phạm vi toàn cầu. Theo đó, một chuỗi giá trị tồn tại khi tất cả
các thành phần trong chuỗi hoạt động và phối hợp tạo ra giá trị tối đa trong toàn
chuỗi.
Trong một chuỗi giá trị, sẽ có những tác nhân trung tâm nắm vai trò quyết định
tới sự hình thành và phát triển của toàn chuỗi. Đó thường là các thương hiệu lớn, các
nhà sản xuất, chế biến hay lắp ráp hàng hóa cuối cùng. Như vậy, những tác nhân
trước của tác nhân trung tâm này là hỗ trợ đầu vào, còn các tác nhân sau là những hỗ
trợ đầu ra. Chuỗi giá trị phân tích các khía cạnh của các tác nhân, các mối quan hệ và
phân tích tổng thể toàn chuỗi [41, tr.23-35].
Ngày nay, các chuyên gia kinh tế học còn nhắc đến “chuỗi giá trị toàn cầu” khi
phân tích cạnh tranh của các sản phẩm, các ngành công nghiệp trên toàn thế giới.
Hiểu một cách đơn giản, chuỗi giá trị trở thành “toàn cầu” khi các hoạt động của nó
vượt qua phạm vi một nước. Nhìn chung, nếu chỉ dừng trong phạm vi một quốc gia,
tỷ lệ sản phẩm sản xuất, tiêu thụ sẽ bị bó hẹp, việc sản xuất kinh doanh loại sản phẩm
đó không đạt được lợi thế cạnh tranh một cách tối đa mà bối cảnh toàn cầu hoá mang
lại. Hiện nay, cả các dịch vụ như tài chính, tư vấn và hỗ trợ khách hàng cũng đã vượt
qua phạm vi quốc gia.
Chuỗi cung ứng là một phần của chuỗi giá trị. Đó là khi các công đoạn được
liên kết với nhau bắt đầu từ khâu cung cấp nguyên vật liệu thô chưa được qua xử lý
21
đến khâu lắp ráp hoàn thành cho ra thành phẩm cuối cùng. Về cơ bản, chuỗi cung ứng
là một tổng thể hàng loạt các nhà cung ứng và khách hàng được kết nối với nhau,
trong đó, mỗi khách hàng, đến lượt mình lại là nhà cung ứng cho tổ chức tiếp theo,
cho đến khi thành phẩm tới tay người tiêu dùng.
2.1.2 Khái niệm công nghiệp hỗ trợ ở một số nước và Việt Nam
Công nghiệp hỗ trợ (Supporting Industry- SI) - còn được gọi là công nghiệp
phụ trợ. Bắt đầu xuất hiện từ Nhật Bản, sau đấy các nước công nghiệp trẻ ở Châu Á
như Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan lại có cách định nghĩa riêng về CNHT tùy theo
quan điểm, hoàn cảnh và mục đích của mỗi quốc gia.
Theo “Sách trắng về Hợp tác kinh tế” năm 1985 của Bộ Công nghiệp và
Thương mại quốc tế Nhật Bản, CNHT được dùng để chỉ “các doanh nghiệp vừa và
nhỏ (SMEs) có đóng góp trong việc phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp các nước
châu Á trong trung và dài hạn hay các SMEs sản xuất linh phụ kiện” [8, trang 52].
Năm 1993, trong chương trình phát triển CNHT Châu Á mới, Nhật Bản định nghĩa về
CNHT như sau: “CNHT là các ngành công nghiệp cung cấp các yếu tố cần thiết như
nguyên vật liệu thô, linh kiện và vốn,... cho các ngành công nghiệp lắp ráp (bao gồm
ô tô, điện, điện tử)” [8,trang 76].
Cũng đồng quan điểm như vậy, Bộ Năng lượng Hoa Kỳ trong bài viết “Các
ngành công nghiệp hỗ trợ: Công nghiệp của tương lai” năm 2004, đã đưa ra định
nghĩa cụ thể: “Công nghiệp hỗ trợ là những ngành sử dụng nguyên vật liệu và các
quy trình cần thiết để định hình và chế tạo ra sản phẩm trước khi chúng được lưu
thông đến ngành công nghiệp sử dụng cuối cùng (end-use industries)” [13, Tr110].
Ở Việt Nam, thuật ngữ “Công nghiệp phụ trợ” được nhắc đến bắt đầu từ năm
2003 một cách rộng rãi. Tuy nhiên, thuật ngữ này được chính thức định nghĩa cụ thể ở
Việt Nam năm 2007, trong công trình “Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến 2010, tầm nhìn đến 2020” [10, tr.8], do Bộ Công nghiệp
(cũ), nay là Bộ Công Thương soạn thảo và trình phê duyệt Thủ tướng chính phủ. Trong
đó, CNHT được định nghĩa: “Hệ thống công nghiệp hỗ trợ là hệ thống các nhà sản xuất
(sản phẩm) và công nghệ sản xuất có khả năng tích hợp theo chiều ngang, cung cấp
nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng… cho khâu lắp ráp cuối cùng” [10, tr.6].
Như vậy, qua các định nghĩa về CNHT ở một số nước, tác giả đúc kết từ các
định nghĩa trên thì “CNHT là ngành sản xuất sản phẩm trung gian bao gồm các
ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng, linh kiện, bán thành phẩm để cung
22
cấp cho ngành CN sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất
hoặc sản phẩm tiêu dùng cuối cùng”.
2.1.3 Phạm vi của ngành công nghiệp hỗ trợ
Cho đến nay, Phạm vi của ngành công nghiệp chưa có một cách giải thích
thống nhất về mặt khái niệm, đặc biết thì còn nhiều ý kiến trong việc phân biệt các
phạm vi công nghiệp hỗ trợ. Hình dưới đây sẽ minh họa về phạm vi của CNHT.
Sơ đồ 2.2: Các phạm vi của công nghiệp hỗ trợ
Nguồn: [28, Tr72-73]
Phạm vi chính: Những ngành công nghiệp với chức năng chủ yếu là sản xuất linh phụ
kiện phục vụ cho công đoạn lắp ráp sản phẩm cuối cùng của các ngành CN.
Phạm vi mở rộng 1: Những ngành công nghiệp không chỉ đơn thuần sản xuất linh phụ
kiện mà còn bao gồm các dịch vụ như hậu cần, kho bãi, phân phối bảo hiểm.
Phạm vi mở rộng 2: “Những ngành công nghiệp cung cấp toàn bộ hàng hóa đầu
vào gồm phụ tùng, linh kiện, công cụ máy móc và cả các nguyên liệu như thép, hóa
chất,… cho ngành công nghiệp lắp ráp”[28, trang 43-44].
Thực tế, việc lựa chọn phạm vi CNHT tùy thuộc vào mục đích chính sách mà
chính phủ đưa ra, chính sách sẽ quyết định phạm vi của CNHT. Như vậy, có thể thấy
mỗi quốc gia đều căn cứ vào lợi thế của mình để xác định phạm vi công nghiệp hỗ trợ
một cách phù hợp. Nhật Bản, với lợi thế về công nghệ, tiếp cận công nghiệp hỗ trợ
theo phạm vi mở rộng 2. Trong khi Hoa Kỳ, với lợi thế về dịch vụ sản xuất lại tiếp
23
cận công nghiệp hỗ trợ theo phạm vi mở rộng 1. Các nước đang phát triển như Thái
Lan lại tập trung vào phạm vi chính của công nghiệp hỗ trợ. Trong bối cảnh hiện nay,
tại Việt Nam, theo nội dung quyết định “Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2020
tầm nhìn 2030” do Bộ Công thương phê duyệt ngày 08/10/2014 thì Việc phát triển
công nghiệp hỗ trợ sẽ tập trung chủ yếu ở 3 lĩnh vực chính là: linh kiện phụ tùng,
công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may-giày da, công nghiệp hỗ trợ cho công nghiệp công
nghệ cao. Do vậy, có thể xác định phạm vi ngành CNHT Việt Nam tương ứng với
phạm vi mở rộng 1 [10, trang 17].
2.1.4. Các giai đoạn phát triển của công nghiệp hỗ trợ
Sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ bắt đầu xuất phát từ nhu cầu mở rộng
mạng lưới sản xuất và phân công, chuyên môn hóa lao động. Từ phía những nhà sản
xuất với một loại sản phẩm (linh kiện cụ thể), những nhà cung cấp dần làm chủ công
nghệ và phát triển ra những ngành nghề với những sản phẩm cuối cùng khác.
Thực tế ở các quốc gia khác nhau, quá trình phát triển của ngành CNHT không
giống nhau. Do vậy, việc tách bạch các giai đoạn là khá khó khăn, nhưng theo sự tổng
hợp của các chuyên gia, thì đối với các nước đang phát triển, quá trình phát triển
ngành CNHT thường trải qua 5 giai đoạn (Xem Sơ đồ 2.3).
Sản phẩm CNHT ít, phải nhập khẩu
Số lượng sản phẩm CNHT tăng nhưng chất lương không cao
Sản phẩm CNHT phát triển cao có sự cạnh tranh trong nước
Năng lực của CNHT được phát triển, bắt đầu xuất hiện sản phẩm CNHT
Khối lượng sản phẩm CNHT tăng và xuất hiện sản phẩm độc đáo,nhập khẩu giảm
Sơ đồ 2.3: Các giai đoạn phát triển của ngành CNHT
Nguồn: [16, trang 95]
Giai đoạn 1: Việc sản xuất được thực hiện dựa trên cơ sở sử dụng các cụm
linh kiện nhập khẩu nguyên chiếc. Số lượng các nhà cung cấp các chi tiết, linh kiện
đơn giản sản xuất trong nước có rất ít.
Giai đoạn 2: Nội địa hóa thông qua sản xuất tại chỗ. Các nhà sản xuất lắp ráp
chuyển sang sử dụng linh, phụ kiện sản xuất trong nước. Thường những linh, phụ
24
kiện này là những loại thông dụng có thể lắp lẫn, dùng chung. Tỷ lệ nội địa hóa trong
các sản phẩm công nghiệp trong nước có tăng lên nhưng thường là ít, số lượng các
nhà sản xuất hỗ trợ, tính cạnh tranh trong sản xuất các sản phẩm này không cao.
Giai đoạn 3: Giai đoạn này xuất hiện các nhà cung ứng các sản phẩm hỗ trợ
chủ chốt như sản xuất động cơ, hộp số đối với ngành ô tô – xe máy, chip IC điện tử,
nguyên vật liệu cao cấp,… một cách tự nguyện và độc lập không theo yêu cầu của
các nhà lắp ráp. Giai đoạn này phát triển mạnh việc gia công tại nước sở tại các chi
tiết phụ tùng có độ phức tạp cao và khối lượng hàng nhập về để lắp ráp giảm dần.
Giai đoạn 4: Giai đoạn tập trung các ngành CNHT. Trong giai đoạn này hầu
như toàn bộ các chi tiết, phụ tùng, linh kiện đã được tiến hành sản xuất tại nước sở
tại, kể cả một phần các sản phẩm nguyên liệu sản xuất linh kiện đó. Cạnh tranh giữa
các nhà sản xuất hỗ trợ trở nên gay gắt hơn. Xu thế chung của cạnh tranh lúc này là
hạ giá thành sản xuất, trong khi vẫn duy trì và phát triển chất lượng sản phẩm.
Giai đoạn 5: Giai đoạn nghiên cứu, phát triển và xuất khẩu. Đây là giai đoạn
cuối cùng của quá trình nội địa hóa. Các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu dịch chuyển
các thành tựu nghiên cứu, phát triển sang nước sở tại. Năng lực nghiên cứu, phát triển
nội địa cũng đã được củng cố, phát triển. Bắt đầu giai đoạn sản xuất phục vụ xuất
khẩu triệt để. [16, trang 100].
2.1.5 Đặc điểm ngành công nghiệp hỗ trợ
a) Sự phát triển của CNHT là tất yếu của quá trình phân công lao động.
CNHT ra đời và phát triển là do mối quan hệ và yêu cầu của phân công lao
động xã hội. Trên bình diện phân công lao động quốc tế, các nước do hạn chế về
nhiều mặt như tài chính, công nghệ, lao động sẽ đảm đương thực hiện các ngành công
nghiệp khác nhau. Sự hình thành nền CNHT là tất yếu của quá trình phân công lao
động, hình thành mối quan hệ giữa nước phát triển sản phẩm chính, sản phẩm mũi
nhọn công nghệ cao với nước phát triển sản phẩm hỗ trợ. Phân công lao động quốc tế
nhằm khai thác lợi thế tương đối và lợi thế tuyệt đối của các quốc gia trong quy trình
sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh. Về mặt quan hệ sản xuất, thì đó là mối quan hệ giữa
người có vốn đầu tư và người cần vốn đầu tư [16, tr125]. Do đó, mối quan hệ giữa
công nghiệp chính với CNHT là mối quan hệ của nhà đầu tư và người cần vốn đầu tư,
nếu quan hệ này được thực hiện thì hai bên cùng có lợi. Yếu tố thúc đẩy mối quan hệ
này phát triển chính là lợi ích kinh tế.
25
CNHT chính là tổng hợp các ngành công nghiệp vệ tinh phục vụ cho các ngành
công nghiệp chính. Ngày nay hầu hết các nhà sản xuất lớn trên thế giới, nhất là các
tập đoàn đa quốc gia chỉ nắm giữ các hoạt động chính, như nghiên cứu và phát triển,
lắp ráp tại chỗ hay xúc tiến thương mại; phần gia công cung cấp cục bộ, các công đoạn
sản xuất- công việc trước đây nằm trong dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh, được giao cho
các công ty vệ tinh, việc phân công này sẽ tăng khả năng cạnh tranh về giá cho các sản
phẩm của họ; thay vì sản xuất tất cả bộ phận chi tiết, các công đoạn, sản phẩm sẽ được
chuyên môn hóa thành từng phần và mỗi ngành, đơn vị chịu trách nhiệm một phần của
sản phẩm hoặc một phần công đoạn sản xuất ra sản phẩm đó.
b) Ngành CNHT ngành phức tạp và rộng lớn có tính đa cấp và liên kết góp
phần tạo nên chuỗi giá trị.
“Các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị nằm ở các vị trí khác nhau
trong chuỗi giá trị sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Một sản phẩm đơn giản như quần
áo tới các sản phẩm đòi hỏi tính kỹ thuật cao hơn như ô tô, máy tính,… đều trải qua
một quá trình sản xuất, bắt đầu từ nguyên liệu thô qua các giai đoạn khác nhau cho
tới khi giá trị được tích lũy vào thành phẩm cuối cùng. Trong chuỗi giá trị này, các
nhà cung cấp được phân loại theo cấp độ vị trí họ tham gia vào hệ thống, trên nhất là
họ lắp ráp sản phẩm cuối cùng, tiếp đó là các nhà cung cấp cấp 1, cấp 2, cấp 3,…”
[16, trang 144].
Ngành CNHT có tính đa cấp nên tất yếu dẫn tới các thành phần tham gia vào
CNHT có sự phân hóa rõ rệt. Các nhà cung cấp khác nhau sẽ cung cấp khác nhau về
quy mô vốn, quy mô sản xuất, về sở hữu, công nghệ, quản lý khách hàng, mối quan
hệ với khách hàng. Lấy ví dụ như hệ thống cung cấp ngành ô tô Nhật Bản, điều tra
của Fujimoto & Ohno chỉ rõ những điểm khác biệt này [106, Tr28].
26
Thành phẩm
Nhà cung cấp cấp I
Nhà cung cấp cấp I
Nhà cung cấp cấp II
Nhà cung cấp cấp II
Nhà cung cấp cấp II
Nhà cung cấp cấp II
Nhà cung cấp cấp III
Nhà cung cấp cấp III
Nhà cung cấp cấp III
Nhà cung cấp cấp III
Nhà cung cấp cấp III
Nhà cung cấp cấp III
Sơ đồ 2.4: Phân loại công nghiệp hỗ trợ theo hệ thống ngành sản xuất
Nguồn: [16, trang 78]
Nằm trong chuỗi giá trị, các doanh nghiệp trong CNHT có mối quan hệ liên kết
với nhau trong quy trình sản xuất dẫn đến việc yêu cầu phát triển CNHT một cách có
hệ thống và tập trung theo khu vực. Trong hệ thống CNHT sự phát triển của các
doanh nghiệp mua linh kiện tạo nhu cầu và kích thích sự phát triển của doanh nghiệp
cung cấp. Sự phát triển của các nhà cung cấp mang lại một môi trường kinh doanh
đem lại lợi thế canh tranh và kích thích sự phát triển của những doanh nghiệp mua
linh kiện. Đứng về mặt địa lý, việc phát triển những nhà sản xuất linh kiện và lắp ráp
tại một khu vực tạo nên lợi thế về địa lý, khai thác ưu điểm của cụm công nghiệp
chuyên ngành trên nhiều phương diện, từ thông tin tới hậu cần và phát triển sản phẩm
mới.
c) Ngành CNHT thu hút số lượng lớn DN, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa
Công nghiệp hỗ trợ là có đặc điểm là thu hút một số lượng lớn doanh nghiệp
với quy mô khác nhau, trong đó có một lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do
tính chất đa cấp của hệ thống các ngành CNHT, số lượng các DN ở cấp thấp tương
ứng ở gốc cây là rất lớn. Đa phần các doanh nghiệp ở cấp này đều là doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Ví dụ, ngành công nghiệp ô tô Nhật Bản cho thấy, chỉ tính các nhà cung
cấp cấp 3, quy mô trung bình của doanh nghiệp chỉ là 10 lao động [16, trang 101].
27
Đặc điểm này của công nghiệp hỗ trợ cho thấy tầm quan trọng của phát triển
CNHT và vai trò quan trọng trong chính sách nhà nước trong phát triển ngành công
nghiệp này, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Phát triển CNHT là cơ sở để các
nước tham gia vào hệ thống sản xuất của các công ty đa quốc gia, tiếp cận công nghệ,
tham gia vào hệ thống phân công lao động toà cầu. Phát triển công nghiệp hỗ trợ không
chỉ là một phương thức hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài mà còn là cơ sở tạo lập một
nền công nghiệp bền vững trong nước với sự tham gia của số lượng lớn DN.
d) Đa dạng về công nghệ và trình độ công nghệ
Sự đa dạng về công nghệ sản xuất trong công nghiệp hỗ trợ xuất phát từ đòi hỏi
sản xuất các loại linh kiện phong phú để có được sản phẩm cuối cùng. Nhưng để sản
xuất ra một chiếc ô tô phức tạp không chỉ cần đến một vài linh kiện mà là hàng chục
nghìn linh kiện, theo đó là vô số các công nghệ liên quan đến tất cả các lĩnh vực sản
xuất như sản xuất cao su, điện tử, vi mạch, bán dẫn….Giá trị gia tăng của việc sản
xuất các linh kiện, các quy trình cũng khác nhau rất nhiều. Nhiều bộ phận có giá trị
gia tăng lớn, đòi hỏi kỹ thuật sản xuất, công nghệ rất cao như những bộ phận điều
khiển, động cơ mà chỉ có những nhà cung ứng lớn mới có thể đáp ứng được. Ngược
lại, những chi tiết đòi hỏi kỹ thuật không quá khó có thể mua sắm từ những nhà cung
cấp thấp để lắp ráp thành những cụm linh kiện [36, trang 35].
“Sự đa dạng về trình độ công nghệ thể hiện trong cấp độ tham gia hệ thống cung
cấp” [36, tr.45]. Các nhà cung cấp cấp thấp thường sở hữu công nghệ sản xuất không
cao và tạo ra giá trị gia tăng thấp hơn so với các nhà cung ứng cấp cao. “Xu hướng
thường thấy ở các nước đang phát triển khi những nhà sản xuất nội địa tham gia vào
công nghiệp hỗ trợ bằng cách trở thành những nhà cung cấp cấp thấp, tận dụng lao
động rẻ và sử dụng công nghệ không cao để tiết kiệm chi phí.” [36, Tr.45-46].
e) Ngành CNHT không phải là ngành “công nghiệp phụ” nhưng phụ thuộc vào
ngành công nghiệp chính.
Với sự phát triển của mạng lưới sản xuất và thị trường toàn cầu, việc phụ thuộc
vào ngành công nghiệp chính của công nghiệp hỗ trợ giảm dần theo điều kiện không
gian. Dựa vào đặc điểm của các ngành CN chính mà mức độ mối quan hệ phụ thuộc
về không gian cũng thay đổi. Một số ngành như sản xuất điện tử, ưu thế do vị trí gần
nhau, tiết kiệm được chi phí vận chuyển, không cao như những ngành công nghiệp
lớn như sản xuất ô tô, quá trình phát triển kinh tế khu vực (liên quốc gia) và phát triển
28
giao thông liên quốc gia cũng làm giảm những lợi thế về vị trí của CNHT.
Tuy nhiên, để phát triển công nghiệp hỗ trợ với sự tham gia của nhiều doanh
nghiệp vừa và nhỏ, những đối tượng hạn chế về khả năng vốn, công nghệ, quản lý,
Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích mạnh mẽ.
Ngành công nghiệp hỗ trợ Các ngành công nghiệp chính
Mối liên hệ thông qua Thông qua nhu cầu của nhà lắp ráp linh kiện nhựa; sắt, công cụ cơ khí,…
Các ngành CNHT cung cấp chung cho các ngành công nghiệp chính: cắt kim loại, tạo khuôn, cắt cao su, gia công nhiệt, rèn, đúc, rập, ép nhựa, …)
Ngành Ô tô Ngành xe máy Ngành điện gia dụng Ngành dệt may Ngành da giày Ngành cơ khí chế tạo Ngành điện tử
Sơ đồ 2.5: Quan hệ giữa công nghiệp chính và công nghiệp hỗ trợ [17, tr78]
Nguồn: Bộ công thương- Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghệ
Trong chuỗi giá trị của sản phẩm công nghiệp, sự tách rời một bộ phận sản xuất
của ngành công nghiệp thành CNHT tạo điều kiện để ngành này phục vụ được nhiều
ngành công nghiệp chính khác nhau (Sơ đồ 2.5). Một ngành công nghiệp phụ trợ có
thể phục vụ nhiều ngành công nghiệp chính nên về bản chất không phải là ngành
công nghiệp “Phụ”. Nhưng nếu không có ngành công nghiệp chính thì công nghiệp
hỗ trợ sẽ không tạo ra thành phẩm để có thể sử dụng được. Tức là ngành CNHT tồn
tại dựa vào nhu cầu của những ngành công nghiệp chính.
2.1.6 Vai trò của ngành công nghiệp hỗ trợ
Một là, “Tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo chiều rộng và chiều sâu.” [17, tr 76]
CNHT không trực tiếp tác động đến năng lực cạnh tranh của các ngành công
nghiệp chính mà tác động gián tiếp như sau:
- Ngành CNHT phát triển, tạo nguồn cung đầu vào ổn định, đảm bảo khả năng
giao hàng cho các DN trong các ngành công nghiệp chính. Nhu cầu mua sắm các sản
phẩm phụ trợ của các doanh nghiệp lớn hay nhỏ đều rất lớn. Nếu CNHT trong nước
mà phát triển thì ngành công nghiệp chế tạo lắp ráp không phải phụ thuộc vào nhập
khẩu, dẫn đến sức cạnh tranh của quốc gia này tăng lên
- Giúp giảm giá thành sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm cuối
cùng; hạ giá thành sản phẩm. Việc cắt giảm chi phí theo linh phụ kiện sẽ thu được
29
nhiều kết quả hơn là việc cắt giảm chi phí lao động của sản phẩm. Sự phát triển của
CNHT trong nước sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các DN lắp ráp sản
phẩm cuối cùng, hạ giá thành sản phẩm, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong
thời đại toàn cầu hóa, chiến lược phát triển công nghiệp dựa trên năng lực cạnh tranh
quốc tế, và nhân tố chi phí giảm do nâng cao được tỷ lệ nội địa hóa là một trong
những nhân tố quan trọng giúp các nhà lắp ráp có vốn FDI mở rộng sản xuất tạo nên
lợi thế cạnh tranh của một quốc gia.
- Công nghiệp hỗ trợ được xem là cơ sở để giúp đất nước đẩy mạnh cơ hội hội
nhập vào công nghiệp toàn cầu. Hệ thống kinh tế toàn cầu đang ngày càng chịu sự chi
phối, điều tiết bởi các tập đoàn công nghiệp đa quốc gia hàng đầu. Một trong những
tính chất của ngành CNHT là ngành cung cấp đầu vào cho một số lượng lớn các ngành
công nghiệp khác, nên CNHT phát triển chắc chắn sẽ góp một phần không nhỏ vào sự
phát triển của toàn bộ ngành công nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung. Các nước đang
phát triển không thể một bước phát triển nhảy vọt mà phải có quá trình từng bước phát
triển, hội nhập toàn cầu và cũng chịu sự chi phối, điều tiết này.
Hai là, Hỗ trợ ngành công nghiệp nội địa phát triển, điều kiện đủ để phát triển
cụm liên kết ngành.
Đây có thể coi là vai trò dễ nhận thấy nhất của CNHT. Để minh họa cho vai
trò này, ta lấy ví dụ điển hình là Nhật Bản, quốc gia có nền công nghiệp phát triển
vào bậc nhất thế giới. Nhật Bản từ một đất nước nghèo nàn, bị tàn phá nặng nề sau
thế chiến thứ hai, đã phát triển như vũ bão, trở thành hiện tượng “thần kỳ” Nhật Bản
với những thành tựu lớn trong công nghiệp, không thua kém những nước có nền khoa
học phát triển Âu Mỹ [24, Tr.13]. Có được điều này chính là nhờ việc Nhật Bản chú
trọng vào việc phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, cụ thể hơn là việc thành lập các
doanh nghiệp “vệ tinh” vừa và nhỏ trong nước có khả năng cung cấp và hỗ trợ các
doanh nghiệp lớn. Thứ hai, nhờ sự chuyên môn hóa trong quá trình sản xuất, các
doanh nghiệp ngành CNHT thường tập trung vào các công đoạn hoặc chi tiết có thế
mạnh. Tiếp đó là thực hiện hợp tác, liên kết với nhau cùng tạo ra sản phẩm hoàn
chỉnh và ngày càng hoàn thiện hơn. Do sự chuyên môn hóa sâu, chuyên tâm vào lĩnh
vực của mình và kết hợp với sự hợp tác hóa chặt chẽ nên sẽ khiến cho năng suất và
hiệu quả sản xuất tăng lên. Do vậy, phát triển CNHT được coi là điều kiện đủ để phát
triển các cụm liên kết ngành (industrial cluster) thông qua xây dựng mạng lưới các
30
nhà cung ứng sản phẩm đầu vào cho các nhà cung cấp khác với mục đích nâng cao
cạnh tranh, đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế vùng miền.
Ba là, nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng công nghiệp xuất khẩu, thúc
đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản: chi phí,
chất lượng và thời gian (khả năng cung cấp hàng nhanh chóng). Trong đó, chi phí có
thể coi là nhân tố quan trọng hàng đầu. Chi phí của một sản phẩm bao gồm chi phí
nguyên vật liệu đầu vào, chi phí nhân công, chí phí sản xuất và chi phí cho hoạt động
logistics…Tùy vào đặc điểm từng ngành nghề, từng sản phẩm mà tỷ lệ giữa các chi
phí có thể khác nhau. Tuy nhiên, xét đến sản phẩm công nghiệp thì chi phí về nguyên
vật liệu đầu vào, linh kiện, phụ tùng lại là lớn nhất. CNHT không phát triển tức là sản
phẩm đầu vào bị hạn chế, các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm
cuối cùng khác bắt buộc phải nhập khẩu và phụ thuộc vào nguyên vật liêu từ nước
ngoài. Ngoài ra, nhập khẩu cũng sẽ khi phí đầu vào tăng do chi phí vận chuyển, bảo
hiểm, rủi ro về tiến độ, thời gian trong quá trình nhập khẩu hàng hóa. Chính vì vậy,
CNHT phát triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ đủ sức cạnh tranh và phạm vi
cũng mở rộng ra nhiều ngành hơn. Lấy ví dụ về hàng điện tử tiêu dùng, chi phí nhân
công thường chỉ chiếm khoảng 10% tổng chi phí, trong khi đó chi phí về linh kiện lại
chiếm tới 70% tổng chi phí [6, tr.78-79].
Như vậy, việc giảm chi phí về linh kiện sẽ hiệu quả hơn so với chi phí nhân công.
Trong khu vực ASEAN, các quốc gia hầu như đều sở hữu nguồn nhân công giá rẻ.
Do đó, cách tốt nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu trong điều
kiện giá nhân công tương đồng như vậy là giảm thiểu chi phí về nguyên vật liệu, linh
kiện, phụ tùng. Và để làm được điều này, mỗi quốc gia cần phát triển mạnh mẽ nền
CNHT, tạo khả năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.
Bốn là, đón nhận chuyển giao công nghệ và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI).
Phát triển CNHT là điều kiện thiết yếu để một quốc gia có thể tăng cường đón
nhận chuyển giao công nghệ và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Có thể thấy xu hướng
rõ ràng là việc mở rộng thu hút FDI đi liền với sự đổi mới và chuyển giao công nghệ
của DN trong nước. Các doanh nghiệp trong nước có thể học tập, tiếp thu thông qua
những công nghệ sản xuất, kỹ năng, trình độ quản lý tiên tiến mà các doanh nghiệp
nước ngoài mang đến. Việc chuyển giao công nghệ thông qua hai hình thức chính,
31
một là, chuyển giao công nghệ theo hàng ngang từ các công ty đa quốc gia sang các
công ty con nước ngoài hoặc chuyển giao giữa các DN FDI và DN bản xứ trong cùng
ngành thông qua việc đào tạo lao động bản xứ có thể sử dụng máy móc, đào tạo cấp
quản lý dần thay thế chuyên gia nước ngoài để tiết kiệm chi phí; Hai là chuyển giao
hàng dọc giữa các DN, các doanh nghiệp trong nước tạo mối quan hệ ổn định để cung
cấp sản phẩm CNHT cho doanh nghiệp FDI,qua đó các doanh nghiệp FDI sẽ chuyển
giao công nghệ và tri thức quản lý, sự chuyển giao này mang lại hiệu quả lớn nhất,
quan trọng nhất [35, Tr. 56-57].
Năm là, CNHT còn góp phần tạo công ăn việc làm, phát triển nguồn nhân lực
đóng góp vào tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế.
CNHT tác động vào phát triển nguồn nhân lực theo 2 cách gián tiếp và trực
tiếp. Tác động trực tiếp thông qua các dự án đầu tư của các tổ chức đa quốc gia nước
ngoài đào tạo lực lượng lao động địa phương, gián tiếp thông qua các liên kết, cung
cấp dịch vụ đa phương để phục vụ cho nhu cầu hoạt động của dự án. Cách gián tiếp là
tạo cơ hội và động lực từ cạnh tranh để các nhà sản xuất trong nước phải tự thân vận
động phát triển nguồn nhân lực sao cho phù hợp đáp ứng mức tiêu thụ cao của các
nước phát triển và mục tiêu hội nhập và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Các tác động
này có vai trò rất lớn đối với phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ
thuật và quản lý cao, vì đây chính là tiền để quan trọng để nâng cao năng suất lao
động ở những nước này.
Ngành công nghiệp hỗ trợ còn có vai trò đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa,
hạn chế nhập siêu, tăng nguồn thu ngoại tệ, đồng thời giảm được tình trạng lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô. Ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển đương nhiên sẽ tác động
làm tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm giá thành sản xuất công nghiệp, thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa. Ngành CNHT phát triển sẽ kéo theo các ngành công nghiệp khác,
không chỉ giải quyết công ăn việc làm, kích thích tiêu dùng trong nước, gia tăng giá
trị cho nền kinh tế từ đó giúp đóng góp tăng trưởng kinh tế, giảm bớt khoảng cách
giàu nghèo. Phát triển CNHT khuyến khích áp dụng khoa học công nghệ vào quá
trình làm việc, giúp lực lượng lao động có cơ hội được tiếp xúc, học hỏi, nâng cao tay
nghề khi được tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật
Cuối cùng, sự phát triển của CNHT sẽ ảnh hưởng tích cực làm đổi mới công
nghệ, từ đó cải thiện phúc lợi của một quốc gia. Trong lý thuyết “Khối kim cương”
cùng với các yếu tố: điều kiện về cầu, thì CNHT và các ngành có liên quan cũng đóng
32
góp vào việc hình thành cạnh tranh của một quốc gia từ đó sẽ thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng trong dài hạn.
2.2. Nội dung cơ bản của việc phát triển CNHT
2.2.1. Khái niệm phát triển công nghiệp hỗ trợ
Công nghiệp hỗ trợ có ý nghĩa quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giúp nâng cao năng suất lao động và năng
lực cạnh tranh, tạo giá trị gia tăng, góp phần tăng tỷ trọng đóng góp của ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu nền kinh tế.
Từ đó, khi xem xét CNHT với tư cách là một ngành sản xuất trong nền kinh tế,
thì Phát triển công nghiệp hỗ trợ được thể hiện qua sự gia tăng về số lượng các doanh
nghiệp kèm theo sự cải thiện về năng lực của các doanh nghiệp hỗ trợ, năng lực ở đây
xét về mặt chất lượng của lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ được thể hiện ở một số nội
dung sau:
- Năng lực sản xuất thể hiện qua trình độ công nghệ và trình độ nguồn nhân lực.
- Năng lực tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu thể hiện qua mức độ gắn
kết với các nhà cung cấp và khách hàng trong và ngoài nước cùng với tương quan
giữa các nguồn cung cấp và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, đối với lĩnh vực công nghiệp
hỗ trợ, sự phát triển được đánh giá qua sự biến đổi về chất chứ không đơn thuần chỉ
biến đổi về lượng.
“Phát triển công nghiệp hỗ trợ là một trong những giải pháp quan trọng nhất
để Việt Nam cải thiện chất lượng nền kinh tế, phát triển bền vững và tránh bẫy thu
nhập trung bình; giúp tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đẩy mạnh
tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa trong nước. Từ đó, tạo tính lan tỏa mạnh mẽ, giúp các doanh nghiệp trong
nước có thể tham gia sâu vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp EDI và chuỗi giá
trị toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia” [18, Tr.6-7].
Theo Điều 3.4 và 3.5 Nghị định 111/2015/NĐ-CP và Điều 3.4 và 3.5 Thông tư
55/2015/TT-BCT định nghĩa như sau:
“Hoạt động phát triển công nghiệp hỗ trợ bao gồm: Hoạt động trợ giúp của cơ
quan quản lý nhà nước, các tổ chức, cá nhân về công nghiệp hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân
lực, nghiên cứu và phát triển, hỗ trợ chuyển giao công nghệ sản xuất sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ, hợp tác quốc tế, phát triển thị trường; đầu tư dự án sản xuất sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ; cung ứng dịch vụ phục vụ công nghiệp hỗ trợ.
33
Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ là tập hợp các nội dung, nhiệm vụ
về hoạt động xúc tiến, trợ giúp phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm mục tiêu phát
triển sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.”
Vì vậy, theo tác giả có thể tóm gọn khái niệm về Phát triển CNHT như sau: Phát
triển công nghiệp hỗ trợ là tập hợp các nội dung, nhiệm vụ, hoạt động như chính sách của
cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, cá nhân về công nghiệp hỗ trợ, đào tạo nguồn
nhân lực, nghiên cứu và phát triển, hỗ trợ chuyển giao công nghệ sản xuất sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ, hợp tác quốc tế, phát triển thị trường; đầu tư dự án sản xuất sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ; cung ứng dịch vụ phục vụ công nghiệp hỗ trợ nhằm mục đích trợ giúp phát
triển các sản phẩm công nghệ hỗ trợ một cách bền vững.
Mức độ phát triển CNHT được đánh giá bằng các chỉ số đánh giá như: Số lượng và
chất lượng của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ được cải thiện rõ rệt. Các sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ phần đáp ứng khá tốt nhu cầu trong nước và được xuất khẩu sang
nhiều quốc gia trên thế giới, Đẩy mạnh việc áp dụng công cụ quản lý hiện đại vào sản
xuất của các doanh nghiệp hỗ trợ, các doanh nghiệp CNNT ngày càng đáp ứng các tiêu
chuẩn quốc tế, trở thành nhà cung cấp cho các công ty đa quốc gia.
Với khái niệm được đúc rút trên, tác giả sẽ trình bày cụ thể nội dung, hoạt động
phát triển công nghiệp hỗ trợ cùng với bộ chỉ số tiêu chí đánh giá sự phát triển CNHT
trong phần tiếp theo.
2.2.2. Nội dung phát triển công nghiệp hỗ trợ
2.2.2.1 Chiến lược và chính sách thúc đẩy phát triển CNHT.
Các quốc gia Đông Á để phát triển CNHT của đất nước mình thì cần có chiến
lược phát triển ngành CNHT rõ ràng, có kế hoạch triển khai cụ thể theo từng lĩnh vực
từ nghiên cứu tiền khả thi, trọng tâm thu hút vốn đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực,
đồng bộ cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tại Việt Nam hiện nay, chiến lược phát triển ngành công nghiệp đã có, ví dụ
như ngành công nghiệp ô tô năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 kèm theo ngành
CNHT đã được thông qua. Theo đó, các mục tiêu chiến lược đã được xác định cụ thể.
Tuy nhiên để chiến lược này có thể thành công thì chính phủ cần có rất nhiều những
chính sách thúc đẩy đồng bộ khác bao gồm ưu đãi về thuế, các biện pháp hỗ trợ kinh
doanh, cần phải xây dựng trên cơ sở không phân biệt doanh nghiệp trong nước với
doanh nghiệp nước ngoài.
34
2.2.2.2 Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các nước phát triển ở Đông Á đều sử dụng những chính sách và biện pháp hỗ
trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa về nhiều mặt như vốn, cung cấp mặt bằng sản xuất phù
hợp, hưởng các chính sách ưu tiên và ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế
chấp, thuế các loại, đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn quản lý… Mặt khác, bản thân các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp hạn chế nhất định về vốn, công nghệ, nguồn nhân
lực đòi hỏi Chính phủ cần có những cơ chế và chính sách hỗ trợ. Vì vậy, hỗ trợ doanh
nghiệp vừa và nhỏ là một trong những biện pháp hiệu quả và thiết thực nhất để nâng cao
nguồn cung cấp linh kiện, phụ tùng cho các hãng lắp ráp lớn.
Ngoài ra, các nước này đều khuyến khích các Viện nghiên cứu triển khai
nghiên cứu đề tài, dự án ứng dụng thực tiễn nhằm phát triển sản xuất các chủng loại
vật liệu, chi tiết, linh phụ kiện, phụ tùng…phục vụ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp
cận nhanh chóng đổi mới công nghệ, cải tiến kĩ thuật. Đây thực sự là bài học đáng giá
đối với Việt Nam để phát triển ngành CNHT.
2.2.2.3 Thu hút vốn đầu tư nước ngoài hợp lý
Các nước Đông Á thực hiện chính sách trọng tâm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
(FDI). Đây là lý do mà các nhà lắp ráp trong nước này hoàn toàn có thể mua linh kiện trong
nước và hơn nữa còn xuất khẩu linh kiện tới các nước xung quanh như Việt Nam.
Đối với Việt Nam, khi nguồn vốn trong nước hạn chế thì thu hút được vốn
nước ngoài FDI là rất quan trọng. Hơn nữa, ngoài vốn được tăng cường, công nghệ
và khả năng quản lý của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ kích thích sự phát triển của
ngành CNHT thông qua sự học tập và chuyển giao công nghệ. Sự chuyển giao công
nghệ này có thể là chuyển giao trong nội bộ doanh nghiệp FDI (công ty mẹ-con),
chuyển giao giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước cùng ngành, và
chuyển giao giữa các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước kết hợp sản xuất theo
chiều dọc trong chuỗi giá trị sản xuất. Trong tất cả các trường hợp này, công nghệ
đều được chuyển giao và đạt hiệu quả lan tỏa cao trong các doanh nghiệp ngành
CNHT. Chính phủ Việt Nam cần có các chính sách hợp lý để tận dụng tối đa lợi ích
của đầu tư nước ngoài.
2.2.2.4 Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực luôn luôn là yếu tố quyết định tới sự phát triển bền vững của
ngành CNHT, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Các quốc gia Đông Á đều
coi trọng vấn đề phát triển nguồn nhân lực để phát triển CNHT. Với lực lượng lao
35
động khoảng 46 triệu người, Việt Nam có thể cung cấp một lượng lao động lớn. Tuy
nhiên, lực lượng lao động có chất lượng cao từ trung cấp đến cao cấp thì lại đang
thiếu trầm trọng. Chính vì vậy, Chính phủ Việt Nam cần phải có chiến lược phát triển
nguồn nhân lực rõ ràng, bao gồm cả đội ngũ các nhà quản lý, các kỹ sư và lao động
lành nghề cho ngành CNHT. Giải pháp đặt ra là cần cải tạo công tác đào tạo cao
đẳng, đại học thông qua việc đầu tư vào cả trang thiết bị và chương trình đào tạo và
phương thức giảng dạy để có thể cung cấp một khối lượng lớn nhân lực có thể làm
việc trong các ngành CNHT.
2.2.2.5 Tăng cường liên kết doanh nghiệp, cụm công nghiệp
Thực tế phát triển ngành CNHT tại các nước nêu trên cho thấy một yếu tố quan
trọng cho sự thành công của ngành CNHT chính là sự liên kết giữa các doanh nghiệp
trong ngành. Sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà cung cấp linh kiện với các nhà lắp ráp
đóng vai trò quan trọng thông qua việc kiểm soát chất lượng sản phẩm tối ưu và giảm giá
thành sản xuất đáng kể. Sự liên kết này giữa các doanh nghiệp trong nước và FDI sẽ
càng tạo ra lợi ích nhiều hơn cho sự phát triển của toàn ngành CNHT.
Theo kinh nghiệm của các nước, chúng ta có thể thấy rằng sự liên kết giữa các
doanh nghiệp khi chặt chẽ sẽ tạo thành những cụm công nghiệp tương hỗ và ngược
lại những doanh nghiệp nằm trong cụm công nghiệp mới có thể chứng tỏ sự liên kết
chặt chẽ. Cụm công nghiệp cho phép các doanh nghiệp lắp ráp liên kết chặt chẽ với
những nhà cung cấp linh kiện cấp 1, cấp 2, 3, và các cơ quan tài chính, các nhà tư vấn
chuyên nghiệp, các nhà cung ứng dịch vụ, cũng như nhận được sự hỗ trợ của Chính
phủ, các hiệp hội, các cơ sở giáo dục và hỗ trợ kỹ thuật.
Để tạo ra sự liên kết chặt chẽ hiệu quả này, vai trò của Chính phủ là rất quan
trọng. Chính phủ thành lập các tổ chức chuyên về phát triển CNHT. Các tổ chức này
sẽ là sợi dây kết nối giữa chính phủ với doanh nghiệp và kết nối giữa các doanh
nghiệp với nhau. Các cơ quan này có thể có các hoạt động như xây dựng cơ sở dữ
liệu các ngành CNHT trong nước và trong khu vực, xây dựng chương trình gặp gỡ
giữa người mua và người bán nhằm hỗ trợ liên kết giữa họ…
2.2.3. Tiêu chí đánh giá mức độ phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam.
Bộ tiêu chí này sẽ được sử dụng nhằm đánh giá mức độ phát triển công nghiệp
hỗ trợ ở Việt Nam hiện nay. Đối chiếu với các mốc phát triển của các nước Đông Á
để có sự so sánh và là cơ sở rút ra các bài học phù hợp.
36
2.2.3.1 . Quy mô và số lượng doanh nghiệp CNHT
Đây là một trong những tiêu chí đánh giá sự phát triển của CNHT thông qua số
lượng doanh nghiệp CNHT tăng lên cũng như mối quan hệ giữa doanh nghiệp CNHT
với số lượng doanh nghiệp công nghiệp lắp ráp. Rõ ràng, lĩnh vực công nghiệp này sẽ
chỉ phát triển nếu có nhiều doanh nghiệp sản xuất tham gia. Bất kỳ một lĩnh vực nào
có nhiều doanh nghiệp CNHT tham gia tức là lĩnh vực công nghiệp đó đặc biệt nổi
trội, có nhiều doanh nghiệp cùng cung cấp các yếu tố đầu vào cho ngành công nghiệp
chính, dẫn đến ngành công nghiệp đó sẽ phát triển. Phương pháp xác định giá trị của
tiêu chí số lượng doanh nghiệp CNHT là thống kê, thu thập, phân tích số liệu theo các
yếu tố: (1) số lượng doanh nghiệp CNHT cho mỗi ngành, (2) tỷ lệ số lượng DN
CNHT/Số lượng doanh nghiệp Công nghiệp lắp ráp; (3) tỷ lệ số lượng doanh nghiệp
CNHT của ngành/ số lượng doanh nghiệp của ngành. Việc xác định được các giá trị
của tiêu chí này sẽ cho thấy được ngành CNHT đó có thực sự đáp ứng được ngành
công nghiệp chính. Thay vì phải nhập khẩu nguyên liệu, linh kiện bên ngoài.
Tuy nhiên, tiêu chí số lượng có nhược điểm lớn là chưa xét đến quy mô doanh
nghiệp, mặc dù lĩnh vực CNHT đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng cũng có
thể có một số doanh nghiệp lớn. Chính vì vậy, khi xem xét mức độ phát triển CNHT
cần tính đến quy mô doanh nghiệp bằng cách xác định các giá trị của tiêu chí bao
gồm: (1) số lao động trung bình của doanh nghiệp CNHT, (2) số vốn trung bình của
doanh nghiệp CNHT, (3) doanh thu trung bình của doanh nghiệp CNHT [6, Tr.35].
Quy mô của ngành CNHT sẽ giúp đánh giá được năng lực đáp ứng của doanh nghiệp
CNHT cho ngành công nghiệp chính.
Tuy nhiên, không phải quy mô doanh nghiệp lớn thì ngành CNHT đó phát
triển cao, vì vậy cần chú ý khi sử dụng tiêu chí này. Để có thể sử dụng được tiêu chí
này, việc xác định được phạm vi của CNHT với tiêu chí doanh nghiệp CNHT là cần
thiết, vì trên thực tế có nhiều doanh nghiệp đa ngành, vừa thực hiện hoạt động thương
mại, vừa sản xuất được nhiều loại sản phẩm khác nhau [6, Tr.37-38].
2.2.3.2 Trình độ công nghệ và nguồn nhân lực của doanh nghiệp CNHT
Trình độ công nghệ được đánh giá dựa trên việc thu thập và phân tích dữ liệu
về các giá trị sau: kỹ năng, năng lực sử dụng công nghệ của các doanh nghiệp CNHT;
Thông tin về công nghệ (tài liệu hướng dẫn sử dụng, các bí quyết công nghệ); Năng lực
quản lý điều hành, tổ chức trong hoạt động công nghệ. “Xuất xứ của công nghệ (năm và
nước sản xuất). Qui mô và tỉ lệ chi phí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D)
37
trong doanh thu theo ngành của các doanh nghiệp CNHT” [17, Tr. 106].
“Đây là tiêu chí đánh giá sự thay đổi về chất của quá trình phát triển công
nghiệp hỗ trợ thông qua việc đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng sản phẩm
đối với khách hàng. Với hệ thống công nghệ hiện đại, các doanh nghiệp CNHT đáp
ứng mọi yêu cầu về chất lượng sản phẩm đối với khách hàng” [6, Tr.45] Với hệ
thống công nghệ hiện đại, các doanh nghiệp CNHT đáp ứng mọi yêu cầu về chất
lượng, thời gian giao hàng cho khách hàng khi có sự thay đổi. “Đặc biệt, trong bối
cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, còn giúp cho các doanh nghiệp CNHT
nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài và tồn
tại như một vệ tinh của TNCs và MNCs” [6, Tr.46].
CNHT được xem là ngành có khả năng chuyển giao công nghệ mới từ quốc
gia này đến quốc gia khác, từ doanh nghiệp này sang DN khác, do vậy trình độ người lao
động phải thay đổi cho phù hợp; ngành CNHT có khả năng thúc đẩy lao động có trình độ
cao bước chân vào chuỗi cung ứng cho các nhà lắp ráp. Vì vậy, ngành CNHT được xem là
phát triển toàn diện và bền vững là ngành có tỷ lệ lao động trình độ cao đáp ứng được yêu
cầu bao gồm các chỉ số về trình độ đào tạo, năng lực quản lý, khả năng sử dụng các máy
móc, thiết bị kỹ thuật; khả năng áp dụng công nghệ vào sản xuất. Đây là những tiêu chí cơ
bản đánh giá mức độ phát triển ngành CNHT nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và mở
rộng thị phần của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.
2.2.3.3 Tỉ lệ nội địa hóa của sản phẩm CNHT.
Tỷ lệ nội địa hóa là tỷ lệ của các nguyên vật liệu và phù tùng trong công
nghiệp sản xuất trong nước được sử dụng so với nguyên vật liệu phụ tùng được nhập
khẩu. Phát triển CNHT, đồng nghĩa với việc gia tăng tỷ lệ nội địa hóa trong sản
phẩm, tức là tang xuất khẩu, giảm nhập khẩu. Nâng cao tỷ lệ nội địa hóa sẽ tăng tính
chủ động trong cung cấp nguyên vật liệu, linh phụ kiện và các sản phẩm trung gian
cho ngành lắp ráp và cho nền kinh tế.
Tỷ lệ nội địa hóa ở các ngành khác nhau là khác nhau và cũng không cần thiết
phải đạt tới tỷ lệ nội địa hóa 100%. Việc quy định tỷ lệ nội địa hóa sẽ căn cứ vào tốc
độ phát triển của từng ngành nhằm đưa ra những tiến trình phù hợp. Tỷ lệ nội địa hóa
tăng khi các ngành CNHT trong nước phát triển, cung cấp đầy đủ và kịp thời sản
phẩm đầu vào với giá thành rẻ, chất lượng tốt. Vì vậy, phải xem xét cụ thể khả năng
của các doanh nghiệp có thể đáp ứng tới đâu mới có được tỷ lệ nội địa hóa của sản
phẩm CNHT.
38
Phương pháp xác định tỷ lệ nội địa hóa sẽ được áp dụng ở các quốc gia là khác
nhau và được quy định bằng văn bản quy phạm pháp luật. Và mức tỷ lệ hóa nội địa
được coi là phù hợp hoặc cao sẽ dựa vào quy định của nhà nước trên tình hình phát
triển kinh tế của quốc gia đó.
Việt Nam hiện sử dụng cách tính tỷ lệ nội địa hóa theo cụm chi tiết được sản
xuất trong nước, trong khi cách tính của các nước ASEAN là theo tổng giá trị của
từng chi tiết cộng lại.
Có 3 hình thức nội địa hóa tại Việt Nam: (i) Sản xuất nội bộ của các công ty
lắp ráp; (ii) Thu mua từ các doanh nghiệp có vốn FDI tại nước sở tại; (iii) Thu mua từ
các doanh nghiệp nội địa. Thông qua các hình thức này sẽ đánh giá được mức độ
phát triển CNHT của ngành như sau: “Nếu chỉ tiêu (i) cao thể hiện năng lực sản xuất
của doanh nghiệp, nhưng nếu quá cao cũng sẽ hàm ý sự thiếu chuyên môn hóa ở mức
độ cao của doanh nghiệp. Chỉ tiêu (ii) cao lại thể hiện sự phụ thuộc vào FDI của lĩnh
vực CNHT, chỉ khi nào có sự tác động giữa (ii) và (iii) tiến tới nâng cao năng lực của
các doanh nghiệp trong nước, giảm tỷ trọng mua từ doanh nghiệp FDI và tăng dần tỷ
trọng mua từ các doanh nghiệp trong nước, thì lĩnh vực CNHT mới được coi là phát
triển” [6, Tr.61].
2.2.3.4 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
Thị trường luôn vận động và biến đổi không ngừng làm nảy sinh những nhu
cầu cao hơn và tạo ra những thách thức đối với ngành CNHT phải năng động sáng
tạo, bám sát các diễn biến của quan hệ cung cầu trên thị trường, xây dựng cơ cấu sản
phẩm tối ưu thích ứng với sự linh hoạt của sản phẩm CNHT, nghĩa là sản lượng,
doanh thu, chất lượng, thương hiệu quảng cáo, điều kiện mua bán, khả năng chiếm
lĩnh thị phần của sản phẩm hỗ trợ đó trên thị trường để tạo ra thu nhập cao và phát
triển bền vững cho doanh nghiệp sản xuất sản phẩm đó.
Nếu ngành CNHT có thể nâng cao khả năng cạnh tranh, áp dụng thành tựu
khoa học công nghệ từ đó trở thành ngành dẫn dắt sự phát triển khu vực hạ nguồn thì
sẽ góp phần thay đổi được thiết kế và chết tạo các sản phẩm ở khu vực hạ nguồn.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm CNHT của một quốc gia sẽ
thông qua nghiên cứu các giá trị trọng tâm: (1) khả năng sản xuất các sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ có tính cạnh tranh cao ở trong nước, (2) khả năng thay thế dễ dàng sản
phẩm CNHT trong nước với nước ngoài; (3) Chi phí sản xuất sản phẩm CNHT trong
nước so với các sản phẩm CNHT nhập khẩu. Đây là các giá trị đánh giá năng lực
39
cạnh tranh mà tác giá muốn đánh giá tại luận án này.
2.2.3.5 . Trình độ nguồn nhân lực
CNHT là ngành sử dụng nhiều lao động kỹ thuật cao, không những thế các sản
phẩm CNHT là những sản phẩm có tính đặc thù cao đáp ứng yêu cầu khắt khen của
khách hàng nên càng yêu cầu phải đáp ứng trình độ nhân lực phù hợp với ngành. Sự
chuyển giao và tiếp nhận công nghệ mới ở khu vực CNHT là rất nhanh chóng, do đó
trình độ người lao động cũng phải thay đổi nhanh chóng để bắt kịp tiến độ thay đổi
của ngành.
Để xác định được trình độ nguồn nhân lực của ngành CNHT thông qua nghiên cứu
các giá trị sau: tỷ lệ người lao đông có trình độ cao, tính sáng tạo cao, thành thạo nghề
nghiệp; tỷ lệ lao động được đào tạo bài bản, khả năng quản lý, sử dụng máy móc, thiết bị
kỹ thuật trong doanh nghiệp CNHT; tỷ lệ người lao động có khả năng ứng dụng công nghệ
khoa học vào sản xuất của người lao động; tỷ lệ người lao động có kỹ năng lao động tốt
/tổng số người lao động trong ngành CNHT. Đây được xem là những giá trị cơ bản đánh
giá mức độ phát triển CNHT của ngành hoặc của quốc gia nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh và nâng cao thị phần của sản phẩm CNHT.
2.2.2.6. Chất lượng và giá cả sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
Trong xu thế chung của thế giới, để có thể tồn tại và phát triển thì các doanh
nghiệp phải không ngừng thay đổi về sản phẩm cũng như chất lượng sản phẩm. Đây
được xem là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Và một điều không thể phủ nhận là
sản phẩm CNHT có vai trò không nhỏ trong việc hình thành chất lượng của mỗi sản
phẩm. Sản phẩm CNHT rẻ sẽ quyết định giá thành sản phẩm từ đó tạo ra sự cạnh
tranh cho doanh nghiệp. Một nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của CNHT chính là
sự chênh lệch về yêu cầu chất lượng giữa nhà cung cấp CNHT và các doanh nghiệp
lắp ráp. Các doanh nghiệp lắp ráp thường yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng
sản phẩm đối với nhà cung cấp nội địa. Sản phẩm muốn có khả năng tham gia mạng
lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu phải đạt được tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp
với tiêu chuẩn quốc tế, lúc đó mới tạo ra lợi thế cạnh tranh, đặc biết là trong các
ngành công nghiệp công nghệ cao như công nghiệp cơ khí, công nghiệp công nghệ
thông tin và truyền thông.
Yếu tố Chất lượng và giá cả sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được đánh giá bằng
nhiều phương pháp cụ thể sau; Đánh giá thông qua thị trường: khả năng tang trưởng thị
phần; đánh giá trực tiếp trên sản phẩm CNHT thông qua các giá trị: Chất lượng, giá cả,
40
tính hiện đại, mức độ tiện ích, mẫu mã, thiết kế…; đánh giá từ khác hàng như mức độ
thỏa mãn, mức độ nhận biết sản phẩm, trung thành với nhãn hiệu….
2.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ.
2.2.4.1 Môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách nhà nước.
Môi trường kinh tế vĩ mô bao gồm các yếu tố sau: tốc độ tăng trưởng, giá cả, tỷ
lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, sự ổn định của nền kinh tế,…của mỗi quốc giá có tác
động rất lớn đến hoạt động của ngành công nghiệp CNHT. Môi trường kinh tế vĩ mô
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp CNHT. Các
yếu tố này bao gồm chính phủ, hệ thống pháp luật, thể chế kinh tế thị trường, kết cấu
hạ tầng, khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực,…Sự ổn định về chính trị,
nhất quán về quan điểm luôn thu hút làm yên lòng các nhà đầu tư.
Thể chế và chính sách của nhà nước là yếu tố rất quan trọng trong việc tạo ra các
điều kiện cho việc phát triển CNHT. Điều đó được thể hiện thông qua 2 mặt sau:
Thứ nhất là quan điểm của nhà nước về phát triển CNHT trong định hướng
chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia. Việc thống nhất quan điểm về phát triển
CNHT đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển CNHT của quốc gia và của các ngành
[35, Tr 26-27].
Thứ hai, chính sách phát triển công nghiệp. Ngành CNHT của một nước có phát
triển được hay không phụ thuộc rất lớn và chiến lược và chính sách phát triển của
Nhà nước. Vì vậy, các chính sách thúc đẩy sự phát triển CNHT như: Hỗ trợ về thông
tin, vốn, các điều khoản liên kết kinh doanh…sẽ góp phần thúc đẩy CNHT phát triển.
Mặt khác, chính sách nội địa hóa; chính sách thuế đánh vào nhập khẩu và sản xuất
các bán sản phẩm, linh phụ kiện; mức độ đầu tư của nhà nước vào nghiên cứu khoa học
và công nghệ ở khu vực CNHT; các luật lệ, các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật được
ban hành cho các ngành, các loại sản phẩm thuộc CNHT,… cũng cực kỳ quan trọng. Các
chính sách này có thể tạo điều kiện hay kìm hãm phát triển CNHT là do quan điểm định
hướng phát triển của Chính phủ về vấn đề này như thế nào. [35, Tr 67-68].
2.2.4.2 Quy mô cầu.
Quy mô cầu lớn là một điều thiết yếu để phát triển ngành CNHT. Điều này
xuất phát từ thực tế, ngành CNHT là ngành đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ hiện đại.
Để giảm thiểu chi phí trên một đơn vị sản phẩm, các doanh nghiệp phải tính đến lợi
thế kinh tế nhờ quy mô (ecnonomy of scale). Đó là lý do tại sao các nhà đầu tư muốn
đảm bảo một thị trường có dung lượng lớn (hoặc ít ra có tiềm năng dung lượng lớn
41
trong tương lai) trước khi ra quyết định đầu tư.
Sự phát triển của CNHT phụ thuộc rất nhiều vào quy mô của thị trường thu
mua và thuê ngoài. Nếu thị trường này lớn, tự khắc sẽ thu hút các doanh nghiệp tham
gia cung cấp các sản phẩm CNHT này. Qua đó, các doanh nghiệp lớn (MNC) sẽ có
điều kiện và khả năng hơn trong việc tìm kiếm đối tác, chuyển giao công nghệ, thiết
lập các liên kết kinh doanh.
2.2.4.3 Tình trạng thiếu thông tin và sự chênh lệch về tiêu chuẩn chất lượng.
Tình trạng thiếu thông tin sẽ cản trở giao dịch giữa nhà sản xuất trong nước và
nhà lắp ráp FDI. Ở Việt Nam, các nhà lắp ráp FDI muốn tìm kiếm các nhà cung cấp
nội địa, nhưng họ thường gặp phải vấn đề là không biết tìm các nhà cung cấp này ở
đâu. Nhiều doanh nghiệp Nhật Bản phải sử dụng danh bạ điện thoại và các mối quan
hệ cá nhân để tìm ra các nhà cung cấp tiềm năng. Một công ty cho biết họ phải tới
100 doanh nghiệp mới có thể tìm được một nhà cung cấp đủ năng lực. Điều này sẽ
làm tiêu tốn thời gian và tiền bạc của các doanh nghiệp FDI. Hơn nữa, các nhà cung cấp
nội địa cho đến nay vẫn chưa quan tâm tới việc xây dựng mối quan hệ với các doanh
nghiệp FDI và còn thiếu tự tin khi hợp tác kinh doanh cùng họ. Các hoạt động trao đổi và
chia sẻ thông tin, hợp tác giữa các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự hình thành các cơ hội liên
kết kinh doanh, phát triển các doanh nghiệp trung gian và hợp tác.
2.2.4.4 Yếu tố nguồn tài chính và nguồn nhân lực
Nguồn lực tài chính là nhân tố không thể thiếu được khi muốn mở rộng và
phát triển bất kỳ ngành công nghiệp nào. Đối với một ngành đòi hỏi công nghệ và kỹ
thuật cao như CNHT thì sự đầu tư nguồn vốn càng có ý nghĩa quan trọng. Đầu tư vào
lĩnh vực CNHT đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài, độ rủi ro cao, nên khiến
các nhà đầu tư e ngại khi đầu tư sản xuất các sản phẩm hỗ trợ.
Ngành CNHT luôn yêu cầu và đòi hỏi nguồn nhân lực có chất lượng cao. Hiện
nay đa phần các doanh nghiệp đều cho rằng, nguồn nhân lực có trình độ cao còn quan
trọng hơn máy móc hiện đại. Các chuyên gia Nhật Bản cho biết, nếu chỉ đơn thuần
dựa vào máy móc dây chuyền thì sẽ không tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế, vì
công việc đó bất kỳ quốc gia nào cũng có thể làm được. Và thái độ làm việc của
nguồn nhân lực đảm bảo 99% chất lượng sản phẩm đạt mức cao nhất chứ không thì
mức độ thỏa mãn. Còn chỉ có 1% còn lại chính là sự khác biệt giữa nhà cung cấp có
vốn đầu tư nước ngoài. Có thể nói, đội ngũ kỹ sư và chuyên gia chính là yếu tố quan
trọng nhất tạo nên sự thành công của các doanh nghiệp ngành CNHT. Các chỉ tiêu
42
đáng quan tâm về nguồn nhân lực gồm có: số lượng, trình độ học vấn, trình độ nghề
nghiệp, khả năng tiếp thu, tính kỷ luật. kỹ năng giao tiếp (bao gồm cả ngoại ngữ),
động lực sáng tạo, trình độ nguồn nhân lực quản lý.
2.2.4.5 Sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp chủ đạo.
Các doanh nghiệp công nghiệp chính phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của
CNHT. Số lượng và quy mô hoạt động của các doanh nghiệp này tạo ra thị trường thu
mua và thuê ngoài. Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp, trong quá trình sản xuất, sẽ tập hợp
xung quanh mình một mạng lưới các doanh nghiệp nhỏ và vừa có liên quan. Đây là
nguồn quan trọng cho việc chuyển giao công nghệ và hình thành các mạng lưới cung
cấp, thuê ngoài hay dịch vụ hỗ trợ. Việc thu hút được các doanh nghiệp lớn, đặc biệt
trong lĩnh vực chế tạo, chế biến hay lắp ráp sẽ có tác động mạnh đến sự phát triển của
các doanh nghiệp hỗ trợ.
Sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ với vai trò là lực lượng chính của
CNHT sẽ tạo ra sự sẵn sàng cho việc tham gia vào chuỗi sản xuất của các doanh nghiệp
lớn, hình thành các doanh nghiệp hỗ trợ. Năng lực về vốn, công nghệ, quản lý của SME
càng cao thì khả năng tham gia liên kết với các doanh nghiệp lớn càng dễ dàng hơn.
43
Tiểu kết Chương 2
Chương 2 đã làm rõ một số khái niệm liên quan như lý thuyết lợi thế so sánh,
chuỗi giá trị, cung ứng, hợp đồng thầu phụ nhằm giúp người đọc tổng quan các lý
thuyết hình thành lên ngành CNHT và có cái nhìn rõ nét hơn về các điều kiện áp dụng
các lý thuyết này. Lãm rõ một số vấn đề lý luận cũng như quan điểm về CNHT của
một số quốc gia có nền CNHT phát triển như Nhật Bản, Mỹ và quan điểm về CNHT
ở Việt Nam hiện nay giúp tác giả thâu tóm lại quan điểm chung về ngành CNHT là
ngành sản xuất sản phẩm trung gian bao gồm các ngành công nghiệp sản xuất vật
liệu, phụ tùng, linh kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành CN sản xuất, lắp ráp
các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng cuối cùng.
Tại chương 2, tác giả cũng phân tích vai trò của CNHT với các ngành công
nghiệp khác, các giai đoạn phát triển và phạm vi của CNHT để có cái nhìn tổng quan
hơn về ngành CNHT từ đó đưa ra các nội dung chủ yếu trong phát triển CNHT hiện
nay cụ thể là: Chiến lược và chính sách thúc đẩy phát triển CNHT, Phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa, Thu hút vốn đầu tư nước ngoài hợp lý...Tác giả cũng đưa ra các
tiêu trí đánh giá một doanh nghiệp CNHT có đủ điều kiện phát triển hay không thông
qua bộ tiêu chí bao gồm số lượng doanh nghiệp đủ đáp ứng yêu cầu, năng lực công
nghệ, tài chính và nguồn nhân lực, khả năng liên kết, mạng lưới sản xuất và tỷ lệ nội
địa hoá. Để đạt được các tiêu chí này tác giả cũng đưa ra những các nhân tố tác động
đến CNHT hiện nay. Chương 3 tác giả sẽ dựa vào nội dung về phát triển CNHT được
phân tích tại chương 2 để đưa ra các thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại và rút
ra các bài học, kinh nghiệm trong phát triển CNHT ở một số nước Đông Á cụ thể là
Nhật Bản,Trung Quốc, Thái Lan.
44
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG Á
3.1. Khái quát thực trạng phát triển CNHT của một số nước Đông Á (Nhật Bản,
Trung Quốc, Thái Lan)
3.1.1 Thực trạng chung phát triển CNHT của các nước Đông Á.
Các nước Đông Á tiêu biểu là Nhật Bản, Thái Lan và Trung Quốc là một khu
vực kinh tế phát triển nhất châu Á hiện nay. Nhật Bản, Trung Quốc là những nền kinh
tế đứng đầu thế giới có ngành công nghiệp hỗ trợ lâu đời và vững mạnh, Ngành công
nghiệp hỗ trợ Thái Lan đã có những bước đột phá đáng kinh ngạc. Một số nước có
ngành công nghiệp hỗ trợ đã hình thành lâu đời; một số nước mới phát triển nhưng
đều thể hiện mục tiêu phát triển CNHT rất rõ ràng và có những mô hình phát triển
đáng học hỏi. Trong đó, cần nhắc tới là mô hình mạng lưới sản xuất hiện đại trong
ngành công nghiệp hỗ trợ của Đông Á hiện nay (Sơ đồ 3.1).
Sơ đồ 3.1: Mô hình mạng lưới sản xuất hiện đại trong ngành công nghiệp hỗ trợ
của các nước Đông Á hiện nay [24, Trang 13)
Trong mấy thập kỷ qua, phát triển công nghiệp nói chung, CNHT nói riêng,
lan tỏa nhanh tại khu vực Đông Á, bắt đầu từ Nhật Bản sang Hàn Quốc, Đài Loan,
Hong Kong, Singapore (gọi chung là nhóm NIEs) sau đó đến 4 nước ASEAN phát
triển trước (Bao gồm: Malaixia, Thái Lan, Philippin và Inđônêxia, dưới đây gọi
chung là ASEAN-4) rồi Trung Quốc,… Hiện tượng này được diễn tả bằng mô hình
45
đàn sếu bay (flying-geese development pattern) với các nội dung có thể được tóm tắt
như sau [1]: Do vùng Đông Á gồm nhiều nhóm nước có các giai đoạn phát triển khác
nhau, một ngành công nghiệp (tạm gọi là ngành A) thường được bắt đầu phát triển tại
Nhật, sau đó chuyển sang NIEs rồi ASEAN-4, sau nữa là đến Trung Quốc và tiếp
theo có thể là Việt Nam và các nước khác; các nước đi trước sau khi mất lợi thế so
sánh trong ngành A đã nỗ lực chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên những ngành có
giá trị gia tăng cao với trình độ công nghệ cao hơn (ngành B rồi C, D,… khi B,
C,…cũng như A chuyển dần sang các nước khác). Đây chính là hiện tượng các nước
đuổi bắt nhau trong quá trình phát triển CNHT. Yếu tố đưa đến hiện tượng này là nỗ
lực tích luỹ tư bản, công nghệ tại các nước đi sau và quá trình đó được thúc đẩy bằng
đầu tư trực tiếp (FDI) và các hình thái chuyển giao công nghệ khác từ các nước đi
trước. Để làm rõ hơn thực trạng phát triển của các nước, ta xem xét bảng dữ liệu dưới
đây:
Bảng 3.1: Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ nổi bật
của một số nước Đông Á
Stt
Quốc gia
Nhật Bản
1
Trung Quốc
2
3
Các NIEs Châu Á (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore)
4
Các quốc gia ASEAN-4 (Thailand, Malaysia, Indonesia, Philippines)
Việt Nam
5
Nội dung phát triển công nghiệp hỗ trợ nổi bật Từ những năm 1980, Nhật Bản đã được phép đầu tư trực tiếp vào các nước châu Á. Nhật Bản giữ vị trí là người đứng đầu mô hình đàn nhạn bay để phát triển kinh tế Trung Quốc đã đạt được sự phát triển kinh tế nhanh chóng, kể từ khi chính sách cải cách và mở cửa vào đầu những năm 1990. Từ năm 2000, Trung Quốc đã là "Công xưởng sản xuất của Thế giới" trong lĩnh vực sản xuất như ngành điện và ô tô Để đáp lại đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào những năm 1980, đang phát triển nhanh chóng; các NIEs đã phát triển như quốc gia dẫn đầu kinh tế châu Á. NIEs đang phát triển như là một trung tâm toàn cầu các ngành công nghiệp công nghệ cao. Từ những năm 1980, ASEAN-4 phát triển nhanh chóng để đáp ứng sự đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản và các NIEs Châu Á. Ngoài ra, ASEAN-4 đã trở thành những căn cứ chính của châu Á trong lĩnh vực ô tô, điện/điện tử, chế biến thực phẩm và hàng dệt/may. Việt Nam đã và đang bắt kịp những nước tiên tiến của ASEAN. Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức của việc thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ.
(Nguồn: 76, Tr.13-14)
Cho đến đầu những năm 1990, hầu hết các nhà nghiên cứu kinh tế đều cho
rằng, việc áp dụng mô hình đàn sếu bay để giải thích sự lan toả của công nghiệp nói
chung và ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng tại vùng Đông Á. Nhìn toàn cục, ta thấy có
46
sự tiến triển nhanh trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước theo hướng công
nghiệp hoá, các nước đi sau đuổi theo các nước đi trước, rút ngắn khoảng cách phát triển
công nghiệp. Chẳng hạn, Biểu đồ 3.1 cho thấy hiện tượng đuổi bắt ấy về phương diện xuất
khẩu. Những năm 2005 trở lại đây, tại hầu hết các nước Đông Á, 80% kim ngạch xuất
khẩu là hàng công nghiệp riêng các nước NIEs là 100%. Ngay cả tại Inđônêxia, một nước
trước đây chuyên xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt, tỉ trọng của công nghiệp trong tổng kim
ngạch xuất khẩu cũng đã đạt mức 60% [75, tr30].
Biểu đồ 3.1: Tỷ trọng hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một
số nước Đông Á
Nguồn: Thống kê của Liên hợp quốc về xuất nhập khẩu các nước Châu Á, 2003
Khảo sát sự phát triển của từng ngành công nghiệp, ta cũng thấy có hiện tượng
đuổi bắt tương tự. Chẳng hạn, trong ngành dệt may, lợi thế so sánh chuyển từ Nhật
Bản sang các nước NIEs vào đầu những năm 1970, sang các nước ASEAN-4 từ
những năm 1980 và từ cuối thập niên đó chuyển sang Trung Quốc. Một thí dụ khác,
cho đến những năm 1970, chỉ mới có Nhật Bản sản xuất được TV màu, nhưng từ cuối
những năm 1970 đã có thêm Hàn Quốc và Đài Loan, rồi từ cuối những năm 1980 là
Malaixia và Thái Lan, và từ nửa sau những năm 1990, Trung Quốc trở thành nước
sản xuất tivi mầu nhiều nhất thế giới. Do quá trình đuổi bắt này, lượng sản xuất tivi
mầu tại Nhật Bản giảm nhanh và phải nhập khẩu nhiều từ các nước Đông Á. [86,
Tr99-100].
47
Biểu đồ 3.2: Thống kê đầu tư FDI và khu vực Đông Á so với các khu vực khác
của châu Á
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2014 (World investment report 2014)
Tổng vốn FDI vào khu vực Đông Á năm 2013 tăng 2%, đạt 221 tỷ USD. Đầu
tư ra nước ngoài của khu vực này năm 2013 cũng tăng 4%, đạt 293 tỷ USD [86, Tr
102]. Cuối năm 2012, trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 21, 10
nước thành viên Asean và 6 nước đối tác FTA của khu vực (Ốtxtrâylia, Trung Quốc,
Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand) khởi động đàm phán Hiệp định đối tác
kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Năm 2013, tổng dòng vốn FDI vào (ASEAN+6)
đã đạt tới 343 tỷ USD chiếm 24% tổng dòng vốn FDI toàn cầu. Như vậy, việc mở
rộng khu vực thương mại tự do trong và ngoài khu vực đã góp phần vào tăng trưởng
FDI và các lợi ích phát triển gắn kết của khu vực [85].
Để tìm hiểu kỹ hơn về thực trạng phát triển CNHT ở Đông Á, tác giả sẽ đi sâu
nghiên cứu thực trạng của một số nước điển hình để có thể rút ra được bài học kinh
nghiệm chi tiết, cụ thể, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam.
3.1.2. Thực trạng phát triển CNHT tại Nhật Bản
Chiến lược và chính sách thúc đẩy phát triển CNHT.
Trong những năm 1940, sự mở rộng nhu cầu đối với các sản phẩm ngành
CNHT, các công ty lớn có xu hướng chuyển sản xuất cho các công ty nhỏ hơn thay vì
mở rộng sản xuất của chính họ. Để đối phó với vấn đề này, chính phủ Nhật Bản, năm
1949, Nhật Bản ban hành “Luật về hợp tác với doanh nghiệp” với mục đích bảo vệ
quyền đàm phán và tạo điều kiện cho các nhà thầu phụ tiếp cận nguồn vốn vay ưu
48
đãi, nhằm xúc tiến các hoạt động “thầu phụ” (cũng chính là các hoạt động sản xuất
CNHT), tạo điều kiện và cân bằng các lợi ích giữa các doanh để nâng cao năng lực
thương lượng của các DNVVN và cho phép họ tiếp cận các công nghệ và nguồn vốn
vay mới.
Trong những năm 1950, các doanh nghiệp lớn thường xuyên chậm thanh toán
với các khoản chi phí với các nhà thầu cung ứng điều này ảnh hưởng đến quá trình
phát triển ngành CNHT. Chính phủ đã can thiệp bằng cách ban hành Luật Ngăn chặn
sự chậm trễ trong việc thanh toán các khoản phí hợp đồng phụ và các vấn đề liên
quan vào năm 1956 để ngăn chặn sự chậm trễ trong các khoản thanh toán cho nhà
thầu phụ.
Trong những năm 1960 và 1970, sự mở rộng nhanh chóng của khu vực sản
xuất, do sản xuất hàng loạt, dẫn đến các doanh nghiệp sản xuất lớn canh tranh khốc
liệt. Do đó, các công ty lớn cần các nhà thầu phụ có thể cải thiện năng suất và giảm
chi phí để nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của họ. Chính phủ đã hỗ trợ điều
này thông qua Luật khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ ký hợp đồng phụ năm
1970 nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà cung ứng và họ đã phát triển rất
mạnh, trở thành lực lượng sản xuất quan trọng của công nghiệp Nhật Bản.
Nhật Bản cũng đưa ra các chính sách ưu tiên phát triển cho những sản phẩm
CNHT cụ thể, đặc biệt là công nghiệp cơ khí và điện tử, trong đó chú trọng đến các
sản phẩm CNHT. Có thể kể đến hai đạo luật quan trọng là “Luật về Biện pháp ngắn
hạn khuyến khích công nghiệp cơ khí” và “Luật về Biện pháp ngắn hạn khuyến khích
ngành công nghiệp điện tử”, theo luật này Chính phủ sẽ có trách nhiệm đảm bảo vốn
đầu tư cần thiết cho việc trang bị thiết bị nhằm hợp lý hoá việc sản xuất và nhiều ưu
đãi khác. Đi kèm hai đạo luật này là danh mục chi tiết các sản phẩm được ưu tiên
phát triển. Danh mục được xem xét, đề xuất và liên tục cập nhật bởi Ban thẩm tra
Công nghiệp cơ khí và Ban thẩm tra Công nghiệp điện tử.
“Luật về Biện pháp ngắn hạn khuyến khích công nghiệp cơ khí” ra đời từ cuối
năm 1956, theo đó luật đưa ra danh mục một số sản phẩm, máy móc, linh kiện và bán
thành phẩm cần phải đặc biệt cải thiện tính năng, chất lượng hay giảm chi phí sản
xuất gọi là “công nghiệp cơ khí mặc định”.
Trong lĩnh vực điện tử, cuối năm 1957, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra “Luật
về Biện pháp ngắn hạn khuyến khích ngành công nghiệp điện tử”, sau đó là một danh
mục các sản phẩm được khuyến khích phát triển, trong đó chú trọng ưu tiên cho phát
49
triển các linh kiện, nguyên liệu chủ yếu được dùng trong thiết bị điện tử.
Hiện nay, các doanh nghiệp CNHT tại Nhật Bản đẩy mạnh liên kết với các
doanh nghiệp CNHT ở nước ngoài nhằm mục đích sử dụng các phụ tùng giá rẻ. Tuy
nhiên, doanh nghiệp CNHT Nhật Bản vẫn nâng cao ưu thế về công nghệ và khâu khai
thác phát triển sản phẩm mới tại quôc giá, luôn tạo cơ hội nâng cao chất lượng sản phẩm
với mục đích phát triển mẫu mã sản phẩm và phát triển thương hiệu trong nước. Không
những thế, Chính phủ Nhật Bản còn hỗ trợ các doanh nghiệp Nhật Bản để mở rộng sản
xuất và thâm nhập thị trường ngoài nước để tận dụng các sản phẩm sản xuất trong nước
nhưng mức độ tiêu thụ không cao. Đến nay, doanh nghiệp CNHT tại Nhật Bản đã “xuất
khẩu sản xuất” rất thành công, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm được phát triển khắp toàn cầu, tạo sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế1.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Bộ Kinh tế, Thương mại và công nghiệp Nhật Bản (METI), trong báo cáo về
các doanh nghiệp sản xuất linh phụ kiện đã chỉ ra rằng, Nhật Bản từ lâu đã nổi tiếng
là một quốc gia biết tận dụng nguồn nhân lực trong tình trạng khan hiếm tài nguyên
và thường xuyên phải đối mặt với thiên tai. Ở Nhật Bản, có một mô hình mang tên
Monozukuri đã được phổ biến và áp dụng hết sức thành công trong các ngành công
nghiệp hỗ trợ. Thuật ngữ Monozukuri dịch trực nghĩa là “làm ra một cái gì đó” hay
“chế tạo sản phẩm”. Tuy nhiên, ý nghĩa sâu xa của mô hình này là tình yêu tha thiết,
mong muốn và lòng quyết tâm của nghệ nhân nhằm tạo ra các sản phẩm ngày càng
tốt hơn. Ý nghĩa này chính là mục tiêu cơ bản mà người làm ra sản phẩm luôn hướng
tới: chất lượng sản phẩm cao và đáp ứng được nhu cầu khách hàng. Tiêu biểu cho tinh
thần Monozukuri Nhật Bản là các kỹ sư, sáng lập viên của nhiều công ty hàng đầu như
Sakichi Toyota (1867 – 1930, Công ty Toyota), Konosuke Matsushita (1894 – 1989, Tập
đoàn Panasonic), Soichiro Honda (1906 – 1991, Công ty Honda), Akio Morita (1921 –
1999), đồng sáng lập viên của Công ty Sony. Về cơ bản, nền tảng của mô hình
Monozukuri bao gồm sự phát triển hình tháp của hoạt động 5S (Dịch từ tiếng Nhật có
nghĩa là “Sắp xếp, Sạch sẽ, Săn sóc, San sẻ, Sẵn sàng” tại nơi làm việc) [95, Tr. 56].
Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (gọi tắt là SME) là nền tảng kinh tế cơ bản của
chuỗi giá trị công nghiệp và là trụ cột của nền kinh tế Nhật Bản, có những doanh
1http://www.tinkinhte.com/nd5/detail/viet-nam/ho-so-tu-lieu/kinh-nghiem-phat-trien-cong-nghiep-xe-may-o- mot-so-nuoc-va-bai-hoc-voi-viet-nam/56198.113207.html
50
nghiệp chỉ gồm 4 người (gọi tắt là VSE) có hoạt động kinh doanh trải rộng trên mọi
lĩnh vực kinh doanh từ công nghiệp thực phẩm, công nghiệp chế tạo, công nghiệp ô
tô, công nghiệp điện – điện tử, công nghiệp dệt may,… cho tới các lĩnh vực công
nghệ mới đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao như công nghiệp điện tử - viễn thông,
công nghệ robot,… Ở Nhật Bản, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 99,7% trong tổng số
các doanh nghiệp và cung cấp 70-80% việc làm cho lực lượng lao động là lực lượng
trung tâm của ngành CNHT và 60% số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ có mối quan
hệ trực tiếp với các doanh nghiệp lớn trong công nghiệp chế tạo [110,tr170]. Giai
đoạn 2000-2009, do môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi theo hướng bất lợi cho
nền kinh tế Nhật Bản nói chung và các doanh nghiệp Nhật Bản nói riêng (Khủng
hoảng tài chính toàn cầu, sự suy giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Nhật, giá
dầu thô tăng vọt,…) khiến số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản tăng lên
đáng kể.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hoàn thiện quy trình sản xuất
và quản lý mới,… đã trở thành một hoạt động không thể thiếu của Nhật Bản. Là
những doanh nghiệp nhỏ, chịu nhiều sức ép từ môi trường kinh doanh luôn thay đổi
và ngày càng khắc nghiệt, nghiên cứu và phát triển chính là một trong các cứu cánh
giúp các doanh nghiệp hỗ trợ có thể vượt qua khó khăn để tồn tại và phát triển. Có
hơn 50% các doanh nghiệp vừa và gần 50% các doanh nghiệp nhỏ, áp dụng những
kết quả nghiên cứu và phát triển vào đổi mới sản xuất kinh doanh của mình so với tỷ
lệ hơn 80% tại các doanh nghiệp lớn. Điều đó nói lên sự nỗ lực to lớn của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản nhằm đổi mới chính mình trong điều kiện hạn hẹp (Quy
mô vốn ít hơn và lượng lao động ít hơn).
Chính phủ Nhật Bản có nhiều chính sách hỗ trợ và luôn lắng nghe tâm tư những
doanh nghiệp này. Cụ thể, cơ quan quản lý thường đi đến tận xí nghiệp để nắm được
khó khăn của DN nhằm hỗ trợ kịp thời; tiếp cận trực tiếp với DN nhiều hơn, xem họ
vướng mắc gì để tháo gỡ; đồng thời luôn quan tâm, hỗ trợ cho DN khi tìm kiếm thị
trường mới ở nước ngoài.
“Nhật Bản cũng thực hiện triệt để chính sách hỗ trợ tài chính cho DNNVV: Quỹ
tài chính chính sách công Nhật Bản cho các cá thể kinh doanh, DNNVV vay lãi suất
thấp ở mức 1-3%/năm (không cần tài sản đảm bảo, không cần người bảo lãnh). Chính
phủ thực hiện thúc đẩy đầu tư, hỗ trợ kinh doanh cho các DNNVV bằng cách gánh
51
hơn nửa các rủi ro đối với DNNVV. Hiệp hội bảo lãnh tín dụng bảo lãnh khoản vay
của các DNNVV từ các ngân hàng thương mại để họ có thể dễ dàng vay được vốn
hơn” [111, tr10-11]. .
Tăng cường liên kết doanh nghiệp, cụm công nghiệp
Để đạt được những thành công như hiện nay, trong một thời gian dài Nhật Bản đã
xây dựng và triển khai kế hoạch chính sách Cụm liên kết ngành (CLKN) một cách công
phu. Để hình thành một CLKN, Bộ kinh tế Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản
(METI) đã tiến hành bốn bước: (i) phân tích đặc điểm của địa phương; (ii) xác định
mạng lưới có thể có; (iii) mở rộng phạm vi mạng lưới; và (iv) thúc đẩy tập trung công
nghiệp và đổi mới. Ba nhóm chính sách mà METI thực hiện là: (i) xây dựng mạng lưới;
(ii) hỗ trợ doanh nghiệp ((R&D), phát triển thị trường, quản lý, đào tạo); và (iii) thúc đẩy
liên kết (giữa tổ chức tài chính – công nghiệp – cơ sở đào tạo).
Năm 2017, Nhật Bản thực hiện đẩy mạnh mô hình liên kết các doanh nghiệp. Ví
dụ, Honda và Softbank đã cùng nhau hợp tác phát triển một hệ thống hỗ trợ xe hơi tự lái sử
dụng công nghệ Trí tuệ thông minh AI; hay Toyota cũng mở rộng doanh số cho thuê xe tại
Tác giả đã thực hiện phỏng vấn chuyên gia: Theo tiến sĩ Yoichi Sakurada- Viện
Nghiên cứu Mitsubishi (MRI) của Nhật Bản nhận định, để phát triển được ngành CNHT
như bây giờ, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra nhiều chính sách, sự kiên trì và các chính
sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đã giúp Nhật Bản thành công trong lĩnh vực
CNHT. Để hỗ trợ ngành CNHT phát triển, Chính phủ Nhật Bản đã thành lập ra Trung
tâm Công nghệ tại các địa phương. Trung tâm này thường đưa ra các chính sách phát
triển CNHT cho từng địa phương và hỗ trợ các doanh nghiệp tại địa phương đó phát
triển CNHT. Đặc biệt, các chính sách phát triển CNHT được Chính phủ, Bộ, ngành, địa
phương tại Nhật Bản thực hiện rất nghiêm túc.
Mỹ, sau khi đầu tư hàng tỷ Yên vào công ty Uber. [104, tr.132].
3.1.3. Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Trung Quốc
- Chiến lược và chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ
Về chính sách: để thúc đẩy sự phát triển của ngành CNHT và sản xuất linh
kiện gắn với thúc đẩy TTKT, chính phủ đã kết hợp các chính sách ưu đãi của chính
phủ, đầu tư trực tiếp nước ngoài, cơ sở hạ tầng lớn, và vốn con người cụ thể:
Thứ nhất, Trung Quốc thiết lập các chính sách khuyến khích quá trình học hỏi
công nghệ, và chuyển từ liên kết ngang (theo chiều rộng) sang liên kết dọc (theo
52
chiều sâu) trong chuỗi giá trị ngành công nghiệp hỗ trợ. Để tận dụng lợi thế thị trường và
hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, Trung Quốc không áp dụng các biện pháp hạn chế
tiêu dùng nội địa. Ngược lại, Trung Quốc khuyến khích các doanh nghiệp trong ngành
CNHT ở Trung quốc tiêu thụ trong thị trường nội địa, ban hành chính sách hạn chế nhập
khẩu hàng hóa sản xuất ở nước ngoài. Vì vậy, Trung Quốc đã thu hút được nhiều tập
đoàn sản xuất nước ngoài đầu tư trực tiếp vào thị trường Trung quốc.
Thứ hai, Trung Quốc còn ban hành và áp dụng nhiều chính sách khuyến khích
và thúc đẩy phát triển thị trường linh kiện, phụ tùng nội địa rộng lớn, và kết nối các
nhà sản xuất trong nước. Trung Quốc khuyến khích các hãng trong nước thực hiện
liên kết, liên doanh với các hãng lớn nước ngoài, kết nối các DNNVV cung cấp phụ
tùng, linh kiện nội địa.
Thứ ba, Trung Quốc xây dựng và khuyến khích áp dụng các chương trình thúc đẩy
phát triển CNHT cho ngành công nghiệp nội địa. Trung Quốc cho phép các doanh nghiệp
nước ngoài tham gia chương trình thúc đẩy phát triển CNHT cho các ngành công nghiệp
Trung Quốc thông qua việc thiết lập các tiêu chí lựa chọn. Theo đó, các hãng lớn nước
ngoài có thể đưa ra chính sách và tập hợp các tiêu chí lựa chọn đối tác là các hãng trong
nước có đủ điều kiện để sản xuất cung cấp linh kiện, phụ tùng.
Thứ tư, Trung Quốc sử dụng doanh nghiệp nhà nước (DNNN) như một công
cụ trong chiến lược phát triển CNHT. Các DNNN lớn vừa tham gia vào trong các liên
doanh lắp ráp và vừa đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất linh kiện, phụ tùng. Các
hãng liên doanh đóng vai trò tăng cường khả năng thích nghi và chuyên sâu hơn của
các cơ sở sản xuất trong nước để cung cấp cho các hãng nước ngoài. Khoảng hơn
10000 nhà máy liên doanh ở Thượng Hải cung cấp linh kiện cho các hãng sản xuất
lớn nước ngoài đã được thành lập.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài hợp lý
Việc thu hút và sử dụng FDI đã góp phần quan trọng đặc biệt là phát triển
ngành CNHT nếu không muốn nói là quan trọng bậc nhất vào sự phát triển kinh tế
của quốc gia này. Từ năm 1992 đến năm 2018, Trung Quốc liên tục đứng đầu các
nước đang phát triển và trong top đầu thế giới về thu hút FDI, năm 2002 còn vượt qua
cả Mỹ với 52,7 tỷ USD.
Năm 2010, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc đã tăng chóng
mặt lên mức cao kỷ lục, theo thông tin từ Bộ Thương mại Trung Quốc thì tỷ lệ tăng là
53
17,4% lên tới mức 105,7 tỷ USD. Từ đó, có thể thấy Trung Quốc đang dần khẳng
định vị trí của mình là một điểm đến đáng tin cậy của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, trong tháng 12/2015, vốn FDI vào Trung Quốc đã giảm 5,8% so với cùng kỳ
năm 2014. Theo Bộ Thương mại Trung Quốc, FDI tháng 12/2015 chỉ đạt 77 tỷ NDT,
tương đương 12 tỷ USD. Phòng Thương mại Mỹ tại Trung Quốc cũng công bố về
việc một số công ty nước này đầu tư vào ngành công nghiệp đã rút khỏi Trung Quốc.
Những chính sách nổi bật của Trung Quốc trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
- Ban hành các chính sách đảm bảo cơ cấu sản xuất cân bằng giữa các ngành và
khu vực trong từng giai đoạn trong cả nước, ban hành các quy định hướng dẫn đầu tư
nước ngoài và danh mục sản xuất để thu hút FDI…
- Thành lập các khu phát triển công nghệ, các khu kinh tế, mở cửa các thành phố
ven biển để tập trung thu hút FDI. Trọng điểm chiến lược phát triển kinh tế của Trung
Quốc là từng bước chuyển về phía tây, kêu gọi thương nhân nước ngoài đầu tư, gia
tăng nguồn vốn để xây dựng hạ tầng, bảo vệ môi trường…
- Hệ thống pháp luật chặt chẽ về tiêu chuẩn môi trường, toàn cầu hóa, thủ tục
pháp lý đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài tinh gọn ngày càng thu hút
được nguồn vốn FDI sạch, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Với nhiều chính sách
hợp lý, đúng thời điểm, Trung Quốc trở thành cái máy hút FDI khổng lồ trên khắp thế
giới, dễ dàng bước qua giai đoạn khó khăn của nền kinh tế toàn cầu.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực và công nghệ
Về nguồn nhân lực và công nghệ phục vụ cho phát triển CNHT ở Trung Quốc
giai đoạn 2007-2017, Chính phủ Trung Quốc đã nhanh chóng thiết lập nhiều trung
tâm phát triển nguồn nhân lực cũng như những khu nghiên cứu khoa học để phát triển
công nghệ cho quốc gia. Tại các khu công nghiệp chính, Chính phủ đều đặt các
trường đại học và các khu nghiên cứu khoa học, tiện lợi và kịp thời cung cấp nguồn
nhân lực và công nghệ cho các khu công nghiệp, khiến nhà đầu tư có thể yên tâm đầu
tư vào các khu công nghiệp rộng lớn của Trung Quốc. Có thể thấy một mạng lưới dày
đặc các trường Đại học, Viện nghiên cứu tại một số Khu nghiên cứu tập trung bên
cạnh một số Khu công nghiệp tại Trung Quốc [35,Tr. 46-47].
54
Bảng 3.2: Nguồn nhân lực tại một số Khu nghiên cứu ở Trung Quốc
Khu nghiên cứu
Viện nghiên cứu
Đại học
232 114
Haidian (Hà Nam) Changping (Xương Bình)
73 14
Nhà nghiên cứu (1000 người) 378 15
Sinh viên ĐH (100 người) 300 -
60
Fengtai (Phượng Đài)
-
70
-
5
-
-
4 (Viện nghiên cứu điện tử) 12 (Viện CAS)
-
54
-
6
8
-
-
The Electronic Zone (Khu vực điện tử) Khu nghiên cứu khoa học và công nghệ Jianxiang Khu nghiên cứu khoa học và công nghệ Desheng (Đà Sơn)
Nguồn: Hội đồng quản lý Khu nghiên cứu khoa học Trung Quan Thôn, 2006
Bảng 3.2 cho thấy mối quan tâm của Trung Quốc đến việc phát triển nguồn lực
khoa học công nghệ và nhân lực phục vụ cho ngành CNHT. Đây cũng là một trong
những yếu tố khiến Trung Quốc trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn, khiến nhà đầu
tư có thể yên tâm đầu tư các lĩnh vực CNHT ở Trung Quốc.
Bên cạnh đó, những nhà đầu tư nước ngoài cũng hết sức năng động trong việc
phát triển nguồn nhân lực và nghiên cứu phát triển tại Trung Quốc. Từ năm 2005,
chính sách thu hút FDI chính thức của Trung Quốc đã khuyến khích những nhà đầu
tư nước ngoài thiết lập những trung tâm R&D. Những chính sách quan trọng gồm có:
Miễn thuế nhập khẩu cho những thiết bị và công nghệ hỗ trợ cho phòng thí
nghiệm của các FIEs và sử dụng cho thí nghiệm nghiên cứu;
Miễn thuế môn bài (sales tax) cho thu nhập từ việc chuyển giao công nghệ chỉ
do các FIEs làm;
Một FIE với chi phí cho phát triển công nghệ tăng hàng năm ít nhất 10% được
giảm 50% thuế thu nhập năm đó cho phần chi phí phát triển công nghệ;
Những FIEs có trung tâm R&D ở Trung Quốc được phép nhập khẩu và bán
một số ít sản phẩm công nghệ cao để thử nghiệm trong thị trường địa phương, nếu
những sản phẩm đó được sản xuất tốt, là kết quả của R&D [35, Tr. 105-106].
Năm 2008, theo số liệu thống kê, có 500 FIEs đã thiết lập những trung tâm R&D
độc lập tại Trung Quốc, trong đó đứng đầu danh sách là Microsoft, GE, Motorola,
Intel, GM, Honda, Siemens, Nortel, và Volkswagen.
55
Tăng cường liên kết doanh nghiệp, cụm công nghiệp
Trung Quốc đã và đang tập trung phát triển 3 loại hình cụm liên kết ngành
(CLKN) là: CLKN cho các ngành có hàm lượng kỹ thuật và công nghệ cao (công
nghệ điện tử viễn thông và công nghệ thông tin (IT); CLKN cho các ngành thông
thường, những ngành thâm dụng vốn kết hợp với thâm dụng kỹ thuật (chế tạo xe hơi);
và CLKN cho các ngành truyền thống (da giày, dệt, may,…).
Trong công nghiệp ô tô, Trung Quốc đã thành lập những khu vực CNHT
chuyên cung cấp linh phụ kiện cho các nhà sản xuất ô tô nước ngoài. Đó là các doanh
nghiệp CNHT hỗ trợ cho Nissan, Honda ở tỉnh Quảng Châu - nơi các hãng ô tô của
Nhật Bản đặt nhà máy.
Sự phát triển của các doanh nghiệp liên doanh kéo theo nhu cầu về các chi tiết,
phụ tùng, linh kiện từ các nhà thầu phụ là các DNNVV khác. Qua đó, các hãng nội
địa của Trung Quốc dần tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp ô tô toàn cầu.
Trung Quốc xây dựng và phát triển mạnh các cụm công nghiệp tập trung các ngành
CNHT gần đó, nhằm giảm thiểu chi phí giao dịch, vận chuyển thúc đẩy quá trình học
hỏi và chuyển giao công nghệ, và cuối cùng cải thiện năng lực cạnh tranh chung của
toàn ngành. Trung Quốc đã phát triển các vùng (cụm) tập trung cho CNHT cho ngành
công nghiệp ô tô. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã thúc đẩy sự hình thành và phát triển
các khu thương mại để thúc đẩy trao đổi hàng hóa với vai trò là các chợ đầu mối cho
các cụm CNHT phát triển.
Các công ty sản xuất linh phụ kiện không chỉ bó hẹp việc cung cấp sản phẩm
hỗ trợ cho riêng một công ty, mà mở rộng thị trường sang những công ty xung quanh.
Trung Quốc còn thành lập các liên doanh trong công nghiệp ô tô và những ngành
CNHT liên quan, thí dụ Tập đoàn Công nghiệp ô tô - xe máy Quảng Châu (GAIG).
Ngoài ra, chính quyền cũng tạo điều kiện thành lập 16 liên doanh giữa những công ty
Theo thạc sĩ Định Văn Bảo- Ban Quản lý kinh tế mở Chu Lai: Ở Trung Quốc, để phát
triển CNHT, Chính phủ cho thành lập các tổ chức làm cầu nối giữa khu vực tư nhân và Nhà
nước, tăng cường phát triển tiềm năng khoa học-công nghệ quốc gia, đổi mới cơ chế tài chính,
hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân hợp tác và tiếp nhận chuyển giao công nghệ sản xuất từ đối tác
nước ngoài, xúc tiến hợp tác nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực...
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, ngay từ đầu cần phải có chính sách rõ ràng
liên kết của GAIG và 16 công ty khác, như Toyota Bosyoku, Honda Engineering...
56
trong việc thu hút FDI vào phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm tạo môi trường đầu tư thông
thoáng, kết hợp ưu đãi với các chính sách xúc tiến đầu tư.
Trung Quốc theo đuổi nền sản xuất theo mô-đun, nhưng lợi thế cạnh tranh của Trung
Quốc là lao động rẻ chứ không phải là các sản phẩm mô-đun sử dụng nhiều tri thức như của
Mỹ. Song, Trung Quốc đã tìm cách trở thành đối tác của Mỹ với vai trò sản xuất mang tính
hỗ trợ. Hoa Kỳ có thể cung cấp công nghệ và vốn, còn Trung Quốc cung cấp lao động rẻ.
3.1.4 Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Thái Lan
Là nước đứng đầu ASEAN về phát triển CNHT phục vụ cho nhu cầu sản xuất
của các doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do vậy, Thái Lan trở
thành điểm đến để sản xuất nhiều mặt hàng xuất khẩu như ô tô, xe máy, hàng điện tử,
dệt may, của các công ty đa quốc gia trên thế giới.
Chiến lược và chính sách thúc đẩy phát triển CNHT.
Cục Phát triển CNHT của Thái Lan thành lập năm 1998 và trực thuộc sự quản lý
của Vụ Xúc tiến công nghiệp - Bộ Công nghiệp có vai trò đặc biệt là cung cấp và hỗ trợ
về kỹ thuật và đào tạo cho các ngành CNHT, ngoài ra Cục còn hỗ trợ thiết kế và phát
triển các khuôn mẫu trong quá trình sản xuất thiết bị CNHT và là cầu nối xúc tiến các
nhà thầu phụ phát triển. Tại Thái Lan cũng hình thành các viện nghiên cứu độc lập: Viện
ô tô, điện tử, dệt may hỗ trợ cho các ngành Công nghiệp chính. Thái Lan có các chính
sách phát triển gia công kim loại, chế tạo linh kiện, phụ tùng hỗ trợ cho sản phẩm viễn
thông và điện tử xuất khẩu. Các doanh nghiệp của Thái Lan còn được tham gia vào việc
dự thảo, điều chỉnh và kiểm tra các chính sách phát triển.
Mặc dù Thái Lan có nhiều chính sách thu hút đầu tư từ nước ngoài nhưng khi
năng lực của ngành công nghiệp hỗ trợ đã phát triển đến một yêu cầu nhất định, Thái
Lan có chính sách buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải tuân thủ tỷ lệ nội địa hóa
nhằm đảm bảo mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Điều này không
chỉ mở rông những dự án đầu tư mở rộng nhà xưởng sản xuất ngay tại chỗ, mà còn
kéo theo các tập đoàn lớn từ chính các nước đầu tư phải mở thêm các cơ sở CNHT tại
Thái Lan.
Tăng cường liên kết doanh nghiệp, cụm công nghiệp
Để thúc đẩy các ngành CNHT, BSID chủ yếu tập trung vào các ngành công
nghiệp phụ tùng ô tô và phụ tùng cho ngành công nghiệp điện và điện tử, đặc biệt là
các sản phẩm khuôn mẫu, dập và đúc. Với mục đích thúc đẩy các ngành CNHT tại
57
Thái Lan, Chính phủ nước này đã có nhiều chính sách nhằm thúc đẩy các mối liên kết
giữa các DN cung cấp linh kiện, phụ tùng địa phương và các DN lắp ráp lớn, các tập
đoàn đa quốc gia ở cả Thái Lan và nước ngoài…
Các chính sách chủ động của chính phủ đã đóng một vai trò then chốt trong việc
tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ngành công nghiệp đó. Các kế
hoạch phát triển quốc gia (NESDPs) đã trở thành công cụ trong việc tích hợp Thái Lan
vào nền kinh tế toàn cầu và mạng lưới sản xuất của công ty xuyên quốc, đặc biệt là trong
ngành công nghiệp điện tử. Các nhóm chính sách chính bao gồm: các chính sách khuyến
khích đầu tư, chính sách khoa học công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ.
Chính phủ Thái Lan đã thành lập ủy ban hỗ trợ về các ngành CNHT và cùng với
các tổ chức nghiên cứu đề ra các sáng kiến nhằm phát triển, xây dựng, hình thành
những mối liên kết công nghiệp hỗ trợ trong nước. Một trong số những sáng kiến
thiết thực nhất là thành lập Khu công nghiệp hỗ trợ nhằm phát triển công nghiệp hỗ
trợ trên toàn quốc.
Hiện nay, công nghiệp hỗ trợ ở Thái Lan chia thành 3 cấp: Lắp ráp, cung cấp phụ
tùng thiết bị, linh kiện và dịch vụ với tổng số 19 ngành CNHT khác nhau. Riêng đối
với ngành Công nghiệp ô tô, Thái Lan có hơn 2.000 DN sản xuất linh kiện, trong đó
có gần 400 nhà sản xuất chuyên về phôi đúc hoặc rèn. Điều này không chỉ đưa tỷ lệ
nội địa hóa ô tô lên cao mà còn giúp Thái Lan trở thành nước xuất khẩu ô tô và linh
kiện được sản xuất tại chỗ lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á. Mặc dù có 15 nhà
máy lắp ráp, nhưng Thái Lan có đến 1.800 nhà cung cấp thiết bị phụ tùng và linh kiện
dịch vụ. Chính phủ Thái Lan từ việc quy định về tỷ lệ nội địa hóa 40% với xe tải nhỏ,
54% với các loại xe tải khác vào năm 1996, đến nay, quy định tỷ lệ nội địa hóa là
100% đối với động cơ diesel.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài hợp lý
Ban BOI cung cấp cho các nhà đầu tư một loạt các ưu đãi như miễn giảm thuế
nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản thuế khác, hỗ trợ tín dụng, bảo lãnh,
hỗ trợ cơ sở hạ tầng và dịch vụ. Các ưu đãi phi thuế (ví dụ như bảo lãnh) có sẵn cho tất cả
các dự án được BOI quảng bá, bất kể vị trí hoặc ngành. Ưu đãi thuế dựa trên địa điểm
và/hoặc ngành cụ thể. Từ năm 1993, các dự án đầu tư vào các khu vực do Chính phủ quy
định đã được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp từ 2-8 năm và thuế nhập khẩu nguyên liệu
để sản xuất sản phẩm xuất khẩu trong thời gian từ 1-5 năm.
58
Bảng 3.3: Chính sách thuế ưu đãi cho FDI đầu tư vào các KCN theo quy hoạch
STT Thuế nhập khẩu Bên ngoài KCN Bên trong KCN
Giảm 50% thuế Giảm 50% thuế 1 Vùng 1
Giảm 50% thuế Miễn thuế nhập khẩu 2 Vùng 2
Miễn thuế nhập khẩu Miễn thuế nhập khẩu 3 Vùng 3
Thuế TNDN Bên ngoài Khu công nghiệp Bên trong khu công nghiệp
Không được ưu đãi Miễn thuế 03 năm 1 Vùng 1
Miễn thuế 03 năm Miễn thiếu 07 năm 2 Vùng 2
Miễn thuế 08 năm Miễn thuế 08 năm 3 Vùng 3
Nguồn: [76, Tr.56-57]
Trong số các quốc gia, lãnh thổ đầu tư vào Thái Lan, Nhật Bản có lượng vốn
đầu tư lớn nhất với khoảng 7.000 doanh nghiệp (DN) đang đầu tư và hoạt động tại
quốc gia này; Hàn Quốc, Trung Quốc ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
vốn FDI vào Thái Lan; Lượng vốn FDI từ các nhà đầu tư Singapore chiếm khoảng
80-90% tổng vốn đầu tư của các nước ASEAN vào Thái Lan. Để thu hút thêm vốn
FDI, trong chiến lược mới được Thái Lan thông qua đầu tháng 9/2014, nước này sẽ
tiếp tục ưu tiên thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, chế biến và phân phối hàng
nông sản, khai khoáng, công nghiệp nhẹ, chế tạo máy và thiết bị vận tải, thiết bị điện
và điện tử, hóa chất, sản xuất nhựa, giấy, dịch vụ và cơ sở hạ tầng,… Về thủ tục đầu
tư, có khoảng trên 20 cơ quan của Chính phủ Thái Lan tham gia vào quy trình thẩm
định, thành lập DN để đẩy nhanh quá trình triển khai thực hiện đầu tư dự án của nhà
đầu tư nước ngoài tại Thái Lan [76, Tr.98]..
Diện hưởng ưu đãi đầu tư thu hẹp dần từ 240 ngành, lĩnh vực xuống còn 100
ngành, lĩnh vực, hiện tập trung hơn vào các lĩnh vực: Phát triển công nghệ cao; R&D,
đẩy mạnh hoạt động đào tạo công nghệ tiên tiến; Phát triển DN nhỏ và vừa; Tận dụng
ưu thế về vị trí địa lý cũng như khắc phục sự thiếu hụt về tài nguyên thiên nhiên, tạo
ra một hệ thống các ngành dịch vụ thúc đẩy đầu tư quốc tế.
Tóm lại, môi trường đầu tư thuận lợi đã giúp Thái Lan khá thành công trong
việc thu hút FDI vào KCN. Đây là yếu tố quyết định làm thay đổi nhanh chóng bộ
mặt của nền kinh tế Thái Lan, trở thành một quốc gia có cơ cấu công nghiệp, dịch vụ
khá hiện đại trong nhiều lĩnh vực về kỹ thuật và công nghệ cao tại trong khối ASEAN.
59
Nắm giữ vai trò là quốc gia chủ lực trong khối ASEAN về công nghiệp xe hơi, lọc hóa
dầu, xi măng, hóa chất, nông nghiệp kỹ thuật cao,... Những tác động từ FDI là cơ sở
vững chắc cho sự tăng trưởng ổn định, tiền đề cho sự thay đổi vượt trội về năng lực cạnh
tranh và hấp dẫn thu hút đầu tư của Thái Lan trong khu vực châu Á [86, Tr. 67].
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực và khoa học
Thái Lan đã có nhiều chính sách ưu đãi tài chính cho các doanh nghiệp tham gia
vào hoạt động R&D thông qua Quỹ Phát triển Đổi mới, Quỹ Nghiên cứu và Phát triển
Công nghệ. Theo đó, Quỹ Phát triển Đổi mới hỗ trợ hoạt động R&D trong khu vực
sản xuất với hình thức 50-50, có nghĩa là doanh nghiệp phải bỏ ra ít nhất 50% tổng
kinh phí, 50% còn lại sẽ được hỗ trợ với mức lãi suất thấp (1/3 được cung cấp bởi
Ngân hàng thương mại, 2/3 còn lại được Quỹ hỗ trợ). Quỹ Nghiên cứu và Phát triển
Công nghệ trực thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Quỹ này hỗ trợ
thương mại hóa kết quả của hoạt động R&D, hỗ trợ nâng cấp, cải tiến máy móc thiết
bị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra dưới hình thức vay lãi suất thấp
(khoảng 5%/năm), thời gian vay từ 5 đến 10 năm; đồng thời Chính phủ cũng khuyến
khích phát triển KH&CN đối với các khu vực doanh nghiệp như miễn, giảm thuế
nhập khẩu đối với thiết bị phục vụ đào tạo, miễn thuế và cho phép khấu hao nhanh
trong năm đầu tiên đối với trang thiết bị phục vụ R&D (40%), đồng thời Chính phủ
xây dựng các kế hoạch hành động để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thông
qua việc hoàn thiện năng lực R&D và đổi mới nguồn nhân lực công nghệ của doanh
Theo Thạc sỹ Đinh Văn Bảo: Chính phủ Thái Lan đã đưa ra các gói hỗ trợ đổi mới công
nghệ, khuyến khích phát triển kỹ năng bằng cách giảm thuế thu nhập dài nhất là 8 năm và
miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc áp dụng trong các lĩnh vực điện tử, y tế, thiết kế và đào
tạo nguồn nhân lực, tuyển dụng nhân lực khoa học được hưởng ưu đãi. Thái Lan đã rất thành
công khi tập trung ưu tiên phát triển một số ngành CNHT và tìm cho mình những linh kiện cơ
bản để tập trung chuyên môn hóa. Thái Lan tập trung chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
đặt trọng tâm vào các công ty FDI, đặc biệt là các công ty Nhật Bản.
nghiệp nhằm tạo thuận lợi cho phát triển công nghệ ở khu vực tư nhân [122, Tr. 156];
3.2 Các nhân tố tác động đến CNHT của một số nước Đông Á.
a) Các nhân tố tác động đến CNHT của Nhật Bản
- Điều kiện vĩ mô và chính sách nhà nước
Các chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ được chính phủ Nhật Bản đưa ra
60
từng giai đoạn, từng điều kiện hoàn cảnh của ngành kinh tế có tác động trực tiếp tới
ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng, đồng thời đẩy lùi những khó khăn, thách thức
trong từng giai đoạn phát triển, các chính sách hỗ trợ để bảo vệ và giúp đỡ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ yên tâm hoạt động, bảo vệ các doanh nghiệp khỏi những tác động
của nền kinh tế thế giới và những biến động của thị trường. Các chính sách ưu đãi về
thuế, sát nhập doanh nghiệp, hỗ trợ vay vốn thành lập quỹ bảo vệ và hỗ trợ hoạt động
cho doanh nghiệp luôn được chính phủ Nhật Bản ưu tiên thực hiện.
- Nhân tố nguồn nhân lực
Nhân tố nguồn nhân lực tri thức cao được Chính phủ Nhật Bản đầu tư thông qua
hệ thống giáo dục về cơ sở vật chất, đặc biệt chú trọng đào tạo nghề, là tiền đề tạo
nên một lực lượng lao động có tay nghề vững chắc, sẵn sàng làm việc nhằm phát triển
công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản. Đây là nhân tố mà Nhật Bản rất coi trọng vì có tác
động mạnh mẽ đến phát triển CNHT.
- Nhân tố quy mô cầu
Nhân tố “quy mô cầu” có xu hướng tăng trưởng ở hầu hết các ngành nghề
cũng là nhân tố ảnh hưởng đến phát triển CNHT ở Nhật Bản. Nhật Bản là một trong
những quốc gia đông dân, nên nhu cầu trong nước cũng được xem như là một động
lực thúc đẩy đổi mới và tang trưởng. Người mua trong nước của Nhật Bản cũng rất
sành sỏi và yêu cầu sản phẩm chất lượng cao về sản phẩm đầu ra.
- Sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp chủ đạo.
Các doanh nghiệp công nghiệp chủ đạo ở Nhật Bản hầu như đều đến từ các tập
đoàn lớn có lịch sử lâu đời. Các tập đoàn này là một phần của mạng lưới liên kết dài
hạn dài hạn (JIC và INCJ như đã đề cập ở trên) với các thực thể như ngân hàng, chính
phủ, và các đối tác kinh doanh khác trên toàn thế giới. Vì thế các doanh nghiệp này
phát triển sẽ kéo theo ngành CNHT phát triển. Tuy nhiên đây lại là hạn chế của các
công ty CNHT khởi nghiệp khi họ khó có thể xâm nhập vào các cấu trúc thị trường
đã được thiết lập bởi các tập đoàn lớn và chính phủ.
b) Các nhân tố tác động đến CNHT của Thái Lan
- Nhân tố cơ chế chính sách
Cơ chế chính sách và định hướng phát triển công nghiệp hỗ trợ từ sớm của
Thái Lan là nhân tố góp phần quan trọng nhất vào đẩy mạnh quá trình phát triển
CNHT của nước này. Với cơ chế chính sách thông thoáng, đề cao tính hội nhập
61
nhưng không làm mất sự cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất và lắp giúp các
doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp tăng năng lực cạnh tranh trong giai đoạn đầu và có
điều kiện học hỏi kinh nghiệm từ nước ngoài.
Bên cạnh đó, cơ chế chính sách phát triển CNHT của Thái Lan cũng hướng
các doanh nghiệp đến tính chuyên môn hoá cao nhằm đạt lợi thế về quy mô thông qua
nhiều chính sách vĩ mô của Nhà nước.
- Sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp chủ đạo.
Thái Lan không có các doanh nghiệp chủ đạo mà thay vào đó là coi trọng tất cả
các doanh nghiệp từ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp FDI, nhất là các doanh
nghiệp chế tạo. Việc thực hiện chính sách xuất xứ địa phương trong sản phẩm đòi hỏi
cần có sự kết nối các doanh nghiệp chế tạo công nghiệp hỗ trợ địa phương vào mạng
sản xuất toàn cầu, tạo sức ép lên các doanh nghiệp địa phương cần đáp ứng được các
yêu cầu tổ chức và kỹ thuật của mạng sản xuất toàn cầu.
Để giải quyết vấn đề này, Thái Lan rất chú ý đến việc xây dựng thể chế liên
kết giữa công ty đa quốc gia nước ngoài với doanh nghiệp địa phương. Uỷ ban Đầu tư
Thái Lan đã thành lập Cơ quan Phát triển liên kết công nghiệp để khuyến khích liên
doanh giữa các công ty của địa phương với các công ty của nước ngoài. Điều này cho
thấy Thái Lan đặc biệt coi trọng việc tạo dựng mối liên kết giữa các nhà chế tạo trong
nước với nước ngoài, tránh sự phụ thuộc vào nước ngoài.
- Tình trạng thiếu thông tin và sự chênh lệch về tiêu chuẩn chất lượng.
Nhân tố thông tin cũng như tiêu chuẩn chất lượng cũng ảnh hưởng lớn đến
phát triển CNHT ở Thái Lan. Các hoạt động tư vấn và thảo luận giữa cộng đồng địa
phương và chuyên gia về việc sử dụng lao động, cung ứng nguyên vật liệu, quá trình
thiết kế và marketing không chỉ cung cấp nguồn thông tin quan trọng giúp các doanh
nghiệp CNHT tìm ra một sản phẩm mạnh nhất, gọi là “sản phẩm làng vô địch”, sau
đó lấy giấy chứng nhận của chính quyền địa phương về sản phẩm. Trên cơ sở đó, có
những xem xét và nghiên cứu để phản ứng với nhu cầu của thị trường và tiêu chuẩn
chất lượng một cách phù hợp.
- Nhân tố nguồn nhân lực
Nhân tố nguồn nhân lực CNHT chất lượng cao được xem là yếu tố cần thiết
cho việc đưa trình độ sản xuất của Thái Lan vượt lên giới hạn của bẫy thu nhập trung
bình, cũng như giải quyết hiệu quả những thách thức cạnh tranh trong quá trình hội
62
nhập kinh tế quốc tế. Phát triển nguồn nhân lực CNHT có trình độ cao cần có sự phối
hợp của cả doanh nghiệp trong và ngoài nước, các cơ sở đào tạo. Đẩy mạnh hơn nữa
việc xuất khẩu lao động, nhất là lao động kỹ thuật. Nhờ đó, người lao động sau thời
gian làm việc ở nước ngoài có thể nắm được kỹ thuật, tác phong làm việc, khi trở về
nước sẽ góp phần phát triển các ngành nghề liên quan.
c) Các nhân tố tác động đến CNHT của Trung Quốc
- Cơ chế chính sách nhà nước
Cơ chế chính sách của nhà nước được xem là nhân tố tác động mạnh mẽ nhất
đến phát triển ngành CNHT ở Trung Quốc. Cụ thể: các chính sách khuyến khích quá
trình học hỏi công nghệ, và chuyển từ liên kết ngang (theo chiều rộng) sang liên kết dọc
(theo chiều sâu) trong chuỗi giá trị ngành công nghiệp nội địa của Trung Quốc đã có tác
dụng triệt để trong việc tận dụng lợi thế thị trường và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Cơ chế chính sách nghiêm ngặt đã giúp thúc đẩy phát triển thị trường linh kiện, phụ tùng
nội địa rộng lớn, và kết nối các nhà sản xuất trong nước.
Cơ chế chính sách của Trung Quốc là cho phép các hãng nước ngoài tham gia
chương trình thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ở Trung
Quốc thông qua việc thiết lập các tiêu chí lựa chọn. Theo đó, các hãng lớn nước ngoài
có thể đưa ra chính sách và tập hợp các tiêu chí lựa chọn đối tác là các hãng trong
nước có đủ điều kiện để sản xuất cung cấp linh kiện, phụ tùng cho họ.
- Sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp chủ đạo.
Trung Quốc sử dụng doanh nghiệp nhà nước (DNNN) như một công cụ trong
chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp nội địa. Các DNNN lớn
được xem là các doanh nghiệp công nghiệp chủ đạo vừa tham gia vào trong các liên doanh
lắp ráp và vừa đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất linh kiện, phụ tùng. Các hãng liên doanh
đóng vai trò tăng cường khả năng thích nghi và chuyên sâu hơn của các cơ sở sản xuất
trong nước để cung cấp cho các hãng nước ngoài.
Sự phát triển của các doanh nghiệp chủ đạo kéo theo nhu cầu về các chi tiết,
phụ tùng, linh kiện từ các nhà thầu phụ là các DNNVV khác. Qua đó, các hãng nội
địa của Trung Quốc dần tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp toàn cầu.
- Môi trường kinh tế vĩ mô
Trung Quốc tạo một môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi cho các DNNVV khu
vực tư nhân tham gia vào công nghiệp hỗ trợ trong mạng sản xuất địa phương có tác
63
động hỗ trợ và khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào
sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô và cơ khí.
Môi trường thuận lợi như ưu đãi thuế, hỗ trợ tín dụng và nhiều biện pháp khác
khuyến khích các hãng nước ngoài sử dụng các linh kiện sản xuất tại địa phương là nhân
tố quan trọng đối với sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ tại Trung Quốc.
- Yếu tố nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực giá rẻ được xem là lợi thế so sánh của Trung Quốc trong phát
triển ngành CNHT, tuy nhiên, việc nguồn nhân lực giá rẻ nhưng số lượng nhân lực
trình độ cao còn thấp cũng mang lại trở ngại cho Trung Quốc trong khi phải tiếp nhận
phát triển khoa học công nghệ từ các nước phát triển khác nhằm phục vụ cho ngành
CNHT. Việc chuyển mình từ công xưởng của thế giới thành một nhà cung cấp dịch
vụ hàng đầu, đòi hỏi phải có một lượng lớn các lao động tay nghề cao. Tuy nhiên,
cũng giống như nhiều quốc gia trên thế giới, Trung Quốc hiện đang phải đối mặt với
tình trạng thiếu hụt nhân tài trầm trọng. Đây được xem là yếu tố vừa có ảnh hưởng
tích cực và tiêu cực tới việc phát triển CNHT ở Trung Quốc.
3.3 Một số thành tựu đạt được và hạn chế trong phát triển CNHT ở các nước
Đông Á
Trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2020, tác giả đã gửi phiếu khảo sát
đến 6 tổ chức bao gồm 3 tổ chức ở nước ngoài là: Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật
Bản (JETRO), Ban Phát triển CNHT Thái Lan (BSID), Bộ Công nghiệp và Công
nghệ thông tin Trung Quốc và 3 tổ chức tại Việt Nam cụ thể: Trung tâm Phát triển
doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (SIDEC); Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
(VASI); Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Việc khảo sát thực hiện
thông qua hình thức gửi email đến các đầu mối cơ quan tổ chức và nhận lại kết quả thông
qua email. Kết quả là, tác giả đã nhận được 5/6 phiếu khảo sát hợp lệ (phiếu hỏi gửi đến
các tổ chức trong phụ lục 01) tuy nhiên sẽ có những phiếu không nhận được câu trả lời
đầy đủ. Tác giả cũng đã có các cuộc gặp với các nhà hoạch định chính sách công nghiệp,
những nhà nghiên cứu, giữ vị trí tại các cơ quan nhà nước liên quan đến CNHT và các
chuyên gia nghiên cứu trong các lĩnh vực CNHT, các cuộc gặp được thực hiện tại nơi
làm việc của các chuyên gia và thực hiện bằng cách phỏng vấn nhanh và được tác giả ghi
chú trong phần đóng khung trong Luận án.
Dưới đây là một số kết quả nghiên cứu đánh giá của tác giả:
64
Số lượng và quy mô doanh nghiệp CNHT ở các nước Đông Á (Năm 2020)
STT
Quốc gia
Tỷ lệ DN VVN CNHT
Nhật Bản Trung Quốc Thái Lan Việt Nam
Tổng số DN CNHT 42,000 4,350,000 30,400 4,500
Số lượng DN vừa và nhỏ CNHT 39,880 4,341,300 30,090 4,140
99,7% 99,8% 99% 98,1%
1 2 3 4
Nguồn: Khảo sát của Tác giả
Số lượng doanh nghiệp CNHT
STT
Quốc gia
Nhà cung cấp 2 và 3 16,800 1,967,000 7150 700
Nhà cung cấp 4 trở lên 22,320 2,023,000 22,500 3,700
Nhật Bản Trung Quốc Thái Lan Việt Nam
Nhà cung cấp 1 2,880 360,000 750 100
1 2 3 4
Nguồn: Khảo sát của Tác giả
Tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu, vật tư, linh kiện tại các nước.
STT
Quốc Gia
Trung Quốc Thái Lan Nhật Bản Việt Nam
Tỷ lệ nội địa hoá nguyên liệu, vật tư, linh kiện tại các nước (2017) 68% 57% 59,2% 34%
Tỷ lệ nội địa hoá nguyên liệu, vật tư, linh kiện tại các nước (2021) 70% 60% 61,8% 37%
1 2 3 4
Nguồn: Khảo sát của Tác giả
Đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
Mức độ cạnh tranh sản phẩm CNHT được các tổ chức đánh giá theo thang điểm 5-10
STT
Quốc Gia
Trung Quốc Thái Lan Nhật Bản Việt Nam
Tổ chức 1 9,8 điểm 7,8 điểm 9,5 điểm 6.5 điểm
Tổ chức 2 9,4 điểm 7,6 điểm 9,1 điểm 6.0 điểm
Tổ chức 3 9,2 điểm 7,0 điểm 9,0 điểm 6.0 điểm
Tổ chức 4 9,7 điểm 7,6 điểm 9,2 điểm 6.2 điểm
1 2 3 4
Nguồn: Khảo sát của Tác giả Ưu tiên các chính sách trong phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNHT (mức độ cao nhất là
4, thấp nhất là 1)
Mức độ ưu tiên các chính sách trong phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNHT từ 1-4
STT
Quốc Gia
Nhật Bản Thái Lan Trung Quốc Việt Nam
1
3
2
3
1
2
2
1
1
4
3
1
4
2
3
4
4
3
4
2
Thực hiện trao đổi lao động khu vực và quốc tế Đưa ra các kế hoạch đào tạo nguồn lực bài bản và có lộ trình cho CNHT Có những chế độ đãi ngộ để đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho CNHT Cử chuyên gia kỹ thuật trình độ cao sang huấn luyện, đào tạo
Nguồn: Khảo sát của Tác giả
65
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định nhà thầu chính lựa chọn nhà cung cấp phụ
trợ, hãy chọn theo mức độ):
RQT: Rất quan trọng, QT: Quan Trọng, CT: Cần Thiết, KCT: Không cần thiết.
STT
Các yếu tố
Nhật Bản QT RQT RQT CT QT QT QT
Thông tin về DN đầy đủ, rõ ràng 1 Chất lượng sản phẩm 2 3 Năng lực (quy mô) sản xuất 4 Năng lực tự thiết kế, đổi mới sản phẩm 5 Khả năng thay thế sản phẩm 6 Giá cả hợp lý 7
Thái Lan QT QT QT QT CT QT QT
Trung Quốc CT CT CT RQT RQT RQT QT
Việt Nam CT QT CT CT CT RQT QT
Các tiêu chuẩn quản lý SX, môi trường… Trình độ của nguồn nhân lực
CT QT CT
8 9 Quan hệ hợp tác lâu dài 10 Yếu tố khác
QT CT CT
CT CT CT
QT CT CT Nguồn: Khảo sát của Tác giả
Đánh giá hiệu quả các chính sách hỗ trợ phát triển CNHT ở Quốc gia của bạn
RHQ: Rất Hiệu quả, HQ: Hiệu quả, TĐHQ: Tương đối Hiệu quả, KHQ:
Không Hiệu quả.
STT Các yếu tố Nhật Bản Thái Lan Trung Quốc Việt Nam
1 RQH RQH HQ TĐHQ Thành lập các tổ chức hỗ trợ DN CNHT
2 Chính sách miễn giảm thuế, lãi RHQ HQ TĐHQ TĐHQ suất …
HQ RHQ HQ HQ TĐHQ TĐHQ CHQ TĐHQ
2 Hỗ trợ quỹ đất xây dựng 3 Hỗ trợ vốn vay, tín dụng 4 Các chính sách thúc đẩy tăng tỷ lệ HQ HQ HQ TĐHQ
nội địa hóa Phát triên triển nguồn nhân lực HQ
HQ HQ RHQ TĐHQ RHQ HQ HQ TĐHQ CHQ TĐHQ
6 7 Ứng dụng chuyển giao công nghệ TĐHQ 8 9 HQ HQ RHQ CHQ Thu Hút đầu tư FDI Liên kết các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất
HQ HQ 10 Yếu tố khác HQ TĐHQ Nguồn: Khảo sát của Tác giả
Nhận xét chung về kết quả khảo sát:
1. Có thể nói, CNHT chính là nền công nghiệp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(DNVVN). Hiện ở Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan có nhiều công ty tầm cỡ thế giới,
66
nhưng chỉ chiếm 0,2-1% tổng số doanh nghiệp trong nước và công việc chủ yếu vẫn
là lắp ráp, sản xuất cuối cùng, còn 99% doanh nghiệp cấp thấp hơn sản xuất các linh
kiện. Ở Việt Nam, hầu hết các DN CNHT cũng là doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm
98%, đây cũng là nét tương đồng để Việt Nam có thể học hỏi các bài học về phát
triển DNVVN. Về quy mô DN CNHT thì các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan
cũng chia thành 3 nhóm, DN CNHT cấp 1, DN CNHT Cấp 2 và 3, DN CNHT Cấp 4
trở lên, tỷ lệ các doanh nghiệp cấp 1,2,3 ở Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan tỷ lệ cao
30-45-50%, cho thấy các doanh nghiệp CNHT các nước đều đã có quy mô lớn đáp
ứng được nhu cầu của DN chế tạo, Trong khi DN CNHT Việt Nam tỷ lệ các doanh
nghiệp cấp 1,2,3 chiếm 18%, vẫn chủ yếu là DN cấp 4 (Chiếm 82%) và chỉ tổng số
DN CNHT chỉ chiếm 4,5% DN chế tạo.
2. Tỷ lệ nội địa hóa các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan hiện nay đạt 60-
70% trong khi Việt Nam chỉ đạt 35% ở thời điểm hiện tại. Để đạt được con số như
các nước Đông Á, chắc chắn Việt Nam phải nổ lực và cần có các chính sách phù hợp
nhằm tạo bước đột phá cho ngành CNHT.
3. Qua khảo sát cũng thấy được các tiêu chí lựa chọn nhà thầu phụ của các nhà
thầu chính ở các nước để thấy được sự tương đồng giữa Việt Nam và các nước, và
các DN CNHT tạiViệt Nam cũng có thể tham khảo, học hỏi để thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài lựa chọn trở thành các vendor tại Việt Nam và nước ngoài.
4. Về các chính sách hỗ trợ CNHT ở các nước thì theo khảo sát của tác giả thì
các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan đều áp dụng hầu hết các giải pháp và đánh
giá là có hiệu quả cụ thể:Nhật Bản áp dụng thành công hầu hết các chính sách và
hiệu quả nhất ở các chinh sách hỗ trợ về vốn, tín dụng, lãi suất, thuế quan…Thái Lan
thông qua việc thành lập các tổ chức hỗ trợ CNHT và phát triển mạnh về mảng công
nghệ trong CNHT, Trung Quốc tận dụng nguồn nhân lực rẻ, liên kết các doanh
nghiệp với nhau đều là các chính sách ấn tượng và mang lại kết quả phát triển
ngành CNHT vượt bậc. Đây sẽ là những bài học quý giá để Việt Nam học hỏi.
Vậy những kết quả đạt được từ các chính sách, bài học ở các nước như thế nào, tác
giả sẽ đi sâu phân tích từng quốc gia trong các phần bên dưới để có sự đánh giá
hiệu quả của từng bài học phát triển CNHT tại các quốc giá Nhật Bản, Trung
Quốc, Thái Lan.
67
3.3.1 Một số kết quả đạt được trong phát triển CNHT ở Nhật Bản
Đối với ngành CNHT ô tô tại Nhật Bản
Nhật Bản là đất nước luôn lọt trong danh sách xếp hạng 10 quốc gia có nền
công nghiệp sản xuất và xuất khẩu ô tô lớn nhất thế giới, với các hãng sản xuất xe nổi
tiếng như các xe thể thao của hãng Kawasaki và Yamaha.
Các tập đoàn kinh doanh Nhật Bản đã tăng cường xây dựng chi nhánh và
chuyển dây chuyền sản xuất ra nước ngoài, bằng chứng là số xe sản xuất tại nước
ngoài đã tăng 14,2 triệu chiếc [97, Tr.65]. Tổng số lượng xe được sản xuất trong và
ngoài nước của các hãng ô tô Nhật Bản theo số liệu năm 1990 là gần 17 triệu xe và 20
năm sau, tổng số xe sản xuất đã tăng lên đến hơn 27 triệu vào năm 2014. Theo số liệu
của năm 2014 tổng hợp từ 50 quốc gia, tổng số xe hơi được sản xuất trên toàn thế
giới vào khoảng 91,31 triệu chiếc. Như vậy, sản lượng xe của các hãng xe đến từ
Nhật Bản chiếm gần 30% và dẫn đầu thế giới [97, Tr. 66].
Biểu đồ 3.3: Công nghiệp sản xuất ô tô Nhật Bản giai đoạn 1990-2014
Nguồn: [117, Tr.67-68]
Các sản phẩm của công nghiệp hỗ trợ ô tô vô cùng đa dạng và liên quan tới rất
nhiều ngành công nghiệp khác nhau từ công nghiệp hóa chất, công nghiệp điện tử,
công nghiệp dệt…do vậy không một nhà sản xuất nào có thể tự mình sản xuất hoàn
thiện một chiếc ô tô mà không cần nhờ tới công nghiệp hỗ trợ.
Để có một chiếc ô tô hoàn chỉnh, cần có khoảng từ 20.000 tới 30.000 các linh
phụ kiện đi kèm, các vật liệu và phụ kiện chính của công nghiệp hỗ trợ sản xuất ô tô
bao gồm: Sắt tấm, các loại thép, các loại kim loại khác, cao su, dệt may, giấy, hóa
chất, vòng bi, nhựa… được thể hiện thông qua kết cấu công nghiệp dưới đây:
68
Sơ đồ 3.2: Kết cấu công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô của Nhật Bản
Nguồn: [109, Tr.25-26]
Trải trên khắp lãnh thổ nước Nhật, có gần 40 các nhà máy sản xuất linh kiện của các hãng xe lớn như Toyota, Daihatsu, Nissan, Honda… trong đó khu vực có mật độ
tập trung nhiều các doanh nghiệp hỗ trợ nhất là Aichi và Shizuoka Ngoài ra còn rất nhiều các nhà máy sản xuất linh kiện của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác, sản xuất
các loại sản phẩm linh kiện ô tô khác cung cấp cho các nhà lắp ráp lớn trong nước và
cung cấp cho những người lắp ráp ngoài nước (ví dụ như công ty Kitanihon Seiki
Co.,Ltd: chuyên sản xuất bi, và vòng bi cho xe ô tô. Hàng năm công ty đang sản xuất
12 triệu vòng bi mỗi năm và cung cấp cho các nhà san xuất trong nước cũng như 35
đối tác ngoài nước trong đó nước có giao dịch lớn nhất là Mỹ và Châu Âu; công ty
Torc Seimitsu Kogyo Co., Ltd chuyên sản xuất các phụ kiện chính xác cho ô tô với
kỹ thuật công nghệ tiên tiến; Nambuo.,Lt nhà sản xuất hàng đầu thế giới về các loại
xylanh đặc biệt cho ô tô…).
Bảng 3.4: Giá trị linh kiện ô tô xuất khẩu, nhập khẩu của Nhật Bản
Năm
EXP by FOB (100 triệu Yên) 33,555 36,786 41,078 42,998 45,617 48,006 50,227 53,555 60,655
% thay đổi so với năm trước 110% 112% 105% 106% 105% 105% 107% 113%
IMP theo CIF (100 triệu Yên) 12,200 16,576 19,196 23,520 26,787 29,204 35,249 36,291 41,662
% thay đổi so với năm trước 136% 116% 123% 114% 109% 121% 103% 115%
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Nguồn: Auto Brochure 2019 - JAMA
Cũng theo bảng 3.4, ta có thể thấy giá trị nhập khẩu linh kiện ô tô của Nhật
69
Bản cũng đang có xu hướng tăng dần. Điều này phản ánh xu thế hiện tại của các nhà
sản xuất ô tô Nhật Bản là tăng cường mở rộng hoạt động sản xuất, lắp ráp ô tô ra
ngoài lãnh thổ Nhật Bản, tăng cường xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường nội địa và
tăng nhập khẩu các sản phẩm linh kiện từ các thị trường nước ngoài để giảm chi phí,
tăng nhập khẩu các linh kiện thông thường để rút ngắn thời gian của hoạt động lắp
ráp. Hiện tại các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản tiếp tục mở rộng hoạt động sản xuất tại
các thị trường như Mỹ, Châu Âu, Nam Á và Trung Quốc và đẩy mạnh mở rộng tại
các thị trường Đông Á và Trung Phi. Tại các thị trường bên ngoài này, các nhà sản
xuất Nhật Bản thiết lập ngoài các nhà máy lắp ráp ô tô là các nhà máy sản xuất linh
kiện, phụ kiện cho việc lắp ráp như các nhà máy sản xuất thân xe, trục xe, bộ phận
truyền động, bánh xe, săm lốp các nhà sản xuất Nhật Bản có thể mua ngay từ các nhà
sản xuất nội địa còn các chi tiết, linh kiện quan trọng được nhập khẩu từ Nhật hoặc
sản xuất tại các nhà máy của Nhật Bản tại nước ngoài.
Trong năm 2016, Nhật Bản đã chi 2.807,1 tỷ yên cho nghiên cứu phát triển các
ngành sản xuất xe và phụ tùng. Theo Khảo sát Nghiên cứu và Phát triển của Bộ Nội
vụ và Truyền thông, con số này chiếm 21,1% tổng chi phí nghiên cứu phát triển của
các công ty Nhật Bản trong năm đó là 13.830,4 tỷ yên.
Tóm lại, chính sách công nghiệp đối với ngành CN ô tô trong giai đoạn đầu đã
đóng một vai trò quan trọng cực kỳ quan trọng, nhưng chính động lực của các giai đoạn
tiếp theo là quá trình phát triển năng động của bản thân ngành công nghiệp ô tô thông
qua cạnh tranh độc tài, và chính sách công nghiệp đóng một vai trò hạn chế hơn, theo
nghĩa nó cung cấp hỗ trợ cho cạnh tranh thị trường và thúc đẩy CNHT.
Đối với ngành CNHT điện tử tại Nhật Bản
Sự phát triển của DN CNHT điện tử sản xuất sản phẩm linh phụ kiện cho
ngành điện tử tại Nhật Bản theo một mạng lưới rộng khắp. Nhờ một loạt những nỗ lực của
chính phủ Nhật Bản, ví như hạn chế đầu tư vốn nước ngoài, đề ra những biện pháp thuế
đặc biệt nhằm thu hút đầu tư, khuyến khích thành lập các dự án nghiên cứu và sản xuất.
Ngành công nghiệp hỗ trợ điện tử có mức phát triển 20% trong 10 năm liên tục kể từ năm
2005, và đạt tới mức cạnh tranh quốc tế vào năm 2015 [2, Tr.20-21]. Các sản phẩm chính
của CNHT ngành điện tử Nhật Bản được chia thành:
70
Ngành công nghiệp
Các ngành công nghiệp phụ trợ
Dây điện, các đầu bán dẫn, và các
Active components–các linh kiện chính
mạch tích hợp
Passive components–Các linh kiện phụ
Điện trở, cảm điện,tụ điện,
Các linh kiện điện tử khác
Các linh kiện cơ khí, các linh kiện nghe nhìn
Những thành phần chính trên vi mạch như chất bán dẫn, các loại pin chất
lượng cao, các con chip với bộ nhớ mới được sản xuất ở Nhật Bản. Khâu lắp ráp cuối
cùng được tiến hành ở Nhật Bản được giới hạn bởi một mô hình tiến bộ nhưng khá
đắt tiền. Những sản phẩm kỹ thuật thấp thường được sản xuất ở nước ngoài, đặc biệt
là Trung Quốc, hoặc bởi các chi nhánh hay nhà cung cấp Đài Loan. Dù đã loại bỏ hết
những gì lỗi thời, phi lợi nhuận, không liên quan đến kinh doanh và đẩy mạnh dây
chuyền sản xuất thì chúng cũng chỉ tạo ra một sự tiến triển nhỏ bé trong quá trình sản
xuất chuyên môn hóa. Việc tăng chuyên môn hóa, sự liên kết, thúc đẩy vai trò của các
doanh nghiệp nước ngoài đã khiến cho giá cả của các nguyên liệu đầu vào Nhật Bản
ở nước ngoài tăng lên. Chính vì vậy mà các công ty còn lại cũng đang xem xét tới sự
thay đổi đưa ra những giới hạn của họ ở ba yếu tố giúp phát triển ngành CNHT cụ
thể: Hợp tác với các doanh nghiệp ở khu vực khác; sử dụng nguồn lực bên ngoài quốc
gia và dịch vụ công nghệ thông tin, truyền thông.
Sơ đồ 3.3: Chuỗi cung ứng các sản phẩm điện tử Nhật Bản [2, Tr.23-24]
Trong quá trình này, các công nghệ tác động trước và sau giai đoạn 2 là quan
trọng nhất, bao gồm các công nghệ như đúc, gia công áp lực, gia công chính xác, dập,
hàn, sơn, mạ… để tạo nên các linh kiện như linh kiện điện điện tử, linh kiện kim loại,
71
linh kiện nhựa. Các chi tiết linh kiện này, dưới tác động của công nghệ như sơn mạ,
gia công kỹ thuật được lắp ráp thành các cụm linh kiện. Toàn bộ khu vực này là hệ
thống công nghiệp hỗ trợ ngành ĐTGD. Phần cung cấp nguyên vật liệu nằm trong
chuỗi cung ứng của quá trình sản xuất, cũng như phần lắp ráp thành phẩm, nằm ngoài
phạm vi của công nghiệp hỗ trợ.
8000
6000
4000
2000
0
60% 59% 58% 57% 56% 55% 54% 53%
2010
2011
2012
2013
2014
2015
giá trị sản xuất linh kiện điện tử
Gía trị sản xuất thiết bị bán dẫn
Thị phần sản xuất của linh kiện bán dẫn
Biểu đồ 3.4: Giá trị sản xuất thị trường linh kiện điện tử Nhật Bản 2010-2015
(Nguồn: VIRAC, JEITA tổng hợp, năm 2016)- Đơn vị: tỷ yên
Biểu đồ 3.4 cho thấy, giá trị sản xuất phụ kiện và linh kiện điện tử trong giai
đoạn cuối năm 2012 của Nhật Bản có xu hướng giảm, năm 2013 mức sản xuất linh
phụ kiện có dấu hiệu đi lên nhưng về giá trị vẫn giảm sút so với 2010, giá trị sản xuất
09/2015 chỉ bằng 86% so với 09/2010. Điều này phản ánh những khó khăn các doanh
nghiệp hỗ trợ điện tử Nhật Bản gặp phải do suy thoái toàn cầu năm 2012 từ Hoa Kỳ
và lan rộng ra toàn thế giới mà hậu quả trực tiếp là nền kinh tế Nhật Bản và EU lao
đao trong cơn suy thoái. Trong ngành công nghiệp điện tử, các doanh nghiệp Nhật
Bản trong đó có các doanh nghiệp hỗ trợ gặp rất nhiều khó khăn do gặp phải sức ép
cạnh tranh lớn từ các doanh nghiệp thuộc nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung
Quốc, Hàn Quốc với giá thành thấp hơn do tận dụng được lợi thế nhân công giá rẻ và
nguồn tài nguyên dồi dào. Trong tình hình đó, các doanh nghiệp hỗ trợ Nhật Bản
đang tích cực chuyển hướng, tập trung nghiên cứu và phát triển, sản xuất các sản
phẩm có hàm lượng công nghệ và kỹ thuật cao như công nghệ LCD, các mạch tích
hợp. Khu vực linh kiện điện tử của Nhật chiếm khoảng 30-40% thị trường thiết bị
điện tử toàn cầu, và thường có vị trí tốt hơn so với các tập đoàn điện tử của Nhật Bản,
mặc dù cũng phải đối mặt với những thách thức riêng của họ.
72
Đối với ngành CNHT dệt may tại Nhật Bản
Cùng với công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô, điện tử, công nghiệp hỗ trợ trong dệt
may của Nhật Bản cũng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Nhật Bản. Tính đến
hết năm 2007, công nghiệp dệt may của Nhật Bản có khoảng 52.858 doanh nghiệp
tham gia với lực lượng lao động lên tới 423.861 người [16]. Để hỗ trợ cho sự phát
triển của công nghiệp dệt may, ngay từ những năm 1920, các cụm công nghiệp dệt
may đã được hình thành và phát triển như cụm công nghiệp thành phố Kiryu (tại quận
Gumma), cụm công nghiệp Fukui và Ishikawa, cụm công nghiệp Komatsu (tại quận
Ishikawa), cụm công nghiệp Nishiwaki (Hyogo), cụm công nghiệp Gifu…các cụm
công nghiệp này chuyên sản xuất các loại sợi, tơ tằm thủ công, sợi nhân tạo, sợi tổng
hợp phục vụ cho công nghiệp dệt may.
Một số sản phẩm chính của công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may gồm có:
STT Ngành công nghiệp
1
Ngành dệt may
Các ngành công nghiệp phụ trợ Chỉ may, Sản phẩm thêu ren, Bông tấm; Mex dệt; Mex không dệt; Vải phản quang, chống cháy; Vải dệt thoi; Khoá kéo, móc gài, kim; Nhãn dệt, nhãn mác; Thuốc nhuộm, chất trợ nhuộm; Phụ tùng máy dệt, máy may; Phụ kiện đóng gói; Cúc nhựa, cúc dập; Băng các loại; Phụ tùng máy sợi
Các loại sợi hoá học
Các loại sợi hóa học rất đa dạng gồm vinylon, nylông, acrylic, polyester, poly
– propylene và các loại sợi cenlulo khác, trong đó sợi polyester nhân tạo chiếm tỷ
trọng lớn nhất và luôn giữ ổn định ở mức trên dưới 40% trong sản lượng sản xuất
trong nhiều năm. Tính đến hết năm 2018, tổng sản lượng sợi hóa học Nhật Bản sản
xuất được là 5.071 ngàn tấn, tăng 1572 ngàn tấn so với tổng sản lượng năm 2010.
Tổng sản lượng sợi hóa học của Nhật Bản tăng dần theo thời gian do nhu cầu sử dụng
ngày một tăng, tỷ lệ các loại sợi sản xuất được vẫn giữ được tỷ lệ ổn định tương đối
trong tổng số lượng sợi nhân tạo sản xuất được.
- Sản phẩm dệt và sản phẩm đan: Sản lượng sản xuất sản phẩm dệt hay đan
đều chủ yếu tập trung vào sợi tổng hợp và sợi hóa học (gồm: sợi tổng hợp, sợi tự
nhiên) chiếm tới đến 96% lượng sản xuất và biến động theo xu hướng đi xuống với
sản lượng các sản phẩm khác phản ánh sự khó khăn của ngành dệt may Nhật Bản
trong những năm gần đây. Từ những năm 80 trở lại đây, từ một nước xuất khẩu dệt
may, Nhật Bản trở thành một trong những nước nhập khẩu dệt may lớn với chênh
73
lệch cán cân xuất và nhập luôn ở mức âm.
Bảng 3.5. Xuất, nhập khẩu và cán cân thương mại ngành dệt may Nhật Bản
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân
Sợi dệt Dệt may
Sợi dệt Dệt may
(A-B)
Năm
Tổng cộng
Triệu yên Triệu yên
Triệu yên
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Triệu yên 128,907 106,116 126,562 134,187 130,907 164,328 180,750 193,305 115,922
Triệu yên 812,385 608,421 656,149 677,578 658,744 704,531 747,723 791,748 747,097
Tổng cộng Triệu yên 941,292 714,537 782,711 811,765 789,651 868,859 928,473 985,053 863,019
Triệu yên 75,921 3,354,964 39,927 2,982,799 50,459 2,951,687 71,003 3,324,968 55,783 3,394,812 67,044 4,097,796 70,189 4,192,568 73,859 4,392,898 64,250 3,872,534
3,430,885 3,022,726 3,002,146 3,395,972 3,450,595 4,164,840 4,262,757 4,466,757 3,936,784
-2,489,593 -2,308,189 -2,219,435 -2,584,207 -2,660,944 -3,295,981 -3,334,284 -3,481,704 -3,073,765
Nguồn: Số liệu thống kế Japan Chemical Fiber Association (JCFA) 2008-2016
Chênh lệch giữa xuất và nhập dệt may của Nhật Bản trong năm 2008 chỉ có
2,489,593 triệu yên, nhưng tính tới cuối năm 2016 con số này đã là 3,073,765 triệu
yên, tăng 23%. Hàng thành phẩm là loại hàng có lượng nhập siêu lớn nhất trong cơ
cấu hàng hóa dệt may của Nhật Bản, là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới tình trạng nhập
khẩu tang nhiều hơn xuất khẩu trong dệt may hiện nay tại Nhật Bản.
Đối với ngành CNHT da giày tại Nhật Bản
Sản xuất các sản phẩm da giày nội địa của Nhật Bản đã giảm kể từ những năm
1990. Trong nước giá trị sản xuất năm 2016 là khoảng 4,06 tỷ euro, chỉ bằng khoảng
1/4 so với năm 1991.Số lượng doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm da sản lượng cũng
đã giảm xuống còn 5.443 doanh nghiệp vào năm 2014, tức là giảm 3/4 trong cuối
những năm 1990. Số lượng nhân viên đã giảm xuống còn 34.851 người, tức là giảm
bớt 2/3 số lượng so với những năm 1990. Lý do cho sự thu hẹp của ngành công
nghiệp da giày của trong nước bao gồm sự gia tăng nhập khẩu sản phẩm da giá rẻ từ
Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, trong khi chi tiêu của người tiêu dùng không
đổi.
Một trong những đặc điểm của ngành da giày Nhật Bản là các nhà sản xuất
hầu hết đều quy mô doanh nghiệp nhỏ; hơn 2/3 doanh nghiệp hoạt động của ngành da
có từ 3 người trở xuống. Một đặc điểm khác của ngành là nó tập trung ở một vài địa
điểm ở Nhật Bản. Trong năm 2014, ra trong số 1.394 doanh nghiệp có quy mô từ 4
74
người trở lên, 302 doanh nghiệp nằm ở tỉnh Hyogo, đặc biệt là ở thành phố Himeji và
thành phố Tatsuno, 292 ở quận Tokyo, tập trung ở phía đông các khu vực của Tokyo,
chẳng hạn như phường Taito và phường Sumida, và 172 ở quận Osaka.6 Để bảo vệ
ngành công nghiệp da trong nước, Nhật Bản đã áp dụng các biện pháp bảo hộ như hệ
thống hạn ngạch thuế quan. Nhật Bản cũng có chương trình trợ cấp cho các nhà sản
xuất trong nước; ví dụ, trong tài chính năm 2019, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công
nghiệp ("METI") có ngân sách 2,66 triệu euro được phân bổ để trợ cấp cho các nhà
sản xuất sản phẩm da trong nước.
Về nhập khẩu khẩu
Nhập khẩu các sản phẩm da của Nhật Bản đã tăng nhanh chóng; tổng giá trị
nhập khẩu có tăng hơn 50% so với cuối những năm 1990.Trong tổng giá trị nhập
khẩu da thuộc này sản phẩm, đạt 3,83 tỷ euro năm 2018, nhà xuất khẩu lớn nhất là
EU, chiếm 47,4% trong tổng số, tiếp theo là Trung Quốc, chiếm 17,8%
Các quan hệ đối tác kinh tế như Hiệp định Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương Quan hệ đối tác và EPA, giảm và cuối cùng bãi bỏ thuế quan áp dụng
cho các sản phẩm da, dự kiến sẽ tiếp tục tăng nhập khẩu các sản phẩm da.
Chuỗi cung ứng và phân phối các sản phẩm da ở Nhật Bản
Chuỗi tiêu chuẩn sản xuất da sống, da, da và đồ da ở Nhật Bản được thể hiện trong
Biểu đồ dưới đây:
Sơ đồ 3.3: Chuỗi cung ứng sản phẩm da của Nhật Bản
Nguồn: Tác động của EU-Japan EPA đối với sản phẩm da ở Nhật Bản- 2020
75
Chuỗi cung ứng bắt đầu với việc các thương gia bán các sản phẩm như da sống
và da từ da các nhà sản xuất hay “thợ thuộc da”, những người biến da sống thành da
thuộc. Tiếp theo, da được bán cho các nhà bán buôn da và sau đó là các nhà sản xuất
đồ da, chẳng hạn như túi xách và giày dép. Các sản phẩm cuối cùng đến tay người
tiêu dùng thông qua các nhà bán buôn và bán lẻ. Các sản phẩm nhập khẩu, chẳng hạn
như da, da thuộc và hàng da, đi vào chuỗi cung ứng tại các điểm khác nhau, tùy thuộc
vào giai đoạn sản xuất của họ.
Chuỗi phân phối
Chuỗi phân phối da và đồ da ở Nhật Bản được thể hiện trong sơ đồ sau:
Sản xuất da
Các đại lý bán da
Khách hàng
Sản xuất các sản phẩm từ da
Các đại lý bán lẻ sản phẩm da
Các đại lý bán buôn sản phẩm da
Sơ đồ 3.4: Chuỗi phân phối các sản phẩm điện tử Nhật Bản
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của các kênh phân phối tại Nhật
Bản là hàng đại lý bán buôn da sống ở giữa nhà sản xuất da và người tiêu dùng. Một
nghiên cứu cho thấy điều này trái ngược với chuỗi phân phối phổ biến được tìm thấy
ở Ý, một loại da chủ yếu nhà xuất khẩu sản phẩm tại EU. đối với các thương hiệu Ý,
thông thường rằng họ trực tiếp giao dịch với thợ thuộc da, sản xuất các sản phẩm của
họ từ da và trực tiếp bán sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Các hiệp định đối tác kinh tế như EPA, giảm thiểu các rào cản thương mại như
được giải thích dưới đây, có thể giúp các nhà xuất khẩu EU dễ dàng trao đổi trực tiếp
với các nhà bán lẻ và người Nhật người tiêu dùng.
76
Biểu đồ 3.5: Sản xuất trong nước và nhập khẩu giày da
Nguồn: Tác động của EU-Japan EPA đối với TT sản phẩm da ở Nhật Bản- 2020
Biểu đồ 3.5 biểu đồ sản xuất trong nước và nhập khẩu giày da, cho thấy sản
xuất đang giảm dần, trong khi nhập khẩu vẫn duy trì về khối lượng và giá trị tương
đương trong 15 năm qua, với xu hướng tăng nhẹ. Ý nghĩa của việc nhập khẩu giày da
trong thị trường Nhật Bản, do đó, đã tăng lên. Thị phần giá trị nhập khẩu giày da năm
2017 là 58,3%.
3.3.2 Một số kết quả đạt được trong phát triển CNHT ở Trung Quốc
Thực trạng phát triển CNHT ngành dệt may tại Trung Quốc
Ở Trung Quốc, ngành dệt là ngành CNHT cho ngành may, được Chính phủ coi
là mục tiêu phát triển và thực sự đã phát triển hết sức thành công. Hiện nay, Trung
Quốc là quốc gia lớn nhất thế giới về sản xuất một số loại sản phẩm dệt may, đồng
thời cũng là quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Quá trình phát triển
công nghiệp dệt may của Trung Quốc được chia làm 3 giai đoạn [38].
Giai đoạn 1: Từ năm 1949 đến cuối những năm 1970. Để đáp ứng nhu cầu
may mặc của nhân dân, Chính phủ Trung Quốc đã hết sức cố gắng mở rộng năng lực
ngành dệt. Đến cuối năm 1978, sản lượng sợi hoá học sản xuất ở Trung Quốc đạt
280.000 tấn, sản xuất vải trước hết được ưu tiên cho nhu cầu thị trường nội địa. Do
vậy, Trung Quốc đã có các chiến lược ngắn hạn phát triển ngành dệt như là một trong
những hàng hoá tiêu dùng.
77
Giai đoạn 2: Từ cuối những năm 1970 đến 2013, Chính phủ Trung Quốc đã ra
các quyết sách nhằm phát triển kinh tế đất nước theo hướng mở cửa thị trường quốc
tế. Chủ sở hữu được đa dạng hoá, khu vực ngoài quốc doanh đã phát triển rất mạnh.
Năng lực sản xuất gia tăng đáng kể, đồng thời ngành dệt cũng được củng cố thêm nhờ
đổi mới công nghệ và sản phẩm dệt đã có khả năng cạnh tranh. Cùng với hàng dệt,
kim ngạch xuất khẩu hàng may cũng tăng đáng kể.
Giai đoạn 3: Từ năm 2014 đến năm 2017, ngành dệt may Trung Quốc là một
ngành tập trung lao động cao và phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Trung Quốc được
xem là nước đứng vị trí số 1 về sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới.
Nguyên liệu chủ yếu của ngành dệt sợi là bông, lông cừu, tơ tằm, xơ sợi hóa học,
lông vũ,… Cơ sở hạ nguồn của ngành dệt sợi là may mặc, hàng dệt gia dụng, hàng
dệt may sử dụng cho công nghiệp,…
Hiện nay, Trung Quốc là nước xuất khẩu số một thế giới trong bảng xếp
hạng, trong đó xuất khẩu hàng dệt may luôn chiếm tỉ trọng lớn. Theo Báo cáo khảo
sát và phân tích thị trường ngành dệt may, từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2017, tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc đạt 178,337 tỷ USD, giảm 3,33% so
với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng dệt đạt 71,815 tỷ USD,
giảm 0,50% so với cùng kỳ năm trước.
Chi phí gia tăng đã trở thành một rào cản cho ngành dệt may, cùng với giá
nguyên liệu dệt tăng mạnh, đã làm cho lợi nhuận của các sản phẩm dệt may giảm
xuống, tình hình sản xuất của các nhà máy đã bị ảnh hưởng. Theo phản ánh, các DN
ở công đoạn cuối trong thị trường dệt may nhận được ít đơn đặt hàng hơn, dẫn đến
lượng tồn kho của các DN dệt vải giảm xuống chậm hơn, nên lượng tồn kho của các
nhà sản xuất nguyên liệu dệt cao hơn, đã dẫn đến việc mua sắm nguyên liệu của các
nhà máy hạ nguồn có xu hướng thận trọng hơn, chủ yếu duy trì ở mức mua vừa đủ
dùng, với áp lực tồn kho sản phẩm quy cách thông thường cao, các DN sản xuất theo
đơn đặt hàng là chính, trong nhà máy tỷ lệ máy móc không hoạt động khá cao, ảnh
hưởng đến sự nhiệt tình trong sản xuất của ngành dệt. Chi phí lao động đã trở thành
một vấn đề lớn do tiếp tục tăng, làm cho ngành dệt trong nước của Trung Quốc vốn
ban đầu lấy mục tiêu “lời ít bán nhiều” làm “sức cạnh tranh” đang phải đối mặt với
những vấn đề mới.
Tuy nhiên, cũng không thể đánh giá thấp khả năng cạnh tranh quốc tế của ngành
78
dệt may Trung Quốc. Công nghệ dệt may và chất lượng vải của Trung Quốc đang
chiếm một vị trí quan trọng trên thị trường quốc tế. Trong thực tế, sau nhiều năm phát
triển, ngành dệt may Trung Quốc đã hình thành mô hình phát triển khu vực, hình
thành các cụm công nghiệp trong nhiều khu vực, mà các nước và các khu vực khác
rất khó có thể đạt được điều này.
Thực trạng phát triển CNHT ngành ôtô tại Trung Quốc
Trước những năm 1990, nền công nghiệp xe hơi của Trung Quốc phát triển khá
chậm. Với chiến lược "Đổi thị trường thương mại lấy công nghệ", Trung Quốc đã sử
dụng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) kể từ năm 1978 và cho phép các nhà sản xuất xe hơi
nước ngoài như Toyota, General Motors (GM) và Volkswagen bắt tay liên doanh với
các công ty trong nước, nhằm làm thay đổi tình thế khó khăn của ngành.
Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001, rất nhiều nhà sản xuất ô tô
nội địa đã ra đời và tự chế tạo xe của mình. Trong vài năm gần đây, tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu của ngành chế tạo xe hơi Trung Quốc có những tiến bộ đáng khâm
phục. Giá trị xuất khẩu năm 2005 đạt 10,9 tỷ USD, tăng 34% so với năm 2004. Năm
2006, GM bán được 876.747 xe, Volkswagen, liên doanh cả với SAIC và FAW, bán
được 711.000 xe, Ford đối tác của Changan Auto, đạt mức tăng bán hàng kỷ lục, 87%
với 166.722 xe. Năm 2007, Trung Quốc xuất khẩu 11,5 tỷ USD các đồ linh kiện điện
tử, năm 2008, tổng giá trị xuất khẩu xe hơi và phụ tùng ô tô đạt con số 120 tỷ USD,
giúp Trung Quốc chiếm 10% thị phần xe hơi toàn cầu.
Hiện nay, Trung Quốc có 4.172 hãng cung cấp đồ linh kiện ô tô (các DN SMEs
chiếm tỷ lệ 70%), với tổng doanh thu lên đến 550 tỷ NDT (74,40 Tỷ USD). Trung
Quốc vượt xa Nhật Bản và trở thành nước sản xuất ô tô thứ hai thế giới với tổng số xe
sản xuất mỗi năm hơn 7,2 triệu chiếc. GM hiện là nhà sản xuất ô tô hàng đầu tại
Trung Quốc.
Cụm công nghiệp Quảng Châu thu hút được ba hãng lắp ráp lớn của Nhật Bản
là Toyota, Honda, và Nissan. Mô hình công nghiệp là tối ưu, nếu một hãng lắp ráp
được định vị gần với các doanh nghiệp hỗ trợ để có một hệ thống cung ứng kịp thời
hoặc một hệ thống logistics hiệu quả. Do đó, ở Trung Quốc trước đây, các doanh
nghiệp hỗ trợ cho Nissan nằm ở huyện Hoa Đô, doanh nghiệp hỗ trợ cho Toyota nằm
ở Nam Sa, doanh nghiệp hỗ trợ cho Honda nằm ở Tăng Thành, khi Quảng Châu xây
dựng đường cao tốc vành đai thứ hai quanh thành phố Quảng Châu. Cơ sở hạ tầng
79
này đã giúp các doanh nghiệp hỗ trợ tách độc lập khỏi các hãng lắp ráp của bản thân.
Các doanh nghiệp Toyota trở nên độc lập khỏi Toyota và cung cấp linh kiện cho
Nissan và Honda, và ngược lại, Điều này đã làm cho Quảng Châu trở thành cụm công
nghiệp ô tô rất hiệu quả của Trung Quốc.
Thực trạng phát triển CNHT của ngành CN điện tử tại Trung Quốc
Với việc cải cách chính sách đáng kể, nguồn nhân lực dồi dào, chi phí lao động
thấp và thị trường khổng lồ, ngành công nghiệp điện tử Trung Quốc đã hấp dẫn nhiều
nhà đầu tư nước ngoài với những khoản đầu tư rất lớn để xây dựng nền tảng về công
nghệ và hạ tầng cho phát triển các sản phẩm điện tử có giá trị gia tăng cao. Giai đoạn
đầu, các loại linh kiện, cụm linh kiện chất lượng cao phục vụ cho sản xuất máy tính
và thiết bị truyền thông của Trung Quốc đều được đảm nhận bởi các công ty liên
doanh như HP, IBM, Unisys, Digital, Toshiba, Acer, Samsung,… Bằng nhiều hình
thức, các doanh nghiệp nội địa dần tiếp cận được các công nghệ tiên tiến của các liên
doanh này thông qua các chính sách phù hợp.
Sản phẩm điện tử dân dụng của Trung Quốc mặc dù chưa sánh được với sản
phẩm của Nhật Bản và Hàn Quốc về chất lượng, nhưng sản lượng đã đứng đầu thế
giới với mức tăng trưởng hàng năm khoảng 20% [35, tr124]. Càng hội nhập, sản
phẩm điện tử của Trung Quốc càng xuất hiện nhiều trên diện rộng của thế giới. Đến
năm 2009, sản phẩm điện tử dân dụng của Trung Quốc đã có mặt ở hầu hết các quốc
gia với 8 loại sản phẩm chính là: TV màu, đầu DVD, dàn âm thanh gia đình, dàn âm
thanh cho các loại xe ô tô, máy ảnh, máy quay kỹ thuật số, máy nghe nhạc MP3,
MP4, thiết bị hỗ trợ cá nhân và thiết bị điện gia đình [35, tr124]. Ngoài thế mạnh về
sản phẩm điện tử dân dụng, sản xuất thiết bị thông tin và dụng cụ bán dẫn của Trung
Quốc cũng phát triển rất nhanh. Năm 2017, Trung Quốc đã đứng thứ 3 thế giới về sản
lượng thiết bị thông tin và đạt mức tăng trưởng hàng năm khoảng 30% về sản xuất
dụng cụ bán dẫn. Đạt được những thành công trên, cả doanh nghiệp và Chính phủ
Trung Quốc đã nỗ lực xây dựng những định hướng phù hợp với xu thế phát triển của
thế giới và bối cảnh kinh tế chính trị trong nước.
Theo số liệu của Bộ Công nghiệp Điện tử Trung Quốc, cuối năm 2010, Trung
Quốc có khoảng hơn “1.000 công ty sản xuất linh kiện điện tử, 167 công ty sản xuất
dụng cụ bán dẫn, 70 công ty sản xuất dụng cụ điện tử chân không, và 32 công ty sản
xuất IC” [114, Tr.23]. Tổng sản lượng linh kiện điện tử từ năm 1993 đến năm 2000,
80
đã tăng từ 5,8 tỉ USD lên 24,5 tỉ USD. Tăng trưởng khoảng 400% trong vòng 7 năm,
tính theo bình quân là 25% mỗi năm. Năm 2000, ngành linh kiện điện tử chiếm 26%
tổng sản lượng của ngành điện tử tại Trung Quốc. So với các nước trên thế giới chỉ
đứng Mỹ và Nhật Bản về tổng sản lượng linh kiện điện tử. Hiện nay, các nhà sản xuất
dụng cụ bán dẫn hàng đầu của thế giới hầu như đều có công ty liên doanh hoặc doanh
nghiệp 100% vốn FDI tại Trung Quốc. Phải kể đến là các liên doanh lớn như
Motorola, NEC, Toshiba, Hitachi, Intel, Philips, Samsung, Fujitsu… Một ngành công
nghiệp chế tạo linh kiện điện tử và dụng cụ bán dẫn được hình thành thông qua sự
tham gia của các nhà sản xuất linh kiện hàng đầu thế giới cùng với các doanh nghiệp
bán dẫn lớn của Trung Quốc.
“Sản lượng IC năm 2010 đạt 15,4 tỉ sản phẩm nhưng chỉ đáp ứng được 22%
nhu cầu IC của thị trường trong nước, năm 2012 đạt 28 tỉ sản phẩm đáp ứng 30%,
năm 2003 đạt 30,3 tỉ sản phẩm đáp ứng 32%, năm 2014 đạt 34 tỉ sản phẩm đáp ứng
34%, năm 2015 đạt 50 tỉ sản phẩm đáp ứng 40% và dự kiến năm 2020 đạt 70 tỉ sản
phẩm đáp ứng 50% nhu cầu thị trường trong nước. Ngoài IC ngành công nghiệp bán
dẫn Trung Quốc còn sản xuất các loại linh kiện rời như Diod, Transitor, Thyristor…
với số lượng khoảng 60 – 80 tỉ sản phẩm mỗi năm” [114, tr23].
Thực trạng phát triển ngành công nghiệp da giày ở Trung Quốc
Ngành công nghiệp da giày ở Trung Quốc từ lâu đã trở thành số một trên thế
giới. Cạnh tranh quốc tế khốc liệt là một xu hướng chung trong ngành, với việc ngày
càng có nhiều nhà sản xuất toàn cầu hướng về Đông Nam Á như một điểm đến ưa
thích cho các sản phẩm sản xuất, điều này đã làm giảm sản lượng các sản phẩm từ
ngành giày dép của Trung Quốc trong những năm gần đây, nhưng quốc gia này vẫn
được kỳ vọng là nhà cung cấp giày dép hàng đầu thế giới trong vài năm tới.
Tổng doanh thu từ ngành giày dép của Trung Quốc đạt 370 tỷ NDT (56,7 tỷ
USD) vào năm 2016 và tăng trưởng với tốc độ trung bình hàng năm là 7% đến năm
2020. Phân khúc sản phẩm tăng trưởng nhanh nhất trong ngành công nghiệp giày dép
của Trung Quốc trong vài năm qua là giày da. Sản lượng giày da tăng trưởng ổn định
với tốc độ ước tính hàng năm là 1,5% trong những năm gần đây. Ngành công nghiệp
da giày của Trung Quốc đã có sự tăng trưởng đáng kể trong năm 2017. Doanh thu
bán hàng do các xưởng thuộc da vừa và lớn, và các nhà sản xuất giày dép tạo ra đạt
1,37 nghìn tỷ nhân dân tệ - tăng 3,08% so với năm trước.
81
Tại Trung Quốc, hiện có 4 cụm công nghiệp da giày lớn trong cả nước, tập
trung chủ yếu ở các vùng duyên hải Đông Nam Bộ. Đầu tiên là cơ sở công nghiệp
giày dép Quảng Đông với giày từ trung bình đến cao cấp là sản phẩm chính của họ. Thứ
hai là cơ sở công nghiệp giày dép Chiết Giang, chủ yếu sản xuất giày nam từ trung bình
đến thấp. Thứ ba là cơ sở công nghiệp giày dép khu vực phía Tây nơi sản xuất giày nữ từ
trung bình đến thấp chủ yếu. Cơ sở công nghiệp giày dép thứ tư do Tuyền Châu và Tấn
Giang ở Phúc Kiến dẫn đầu, với sản phẩm chính là giày thể thao.
Xuất khẩu của ngành công nghiệp da giày của Trung Quốc
Năm 2017, xuất khẩu của ngành da giày đạt 682 triệu đôi ứng đạt 78,7 tỷ
USD, tăng 3,11% / năm. Trong đó, hàng da đóng góp 2%. Nhập khẩu của ngành da
giày đạt 9,8 tỷ USD, tăng 10,7% so với năm trước, trong đó giày dép đóng góp 5,49%
vào tăng trưởng nhập khẩu, theo sau là túi xách với 4,51%.
Trong quý đầu tiên của 2018, xuất khẩu đạt 16,7 tỷ USD, tăng 2,9% so với
năm ngoái, trong đó túi xách và vali đóng góp nhiều nhất, trong khi nhập khẩu đạt 2,6
tỷ USD, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm ngoái. tăng 7,7% về tốc độ tăng trưởng.
Biểu đồ 3.6: Lượng xuất khẩu giày da từ Trung Quốc từ năm 2009 đến 2018
Đơn vị: đôi
Nguồn: Số liệu thống kê- Hiệp hội Công nghiệp Da Trung Quốc 2009-2018
Các thống kê khác từ Hiệp hội Công nghiệp Da Trung Quốc (CLIA) cho thấy
doanh thu bán hàng do các xưởng thuộc da quy mô vừa và lớn tạo ra là 159,16 tỷ
nhân dân tệ trong năm 2017, giảm 1,57% so với năm 2016.
82
Năm 2017, 1,25 triệu tấn da và da bò đã được nhập khẩu với trị giá 2,2 tỷ
USD. Nhập khẩu da bán thành phẩm cũng đạt 706.200 tấn, đạt tổng trị giá 1,46 tỷ
USD, tăng 5,5% nhưng giảm 0,4% so với năm trước.
Cuối cùng, nhập khẩu da thành phẩm đạt 116.800 tấn, trị giá 1,99 tỷ USD, có
nghĩa là đã giảm 12% trong năm 2017, cũng là mức giảm 4,7% so với năm 2016.
Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2018, doanh thu bán hàng tăng 5,5% so với cùng
kỳ năm trước. Nhập khẩu da bán thành phẩm trị giá 370 triệu USD, giảm 3,1%, trong
khi giá trị da thành phẩm 410 triệu USD giảm 7% so với năm ngoái.
Trong năm 2017, Trung Quốc đã sản xuất 13,1 tỷ đôi giày, và doanh thu bán
hàng do các nhà sản xuất giày dép quy mô vừa và lớn tạo ra đạt tổng cộng 773,8 tỷ
nhân dân tệ, tăng 4,4% so với năm 2016. Trong quý đầu tiên của năm nay, doanh thu
bán hàng đạt 7,1 tăng% so với năm 2017.
Xuất khẩu giày dép đạt 9,62 tỷ đôi với giá trị 45,59 tỷ USD vào cuối năm
ngoái, tăng lần lượt 3,7 và 1,7% cho năm 2016 và 2017. Đồng thời, Trung Quốc nhập
khẩu 139 triệu đôi giày, trị giá 3,20 tỷ USD, tăng lần lượt 23,8% và 18% so với năm
trước.
Trong quý đầu tiên của năm 2018, xuất khẩu giày đạt 2,34 tỷ đôi và trị giá
10,4 tỷ USD, tăng lần lượt 2,8 và 0,9% so với năm ngoái. Nhập khẩu đạt 45,8 triệu
đôi và 980 triệu USD về trị giá, tăng lần lượt 27 và 28% so với năm 2017. Trong khi
đó, xuất khẩu giày da đạt 148 triệu đôi, tổng trị giá 1,9 tỷ USD, tăng 3,4 và 0,7%.
tương ứng so với năm 2017, trong khi con số nhập khẩu là 340 triệu USD, tăng đáng
kể 23,3% so với năm trước.
Ngành giày dép được dự báo sẽ phục hồi chậm. Thị trường giày da đang có
dấu hiệu tan băng và ấm lên khá tích cực. Thị trường giày thể thao - đặc biệt là giày
thể thao thông thường và giày đi bộ cho người cao tuổi - sẽ tiếp tục phát triển nhanh
chóng và xu hướng tương tự cũng sẽ diễn ra đối với giày làm từ vật liệu tổng hợp.
3.2.3 Một số kết quả đạt được trong phát triển CNHT ở Thái Lan
Thực trạng ngành công nghiệp linh kiện điện tử
Công nghiệp điện tử là một trong những ngành công nghiệp lớn nhất và đóng
vai trò quan trọng trong lĩnh vực CNHT của Thái Lan. Năm 2010, kim ngạch xuất
khẩu hàng điện tử đã đạt gần 40 tỉ USD, chiếm trên 30% tổng giá trị xuất khẩu của
Thái Lan. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là máy tính và linh kiện máy tính, máy
83
điều hoà không khí, TV màu. Thái Lan đang dẫn đầu các nước ASEAN-5 về sản xuất
máy điều hoà không khí, tủ lạnh, lò vi sóng, máy photocopy, máy in; thứ hai về sản
xuất phần cứng máy tính và máy fax. Thị trường xuất khẩu chính cho các sản phẩm
này là Nhật Bản (16%), Mỹ (20%), EU (17%), các nước ASEAN khác (22%). Năm
2010, tổng giao dịch trong ngành điện tử trị giá xấp xỉ 51 tỷ USD, tăng 63 % so với
năm 2005, tổng giá trị xuất khẩu đạt gần 30 tỷ USD. Những thị trường xuất khẩu
chính là: Trung Quốc (20%); EU (16%); Mỹ (16%); ASEAN (14%); Nhật Bản
(11% ) và Trung Đông (1%).
Sơ đồ 3.6: Thị trường xuất khẩu chính các sản phẩm điện tử của Thái Lan 2010
Trung Quốc 20% 20%
Khác 22% 22%
EU 16% 16%
Trung Đông 1% 1% Nhật Bản 11% 11%
ASEAN 14% 14%
Mỹ 16% 16%
Nguồn: Thailand Board of Investment, (2010), Thailand [85]
Năm 2007, Thái Lan có khoảng 620 doanh nghiệp sản xuất hàng điện tử, trong
đó chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (521 doanh nghiệp). Ngành
công nghiệp điện tử Thái Lan sử dụng trên 300 ngàn lao động, trong đó có nhiều kỹ
sư giỏi và công nhân lành nghề [122, Tr.77-78]. Sản xuất và xuất khẩu sản phẩm điện
tử của Thái Lan tăng do các sản phẩm điện tử nhập khẩu, chủ yếu là chất bán dẫn,
linh kiện rời rạc và linh kiện nhỏ. Tổng giá trị nhập khẩu các linh kiện điện tử vào
Thái Lan năm 2007 đạt xấp xỉ 22 triệu USD, tăng 8% so với năm trước. Những sản
phẩm nhập khẩu này đã giúp Thái Lan tăng sản xuất sản phẩm điện tử 27% riêng năm
2007. Sự gia tăng này bắt nguồn từ sự mở rộng khả năng sản xuất IC và HDD của
Thái Lan, tăng tương ứng 32 % và 22%.
Ngành công nghiệp điện tử có thể chia thành năm phân khúc: máy tính và các thiết
bị ngoại vi (34%), linh phụ kiện điện tử (40%), điện tử tiêu dùng (15%), thiết bị điện gia
84
dụng (6%) và thiết bị văn phòng - viễn thông (4%) (số liệu năm 2016) [9]. Ngoài ra,
phân khúc sản xuất ổ đĩa cứng - thiết bị dùng để lưu trữ dữ liệu (HDD) và vật liệu bán
dẫn mỗi loại chiếm xấp xỉ 20% tổng giá trị xuất khẩu hàng điện tử.
Bảng 3.6: Sản xuất các sản phẩm điện tử ở Thái Lan giai đoạn 2010-2015
STT
Phân khúc
2011
2012
2013
2014
2015
2010
1
4400
5741
8223
9848
1138
13954
Mạch tích hợp (triệu chiếc)
7332
5867
3979
4465
2210
1380
3
29814
33657
27371
14314
7454
958
2 Monitor (1.000 cái) Bàn phím máy tính (1.000 cái) 4 Ồ cứng (1.000 cái 5 Máy in (1.000 cái)
31421 16500
34009 16954
54173 14979
75685 21269
153980 16577
120707 19241 Nguồn: [42, Trang 101-102]
Ngành công nghiệp sản xuất linh phụ kiện điện tử là một trong năm ngành thuộc
lĩnh vực điện tử của Thái Lan. Công nghiệp linh phụ kiện điện tử sản xuất các sản
phẩm như mạch tích hợp (IC), PCB, vật liệu bán dẫn,... dùng để sản xuất các sản
phẩm dùng cho ô tô và thiết bị điện tử,... Trong đó, IC là sản phẩm điện tử nhập khẩu
lớn nhất Thái Lan và xuất khẩu lớn thứ tư của cả nước (năm 2009). Thị trường xuất
khẩu chủ yếu của sản phẩm IC, xếp theo thứ tự quan trọng, là: Hongkong, Nhật Bản,
Trung Quốc, Singapore và Mỹ. Sản xuất trong ngành công nghiệp điện tử Thái Lan
có sự tăng trưởng đáng kể từ năm 2002 đến nay, cao nhất là năm 2007, với khoảng 15
tỷ USD gấp 2,5 lần so với năm 2002 (gần 6 tỷ USD). Tuy nhiên, từ sau năm 2007,
sản xuất IC có sự suy giảm do ảnh hưởng phần nào bởi sự không ổn định của kinh tế
toàn cầu [42, Tr.77].
Thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô ở Thái Lan
Ở Thái Lan, ngành công nghiệp ô tô bắt đầu phát triển từ những năm 1960 với
vai trò đầu tàu trong ngành công nghiệp ô tô ASEAN. Bên cạnh ngành điện tử, ngành
ô tô được xem là trường hợp đặc biệt thành công và là ngành CNHT đạt được nhiều
bước nhảy vọt trong những năm gần đây nhờ công cuộc tái cơ cấu mạnh mẽ. Trong
giai đoạn 2010-2015, ngành công nghiệp ô tô của Thái Lan đã ngày càng phát triển,
trở thành ngành công nghiệp lớn thứ ba của Thái Lan, có sản lượng xuất khẩu lớn thứ
hai (chiếm 7,29%) tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, hàng năm đóng góp khoảng
12% cho GDP quốc gia [42, Tr.78-79].
85
Bảng 3.7: Tỷ lệ xuất khẩu một số sản phẩm chính của Thái Lan năm 2011
STT
Xuất khẩu (theo sản phẩm)
Tỷ lệ
1
Máy xử lý dữ liệu
10,50%
2
Ô tô, phụ tùng và linh kiện
7,29%
3
Đá quý và trang sức
6,40%
4
Mạch tích hợp điện tử
4,23%
5
Nhiên liệu tinh chế
3,49%
6
Gạo
3,56%
7
Sắt, thép và những sản phẩm từ sắt và thép
3,25%
8
Hàng hóa cao su
2,94%
9
Hóa chất
2,93%
Polime
2,92%
10 Nguồn: Royal Thai Embassy in Singapore, Thailand's economic fact sheet, 1
April 2012
Để có được những thành tựu này, từ năm 1975, chính phủ Thái Lan đã buộc các
nhà sản xuất ô tô tại Thái Lan lúc đó - đa phần là các hãng nước ngoài - phải mua phụ
tùng linh kiện tại các nhà sản xuất địa phương. Hãng Toyota thành lập một công ty
con chuyên sản xuất linh kiện là Toyota Autobody. Lúc đó, hãng Isuzu cũng thành
lập công ty con có vai trò tương tự là Isuzu Body. Đồng thời, Chính phủ Thái cũng
đưa ra yêu cầu với các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô lúc đó về một lộ trình nội địa hóa đối
với các loại xe chở khách và xe chở hàng trong tương lai [101, Tr.75-76].
Điều quan trọng là, ô tô sản xuất ở Thái Lan dù xuất khẩu hay tiêu dùng trong
nước cũng có tỷ lệ nội địa hóa cao thậm chí rất cao, tới 80-90% trong 5 năm gần đây.
Tổng số các nhà sản xuất linh kiện ô tô Thái Lan hiện nay là 2.200, trong số đó các
công ty cung ứng ở vòng trong là 648 công ty và các công ty cung ứng vòng ngoài
hơn 1.600 công ty, Các công ty sản xuất linh kiện này sử dụng 300.000 lao động và
với nguyên liệu thô dùng cho sản xuất chủ yếu từ nguồn trong nước (80%) còn lại
20% nhập khẩu từ nước khác [101, Tr. 95].
Từ đó, các nhà sản xuất ô tô đã phải đáp ứng ngay bằng cách mở rộng việc sản
xuất các linh kiện phụ tùng ô tô ngay trên Thái Lan và hạn chế nhập khẩu các linh
kiện lắp ráp từ bên ngoài.
86
Biểu đồ 3.7: Xuất khẩu linh kiện ô tô Thái Lan
Nguồn: [101, Tr 124-125]
Khi các nhà sản xuất ô tô đưa ra các mô hình mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng ở Thái Lan, các nhà sản xuất phụ tùng ô tô trong nước liền mở rộng năng lực và
khả năng đổi mới để đáp ứng nhu cầu đó. Hiện tại, Thái Lan có khoảng 690 nhà cung
cấp linh kiện ô tô cấp 1 và 1.700 nhà cung cấp Cấp 2 và 3, trong đó có 70% là các
công ty nhỏ, 20% là các công ty trung bình và 10% là các công ty lớn. Các nhà sản
xuất phụ tùng chính ở Thái Lan bao gồm Valeo của Pháp, Đức Bosch, TRW của Mỹ,
GKN của Anh và Denso, Mitsuba và Mitsubishi của Nhật Bản. Hiệp hội các nhà sản
xuất ô tô Nhật Bản mô tả chất lượng phụ tùng ôtô sản xuất tại Thái Lan là cao nhất
trong số các nước ASEAN.
Các nhà sản xuất phụ tùng địa phương cung cấp hầu như 100% yêu cầu sử dụng
trong lắp ráp xe máy, khoảng 85% bộ phận lắp ráp xe pickup, và gần 70% cho xe chở
khách. Để tăng cường phát triển, Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Thái Lan đang xây
dựng kế hoạch thúc đẩy công nghệ, tự động hoá, đổi mới và nguồn nhân lực của các
nhà cung cấp linh kiện và phụ tùng cho đến năm 2020.
Đồng thời, người Thái cũng đã mời các nhà cung cấp linh kiện ô tô Nhật Bản
đầu tư vào Thái Lan, hoặc kết hợp với nhà sản xuất linh kiện, phụ tùng Thái Lan
thông qua những bản thỏa thuận hỗ trợ kỹ thuật.
Khả năng sản xuất linh kiện phụ tùng ô tô của các nhà lắp ráp trong nước đã
phát triển, dẫn đến sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô tại nước này trong
những năm 1970 đến nay.
87
Thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ da giày ở Thái Lan
Ngành công nghiệp da giày ở Thái Lan đã phát triển với tốc độ ổn định trong
hai thập kỷ qua. Tuy nhiên, đất nước đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ
các quốc gia láng giềng như Trung Quốc Indonesia, v.v., những nước đang sản xuất
các sản phẩm có tính sáng tạo cao với chi phí thấp. Hơn nữa, chi phí lao động ở Thái
Lan đã tăng lên rất nhiều. Điều này cũng kìm hãm việc sản xuất các sản phẩm da giày
giá rẻ để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Và trong nước, sự xâm lấn của các sản
phẩm Trung Quốc với chi phí tối thiểu là một trở ngại khác cho sự phát triển của
ngành da giày Thái Lan. Sự sẵn có của các sản phẩm da giày của Trung Quốc và các
nước khác với giá tương đối rẻ hơn đang đẩy Thái Lan ra khỏi thị trường. Do giá
hàng da ở Thái Lan cao hơn, người mua đang chuyển sang Trung Quốc và Việt Nam
để phục vụ nhu cầu của họ.
Ngành CNHT da giày ở Thái Lan có thể được chia thành ba bước phát triển.
+ Giai đoạn đầu tiên cho thấy các sản phẩm đi trước trong ngành da được sản xuất bởi
các nhà sản xuất của Thái Lan và có chất lượng kém. Các mặt hàng này về cơ bản được
sản xuất cho mục đích bán trong nước và một số ít xuất khẩu. Những thực phẩm này được
định giá ở mức thấp để đáp ứng sự cạnh tranh của thị trường da thuộc.
+Trong giai đoạn thứ hai, các nhà sản xuất da giày đã cố gắng nâng cao chất
lượng của sản phẩm. Điều này đã dẫn đến giai đoạn Thái Lan trở thành một trong
những nơi quan trọng để bắt đầu tiếp thị các thương hiệu quốc tế và để họ bắt đầu với
cơ sở sản xuất tại Thái Lan.
+ Và trong giai đoạn phát triển thứ ba, các nhà sản xuất da giày bắt đầu sản xuất
và bán các mặt hàng cao cấp trên thị trường quốc tế và sử dụng thương hiệu riêng của
họ trong lĩnh vực kinh doanh.
Ngành da giày có thị trường rất lớn trong ngành da. Các mặt hàng chủ yếu
được sản xuất theo ngành giày dép là giày cao su, giày nhựa, giày da, dép ... Cả nước
có hơn 2000 nhà máy sản xuất giày dép. Và 85% trong số đó là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Hầu hết các nhà máy đều có trụ sở tại thành phố Bangkok.
Các nhà sản xuất giày dép nội địa được chia thành hai phần. Một nhóm chỉ sản
xuất giày thể thao và nhóm còn lại là nhóm sản xuất giày da, nhựa và cao su. Nhưng,
hầu hết các nhà sản xuất giày thể thao đều là nhà sản xuất theo hợp đồng. Đó là các
thương hiệu như Nike, Adidas, ... Đây là những doanh nghiệp vừa và lớn hoạt động
88
cơ bản là sản xuất hàng hóa cho thị trường quốc tế.
Tốc độ tăng trưởng của ngành da giày của Thái Lan chỉ đạt mức 3,9% trong
2013, 4,1% vào năm 2014 với mức tăng liên tục ở mức 4,9, 5,2, 5,3 và 5,5% trong
các năm 2015 đến 2018 tương ứng. Về tốc độ tăng trưởng ngành thì tăng tuy nhiên về
sản lượng xuất khẩu của Thái Lan lại giảm đáng kể. Theo khảo sát của Viện Dệt may
Thái Lan năm 2014, kim ngạch xuất khẩu là 713,40 triệu USD, giảm 3,34% so với
năm 2013. Sản phẩm giày thể thao giảm 47,84%, xăng đan 4,98% và phụ tùng giày
giảm 51,64%. Hơn nữa, chỉ số công nghiệp xác nhận sự sụt giảm sản lượng giày
sandal từ 92,25% năm 2013 xuống 77,77% năm 2017. Đây có thể là tình hình nguy
cấp của ngành da giày Thái Lan.
Như đã nói ở trên, ngành da giày đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế
đất nước, Có thể phân thành nhiều loại như giày cao su, giày nhựa, giày thể thao, dép
quai hậu, chính hãng giày da, giày da nhân tạo bao gồm các bộ phận của giày tạo ra
thu nhập lớn của Quốc gia. Theo phân tích, sự suy giảm của ngành sản xuất và xuất
khẩu là do điểm yếu trong cạnh tranh của Văn phòng Kinh tế Công nghiệp ASEAN.
Những điểm yếu bao gồm thiếu các nhà thiết kế và công nghệ trong việc thiết kế, đặc
biệt là các nhà thiết kế có tay nghề cao, những người nhận thức được sự khác biệt
trong hành vi của người tiêu dùng. Theo khảo sát xếp hạng kiểu dáng công nghiệp
thế giới trong năm 2010 và 2017 cho thấy Thái Lan đứng thứ 47 với chỉ 71 điểm
trong khi xếp thứ nhất là Mỹ với số điểm 2168.
Với trở ngại chính trong vận hành doanh nghiệp thông qua sự cạnh tranh cao và tự
do thị trường thương mại. Ngành CNHT giày dép Thái Lan không thể tồn tại trừ khi có
các chiến lược tiếp thị phù hợp để tăng lợi thế cạnh tranh của nó được thiết lập. Điều này
có thể đạt được bằng cách sử dụng đối phó với thiết kế sản phẩm với nhu cầu của khách
hàng cùng với việc tăng ngân sách R & D để nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng và
xu hướng thời trang. Ngoài ra, công nghệ quy trình sản xuất cần được phát triển trong khi
đổi mới trong tổ chức cần được thúc đẩy. Hơn nữa, cần có sự hợp tác của các bên liên
quan để tăng cơ hội tạo ra sự đổi mới từ các liên minh để tăng lợi thế cạnh tranh. Cần nâng
cao tiềm năng cá nhân bằng cách thúc đẩy tổ chức học tập. Điều này sẽ dẫn đến việc tăng
số lượng nhà thiết kế và các nhà phát minh.
89
3.4 Bài học kinh nghiệm trong phát triển CNHT của một số nước Đông Á.
3.4.1 Những bài học thành công
Bài học về xây dựng chiến lược và thúc đẩy chính sách phát triển CNHT
a) Nhật Bản
“Ở Nhật Bản, từ năm 1956 đã có Luật xúc tiến công nghiệp chế tạo máy, áp
dụng chính sách hỗ trợ cụ thể cho các ngành CNHT; Luật Phòng chống trì hoãn
thanh toán chi phí thầu phụ; Luật Xúc tiến doanh nghiệp thầu phụ nhỏ và vừa (năm
1970)” [31, Tr 45-46]. Hiện nay, các chính sách của Nhật Bản tập trung vào việc
thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài,
nhằm tận dụng được chi phí phụ tùng giá rẻ của nước ngoài. Duy trì và tăng cường ưu
thế về công nghệ và khâu khai thác phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản
phẩm, cải tiến mẫu mã và hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thâm nhập thị
trường ngoài nước. Các doanh nghiệp Nhật Bản rất thành công trong việc “xuất khẩu
sản xuất”, khai thác thị trường giá rẻ quốc tế, hình thành liên kết doanh nghiệp nhằm
tiêu thụ sản phẩm trên toàn thế giới.
b) Trung Quốc
Ở Trung Quốc, để phát triển CNHT, Chính phủ cho thành lập các tổ chức nhằm
kết nối khu vực tư nhân với khu vực Nhà nước, nâng cao tiềm năng phát triển khoa
học-công nghệ đất nước, hỗ trợ các DN trong nước có cơ hội hợp tác và tiếp nhận
chuyển giao công nghệ sản xuất từ DN nước ngoài, thúc đẩy xúc tiến hợp tác nghiên
cứu khoa học, đào tạo nhân lực,... Có cơ chế cho các doanh nghiệp phối hợp đề đạt
với Chính phủ những yêu cầu hỗ trợ về mặt chính sách, cải thiện môi trường hoạt
động kinh doanh hướng vào thu hút FDI.
d) Thái Lan
Các chính sách cung cấp các hỗ trợ về khoa học kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân
lực cho các ngành CNHT, thiết kế và phát triển các khuôn cho sản xuất thiết bị điện
tử gia công nhiệt và xúc tiến phát triển các nhà thầu phụ.
Chính phủ Thái Lan đưa ra những biện pháp vừa khuyến khích vừa bắt buộc các nhà lắp
ráp sử dụng linh phụ kiện sản xuất trong nước nhằm mục đích tăng tỷ lệ nội địa hóa.
Thái Lan đã lựa chọn 3 lĩnh vực ưu tiên là công nghiệp kỹ thuật, công nghiệp
chế biến và doanh nghiệp nhỏ và vừa nông thôn. Khuyến khích phát triển gia công
kim loại, chế tạo linh kiện, phụ tùng hỗ trợ cho sản phẩm viễn thông và điện tử xuất
90
khẩu. Thái Lan thành lập nhiều cơ quan hỗ trợ phát triển CNHT như: Viện Nghiên
cứu Ô tô - Xe máy, Văn phòng Phát triển CNHT, Uỷ ban Xúc tiến CNHT,... Thậm
chí khối doanh nghiệp của Thái Lan được tham gia vào việc dự thảo, điều chỉnh và
kiểm tra các chính sách phát triển. Chính sách của Thái Lan rõ ràng, ổn định; áp dụng
những biện pháp vừa khuyến khích vừa bắt buộc các nhà lắp ráp nội địa hoá sản
phẩm bằng việc sử dụng linh phụ kiện sản xuất trong nước.
Bài học về phát triển các SMEs (Các doanh nghiệp nhỏ và vừa)
a) Nhật Bản
Bắt đầu từ năm 1936, Việc thành lập Ngân hàng Shoko Chukin, Nhật Bản đã
đầu tư vốn cho các DN vừa và nhỏ. Năm 1949, Chính phủ Nhật Bản ban hành Luật
quy định về sự hợp tác giữa các DN vừa và nhỏ với các thành phần kinh tế khác với
mục đích giúp tạo điều kiện, tăng cường vị thế cho các DN liên kết với nhau. Cũng
vào năm 1949, Nhật Bản xây dựng Quỹ Tài chính đầu tư vốn cho doanh nghiệp
CNHT vừa và nhỏ, Các doanh nghiệp chỉ mất 3 ngày để huy động vốn từ Qũy này.
Chính phủ Nhật Bản còn thành lập những đơn vị bảo lãnh tín dụng hỗ trợ bảo lãnh
cho các DN vừa và nhỏ vay vốn từ các DN tư nhân khác. Hiện nay, Nhật Bản có tới
110 trung tâm hỗ trợ máy móc thiết bị giúp các công ty CNHT bị hạn hẹp về tài chính
có thể tiếp cận được với máy móc, công nghệ mới.
“Nhật Bản đã thành lập các hiệp hội và tổ chức tín dụng, bảo lãnh tín dụng,
tạo thị trường ngách cho các doanh nghiệp (DN) (thông qua các hợp đồng gia công
giữa các công ty lớn với các doanh nghiệp nhỏ, tăng cường viện trợ và ký kết các
hiệp định kinh tế, thương mại với các chính phủ nước ngoài để mở đường cho các DN
hỗ trợ Nhật Bản thâm nhập thị trường thế giới.”[36, Tr, 45-46]
Chính phủ ban hành Luật xúc tiến doanh nghiệp thầu phụ vừa và nhỏ để tạo
thuận lợi cho các hoạt động thầu phụ. Ngành chế tạo nhờ việc sản xuất hàng loạt dẫn
đến cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp lớn đã mở rộng nhanh chóng. Các
doanh nghiệp lớn vì thế rất cần các nhà thầu phụ có khả năng nâng cao hiệu quả sản
xuất và giảm chi phí để giúp họ tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình.
Để tạo kênh thông tin cho các DN hỗ trợ trong nước, Nhật Bản đã xuất bản Sách
trắng (White Book) về công nghiệp, cung cấp lượng lớn thông tin đáng tin cậy nhất từ
những phân tích một cách toàn diện, dự báo các điều kiện và xu thế phát triển thương mại và
các vấn đề liên quan khác, qua đó, đáp ứng các yêu cầu của các ngành công nghiệp nói chung
91
và DN hỗ trợ nói riêng. Nhật Bản thiết lập cơ sở dữ liệu về CNHT nhằm xúc tiến liên kết giữa
các nhà cung cấp linh kiện vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn
c) Thái Lan
Trước khủng hoảng tài chính Đông Á (năm 1997), các chính sách kinh tế vĩ mô ở
Thái Lan chỉ chú trọng đến các doanh nghiệp lớn vì tiềm năng xuất khẩu của chúng.
Trong khoảng thời gian 1998-1999, Thái Lan phải đối mặt trước những vấn đề
nghiêm trọng như hoạt động sản xuất kinh doanh lao dốc, thất nghiệp tăng vọt, nghèo
đói tràn lan, lúc này chính phủ Thái Lan mới chú ý hơn đến DNNVV như một nguồn
tạo công ăn việc làm và thu nhập. Sự thay đổi trong chính sách cũng có một phần tác
động từ những khuyến nghị của các định chế quốc tế, đặc biệt là Nhật Bản, nước có
nhiều doanh nghiệp đầu tư sang Thái Lan.
Bài học rút ra là chính phủ Thái Lan đã xây dựng một kế hoạch phát triển toàn
diện đối với DNNVV và CNHT. Nhiều biện pháp hỗ trợ đã được đưa ra, như thành
lập Công ty Bảo đảm DNNVV, Ngân hàng DNNVV; triển khai hệ thống tư vấn
DNNVV và hệ thống đại học DNNVV; cho phép sử dụng các nhà tư vấn và các tổ
chức đào tạo nước ngoài. Trước đó, từ năm 1985, Thái Lan đã thành lập Phòng Phát
triển CNHT (BSID) trong Ủy ban Xúc tiến công nghiệp (DIP) thuộc Bộ Công nghiệp
với sự hỗ trợ của Nhật Bản. Mục tiêu chính của BSID là hỗ trợ DNNVV hoạt động
trong các ngành CNHT như phối hợp với Nhật Bản tổ chức các khóa đào tạo, nâng
cao trình độ tay nghề cho lao động trong các doanh nghiệp này, đưa ra quy hoạch
tổng thể cho phát triển CNHT.
Tiếp nối BSID, Ủy ban Đầu tư Thái Lan (BOI) đã thành lập Bộ phận Liên kết
công nghiệp (BUILD) để thúc đẩy hợp tác giữa các công ty trong nước và các công ty
nước ngoài trong ngành CNHT. Bộ phận này chịu trách nhiệm cung cấp thông tin về
cơ sở dữ liệu các nhà cung cấp. DIP cũng đưa ra và thực hiện chương trình phát triển
các nhà cung cấp quốc gia (NSDP).
Bài học về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và CNKH
a. Nhật Bản
- Về nhân lực, tại Nhật Bản, năm 1985, Luật khuyến khích phát triển nguồn
nhân lực ra đời. “Nhà nước có vai trò cung cấp cơ sở hạ tầng và thông tin thông qua
các hạt nhân sáng tạo. Các cơ sở đào tạo có mối liên hệ thường xuyên với cộng đồng
92
doanh nghiệp, nắm rõ thực tiễn để cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu liên kết
giữa doanh nghiệp trong nước với các công ty mẹ. Nhật Bản đưa ra chương trình liên
kết học đường - doanh nghiệp, tạo ra những lao động kỹ năng cao” [121, Tr.135].
Các doanh nghiệp của Nhật Bản cũng chú trọng tới những hỗ trợ trong việc tuyển
dụng và đào tạo nhân sự song song với việc xây dựng trường huấn luyện nghiệp vụ, đơn
giản hóa thủ tục đăng ký các loại (dịch vụ một cửa bằng tiếng Nhật). Nhà đầu tư Nhật cũng
yêu cầu về hỗ trợ công nghệ thông tin (IT) bằng cách nhờ nhiều nhà sản xuất và công ty
truyền thông xử lý ứng phó, hỗ trợ khai thác đối tác (tổ chức tọa đàm, giao lưu giúp doanh
nghiệp tạo mối quan hệ) hay các đối sách hỗ trợ môi trường…
Nội dung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNHT tại Nhật Bản
được thể hiện bằng các mô hình Monozukuri, Coblas và mô hình đào tạo hạt nhân.
- Về công nghệ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã bỏ ra chi phí khá lớn cho hoạt
động nghiên cứu và phát triển, tỷ lệ chi phí nghiên cứu và phát triển trên doanh thu
của các doanh nghiệp này đã tăng từ 1,9% năm 2000 lên 3,8% năm 2015, doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản đã hình thành xu hướng liên kết cùng các trung tâm hỗ
trợ nghiên cứu và phát triển tạo thành cụm công nghiệp theo mô hình mới (dựa vào
phát triển khoa học công nghệ và tri thức) sâu rộng hơn so với mô hình cụm công
nghiệp cũ chỉ gồm các doanh nghiệp lắp ráp và các nhà cung cấp hỗ trợ đơn thuần.
Nhật Bản đã thành lập khoảng 110 trung tâm hỗ trợ máy móc thiết bị để giúp đỡ các
công ty nhỏ với khả năng tài chính hạn chế có thể tiếp cận với máy móc thiết bị công
nghệ mới; xây dựng 47 trung tâm hỗ trợ công nghệ, xúc tiến liên kết giữa các nhà
cung cấp linh kiện, thường là các DNNVV với các công ty lớn thông qua thiết lập cơ
sở dữ liệu về CNHT. “Các địa phương ở Nhật Bản đều có CSDL riêng với sự tham
gia của các quan chức chính quyền, các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu. Các
CSDL này có chất lượng cao cung cấp thông tin chi tiết về các nhà cung cấp và rất
dễ tiếp cận” [121-Tr.101].
b. Trung Quốc
- Về nhân lực, Trung Quốc có các chính sách thúc đẩy nhân lực cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại cấp địa phương cụ thể giải pháp thực hiện tự do hoá thị trường
lao động, tự do hoá việc di cư lao động. Tuyển dụng, tìm kiếm nguồn nhân lực chất
lượng cao trên toàn cầu hay và một phần từ kêu gọi các du học Trung Quốc, các kiều
93
bào được đào tạo bài bản ở nước ngoài. Trung Quốc ban hành cương yếu quy hoạch
nhân tài đặt ra chủ trương phát triển nhân tài tầm trung và dài hạn. Mặc khác, nâng
cao việc đào tạo nhân tài nghiên cứu phát triển, khoa học kỹ thuật phức tạp và nguồn
lực chất lượng cao làm quản lý; xây dựng các trung tâm tập huấn đào tạo nhân tài.
- Về công nghệ, cuối những năm 1970, Trung Quốc bắt đầu công cuộc cải cách
và mở cửa kinh tế với thế giới bên ngoài. Trong thời kỳ đầu, Trung Quốc đã khuyến
khích nhập khẩu công nghệ từ bên ngoài để thay thế công nghệ lạc hậu của công
nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng luôn đề cao tính độc lập của công
nghệ trong nước, đưa ra nhiều chính sách coi trọng cải tiến R&D và đưa ra những
chính sách KH & CN mới. So với những giai đoạn trước, vai trò chỉ đạo của Nhà
nước trong R&D đã giảm dần và thay vào đó là đề cao vai trò của doanh nghiệp và
thị trường. Nhằm phát triển các ngành công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng R&D,
nhà nước soạn thảo và tài trợ cho các dự án lớn về R&D công nghệ hướng tới các
mục tiêu trung hạn và dài hạn trong các kế hoạch kinh tế 5 năm. Tiêu biểu là: Chương
trình “Đốm lửa” (1986) tập trung đầu tư vào 7 lĩnh vực then chốt: công nghệ sinh
học, công nghệ thông tin, công nghệ vũ trụ, công nghệ laze, tự động hoá, công nghệ
năng lượng và công nghệ vật liệu tiên tiến,...Chương trình “Ngọn đuốc” (1988) nhằm
đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ trong các doanh nghiệp [48, Tr.61].
Bài học về liên kết chuỗi doanh nghiệp, cụm doanh nghiệp.
a. Tại Nhật Bản
Vào những năm 1990, thay vì sản xuất toàn bộ linh kiện cho hàng điện tử, Nhật
Bản đã chuyển hướng sang nhập khẩu phụ tùng. Các doanh nghiệp sản xuất hàng điện
tử Nhật Bản tập trung chủ yếu vào khâu sản xuất, thiết kế và phân phối trong chuỗi
giá trị hàng điện tử thế giới, đồng thời nhập khẩu linh kiện, phụ tùng sang những
nước đang và chậm phát triển hơn như Malaysia, Thái Lan, Đài Loan,…Chính vì vậy,
quan hệ giữa những nhà sản xuất và nhà cung cấp ở Nhật Bản ngày càng trở nên khăng
khít. Các nhà cung cấp Nhật Bản có xu hướng hội nhập theo chiều dọc một cách tương
đối. Những nhà sản xuất hàng điện tử đã tăng cường đầu tư trực tiếp bằng việc mở chi
nhánh sản xuất linh kiện, phụ tùng ở nước ngoài, và từ đó cung cấp các hỗ trợ về kỹ thuật
và tài chính cho các nhà cung cấp nước ngoài.
Trong xu hướng quốc tế hóa, ngành công nghiệp điện tử Nhật Bản phát triển
94
dựa trên sự chuyên môn hóa theo chuỗi giá trị: Thực hiện liên kết các công đoạn khác
nhau trong chuỗi, tăng quy mô toàn cầu. Việc quản trị chuỗi trong ngành điện tử Nhật
Bản cũng cho thấy rõ ràng thuận lợi của các hãng tham gia. Quản trị chuỗi là tiền đề
cho các hãng điện tử có thể nắm bắt thông tin về đặc điểm sản phẩm, giá cả, dự báo
sản xuất và đối thủ cạnh tranh.
Ở Nhật Bản, có hàng nghìn doanh nghiệp vệ tinh sản xuất các loại linh phụ kiện
hỗ trợ cho doanh nghiệp lắp ráp. Trong đó có hơn 95% là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, chỉ có khoản 1% là các doanh nghiệp CNHT tầm cỡ toàn cầu. Mối liên kết mạnh
giữa các doanh nghiệp Nhật Bản, được phân chia thành các Tầng lớp (Tier), trong đó
Tầng 1 là các tập đoàn lớn có trách nhiệm tổng thầu; một dự án lớn thường được chia
nhỏ thành rất nhiều phần để chia tiếp cho các công ty nhỏ hơn thuộc các Tầng dưới
(Tầng 2, Tầng 3,..), thậm chí là Outsource (hợp đồng thuê ngoài hay dịch vụ gia
công) ở nước ngoài để tiết giảm chi phí [48, Tr. 60-61]. Nhật Bản liên kết các doanh
nghiệp một cách rất thành công cụ thể là tất cả các doanh nghiệp cùng xây dựng
phương thức quản lý như 5S hay Kaizen (cải tiến, cải thiện). Sự liên kết này được
xem là đã giúp CNHT ở Nhật Bản phát triển rất vững mạnh.
b. Trung Quốc
Ở Trung Quốc, sự phát triển vượt bậc của ngành CNHT chính là nhờ mối liên
kết hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp nội địa. Các doanh nghiệp lắp ráp trong
nước có được nguồn cung các linh kiện, phụ tùng tại chỗ trong nước với chất lượng
đảm bảo, giá thành rẻ từ phía các nhà cung ứng nội địa, nhất là các doanh nghiệp nhỏ
và vừa. Hiện tại, Trung Quốc có tới 4.172 hãng cung cấp đồ linh kiện ô tô. Ngoài sự
liên kết các nhà cung cấp nội địa, Trung Quốc còn tăng cường liên kết hợp tác với các
công ty lắp ráp nước ngoài, các tập đoàn TNCs, MNCs,…
Việc thành lập các liên doanh trong công nghiệp ô tô và những ngành CNHT
liên quan đã tạo động lực lớn phát triển ngành CNHT ô tô cũng như công nghiệp
chính tại tỉnh Quảng Châu. Quảng Châu đã thành lập Tập đoàn công nghiệp ô tô - xe
máy Quảng Châu (GAIG – Guanzhou Automobile Industry Group) tại trung tâm của
cụm công nghiệp ô tô - xe máy.
Từ sự hình thành những liên doanh lớn trong ngành công nghiệp sản xuất ô tô -
xe máy cũng như trong ngành CNHT ô tô - xe máy, Trung Quốc đã thành lập nên một
95
cụm công nghiệp ô tô - xe máy, không chỉ gồm những nhà máy sản xuất lắp ráp và
những nhà sản xuất sản phẩm hỗ trợ mà còn có cả những công ty marketing. Theo
nghiên cứu, hầu hết những công ty trong cụm công nghiệp ô tô - xe máy tại Trung
Quốc đều thành lập qua việc hình thành liên doanh, liên kết với hàng loạt các công ty
nước ngoài, đặc biệt là Nhật Bản.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã chủ động thành lập những liên doanh giữa
những công ty nhà nước và những doanh nghiệp FDI. Theo đó, Chính quyền đưa ra
những ưu đãi thuế và những dịch vụ one-stop hiệu quả cho những nhà đầu tư nước
ngoài. Trung Quốc đã thành lập được rất nhiều công ty liên doanh như thế.
d) Thái Lan
Ban BOI phát triển các mối liên kết giữa các nhà cung cấp các linh kiện, phụ
tùng địa phương và các DN lắp ráp lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia đặc biệt, bao
gồm cả ở cả Thái Lan và các nước khác…
Chính phủ Thái Lan đề ra sáng kiến thành lập KCN hỗ trợ nhằm phát triển công
nghiệp hỗ trợ trên toàn quốc.
Bài học về thu hút đầu tư nước ngoài (thu hút FDI)
a. Nhật Bản
Nhật Bản thành lập các hiệp hội và tổ chức tín dụng, bảo lãnh tín dụng, tạo thị
trường ngách cho các DN (thông qua các hợp đồng gia công giữa các công ty lớn với
các doanh nghiệp nhỏ, tăng cường viện trợ và ký kết các hiệp định kinh tế, thương
mại với các chính phủ nước ngoài để mở đường cho các DN hỗ trợ Nhật Bản thâm
nhập thị trường thế giới.Từ năm 1936, Nhật Bản đã thành lập Ngân hàng Shoko
Chukin để đầu tư vốn cho các DN vừa và nhỏ. Chính phủ Nhật Bản đã ban hành Luật
về sự hợp tác giữa các DN vừa và nhỏ với các thành phần kinh tế khác, có hiệu lực
năm 1949 nhằm tăng cường vị thế cũng như tạo điều kiện cho các DN liên kết với
nhau. Cũng vào năm 1949, Nhật Bản đã có quỹ tài chính đầu tư vốn cho DN vừa và
nhỏ, chỉ mất 3 ngày để họ có thể vay vốn. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản còn thành
lập những đơn vị bảo lãnh tín dụng có khả năng bảo lãnh cho các DN vừa và nhỏ khi
họ vay vốn từ các DN tư nhân khác.
b. Trung Quốc
Việc làm đầu tiên thúc đẩy thu hút FDI của Trung Quốc là thành lập thử nghiệm
96
bốn đặc khu kinh tế, với mục đích thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của
nước ngoài, đồng thời tạo điều kiện để xuất khẩu ra nước ngoài, đặc biệt là các nước
phương Tây. Trung Quốc đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi trong các đặc khu kinh tế
về cơ sở hạ tầng, ưu đãi về thuế, thủ tục hải quan,…
Tạo môi trường đầu tư tự do và hấp dẫn cũng là một thành công của Trung
Quốc trong việc thu hút FDI vào công nghiệp nói chung, CNHT nói riêng. Trước hết,
Chính phủ có những chính sách ưu đãi tài chính đặc biệt cho các nhà đầu tư nước
ngoài. Tháng 10 năm 1996, Chính phủ đưa ra “Qui định về khuyến khích các nhà đầu
tư nước ngoài”, theo đó, giảm mức thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp
FDI từ 30% xuống còn 15%, đặc biệt, ở đặc khu kinh tế, các doanh nghiệp chỉ phải
chịu thuế thu nhập có 10%. Không chỉ có vậy, Chính phủ còn thực hiện miễn thuế 5
năm đầu cho các doanh nghiệp FDI mới thành lập ở những đặc khu, miễn thuế thu
nhập khi chuyển lãi ra nước ngoài, hoàn trả thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng để
tái đầu tư,…Ngoài những biện pháp tài chính hết sức thông thoáng cho các doanh
nghiệp FDI, Chính phủ Trung Quốc cũng chú trọng xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng
hiện đại, đồng bộ, khiến các nhà đầu tư có thể yên tâm đầu tư vào Trung Quốc.
Nghiên cứu của Kyoshiro Ichikawa- “Báo cáo điều tra: xây dựng và tăng cường
CNHT tại Việt Nam” năm 2010 cho thấy, 68% TNCs của Nhật Bản xem Trung Quốc
thuộc danh sách top 10 địa điểm mong muốn đầu tư trong năm 1996, 65% năm 2000
và 82% năm 2001. Trung Quốc cũng đứng đầu trong danh sách 10 địa điểm đầu tư
cạnh tranh [23]. Điều đó cho thấy thành công của Chính phủ Trung Quốc trong việc
tạo dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn.
c) Thái Lan
Ban BOI cung cấp cho các nhà đầu tư một loạt các ưu đãi như miễn giảm thuế
nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản thuế liên quan đến thu nhập
khác, hỗ trợ tín dụng, bảo lãnh, hỗ trợ cơ sở hạ tầng và dịch vụ.
Việt Nam là nước đi sau, đây là những kinh nghiệm để Việt Nam nghiên cứu,
lựa chọn phù hợp với điều kiện, thực tiễn của đất nước nhằm phát triển CNHT ở Việt
Nam hiệu quả.
3.4.2 Những bài học thất bại
Thực trạng cho thấy để phát triển được ngành CNHT như bây giờ, Chính phủ
97
các nước đã đưa ra nhiều chính sách, có những chính sách thành công, nhưng cũng có
những chính sách thất bại.
- Nhật Bản:
Bài học thứ nhất: Cụ thể giai đoạn trước năm 2000, Bộ Thương mại và Công
nghiệp Nhật Bản (MITI) đã đưa ra chính sách tổ chức sát nhập của một số ngành
thông qua “Kế hoạch Nhóm” (Group Plan) nhằm đạt được quy mô kinh tế và khả
năng cạnh tranh ngày càng cao không chỉ ngành chính mà còn các ngành CNHT,
nhưng với nhóm ngành công nghiệp ô tô lại là một chính sách thất bại. Cụ thể ngành
ô tô là nhóm ngành cạnh tranh rất căng thẳng, các nhà lắp ráp đều là các ông lớn, nên
khi nhà nước thông qua việc sáp nhập, không ông nào chịu nhường ông nào dẫn đến
các ngành CNHT của ngành chính bị trì hoãn cung cấp gây ảnh hưởng đến năng xuất
của các DN CNHT của ngành này.
Bài học thứ hai: Trong ngành công nghiệp sản xuất chip, vẫn có sự khác biệt rất
lớn về công nghệ giữa Nhật Bản và Mỹ. Để bắt kịp Mỹ, năm 1976, Bộ Thương mại
Quốc tế và Công nghiệp Nhật Bản đã đầu tư 72 tỉ yên vào Hitachi, Mitsubishi,
Fujitsu, Toshiba và NEC. Viện Khoa học Máy tính và Công nghệ đã thành lập tổ
chức nghiên cứu và phát triển vi mạch tích hợp mật độ cao VLSI. Kế hoạch nghiên
cứu và phát triển này đã rất thành công khi Nhật Bản bắt chước được công nghệ của
Mỹ. Thông qua việc phát triển liên tục, Nhật Bản đã đánh bại công ty lớn mạnh của
Mỹ về chi phí rẻ hơn. Tuy nhiên thông qua Thuế quan, Mỹ đã điều chỉnh sự mất cân
bằng thương mại, tiếp cận công nghệ Nhật Bản và thúc đẩy sự phát triển của chất bán
dẫn của Hàn Quốc nhằm phá hủy ngành công nghiệp chip độc nhất của Nhật Bản. Từ đó
ngành chế tạo chip của Nhật Bản thụt lùi và chịu thất bại nặng nề. Nguyên nhân thất bài
này còn do chính các vấn đề phát sinh từ công ty Nhật Bản từng thành công do:
- Giỏi bắt chước và cải tiến nhưng không giỏi phát minh và cách mạng.
- Thiếu nhận thức tối ưu tổng thể, có xu hướng theo đuổi tối ưu hóa từng phần.
- Sau khi trở nên nổi tiếng, trở nên bảo thủ hơn, không chú trọng tầm nhìn quốc tế.
- Thái Lan
Việc các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước này khiến
cho ngành CNHT có quá nhiều nhà sản xuất ngành CNHT nên dẫn đến nguồn lực đầu
98
tư cho các ngành này bị phân tán, gây mất hiệu quả kinh tế.
- Trung Quốc:
Công nghiệp chip là một trong những ngành CNHT quan trọng bậc nhất ở
Trung Quốc, tuy nhiên khả năng tự cung tự cấp cho ngành công nghiệp chip của
Trung Quốc hiện nay chỉ ở mức 20% -30%. Vì vậy Trung Quốc rất quan tâm việc
phát triển ngành CNHT này. Tuy nhiên một ví dụ thực tế là dự án nhà máy sản xuất
chip Tsinghua Unigroup đã thất bại dù dự án được chính phủ hỗ trợ. Nguyên nhân
dẫn đến thất bại này chính là Trung Quốc không tiến hành các hoạt động R&D, nhiều
kỹ sư Đài Loan đã giúp xây dựng ngành công nghiệp bán dẫn ở Trung Quốc với vai
trò là chuyên gia trong các hoạt động quan trọng nhưng họ thiếu kinh nghiệm R&D
để tạo ra giá trị từ đầu. Đây được xem là bài học thất bại cho các nước khi lên kế
hoạch chiến lược để phát triển ngành sản xuất chip của nước mình.
99
Tiểu kết chương 3
Từ những thực trạng phát triển CNHT theo từng giai đoạn của các quốc gia kể
trên, một số bài học về phát triển CNHT của các nước Đông Á được rút ra như sau:
-Cần coi ngành công nghiệp hỗ trợ là cấu thành nền tảng của cấu trúc công
nghiệp hiện đại tức là những ngành công nghiệp hoạt động trên công nghệ và lao
động kỹ năng cao. Điều cần thiết là cần xác định đúng vai trò của công nghiệp hỗ trợ
trong chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia để chủ động, tích cực tham gia chuỗi
sản xuất toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Kinh nghiệm từ các nước cũng cho thấy, những sản phẩm hỗ trợ thường được sản
xuất và cung cấp chủ yếu từ những doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do vậy, phát triển doanh
nghiệp hỗ trợ sẽ đồng nghĩa với việc thúc đẩy phát triển khu vực doanh nghiệp nhỏ và
vừa, sẽ góp phần giải quyết tốt vấn đề cấp bách hiện nay, đó là giải quyết việc làm.
Tăng cường hơn nữa mối liên kết giữa các doanh nghiệp tham gia vào công
nghiệp hỗ trợ và công nghiệp lắp ráp, chế tạo. Đẩy mạnh hơn nữa sự liên doanh, liên
kết giữa các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ nội địa với các doanh nghiệp
lắp ráp và doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhanh chóng phát triển nguồn nhân lực công nghiệp chất lượng cao. Đây là
nhân tố quan trọng cho việc nâng cao trình độ sản xuất của các doanh nghiệp hỗ trợ.
Kinh nghiệm của các nước Đông Á đạt tới sự phát triển thần kỳ không thể được
áp dụng hoàn toàn giống nhau cho các nước có điều kiện tự nhiên khác nhau hay ở
vào thời kỳ có bối cảnh quốc tế khác nhau. Bởi vì bản thân Nhật Bản, Trung Quốc,
Thái Lan trước đây cũng không áp dụng hoàn toàn kinh nghiệm của các nước phát
triển mà có sự cải tiến cho phù hợp với điều kiện của mình. Chính vì vậy, các nước
đang phát triển cần có những ý kiến tư vấn thực tế hơn, trên cơ sở những bài học kinh
nghiệm của các quốc gia Đông Á, từ đó tìm ra bài học kinh nghiệm riêng phù hợp với
tình hình của nước ta nhằm phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam lên
một tầm mới trong chương 4 của Luận văn này.
100
Chương 4
QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ BÀI HỌC PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
HỖ TRỢ PHÙ HỢP CHO VIỆT NAM
4.1. Thực trạng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam nghiên cứu ở một số ngành
công nghiệp.
4.1.1 Thực trạng công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp dệt may
- Số lượng doanh nghiệp CNHT ngành dệt may
Theo số liệu của Hiệp hội dệt may Việt Nam, tính đến năm 2020, tổng số doanh
nghiệp (DN) dệt may cả nước đạt 6.500 DN, số lượng DN sản xuất vải, nhuộm là 910
DN (chiếm 14%); số lượng DN sản xuất, chế biến xơ, sợi là 260 DN (chiếm 4%). Số
lượng doanh nghiệp tham gia sản xuất sản phẩm CNHT dệt may trong 5 năm qua
nhìn chung tăng. Số DN tăng nhiều nhất trong năm 2020 với 390 DN so với năm 219
và tăng 2500 DN so với năm 2010. [66]
Dù có sự tăng trưởng nhanh về số lượng DN CNHT, nhưng đối với ngành dệt
may của Việt Nam là số lượng DN ngành CNHT (18%) ít hơn nhiều so với các DN
may do vậy theo lý thuyết sẽ không đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu các yếu tố đầu
vào phục vụ cho sản xuất sản phẩm may mặc. Điều đó dẫn đến việc nhập khẩu nhiều
các yếu tố đầu vào của ngành May.
Xét theo quy mô doanh nghiệp CNHT: Tổng số lao động đến thời điểm
31/12/2020 đạt gần 286.000 doanh nghiệp, tăng 144.079 người so với năm 2010
(98%). Trong đó, số lao động trong lĩnh vực sản xuất sợi chiếm 52%, đạt 148,720
người. Số lao động trong DN sản xuất vải dệt thoi đến năm 2020 là 53.278 người,
tăng 21% so với năm 2010. [66]
Giai đoạn 2010-2020, các chỉ số quan trọng phản ánh quy mô DN như nguồn
vốn bình quân hàng năm, tài sản cố định, doanh thu thuần của DN CNHT ngành dệt
may đều có sự tăng trưởng khá ổn định. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thu
nhập bình quân của người lao động trong lĩnh vực CNHT ngành dệt may đã tăng lên
từ 4,8-5,4 triệu /tháng (2010) lên 8,4-8,9 triệu /tháng (2020), tương đương với mức
thu nhập trung bình của lao động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo. [66]
Trong thời gian vừa qua, các DN FDI trong lĩnh vực CNHT ngành May Việt
Nam nhìn chung có hiệu quả hoạt động ở mức thấp. Các DN trong lĩnh vực nhuộm,
hóa chất nhuộm, sản xuất và cung cấp máy móc, dụng cụ ngành May không có lợi
101
nhuận dương trong nhiều năm. Nhóm DN lĩnh vực hóa chất nhuộm có lợi nhuận âm
đến năm 2015. Nhưng đến năm 2020, tình trạng này đã cải thiện hơn nhiều, các DN
FDI trong lĩnh vực sản xuất bông, xơ, sợi, sản xuất máy và dệt vải có doanh thu và lợi
nhuận bình quân sau thuế đạt mức cao nhất.
- Về giá trị xuất nhập khẩu ngành CNHT dệt may.
Hiện nay ở Việt Nam, xuất khẩu đầu vào là sợi đến 70% sản phẩm tạo ra nhưng
lại phải nhập khẩu phần lớn vải phục vụ cho may mặc, do CNHT dệt nhuộm chưa
phát triển; loại sợi Việt Nam sản xuất được chủ yếu là sợi cotton, rất ít DN sản xuất
được sợi polyester filament - loại sợi được sử dụng phổ biến hơn trong ngành May
mặc hiện nay. Điều này dẫn đến giảm giá trị gia tăng của ngành May Việt Nam do
xuất “thô”, nhập “tinh”. Theo số liệu của Hiệp hội dệt may Việt Nam, nhập khẩu
nguyên phụ liệu năm 2019 tăng 2,3% lên 22,3 tỉ USD. Trong đó, Việt Nam nhập
khẩu tới 80% vải cho xuất khẩu khẩu.
Biểu đồ 4.1: Nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may của Việt Nam qua các năm
2013 - 2019. (Đơn vị: triệu USD)
Nguồn: Số liệu của Hiệp hội Dệt may Việt Nam 2013-2019
Theo tính toán của Hiệp hội Bông sợi Việt Nam, ngành dệt may hiện có nhu cầu
sử dụng khoảng 6 triệu mét vải/năm, song chỉ sản xuất trong nước được khoảng 1,2
triệu mét. Lượng vải phải nhập khẩu lên tới 4,8 triệu mét/năm. Tổng công suất ngành
nhuộm cũng chỉ đạt khoảng 800 triệu mét vải/năm. Để phát triển bền vững, đầu tư
vào các lĩnh vực dệt, nhuộm đã được ngành dệt may đặt ra trong nhiều năm qua,
102
nhưng kết quả chưa như mong đợi, do những nguyên nhân không mới như đây là lĩnh
vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, xử lý chất thải ra môi trường tốn kém, bí quyết công
nghệ, nhân lực lành nghề. Giai đoạn 2010-2016, có đến 70-80% nguyên vật liệu dệt
may, da giầy hiện nay vẫn phụ thuộc vào nguồn cung từ Trung Quốc và các nước
ngoài khu vực FTA - Khu vực mậu dịch tự do dịch. Sản phẩm sợi và vải nội địa
không có nhiều mẫu mã chủng loại, chất lượng còn thấp nên chỉ sử dụng được 20-
25% sản lượng cho ngành may xuất khẩu.
Theo thống kê của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, tỷ lệ nội địa hóa về nguyên phụ
liệu của ngành Dệt may đạt khoảng 48% đến thời điểm hiện tại. Nhiều chủng loại vải
và phụ liệu vẫn phải nhập khẩu từ một số nước ASEAN, đặc biệt là nhập từTrung
Quốc. Điều này khiến các doanh nghiệp Việt Nam không chủ động được nguồn hàng
và dễ bị ép giá.
Vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung ứng dệt may thế giới chỉ là gia công, may
xuất khẩu. Trong khi các quốc gia phát triển Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản tập trung vào
khâu mang lại giá trị thặng dư cao nhất (thiết kế, marketing và phân phối). Còn nhà
thầu gia công, bán buôn tập trung tại 3 quốc gia chính: HồngKông, Hàn Quốc, Đài
Loan kết nối các công ty sản xuất với người tiêu dùng cuối cùng.
Sơ đồ 4.1 Vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu
Nguồn: Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam có những bước tiến rất nhanh trong những năm qua
nhưng vẫn đang gặp khó khăn lớn. Nguồn cung nguyên phụ liệu phụ thuộc nhiều vào
103
nước ngoài. Năm 2016 đến nay, Việt Nam mới chỉ cung cấp được 1% nhu cầu về
bông, 30% nhu cầu xơ, còn lại là phải nhập khẩu từ Mỹ, Trung Quốc và Đài
Loan,….Sản lượng sợi đạt 1,4 triệu tấn một năm nhưng hơn 70% trong đó là xuất
khẩu do chất lượng thấp, không đáp ứng được nhu cầu trong nước; mặt khác lại phải
nhập khẩu sợi chất lượng cao từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan,… Khâu dệt vải
tạo ra khoảng 1,4 tỉ mét vải/năm (chiếm 15-16% nhu cầu), vẫn phải nhập khẩu 7 tỷ
mét vải từ các nước ngoài TPP như Trung Quốc và Hàn Quốc (chiếm hơn 70%). Như
vậy, may xuất khẩu lệ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên, phụ liệu nhập khẩu, mà chủ
yếu không phải từ các nước TPP.
Năm 2018 nhập tổng cộng 3 tỉ bông, 2 tỉ sợi, 2,6 tỉ phụ liệu... Trong tổng số 36,2 tỉ
USD xuất khẩu thì có xuất khẩu nguyên phụ liệu, vải xuất khẩu đạt 1,6 tỉ USD, phụ liệu
1,2 tỉ USD. Số liệu cho thấy khâu sản xuất vải rất hiếm, chỉ đáp ứng 20-30% nhu cầu sử
dụng vải. Làm thế nào giải quyết khâu yếu và điểm nghẽn này và tập trung sản xuất vải
cung cấp cho xuất khẩu, đó là điều trăn trở nhất [62]. Chúng ta vẫn phải nhập từng cây
kim, sợi chỉ. Đây chính là thách thức lớn cho ngành CNHT dệt may.
Ngoài ra, các DN CNHT ngành Dệt may cũng có nhiều điểm yếu kém khác là:
trình độ công nghệ thấp, máy móc lạc hậu; trình độ tay nghề của lao động chưa đáp
ứng tốt, năng suất lao động thấp…
4.1.2 Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp điện tử
Về số lượng doanh nghiệp:
Theo số liệu thống kê của Trung tâm phát triển DN CNHT (2020) [39] thì sản
xuất linh kiện điện - điện tử có 680 doanh nghiệp, tăng trưởng bình quân về số lượng
doanh nghiệp giai đoạn 2010 – 2020 đạt 18,66 %, phát triển nhanh, tỷ lệ doanh
nghiệp sản xuất linh kiện/ tổng số doanh nghiệp ngành điện tử chiếm khoảng 59,28%.
Về lý thuyết, để một ngành sản xuất chế tạo phát triển thì số lượng DN cung ứng các
linh kiện, phụ tùng phải lớn hơn nhiều lần số doanh nghiệp lắp ráp, vì vậy, với tỷ lệ
số DN sản xuất linh kiện điện tử chỉ chiếm hơn một nửa tổng số DN toàn ngành, có
thể thấy rằng, ngành CNHT điện tử của Việt Nam chưa thực sự phát triển.
Về quy mô doanh nghiệp: CNHT ngành điện tử: các doanh nghiệp CNHT chủ
yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thiếu vốn, công nghệ và nhân lực chất lượng cao
[25, tr. 104-115]; thêm vào đó, sự tham gia của các DN CNHT thuần Việt còn hạn
chế, chủ yếu cung ứng các nguyên liệu, phụ tùng đơn giản như bao bì, một số khuôn
104
mẫu nhựa và kim loại; các linh phụ kiện phức tạp, tinh vi như linh kiện điện tử
thường do các doanh nghiệp FDI đảm nhận hoặc nhập khẩu từ bên ngoài.
Về Giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) lĩnh vực linh kiện phụ tùng:
Năm 2016, GTSXCN lĩnh vực linh kiện phụ tùng ước đạt 382 nghìn tỷ đồng
(giá hiện hành), tăng 20,9% so với năm 2015; chiếm tỷ trọng khoảng 4,4% GTSXCN
toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (SIDEC, 2015). Trong đó, sản xuất linh
kiện kim loại có GTSXCN cao nhất, đạt 172 nghìn tỷ đồng; GTSXCN linh kiện điện
– điện tử đạt 152 nghìn tỷ đồng và phát triển rất mạnh trong 5 năm trở lại đây. Giá trị
sản xuất ngành Linh kiện điện tử đã tăng trưởng liên tục với tốc độ tăng trưởng hàng
năm kép (CAGR) đạt 27% trong giai đoạn 2011 – 2017. Giá trị sản xuất công nghiệp
ngành Linh kiện điện tử trong 9 tháng đầu năm 2018 ước tăng hơn 1.5% so với cùng
kỳ năm 2017 do doanh số bán ra các loại chip, linh kiện của Samsung vẫn tiếp tục
tăng trưởng dẫn đến việc đẩy mạnh sản xuất linh kiện điện tử ở Việt Nam để sản xuất
chip, chất bán dẫn và bộ xử lý di động.
Biểu đồ 4.2: Giá trị sản xuất ngành linh kiện điện tử
Nguồn: Thống kê trên Trang web Điện tử Việt Nam.
Về xuất nhập khẩu: Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm linh kiện, phụ tùng của
Việt Nam liên tục tăng từ năm 2008. Theo SIDEC (2017), năm 2015, kim ngạch xuất
khẩu linh kiện, phụ tùng là 21,1 tỷ USD, tăng 43% so với năm 2014, tăng trưởng bình
quân giai đoạn 2012-2015 là 32,9%/ năm. Một số sản phẩm linh kiện điện tử có kim
ngạch xuất khẩu cao là linh kiện, phụ tùng điện thoại mạch điện tử tích hợp, linh kiện
máy ảnh …
Tuy nhiên, để phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước, ngành điện tử Việt Nam
105
vẫn nhập siêu linh kiện, phụ tùng với giá trị khá lớn. Năm 2015, kim ngạch nhập
khẩu linh kiện, phụ tùng của Việt Nam là 38,7 tỷ USD, tăng 25% so với 2014. Điều
này khiến cho cán cân thương mại ngành điện tử Việt Nam thường xuyên rơi vào tình
trạng nhập siêu và giá trị gia tăng của ngành thấp.
Một số sản phẩm linh kiện điện tử có kim ngạch nhập khẩu cao là: mạch điện
tích hợp, linh kiện, phụ tùng điện thoại các loại, mạch in …Nguồn nhập khẩu chủ yếu
từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước ASEAN. Giá trị nhập khẩu lớn nhất
là mạch tích hợp (mã HS:8542). Năm 2015, nhập khẩu mã 8542 là 12,9 tỷ USD, tăng
trưởng giai đoạn 2011 – 2015 lên đến 57,78%/ năm (SIDEC, 2017 [39])
Tóm lại, trong suốt 30 năm phát triển, ngành điện tử Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi
tình trạng lắp ráp cho các ông lớn nước ngoài. Các doanh nghiệp điện tử nước ta vẫn chỉ
tập trung khai thác sản phẩm cũ, không có sự thay đổi nhiều, lợi nhuận thấp và riêng về
giá trị gia tăng không cao, chỉ khoảng 5-10%/năm. Thế nhưng, các doanh nghiệp FDI
trong ngành điện tử thì đang đứng trước thách thức giảm chi phí linh phụ kiện và nâng
cao giá trị của các sản phẩm sản xuất trong nước. Do số doanh nghiệp hỗ trợ vẫn rất ít so
với số lượng doanh nghiệp lắp ráp, chất lượng linh phụ kiện chưa đảm bảo nên phần lớn
các doanh nghiệp FDI phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước xung quanh.
Bảng 4.1. Năng lực cung ứng của lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng
cho ngành điện tử VN
Lĩnh vực
Điện tử gia dụng
Linh kiện cơ khí 50%
Linh kiện điện – điện tử 30 – 35%
Linh kiện nhựa – cao su 40%
Điện tử tin học, viễn thông
30%
15%
15%
Công nghiệp công nghệ cao
10%
5%
5%
Nguồn: Số liệu thống kế từ Trung tâm công nghệ thông tin và kinh tế số [70]
Tỷ lệ cung ứng nội địa trong nước cho các nhà lắp ráp thấp, thường do các
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đảm nhiệm. Sản phẩm CNHT chủ yếu do doanh nghiệp
FDI sản xuất hoặc nhập khẩu. Các sản phẩm doanh nghiệp nội địa sản xuất có chất lượng
thấp, giá thành cao (công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới; hạn chế nguồn lực, qui trình sản
xuất kém…) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nội địa.
4.1.3 Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp ô tô
- Số lượng và quy mô các doanh nghiệp
Theo Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), cả nước hiện có hơn 350
106
DN CNHT ô tô, nhưng 80% là DN nước ngoài, số còn lại là DN trong nước phần
lớn có quy mô nhỏ, khó có điều kiện đầu tư công nghệ. Tính đến tháng 3/2022, mới
chỉ có 229 DN tham gia chuỗi cung ứng cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Trong đó có 84 DN cung ứng linh kiện trực tiếp cho hãng xe (nhà cung ứng cấp 1)
và 145 DN cung ứng gián tiếp cho hãng xe (nhà cung ứng cấp 2 - 3). Lĩnh vực sản
xuất ô tô còn phụ thuộc lớn vào các loại chip bán dẫn. Trung bình một chiếc xe có
hàng trăm bộ phận bán dẫn, kéo theo đó là có khoảng 1.400 loại chip trên xe. Trong
khi đó, hiện nay chưa có DN trong nước nào sản xuất được đầy đủ một con chip mà
đều phải nhập khẩu từ nước ngoài.
- Tỷ lệ nội địa hóa
Tỷ lệ nội địa hóa ngành CNHT ô tô bình quân khoảng 15%.
• “Về tỷ lệ nội địa hóa đối với xe dưới 10 chỗ: THACO đạt 15-18%; Toyota Việt
Nam đạt trên 37% (riêng cho dòng xe Innova)” [73, Tr. 3].
• “Về tỷ lệ nội địa hóa đối với xe tải nhẹ: THACO đạt trên 33%; Vinaxuki đạt
trên 50%” [73, Tr. 3].
Biểu đồ 4.3: Nhập khẩu phụ kiện ô tô của Việt Nam giai đoạn 2010-2018
Nguồn: Số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan 2010-2018 [69]
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, trong 9 tháng đầu năm 2018, Việt Nam đã chi
ra trên 2.5 tỷ USD để nhập khẩu linh kiện, phụ tùng cho xe ô tô bao gồm linh kiện tách
rời để lắp ráp, sản xuất xe tải, xe thương mại và cụm linh kiện cho xe con.
Tuy nhiên, doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô Việt
Nam vẫn còn nhiều hạn chế như phát triển chậm cả về số lượng và chất lượng so với
các quốc gia trong khu vực. Dẫn chứng là sản lượng xe sản xuất lắp ráp trong nước
năm 2017 và 2018 đã giảm khoảng 9% và 3% so với năm trước đó; mà nguyên nhân
107
là do tác động của việc giảm thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc từ các nước ASEAN,
từ mức 50% năm 2015, xuống 40% năm 2016, 30% năm 2017 và 0% năm 2018.
Biểu đồ 4.4: Sản lượng sản xuất lắp ráp ô tô tại Việt Nam 2010-2018
Nguồn VIRAC, GDVC 2019
Nhìn chung, quy mô DN nội địa về CNHT ngành SX ô tô ở Việt Nam chủ yếu
là DNNVV, năng lực tài chính còn nhiều hạn chế, khả năng huy động vốn kém hơn
so với những DN FDI. Các DN này gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm nguồn tài
trợ vốn từ ngân hàng, do khả năng thẩm định, giấy phép, kết cấu hạ tầng, quy định
liên quan đến tài sản thế chấp, thủ tục rườm rà… mất nhiều thời gian, đây là những
rào cản gây trở ngại cho DN CNHT ngành SX ô tô trong môi trường phát triển SX
hiện nay và rất cần được tháo gỡ kịp thời.
Biểu đồ 4.5: Kim ngạch nhập khẩu linh kiện phụ tùng ô tô năm 2020-2021
Nguồn: Số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan 2020-2021 [69]
108
Theo thống kê sơ bộ từ Tổng Cục Hải quan, kim ngạch nhập khẩu linh kiện và
phụ tùng ô tô các loại của nước ta trong tháng 6/2021 đạt 468,9 triệu USD, giảm
2,22% so với tháng trước nhưng tăng 67,80% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 6
tháng đầu năm 2021, nhập khẩu linh kiện phụ tùng ô tô vào nước ta đạt 2,63 tỷ USD,
tăng 62,97% so với 6 tháng năm 2020. Trong 6 tháng năm 2021, Việt Nam nhập khẩu
linh kiện phụ tùng ô tô chủ yếu từ các thị trường Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản,
Thái Lan; trong đó, nhập khẩu nhiều nhất từ thị trường Hàn Quốc, đạt trị giá 683,67
triệu USD, chiếm 26,04% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước,
tăng 62,38% so với 6 tháng đầu năm 2020; thị trường lớn thứ hai cung cấp linh kiện phụ
tùng ô tô cho Việt Nam đó là khối ASEAN, đạt 629,36 triệu USD, chiếm 23,97%, tăng
74,74% so với cùng kỳ năm 2020. Xếp thứ ba về kim ngạch là thị trường Trung Quốc
đạt 485,81 triệu USD, chiếm 18,5%, tăng 72%; [69]
Về sự tương đồng thì tình hình phát triển CNHT ngành ô tô của Việt Nam có
xuất phát điểm như Trung Quốc vào sau năm 1978, đây là giai đoạn đầu của thời kỳ
này bước ngoặt trong phát triển công nghiệp ô tô Trung Quốc, nhưng công nghiệp
hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô mới chỉ phát triển ở mức độ thấp, còn yếu kém cả
về năng lực công nghệ, khả năng tài chính và nguồn nhân lực, sản xuất sản phẩm
chất lượng thấp. Vì vậy, linh kiện, phụ tùng chủ yếu nhập từ các nước có nền công
nghiệp hỗ trợ phát triển mạnh như Mỹ, Nhật, Đức. Sau đó, để tăng cường sức cạnh
tranh cho ngành công nghiệp ô tô trong nước, Trung quốc đã cho những điều chỉnh
chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi và ưu tiên thu hút FDI vào các lĩnh vực
công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô.
Trình độ nguồn nhân lực và công nghệ
Công nghệ SX phụ tùng linh kiện ô tô bằng kim loại của các DN nội địa đã
chiếm phần lớn nhu cầu của các nhà lắp ráp ô tô ở Việt Nam. Tùy mức độ của mỗi
DN mà việc đáp ứng của công nghệ này đạt từ 15 đến 40% và tùy chủng loại xe. Các
công nghệ đúc, gia công áp lực, gia công chính xác (gia công cắt gọt), xử lý bề mặt,
nhiệt luyện, chế tạo khuôn, gá… có tăng trưởng, nhưng vẫn còn những hạn chế so
với DN FDI và các nước trong khu vực
Có 3 nhóm nhân lực đáp ứng yêu cầu CNHT ngành SX ô tô trong nước là kỹ
sư và công nghệ viên; kỹ thuật viên, công nhân lành nghề; và cán bộ quản lý trung
gian. Các kỹ sư và nhân lực chất lượng cao mặc dù được đào tạo trong các trường
109
đại học kỹ thuật lại hạn chế về thực hành thực tiễn, giao tiếp ngoại ngữ và các kỹ
năng mềm khác. Một số lĩnh vực quan trọng của CNHT ngành SX ô tô lại chưa chú
trọng đào tạo nhân lực, như luyện kim, công nghệ máy, cơ khí, điện - điện tử, công
nghệ nhựa – cao su. Các kỹ sư có khả năng trao đổi trực tiếp với các chuyên gia
nước ngoài còn rất ít. Các kỹ thuật viên, công nhân lành nghề được đào tạo hầu hết
trong lĩnh vực cơ khí, điện tử, nhưng chất lượng đào tạo còn thấp so với các nước
trong khu vực.
4.1.4 Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp da giày
Biểu đồ 4.6: Thị phần xuất khẩu ngành giày da Việt Nam 2018
Nguồn: [28, Tr.43-44]
Trong những năm qua, da giày luôn nằm trong top 5 mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam, chỉ sau điện thoại và linh kiện, hàng dệt may, máy vi tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện. Năm 2017, ngành da giày đạt kim ngạch xuất khẩu 18 tỷ
USD, tăng 10,7% so với năm 2016, với nhiều sản phẩm được xuất khẩu đi nhiều
nước trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày vẫn đạt mức tăng trưởng
đều đặn hàng năm.
Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành da giầy Việt Nam, chiếm
khoảng 37% trong tổng kim ngạch. Tiếp đến là thị trường EU, xuất khẩu sang thị
trường này năm 2018 cũng sôi động hơn rất nhiều. Lượng giày dép Việt vào EU tăng
mạnh, chiếm trên 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu và chiếm khoảng 11% thị
phần tại EU. Ngoài hai thị trường trên, xuất khẩu sang các thị trường lớn khác của
ngành như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc… vẫn giữ được sức tăng trưởng ổn
định. Hiện Việt Nam đang sản xuất khoảng 920 triệu đôi giày mỗi năm, xuất khẩu
110
hơn 800 triệu đôi tới hơn 50 thị trường trên thế giới, trong đó Liên minh châu Âu
(EU) chiếm tỷ lệ lớn nhất. Sản phẩm túi xách cũng được xuất khẩu sang 40 nước,
trong đó thị trường Mỹ chiếm tỷ lệ cao nhất với 41,6%.
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) được ký kết vào giữa
năm 2018. So với đối thủ cạnh tranh lớn nhất là Trung Quốc, sản phẩm giày, dép của
Việt Nam được hưởng chênh lệch thuế từ 3,5-4,2% khi xuất khẩu vào EU tạo lợi thế
cạnh tranh rất lớn. Để được hưởng thuế suất ưu đãi EVFTA, sản phẩm da giày xuất
khẩu của Việt Nam phải đáp ứng quy định hàm lượng xuất xứ nguyên phụ liệu, cần
phải đáp ứng được quy định về xuất xứ thông qua hàm lượng giá trị trong khu vực
khi sử dụng nguyên liệu từ Việt Nam và các nước thành viên trong EVFTA. Trong
khi đó, tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu của ngành da giày còn thấp. Kim ngạch xuất
khẩu của ngành da giày chủ yếu đến từ các doanh nghiệp FDI, chiếm đến 70 - 80%,
mặc dù số lượng doanh nghiệp da giày FDI chiếm tỷ lệ nhỏ, chỉ hơn 10% tổng số
doanh nghiệp da giày cả nước. Theo số liệu của Bộ Công Thương năm 2018, “nguyên
phụ liệu chiếm tới 68 - 75% trong cơ cấu giá thành sản phẩm giày dép, nhưng tỷ lệ
nội địa hóa sản phẩm này của doanh nghiệp Việt Nam hiện chỉ đạt 40 - 45%. Các
doanh nghiệp trong nước chiếm gần 70% về số lượng doanh nghiệp, nhưng chỉ chiếm
35% tổng sản lượng da thuộc sản xuất tại Việt Nam” [73, trang 45]. Thực trạng này
đặt ra yêu cầu cần phải phát triển công nghiệp hỗ trợ, nguyên phụ liệu trong nước.
Về các ngành công nghiệp phụ trợ chính cho ngành da giày là ngành Da thuộc
sản xuất trong nước thường là da bò có chất lượng thấp, mảnh da nhỏ, nhiều thẹo chủ
yếu tiêu dùng trong thị trường nội địa. Sản phẩm da thuộc do các công ty thuộc da
FDI sản xuất có chất lượng cao hơn nhưng chỉ đáp ứng một lượng nhỏ nhu cầu sản
xuất XK. Với nguồn nguyên liệu giả da, nhu cầu trong nước ước cần đến 210 triệu
m2/năm, nhưng các doanh nghiệp sản xuất trong nước chỉ đáp ứng 8,9 triệu m2/năm
(tương ứng 4,2%). Hiện nay Việt Nam vẫn phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu mũ
giày (giả da, da nhân tạo, da tráng PU) từ Đài Loan, Hàn Quốc và Trung Quốc. Giả
da sản xuất trong nước thường cứng, khả năng chịu nhiệt kém. Tỷ lệ nội địa hoá da
tổng hợp, da nhân tạo hiện nay khoảng 30%.
Tại Việt Nam, tổng sản lượng da nguyên liệu cung ứng cho ngành công nghiệp
thuộc da ước tính 220,000- 250,000 tấn. Tốc độ tăng trưởng hàng năm kép giai đoạn
2012 – 2016 đạt 14%, trong năm 2018 sản lượng da thuộc đạt 75.1 triệu m², tăng
111
7.4% so với cùng kỳ năm 2017. Tiếp tục đà tăng trưởng từ năm trước cùng tác động
tích cực từ CPTPP, sản lượng sản xuất giày dép Q1/2019 đạt 432.1 triệu đôi, trong đó
giày, dép da tăng 11.7% so với cùng kỳ năm 2018.
Theo bộ Công nghiệp, mỗi năm nước ta vẫn phải nhập 6 triệu feet vuông da
thuộc. Nhà máy thuộc da chỉ đáp ứng được dưới 10% nhu cầu da thuộc và chưa kể
hiện nay các nhà máy này chỉ hoạt động được 25% công suất do thiếu nguyên liệu.
Hàng năm, Việt Nam chỉ có thể cung cấp 5000 tấn da bò và 100 tấn da trâu nhưng
nguồn nguyên liệu nội địa không được tận dụng và giá trị xuất khẩu thấp. 60% nguồn
da này được xuất sang Trung Quốc và Thái Lan, phần còn lại thì không đủ tiêu chuẩn
để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Vì thế mỗi năm Việt Nam chi từ 170 tới 230 triệu
USD để nhập da giả và từ 80 tới 100 triệu USD để nhập da từ Thái Lan, Đài Loan và
Hàn Quốc.
Ngoài ra, trong số 30% công ty Việt Nam tham gia vào sản xuất da giày lại có
tới 70% làm gia công vì thế giá trị lợi nhuận đích thực mà ngành này mang lại không
lớn. Và chưa đến 20 doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam đủ sức làm hàng dạng FOB.
Các doanh nghiệp nội địa ngành da giày Việt Nam có 3 bất lợi lớn: Thứ nhất là
không chủ động được nguồn nguyên liệu nên phụ thuộc vào khách hàng và các nhà cung
cấp nguyên liệu từ Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc. Thứ hai, công nghệ yếu nên
không có sức cạnh tranh và doanh nghiệp phải làm gia công cho các công ty liên doanh
hoặc 100% vốn nước ngoài là chính. Và cuối cùng là do công tác xúc tiến thương mại
kém, nên hầu hết các doanh nghiệp sản xuất làm gia công ở tầng thứ 2, thứ 3.
Tóm lại, Công nghiệp hỗ trợ ngành da giày vẫn bị đánh giá là còn điểm yếu.
Việc ký kết hàng loạt FTA đã tạo lực đẩy cho doanh nghiệp đầu tư sản xuất nguyên
phụ liệu, song để tận dụng tối đa lợi thế FTA cần có sự đồng bộ cơ chế, chính sách
thu hút đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia vào sản xuất da giày, kết nối các doanh
nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng nguyên, phụ liệu cho các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.
4.2 . Đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
4.2.1. Những kết quả đạt được trong phát triển Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
Công tác ban hành và thực thi chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ
bước đầu có hiệu quả
Năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số các văn bản sau:
112
+ Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số ngành công
nghiệp hỗ trợ.
+Quyết định số 1483/QĐTTg ngày 26/8/2011 về việc Ban hành Danh mục sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển.
Năm 2015 chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03
tháng 11 năm 2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ với 06 ngành nghề được hỗ trợ,
hưởng ưu đãi bao gồm: Điện tử, lắp ráp ô tô, Dệt May, Da Giày, Cơ khí chế tạo, Các
sản phẩm CNHT cho công nghệ cao. Làm cơ sở để triển khai mạnh mẽ hơn nữa các
chính sách, hoạt động khuyến khích, thu hút đầu tư, trợ giúp doanh nghiệp trong lĩnh
vực này. Năm 2017 Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2017 được ban
hành bởi Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chương trình phát triển công
nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025”.
Kết quả đạt được sau 03 năm triển khai thực hiện, Nghị định số 111/2015/NĐ-
CP của Chính phủ ban hành năm 2015 đã đạt được những kết quả nhất định:
a) Về công tác xác nhận ưu đãi dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển, trong số 35 hồ sơ đề
nghị xác nhận ưu đãi, Bộ Công Thương đã cấp 23 Giấy xác nhận thuộc các ngành dệt
may, điện tử, ô tô, công nghệ cao và cơ khí, các hồ sơ còn lại không thuộc đối tượng
hoặc không đủ điều kiện xác nhận ưu đãi. Tuy nhiên, các doanh nghiệp được cấp ưu
đãi chủ yếu là các doanh nghiệp FDI.
b) Công tác hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ:
Thứ nhất, triển khai Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ Bộ Công
Thương đang triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp CNHT theo
Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2016 – 2025 được phê duyệt tại
Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ với
các nội dung trọng tâm sau: “Kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp CNHT trở thành nhà cung
ứng sản phẩm cho khách hàng ở trong và ngoài nước; xúc tiến thu hút đầu tư nước
ngoài vào lĩnh vực CNHT” [20, Tr.4].
“Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu của các chuỗi
sản xuất toàn cầu trong quản trị doanh nghiệp, quản trị sản xuất. - Hỗ trợ đào tạo
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất sản
phẩm CNHT” [20, Tr.5].
113
“Hỗ trợ nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ
trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu và vật liệu” [20, Tr.5].
Xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về CNHT.
Thứ hai, Hỗ trợ về qui trình công nghệ sản xuất, nghiên cứu và phát triểncho
doanh nghiệp CNHT Thông qua các Chương trình Khoa học và công nghệ quốc gia như
Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020, Chương trình quốc gia phát
triển công nghệ cao đến năm 2020, Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa
của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020… đã hỗ trợ các doanh nghiệp CNHT đổi mới
công nghệ, xây dựng, hướng dẫn áp dụng các hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất
chất lượng; hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn quốc gia (TCVN), quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
(QCVN) và xây dựng áp dụng tiêu chuẩn cơ sở (TCCS).
Thứ ba, Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CNHT Ngoài các nội dung thuộc
Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, Bộ Công Thương cũng đẩy mạnh triển
khai một số chương trình, dự án hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ để
mở rộng thị trường và nâng cao trình độ các doanh nghiệp CNHT Việt Nam cụ thể là:
- Hợp tác với Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc đào tạo
cán bộ xây dựng chính sách và cán bộ kỹ thuật trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ,
gồm: Chương trình hợp tác đào tạo, chuyển giao công nghệ và thành lập Trung tâm
Tư vấn và Giải pháp công nghệ công nghiệp Việt Nam – Hàn Quốc (VITASK) trong
khuôn khổ hợp tác Ủy ban hỗn hợp Việt Nam – Hàn Quốc giữa Bộ Công Thương
Việt Nam và Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc (MOTIE).
- Hợp tác với Nhật Bản về công nghiệp hỗ trợ trong khuôn khổ chiến lược công
nghiệp hóa Việt Nam – Nhật Bản. - Hợp tác với Ngân hàng thế giới (World Bank)
triển khai thực hiện Chương trình thí điểm phát triển Nhà cung cấp của Việt Nam với
mục tiêu nâng cao năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam để có thể đáp ứng yêu
cầu và tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI.
Năm 2020 chứng kiến những tác động mạnh mẽ của đại dịch Covid-19 lên nền
kinh tế và các chuỗi cung ứng toàn cầu. Sự đứt gãy các chuỗi cung ứng đặt ra yêu cầu
phải tái cấu trúc đối với các tập đoàn đa quốc gia theo hướng tăng tỷ lệ nội địa hoá để
phân tán rủi ro. Những thay đổi này tạo ra cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi các DN
phải tự chủ và năng động hơn trong việc tìm kiếm cơ hội.
114
Ngày 6/8/2020, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết 115 về các giải pháp
phát triển công nghiệp hỗ trợ, đặt mục tiêu đến năm 2025, DN Việt Nam có khả năng
sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ có tính cạnh tranh cao, đáp ứng được 45% nhu
cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng nội địa; chiếm khoảng 11% giá trị sản xuất toàn
ngành công nghiệp. Đặt ra mục tiêu năm 2030, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng
70% nhu cầu nội địa; chiếm khoảng 14% giá trị sản xuất công nghiệp.
Nghị định 57/2021/NĐ-CP được ban hành giúp tháo gỡ vướng mắc về vấn đề ưu đãi
thuế cho các doanh nghiệp có dự án sản xuất sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển thành lập
trước năm 2015. Nỗ lực hoàn thiện hành lang pháp lý cho CNHT dần có hiệu ứng tích cực
đến tâm lý và quyết định đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh các sản phẩm CNHT, thu
hút nhiều doanh nghiệp tham gia, qua đó góp phần thúc đẩy ngành CNHT trong nước.
Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ phát triển cả về lượng và chất
Số doanh nghiệp đang hoạt động trong CNHT tính đến năm 2016 là khoảng
1.800 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện và hơn 1.500 doanh nghiệp sản xuất
nguyên vật liệu cho ngành dệt may, da giầy (chiếm gần 4,5% tổng số doanh nghiệp
của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo). Các doanh nghiệp CNHT tạo việc làm cho
hơn 550.000 lao động, với doanh thu thuần sản xuất kinh doanh trong năm 2016 tăng
20,9% so với năm 2015.
Hiện nay, một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện Việt Nam có năng lực khá tốt
tại một số lĩnh vực như sản xuất khuôn mẫu các loại; linh kiện xe đạp, xe máy; linh
kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa – cao su kỹ thuật; săm lốp các loại.
Các sản phẩm này đã đáp ứng khá tốt nhu cầu trong nước và được xuất khẩu sang nhiều
quốc gia trên thế giới. Doanh nghiệp CNHT trong nước cũng ngày càng tích cực áp dụng
các tiêu chuẩn, công cụ quản lý hiện đại vào sản xuất, chế tạo.
Năng lực sản xuất sản phẩm CNHT trong nước dần được cải thiện
Năm 2016, kim ngạch xuất khẩu linh kiện, phụ tùng là hơn 26 tỷ USD, tăng hơn
24% so với 2015. Nếu tính cả các ngành CNHT cho dệt may, da – giày, kim ngạch
xuất khẩu CNHT của Việt Nam đạt hơn 32 tỷ USD (Số liệu cụ thể tại Phụ lục 1 kèm
theo Báo cáo này). Thị trường xuất khẩu cho các ngành CNHT của Việt Nam chủ yếu
là các Trung Quốc; Hàn Quốc; Mỹ; Nhật Bản. Công nghiệp hỗ trợ trong nước đã có
thể cung cấp một số phụ tùng, linh kiện như phụ tùng linh kiện nhựa, cao su cho các
sản phẩm điện tử, ô tô xe máy, phụ tùng linh kiện nhôm và kim loại cho ô tô, xe máy
115
và các sản phẩm máy móc thiết bị. Nhờ khả năng cung cấp một số linh kiện, phụ tùng
cho các ngành công nghiệp trong nước, tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành công
nghiệp tại Việt Nam đã được cải thiện, cụ thể:
+ Đối với ngành điện tử: tỷ lệ nội địa hóa các ngành điện tử gia dụng là 30 -
35% nhu cầu linh kiện; và điện tử phục vụ các ngành ô tô - xe máy khoảng 40% - chủ
yếu cho sản xuất xe máy;
+ Đối với ngành sản xuất, lắp ráp ô tô: Một số dòng xe đã đạt tỷ lệ nội địa hóa
cao và vượt mục tiêu Chiến lược và Quy hoạch công nghiệp ô tô Việt Nam đề ra, đáp
ứng về cơ bản thị trường nội địa (xe tải đến 07 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, với tỷ
lệ nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng
khoảng 90% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa đạt tối đa đến 40%)
Ông Jun Yanagi, Phó Đại sứ, Công sứ Đại sứ quán Nhật Bản: “Mặc dù có tới
1.600 công ty Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam và một nửa số DN này là từ khu
vực sản xuất, nhưng tỷ lệ các sản phẩm nội địa mà các công ty sản xuất Nhật Bản đặt
mua rất thấp. Hầu hết sản phẩm nội địa đều do các công ty Nhật Bản ở Việt Nam
cung cấp. “Điều đó có nghĩa là số lượng giao dịch kinh doanh giữa các DN Việt Nam
và DN Nhật Bản vẫn còn rất hạn chế và còn một khoảng trống”.
4.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
4.2.2.1 Những hạn chế
Hạn chế về chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ
Một số vấn đề bất cập, tồn tại, vướng mắc mà các quy định hiện hành của pháp
luật chưa thể giải quyết để tạo ra các cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy công
nghiệp hỗ trợ phát triển, ví dụ:
-- Chưa thành lập cơ quan độc lập của Nhà nước để chuyên hỗ trợ các doanh
nghiệp công nghiệp hỗ trợ có điều kiện tiếp cận những tập đoàn, doanh nghiệp công
nghiệp lớn nhằm học hỏi và ký kết hợp đồng cung ứng sản phẩm.
- Chính sách thu hút các doanh nghiệp FDI chưa gắn với các ràng buộc về trách
nhiệm phát triển hệ thống nhà cung ứng nội địa tại Việt Nam; chính sách tạo ra các
liên kết giữa các doanh nghiệp này và các doanh nghiệp CNHT còn chưa được hình
thành. Mối quan hệ ràng buộc giữa các ưu đãi của các doanh nghiệp sản xuất các sản
phẩm hoàn chỉnh và nghĩa vụ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được thể
116
hiện trong bất kỳ văn bản qui phạm pháp luật nào;
- Trong giai đoạn đầu phát triển, ngành CNHT còn nhiều hạn chế và yếu kém,
chưa đủ nguồn lực để vươn ra chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, vì vậy thị trường nội
địa đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, các chính sách phát
triển các ngành công nghiệp chính như ô tô, cơ khí, điện tử, dệt may… nhằm tạo thị
trường cho CNHT cũng chưa đạt được những kết quả như mong muốn, gây ra các
hạn chế trong việc phát triển chuỗi sản xuất trong nước và quốc tế.
- Một vài chính sách tuy đã được quy định trong Nghị định số 111/2015/NĐ-CP
về ưu đãi, hỗ trợ DN CNHT, nhưng lại chịu sự ràng buộc các Luật chuyên ngành
(như Luật Đất đai, Luật thương mại, Luật Đấu thầu, Luật các tổ chức tín dụng …).
Việc thực thi một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ DN CNHT còn gặp nhiều khó khăn như
chính sách bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các cơ chế về ưu đãi
tín dụng đầu tư, ưu đãi về thuế, tiền thuê đất, đặc biệt là phân bổ nguồn lực để triển khai
các chính sách về công nghiệp hỗ trợ chưa được cụ thể hóa…
Nghị định 111 về công nghiệp hỗ trợ của nhà nước thì đến nay đếm trên đầu
ngón tay những doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam được hưởng chính sách
ưu đãi đó. Vấn đề ở đây có thể là chưa rõ về chính sách, vấn đề thứ hai là cái thực thi nó,
cụ thể hóa nó và một số chính sách nó đan chéo lẫn nhau, dẫn tới là chính sách đó chưa đi
vào thực tế của đời sống của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.
Hạn chế về năng lực phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ở Việt Nam, cho đến nay sản phẩm công nghiệp hỗ trợ chủ yếu do doanh nghiệp nhà
nước (hoặc doanh nghiệp cổ phần hóa từ doanh nghiệp nhà nước) sản xuất, phần lớn
cung cấp những sản phẩm có chất lượng kém và giá thành cao (vì công nghệ lạc hậu, vì
quản lý kém, ...) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nhà nước. Một bộ
phận khác, chủ yếu là những sản phẩm công nghiệp phụ trợ cấp thấp, do các hộ kinh
doanh cá thể sản xuất cũng gặp khó khăn về vốn và công nghệ.
Hạn chế về năng lực doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT còn rất thấp
Mặc dù trình độ sản xuất và công nghệ của doanh nghiệp đã từng bước được cải
thiện, các sản phẩm CNHT trong nước chủ yếu vẫn là linh kiện và chi tiết đơn giản,
với hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản
phẩm. Tuy đã tự chủ được một số loại sản phẩm CNHT cung cấp cho thị trường trong
nước và xuất khẩu, vẫn còn nhiều sản phẩm CNHT cần được hỗ trợ để phát triển như
117
chất bán dẫn, mạch in, khuôn nhựa trong ngành điện tử; phôi thép, thép tấm, thép
hình, khuôn mẫu trong ngành cơ khí; và vải trong ngành dệt may, da giầy. Bên cạnh
đó, một số sản phẩm CNHT mà Việt Nam chưa đủ năng lực cạnh tranh, chủ yếu là
các sản phẩm hoá dầu như hạt nhựa, cao su nhân tạo, sợi nhân tạo… Các sản phẩm
CNHT có hàm lượng công nghệ cao vẫn chủ yếu do các doanh nghiệp FDI cung cấp. Cơ
hội mở ra rất lớn đối với các ngành như ô tô, điện tử, dệt may và da dày nhưng các doanh
nghiệp Việt Nam công nghiệp Việt Nam vẫn chưa đủ năng lực để cung cấp linh kiện và
phụ tùng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng cho các chuỗi sản xuất toàn cầu ở trong
nước. Năng lực tổ chức quản lý sản xuất và công nghệ kỹ thuật của phần lớn các doanh
nghiệp CNHT Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đến nay, các doanh nghiệp nội địa chỉ mới
cung ứng được khoảng 10% nhu cầu trong nước về sản phẩm CNHT. Khoảng cách giữa
yêu cầu của các Tập đoàn đa quốc gia và năng lực đáp ứng của các doanh nghiệp sản
xuất nội địa còn rất lớn. Một số doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia cung ứng sản phẩm
CNHT, tuy nhiên rất ít doanh nghiệp có chiến lược phát triển dài hạn để có thể đầu tư
chiều sâu về thiết bị, công nghệ, quản lý, cũng như nhân lực. Khu vực dệt may và da giày
mới phát triển khá ở sản xuất phụ kiện, còn sản xuất vải, xơ sợi, da thuộc...đáp ứng tiêu
chuẩn quốc tế chủ yếu do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện.
Thực trạng chung của ngành CNHT Việt Nam hiện nay là quy mô và năng lực
của các DN còn nhiều yếu kém, năng lực sản xuất còn rất thấp, thiếu nguồn lực và
công nghệ để nâng cao năng suất, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Các
sản phẩm CNHT trong nước chủ yếu vẫn là linh kiện và chi tiết đơn giản, với hàm
lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Quy
mô và năng lực cạnh tranh của các DN CNHT còn yếu kém, chưa đủ tiềm lực để
tham gia vào chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu. Đại diện Samsung cho biết, tính đến
hết năm 2019, Việt Nam có 42 DN là nhà cung ứng cấp 1, dự kiến tăng lên 50 DN
vào năm 2020. Tuy nhiên có thể thấy, chỉ 50 DN Việt tham gia vào chuỗi cung ứng
cấp 1 của Samsung nếu so hơn 110.000 DN đang hoạt động trong ngành CNHT, rõ
ràng năng lực của các DN CNHT của Việt Nam còn rất hạn chế.
Các doanh nghiệp thiếu nguồn lực và công nghệ để đổi mới và nâng cao nâng
lực sản xuất
Lĩnh vực sản xuất của các doanh nghiệp CNHT trong nước khá giống nhau, cả
về trình độ, quy mô, công nghệ và sản phẩm. Trong ngành cơ khí, đa số là gia công
118
các công đoạn cơ khí đơn giản (dập, cắt, hàn, sơn..) rất ít doanh nghiệp thực hiện các
công đoạn, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao như đúc, xử lý nhiệt, gia công bề
mặt. Điện tử mới chỉ tập trung chủ yếu vào các chi tiết nhựa và bao bì. Các chi tiết
như mạch in nhiều lớp, các linh kiện điện tử rất ít doanh nghiệp đủ trình độ sản xuất.
Trong ngành dệt may, chủ yếu mới chỉ phát triển ở công đoạn may. Phần lớn các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ, không đủ năng lực đầu tư, hấp thụ và đổi mới công
nghệ sản xuất.
Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của các
ngành công nghiệp hỗ trợ
Các doanh nghiệp chế biến, chế tạo và CNHT gặp khó khăn trong việc tuyển
dụng lao động đáp ứng được các yêu cầu công việc của doanh nghiệp, đặc biệt là lao
động tay nghề cao. Cơ cấu đào tạo chưa phù hợp với số lượng học viên cấp bậc đại
học và số lượng đào tạo cao đẳng - trung cấp nghề ở có tỷ lệ rất thấp 1 kỹ sư:1,25 thợ
dẫn đến hiện tượng thừa thầy thiếu thợ nghiêm trọng. Ngoài ra do tác động của cơ
cấu kinh tế, các học viên tham gia các ngành kỹ thuật có tỷ trọng nhỏ so với các
ngành kinh tế dịch vụ dẫn đến sự thiếu hụt lao động tay nghề cao trong lĩnh vực chế
biến chế tạo. Phần lớn lao động tại các doanh nghiệp CNHT là lao động phổ thông,
được đào tạo dưới hình thức vừa học vừa làm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo, đặc biệt là
lao động có kỹ năng đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp rất thấp và luôn trong tình
trạng khan hiếm. Trình độ của đội ngũ quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp CNHT của
Việt Nam còn hạn chế, trong khi đây là nhân tố quyết định đường lối, chiến lược kinh
doanh và cách thức vận hành doanh nghiệp, khả năng chấp nhận rủi ro để thực thi các
Theo nội dung phỏng vấn ông Akutsu Michio, Chuyên gia Hiệp hội Cố vấn thương mại
Nhật Bản thì công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đang phải đối mặt những vấn đề liên quan
đến năng suất lao động, đặc biệt năng suất lao động của lao động địa phương tại Việt Nam
còn thấp. Theo báo cáo năm 2021 của JETRO về tỷ lệ lao động chất lượng cao tại Việt Nam,
tỷ lệ chất lượng lao động chỉ đạt 14,4%. Báo cáo cho thấy, số nhân sự cao cấp đáp ứng
được các yêu cầu của các tập đoàn lớn tại Việt Nam rất ít. Bên cạnh đó, tình trạng chảy máu
chất xám nhân tài có trình độ kỹ thuật cao từ các doanh nghiệp trong nước sang các doanh
nghiệp FDI và ra nước ngoài làm việc đã dẫn đến tình trạng thiếu nhân lực tốt trong lĩnh
vực đòi hỏi tính chất đặc thù như công nghiệp hỗ trợ.
điều chỉnh, cải cách thông qua đầu tư, đổi mới công nghệ, cách thức quản lý...
119
Nhập siêu linh kiện, phụ tùng còn rất lớn
Dù đã đáp ứng một phần nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu, tuy nhiên, để
phục vụ nhu cầu sản xuất, lắp ráp trong nước, Việt Nam vẫn nhập siêu linh kiện, phụ
tùng với giá trị rất lớn. Năm 2016, kim ngạch nhập khẩu linh kiện, phụ tùng là gần 45
tỷ USD, tăng hơn 14% so với 2015, chủ yếu nhập khẩu từ Hàn Quốc (gần 14 tỷ
USD), Trung Quốc (hơn 12 tỷ USD). Nhập khẩu từ 02 quốc gia này chiếm gần 60%
tổng kim ngạch nhập khẩu linh kiện, phụ tùng của Việt Nam. Nếu tính cả các ngành
CNHT cho dệt may và da – giày, kim ngạch nhập khẩu CNHT Việt Nam năm 2016
lên đến hơn 63 tỷ USD
Tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành công nghiệp còn thấp, cụ thể:
a) Đối với ngành dệt may: Hiện tỷ lệ nội địa hóa đạt của các doanh nghiệp dệt
may mới đạt khoảng 40 - 45%. Vải sử dụng cho ngành phụ thuộc chủ yếu vào nhập
khẩu. Ngành vải may của Việt Nam hiện nay đạt sản lượng khoảng 2,3 tỷ m2/năm,
mới chỉ đáp ứng được khoảng 25% nhu cầu thị trường trong nước. Trong năm 2017,
Việt Nam nhập khẩu khoảng 11 tỷ USD vải phục vụ cho ngành may mặc. Vải sản
xuất trong nước phần lớn được sử dụng để sản xuất quần áo chất lượng trung bình và
thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất
khẩu. Nguyên nhân lớn nhất của sự kém phát triển đối với CNHT ngành dệt may là
các ngành sản xuất bông, sợi, nhuộm của Việt Nam đến nay vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu của ngành vải trong nước, do đó các doanh nghiệp dệt may nội địa vẫn phải
nhập khẩu vải để sản xuất hàng may mặc. Đặc biệt, điểm hạn chết tồn tại của CNHT
ngành dệt may hiện nay là công tác xử lý môi trường trong ngành dệt nhuộm vải vẫn
chưa được quan tâm đúng mức. Các doanh nghiệp vì thế cũng chưa đầu tư quyết liệt
vào ngành dệt vải và phát triển các lĩnh vực thiết kế thời trang.
b) Đối với ngành sản xuất, lắp ráp ô tô: Sản lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong
nước còn thấp. Theo thống kê sơ bộ của Cục Đăng kiểm Việt Nam, sản lượng ô tô
sản xuất, lắp ráp trong nước năm 2017 là hơn 322 ngàn xe, trong đó số lượng ô tô chở
người đến 9 chỗ ngồi là gần 130 ngàn xe, số lượng ô tô khách và ô tô tải là gần 118
ngàn xe, số lượng các loại xe khác là gần 70 ngàn xe. Tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá
nhân đến 9 chỗ ngồi còn thấp: đến nay mới đạt bình quân khoảng 7 - 10%, trong đó
Thaco đạt 15 - 18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Innova, thấp
hơn mục tiêu đề ra.
120
c) Đối với ngành điện tử: Tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành điện tử tin học, viễn
thông chỉ đạt 15%, điện tử chuyên dụng và các ngành công nghiệp công nghệ cao chỉ
đạt 5%. Ngành điện tử của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào các doanh nghiệp FDI,
đặc biệt là Samsung. Hầu hết các linh kiện nội địa hóa đều do các doanh nghiệp FDI
cung cấp. Mới chỉ có khoảng 35 doanh nghiệp Việt Nam là nhà cung ứng cấp 1 cho
Samsung. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu cung cấp vật tư tiêu hao, bao bì, in
Bà Nguyễn Thị Tuệ Anh - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương, cho rằng: Rất nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã và
đang chuẩn bị tham gia có quy định chặt chẽ về nguồn gốc xuất xứ, hay còn gọi là tỷ lệ
nội địa hóa để được hưởng ưu đãi thế quan từ các quốc gia thành viên. Điển hình như
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) hay Hiệp định Thương mại tự do Việt
Nam - EU (EVFTA). Nếu ngành CNHT của Việt Nam không phát triển, phải nhập khẩu
linh kiện quá nhiều và có tỷ lệ nội địa hóa không đảm bảo tiêu chí đặt ra thì Việt Nam
không thể đạt được những lợi ích từ hội nhập. Đồng nghĩa với đó, Việt Nam cũng khó
mà hội nhập được sâu vào nền kinh tế thế giới.
TS. Trương Thị Chí Bình- Phó chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam: Các sản
phẩm hiện giờ Việt Nam tương đối có lợi thế là những sản phẩm gia công nhiều công
đoạn. Cùng là sản phẩm cơ khí nhưng nếu gia công ít công đoạn, đơn giản thì Trung
Quốc cạnh tranh giá hơn chúng ta rất nhiều. Nhưng nếu nhiều công đoạn hơn, đòi hỏi
sự tỉ mỉ, chi tiết, khéo léo thì đấy là một trong những lợi thế của công nhân, kỹ sư Việt
Nam. Về con số thì tỷ lệ chúng ta tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu đã tăng lên so
với trước đây rất nhiều. Khảo sát của VASI năm ngoái cho thấy doanh nghiệp xuất khẩu
đi châu Âu đạt khoảng 12% trong số khoảng 300 doanh nghiệp trong khi trước đây chỉ 1
– 2 doanh nghiệp xuất đi thị trường này trong lĩnh vực chế tạo. Những khu vực khác như
Nhật Bản hay Hàn Quốc thì tỷ lệ cũng gia tăng lên. Đây thật sự là những kết quả hấp
dẫn với những người trong cuộc nhưng thực tế còn rất nhiều thách thức.
ấn...với giá trị cung ứng rất nhỏ so với nhu cầu linh kiện và phụ tùng của Samsung.
4.2.2.2 Một số nguyên nhân chủ yếu
Tình trạng tương đối kém phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam
có thể là do một số lý do cụ thể:
Nguyên nhân từ chính sách và quy hoạch của nhà nước
- Việt Nam vẫn chưa có luật mà mới có Nghị định số 111/2015/NÐ-CP dành
cho CNHT, mà Nghị định sẽ rất khó "vượt trần" các bộ luật khác. Nên chắc chắn sẽ
121
gặp nhiều rào cản trong việc áp dụng các nghị đinh, quy định liên quan đến phát triển
CNHT.
- Chính sách hỗ trợ về tài chính chưa rõ ràng, hạn chế tính chủ động của DN,
chính sách ưu đãi về vốn vay, lãi suất, thuế…còn hạn chế và chưa thật sự hiện quả.
Ví dụ, theo Thông tư số 14/2012/TT-NHNN quy định về việc hỗ trợ các doanh
nghiệp CNHT lãi suất vay 15%/năm đối đã cho thấy, Nhà nước thực sự quan tâm và
muốn phát triển CNHT, tuy nhiên, các DN CNHT của Việt Nam hiện nay còn quá
non nớt, vì thế sẽ rất khó tiếp cận được nguồn vốn vay hỗ trợ lãi xuất này. Bên cạnh
đó, Nhà nước cũng đang thiếu các định chế trung gian để hỗ trợ các DN trong phát
triển sản phẩm CNHT cũng như Việt Nam chưa có tổ chức chuyên lo thúc đẩy phát
triển CNHT …
- Các tổ chức kết nối giữa DN CNHT với nhà nước còn ít và chưa thật sự phát
huy được tính hiệu quả trong nhiệm vụ hỗ trợ các DN tiếp cận với những ưu đãi của
nhà nước.
- CNHT Việt Nam chậm phát triển là bởi khi Việt Nam gia nhập WTO, hàng
rào thuế quan giảm xuống, các chi tiết cùng linh kiện theo đó cũng được giảm thuế,
nên các nhà đầu tư, lắp ráp thường tìm mua các chi tiết, linh kiện từ bên ngoài…
- Liên quan đến quy hoạch phát triển CNHT thì hiện nay các ngành công nghiệp
phụ trợ của Việt Nam đang bị dàn trải, chưa có sự tập trung vào các ngành thế mạnh
của đất nước, do đó đẫn đến lãng phí nguồn lực, đầu tư không hiệu quả.
Thiếu vốn đầu tư đặc biệt là nguồn vốn FDI
Đầu tiên, các doanh nghiệp CNHT thường không thể đáp ứng tiêu chuẩn về
QCD (chất lượng, chi phí, giao hàng) yêu cầu của các công ty người dùng và điều này
có thể liên quan đến các yếu tố khác nhau. Mà nguyên nhân chính là sự yếu kém về
công nghệ, thông tin và nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ hai, các doanh nghiệp CNHT thiếu nguồn lực đầu tư vốn cần thiết để sản
xuất các bộ phận và thành phần của chất lượng phù hợp. Ngay cả khi các doanh
nghiệp CNHT có thể đáp ứng chất lượng do các công ty người dùng đặt ra với công
nghệ, thì những rào cản về thuế quan cũng như các chính sách ưu đãi các nhà đầu tư
cũng chưa thực sự gây thu hút các công ty nước ngoài rót vốn vào. Thị trường thế
giờ thì luôn luôn cạnh tranh, còn Việt Nam nếu thật sự muốn thu hút được các ông
lớn thì cần có những giải pháp hỗ trợ DN CNHT thể hiện năng lực của mình.
122
Về đầu tư trang bị máy móc công nghệ
- Ở Việt Nam các trung tâm thử nghiệm, kiểm tra, hướng dẫn về công nghệ mới
và phát triển công nghệ còn ít và hạn chế về mặt năng lực.
- Ngân sách đầu tư hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp mua bản quyền công nghệ
từ nước ngoài còn ít và chưa sử đụng đúng chỗ.
- Chưa có hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế làm căn
cứ cho định hướng phát triển ngành CNHT
Thiếu thông tin thị trường đầu vào
Hầu hết các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ đều thiếu thông tin
về thị trường đầu vào như thị trường vốn, thị trường lao động, nguyên vật liệu, thiết
bị công nghệ,… cũng như chế độ chính sách liên quan đến ngành hàng. Việc thiếu
thông tin còn hạn chế khả năng tiếp cận thị trường, sản phẩm không được tiêu thụ
rộng rãi, nhiều khi chỉ trong phạm vi một ngành, một địa phương, không được quảng
bá trên thị trường nội địa lại càng khó xuất khẩu. Mặt khác, các doanh nghiệp sản
xuất phụ tùng linh kiện phụ trợ chưa thực sự chủ động tìm đến các nhà lắp ráp để
chào bán sản phẩm. Giá thành sản phẩm của ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam khá
cao vì chi phí sản xuất/đơn vị sản phẩm cao, nguyên liệu phần lớn phải nhập khẩu,
hiện tại các doanh nghiệp phụ trợ Việt nam lệ thuộc đến gần 80% nguồn nguyên liệu
nhập khẩu.
Khả năng đáp ứng những thay đổi về nhu cầu đối với các bộ phận và linh kiện
dọc theo chuỗi giá trị là rất quan trọng để đảm bảo tính liên tục của nó. Về vấn đề
này, có thể thấy rằng các ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam đang nói chung là
không linh hoạt khi nói đến thời gian giao hàng. Hơn nữa, các doanh nghiệp CNHT
có thể không có năng lực để tăng sản lượng ngay cả khi họ muốn.
Nguyên nhân từ đào tạo phát triển nguồn lực lao động
Lực lượng lao động của Việt Nam hiện nay còn ở mức thấp do chất lượng đào
tạo và cách thức đạo tạo chưa thật sự đảm bảo được việc học đi đôi với hành.
Chất lượng giáo dục (toán và khoa học) ở Việt Nam là được đánh giá thấp hơn
so với các nền kinh tế có thu nhập trung bình khác trong APEC.
DN CNHT ở Việt Nam không cung cấp nhiều cơ hội đào tạo và phát triển. Kết
quả là tăng năng suất lao động đã tụt hậu so với các nền kinh tế APEC.
123
Nguyên nhân từ Cạnh tranh về sản phẩm trên thị trường
Mặc dù Việt Nam đã tự chủ được một số loại sản phẩm CNHT cung cấp cho thị
trường trong nước và xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm như hạt nhựa, cao su nhân tạo,
sợi nhân tạo. Song vẫn còn nhiều sản phẩm cần được hỗ trợ để phát triển như: Chất bán
dẫn, mạch in, khuôn nhựa trong ngành điện tử; phôi thép, thép tấm, thép hình, khuôn
mẫu trong ngành cơ khí; và vải trong ngành dệt may, da giầy. Bên cạnh đó, một số sản
phẩm CNHT Việt Nam chưa đủ năng lực cạnh tranh, Những nguyên nhân cơ bản dẫn
đến tình trạng yếu kém của ngành CNHT Việt Nam gồm:
- Các sản phẩm phụ trợ của Việt Nam cung cấp chất lượng còn thấp và giá thành
cao (vì công nghệ lạc hậu, vì quản lý kém,...), nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các
DN nhà nước.
- Việc lựa chọn sản phẩm CNHT để tập trung phát triển còn chưa phù hợp với
mục tiêu phát triển dài hạn, làm phân tán nguồn lực hỗ trợ, trong khi nguồn lực của
Việt Nam còn hạn chế.
4.3. Quan điểm và định hướng về phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến
năm 2030
4.3.1 Quan điểm về phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến năm 2030.
Thứ nhất, Phát triển công nghiệp hỗ trợ phải phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và xu hướng phát triển của thế giới, nhằm đáp ứng nhu
cầu nội địa của các ngành công nghiệp ưu tiên phát triển theo Nghị quyết số 23-
NQ/TW của Bộ Chính trị. Phát triển công nghiệp hỗ trợ phải đảm bảo tái cấu trúc
ngành công nghiệp cũng như tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam hiệu quả. Phát triển
CNHT là “chìa khóa” quyết định thành công quá trình “tái cấu trúc”. Ngành công
nghiệp là ngành “xương sống” của nền kinh tế, CNHT cấu thành nền tảng của cấu
trúc công nghiệp hiện đại.
Thứ hai, Phát triển CNHT trong bối cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước gắn với tăng trưởng kinh tế dựa trên KHCN và đổi mới sáng tạo cũng như
chuyển đổi số.
Việt Nam cần thúc đẩy chuyển đổi tư duy từ phát triển nền công nghiệp phụ thuộc,
gia công, lắp ráp sang chủ động sáng tạo, vươn lên, làm chủ công nghệ.
Để chủ động phát triển, nước ta phải thoát khỏi sự tăng trưởng dựa vào lao động
giá rẻ và nền công nghiệp phụ thuộc, gia công, lắp ráp. Đại hội XIII đánh giá: “Mô
124
hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, tính
tự chủ của nền kinh tế còn thấp, vẫn còn phụ thuộc vào bên ngoài” [Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I,
tr.209-210]. Đại hội XIII chủ trương: “Thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các
ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của
khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” [Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I,
tr.209-210]. Để thực hiện thành công các mục tiêu này, đòi hỏi ngay từ bây giờ, Việt
Nam cần tích cực chuyển đổi mạnh mẽ hơn sang nền kinh tế số.
Thứ ba, Phát triển CNHT phải khai thác lợi thế quốc gia, hướng vào xuất
khẩu, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, với sự tham gia của các thành phần kinh tế.
Hướng về xuất khẩu là con đường nhanh nhất để Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào
chuỗi giá trị toàn cầu, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Bằng việc tận dụng
lợi thế cạnh tranh về nguồn tài nguyên và nhân lực khéo léo, thông minh chủ động
tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, Việt Nam cần tìm cho mình một
"chỗ đứng", chen chân vào dòng chảy toàn cầu hóa của nhân loại thông qua mối liên kết
với các tập đoàn đa quốc gia để thu hút các nguồn ngoại lực đặc biệt là nguồn vốn, công
nghệ và trình độ quản lý,... thúc đẩy CNHT phát triển, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH
đất nước tạo đà tăng trưởng, phát triển kinh tế”[46, Tr. 167].
Thứ tư, Phát triển CNHT phải tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế
thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, xây dựng nền kinh tế xanh và bền vững.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng, tự
do hóa thương mại đã buộc các nước khi tham gia hội nhập kinh tế, đều phải thực
hiện các cam kết, thông lệ quốc tế chung những "quy tắc" và những "luật chơi" của
các tổ chức quốc tế và khu vực.
Sau khi tham gia tổ chức Thương mại Thế giới, Việt Nam phải tuân thủ
nguyên tắc và quy định của WTO và các quy định quốc tế khác. Do vậy, Việt Nam
cũng khi xây dựng chính sách phát triển CNHT phải dựa trên cơ sở nghiên cứu và
tuân thủ những quy luật khách quan của kinh tế thị trường, đồng thời phải có sự quản
lý, điều tiết của Nhà nước và đảm bảo đáp ứng các thông lệ, quy định của quốc tế.
Tuy nhiên những giúp sức của Nhà nước chỉ là hỗ trợ ban đầu cho các doanh nghiệp,
các doanh nghiệp muốn phát triển thì vẫn phải có sự nỗ lực, quyết tâm chuyển đổi,
125
hội nhập.
Do đó, nguyên tắc quan trọng để chính sách phát triển CNHT có tính khả thi là
những chính sách hỗ trợ đó không bóp méo tín hiệu của thị trường, không trái với các
quy định quốc tế và những cam kết của Chính phủ Việt Nam.
4.3.2 Định hướng về phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến năm 2030.
Từ các quan điểm chung được đưa ra, luận án xác định định hướng phát triển
ngành CNHT trong nước là:
Thứ nhất, Phải tăng cường vai trò của Nhà nước trong phát triển CNHT.
Hiện nay, để phát triển CNHT đi đúng hướng và hiệu quả, vai trò của Nhà nước
là xác định lộ trình rõ ràng, đồng bộ bốn yếu tố quan trọng: nguồn nhân lực, công
nghệ, tài chính và hệ thống phân phối. Đối sách giải quyết những vấn đề này là nhanh
chóng chỉ ra các ngành cần phát triển và đưa ra các biện pháp để thúc đẩy phát triển.
Cụ thể, đối với vấn đề vốn, Nhà nước cần sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi xây dựng
một quỹ tài chính đảm bảo cho việc phát triển CNHT của những ngành đã được chỉ
định.
Thứ hai, Tạo lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư, tiếp cận và đáp ứng nhu
cầu của các tập đoàn, tham gia ngày càng sâu rộng vào mạng lưới sản xuất và chuỗi
giá trị; Đẩy mạnh thu hút đầu tư vào CNHT từ mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là từ
các DN FDI và DN tư nhân quy mô nhỏ và vừa; Phát triển công nghiệp hỗ trợ song
hành với các ngành công nghiệp chính có tiềm năng lợi thế, phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các ngành công nghiệp ưu tiên trong
Phương án phát triển công nghiệp tích hợp vào Quy hoạch đất nước giai đoạn 2025 -
2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển nhanh,
bền vững; Có lộ trình phát triển phù hợp, kết hợp giữa chiến lược kéo và chiến lược
đấy trong thu hút đầu tư trong đó giai đoạn đầu ưu tiên thực hiện chiến lược kéo để
thu hút các tập đoàn sản xuất và lắp ráp FDI để tạo tiền đề cho công nghiệp hỗ trợ
phát triển.
Thứ ba, Ưu tiên phát triển các sản phẩm CNHT đáp ứng nhu cầu nội địa, hạn
chế nhập siêu. Từng bước hỗ trợ, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nội địa đủ
tiềm lực về tài chính, công nghệ làm vệ tinh cung cấp sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
cho các tập đoàn thông qua liên kết, hợp tác để nâng cao dần tỷ lệ nội địa hóa. Phát
126
triển có chọn lọc trong nhóm sản phẩm, ngành hàng công nghiệp hỗ trợ được Chính
phủ ưu tiên phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta gắn với phân công lao động
giữa các tỉnh thành.
Thứ tư, Đầu tư cho đổi mới công nghệ, cải tiến tổ chức hoạt động sản xuất
trong DN và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho ngành CNHT. Không
quá chú trọng đến việc sản xuất toàn bộ sản phẩm hỗ trợ mà ưu tiên phát triển một vài
công đoạn có lợi thế, có đủ khả năng tham gia trong chuỗi giá trị; Phát triển công
nghiệp hỗ trợ phải gắn với công tác bảo vệ môi trường trên cơ sở áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật trong sản xuất, đổi mới công nghệ, có giá trị gia tăng cao, phát
triển theo hướng xanh, sạch, sử dụng năng lượng tiết kiệm.
Thứ năm, Thúc đẩy liên kết giữa DN CNHT và DN CN chính (của cả Việt Nam
và nước ngoài) thông qua việc nâng cao hiệu quả hoạt động các KCN, cụm CN, các
CLKN,..; thông qua hoạt động của các hiệp hội, trung tâm hỗ trợ DN, ...
Thứ sáu, Giai đoạn đến năm 2030, tập trung sản xuất các sản phẩm linh kiện phụ
tùng yêu cầu công nghệ cao. Nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo của
doanh nghiệp nội địa. Hoàn thiện năng lực sản xuất linh kiện, phụ tùng trong nước để
đáp ứng tối đa nhu cầu linh kiện, phụ tùng cho các ngành công nghiệp chế tạo tại Việt
Nam và các nước trong khu vực.
4.4. Một số bài học phù hợp nhằm phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt
Nam từ các nước Đông Á
4.4.1. Bài học chung phát triển ngành CNHT tại Việt Nam
4.4.1.1. Xây dựng hệ thống luật pháp và hoàn thiện các chính sách phát triển
CNHT
- Bài học thứ nhất: Kinh nghiệm của cả ba nước
Xây dựng hệ thống luật pháp trong lĩnh vực phát triển CNHT
Áp dụng thực tiễn tại Việt Nam thì nước ta vẫn chưa có luật mà mới có Nghị định
số 111/2015/NÐ-CP dành cho CNHT, mà Nghị định sẽ rất khó "vượt trần" các bộ
luật khác. Trong khi đó, để thúc đẩy CNHT, cần có một bộ luật với nhiều chính sách
đặc thù. Bài học từ các nước Nhật Bản, Trung Quốc Thái Lan đều đã có luật riêng
cho CNHT. Vì vậy mà bài học tác giả muốn rút ra là Việt Nam cần xem xét, đánh giá
khả năng xây dựng Bộ luật đặc thù riêng cho ngành CNHT nói riêng, ngành công
127
nghiệp nói chung- Luật phát triển công nghiệp.
Luật Phát triển công nghiệp sẽ tạo hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp công nghiệp hỗ trợ đổi mới sáng tạo, tiếp cận nguồn vốn, nâng cao năng lực
cạnh tranh để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Quốc hội cần sớm ban
hành Luật Phát triển công nghiệp, trong đó có những chính sách cụ thể cho ngành
CNHT để từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp nước ta phát triển. Việc xây dựng Luật
Phát triển công nghiệp là tính thực tế, tính hữu ích và hiệu quả với cộng đồng doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp CNHT nói riêng, nhưng ban hành Luật phải đưa
các chính sách gắn với thực tế và phát huy hiệu quả trong thực tiễn.
Để tạo môi trường hấp dẫn, đẩy mảnh thu hút đầu tư và thúc đẩy sự phát triển
của các ngành CNHT, Luật Phát triển công nghiệp cần quan tâm đến chính sách để
ngành công nghiệp xanh hơn, bền vững hơn, cách tổ chức sản xuất công nghiệp khoa học
theo hướng tuần hoàn. Chất xả thải của doanh nghiệp này có thể trở thành nguyên liệu
đầu vào cho một doanh nghiệp khác. Với cách thức tổ chức phù hợp, định hướng bền
vững thì sẽ sàng lọc, chào đón được những dự án CNHT chất lượng cao, đẩy mạnh phát
triển CNHT theo hướng bền vững, thân thiện với môi trường và ít phát thải.
- Bài học thứ hai: Kinh nghiệm của cả ba nước
Thành lập các tổ chức làm cầu nối giữa DN CNHT và Nhà nước
Bài học của Trung Quốc mà Việt Nam cần áp dụng là Chính phủ Việt Nam
cần thành lập các tổ chức làm cầu nối giữa DN CNHT và Nhà nước, tăng cường phát
triển tiềm năng khoa học-công nghệ quốc gia, đổi mới cơ chế tài chính, hỗ trợ các
doanh nghiệp CNHT hợp tác và tiếp nhận chuyển giao công nghệ sản xuất từ đối tác
nước ngoài, xúc tiến hợp tác nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực... Có cơ chế cho
các doanh nghiệp phối hợp đề đạt với Chính phủ những yêu cầu hỗ trợ về mặt chính
sách, cải thiện môi trường hoạt động kinh doanh hướng vào thu hút FDI.
Thành lập cơ quan đầu mối thống nhất quản lý ở cấp vĩ mô và hiệp hội doanh
nghiệp CNHT để phối hợp, liên kết hoạt động ở cấp vi mô; cơ chế liên kết giữa các
doanh nghiệp CNHT trong và ngoài nước, giữa các doanh nghiệp CNHT với doanh
nghiệp công nghiệp.
Các DN sản xuất công nghiệp của Việt Nam đều là DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ,
có trình độ hạn chế về nhiều mặt vì vậy cần sự hỗ trợ, thúc đẩy đồng bộ và dài hạn
128
của Nhà nước. Nhà nước phải đứng cạnh, đồng hành cùng DN để giúp họ nâng cao
năng lực để đạt tới trình độ khu vực và toàn cầu trong quá trình phát triển. Việc thành
lập các tổ chức có chuyên môn và am hiểu luật pháp, chính sách sẽ hỗ trợ các doanh
nghiệp trong việc gợi ý, hướng dẫn kết nối với các chính sách mà nhà nước đang ban
hành và tham mưu cho nhà nước trong quá trình thực hiện các chính sách hỗ trợ đảm
bảo hiệu quả và rông rãi.
- Bài học thứ ba: Kinh nghiệm của Thái Lan, Nhật Bản
Hoàn thiện về chính sách hỗ trợ, ưu đãi doanh nghiệp CNHT
Bộ Công Thương đang dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 111 để
lấy ý kiến rộng rãi các tổ chức và cá nhân, theo yêu cầu của Nghị quyết 115. Nghị
định 111 sửa đổi cần xem xét bổ sung các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp
như hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ bảo vệ môi trường, hỗ trợ về pháp lý, giám định, kiểm
định, chứng nhận chất lượng. Bên cạnh đó cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các điều
kiện ưu đãi mang tính chọn lọc hơn để thu hút các dự án CNHT có chất lượng và hiệu
quả, đảm bảo mục tiêu phát triển “xanh” và “sạch” của Chính phủ. Thay đổi chính
sách theo định hướng trên sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp CNHT đổi mới sáng tạo,
tiếp cận nguồn vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá
trị toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuỗi cung ứng đang được thiết kế lại do hậu quả
đại dịch Covid-19 cụ thể cần hoàn thiện các chính sách sau:
(1) Chính sách về vốn vay và lãi xuất:
Vốn và khả năng tiếp cận đất đai là những hỗ trợ thiết thực nhất đối với doanh
nghiệp CNHT hiện nay. Hiện các doanh nghiệp nước ngoài hay FDI trong nước đang
được vay nguồn vốn với lãi suất USD rất rẻ, có khi chỉ khoảng 1%. Còn doanh
nghiệp Việt Nam đang phải vay vốn với lãi suất trung hạn khoảng 10%/năm, ngắn
hạn khoảng 8%/năm,… Chính phủ nên xem xét tính toán để hỗ trợ các doanh nghiệp
CNHT có cơ hội được tiếp cận các gói vay ưu đãi dài hạn với lãi suất ổn định, thí dụ
khoảng 6 đến 7%/năm trong một thời gian dài sẽ giúp doanh nghiệp có được động lực
để nâng cao trình độ sản xuất và khả năng cạnh tranh.
(2) Chính sách ưu đãi về thuế:
- Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: lĩnh vực CNHT cần được ưu tiên
tương tự như lĩnh vực “đặc biệt khuyến khích đầu tư”, để khi nhập khẩu hàng hóa
129
được miễn thuế nhập khẩu. Cụ thể: (i) Hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho
lĩnh vực CNHT được miễn thuế nhập khẩu (theo như quy định tại khoản 6 Điều 12
Nghị định 87/2010/NĐ-CP); (ii) Nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản
xuất được nhập khẩu để sản xuất của các dự án đầu tư vào lĩnh vực CNHT được miễn
thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày bắt đầu sản xuất (theo khoản 14
Điều 12 Nghị định 87/2010/NĐ-CP). Theo đó, đề nghị bổ sung vào Danh mục lĩnh
vực đặc biệt ưu đãi đầu tư (Mục A- Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định
108/2006/NĐ-CP) khi doanh nghiệp đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT.
- Đối với thuế giá trị gia tăng (VAT): các sản phẩm, linh kiện được các doanh
nghiệp trong ngành công nghiệp hạ nguồn chấp thuận và đặt hàng; các dự án sản xuất
sản phẩm CNHT cho phát triển công nghệ cao, Chính phủ hỗ trợ thuế VAT thấp từ 5
-7% (mức thuế quy định là 10%) và có cơ chế miễn, giãn thuế VAT khi gặp điều kiện
kinh tế khó khăn, nhằm kích cầu đầu tư và sử dụng sản phẩm CNHT trong nước đối
với một số sản phẩm CNHT.
- Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, theo quy định của pháp luật hiện hành,
các doanh nghiệp FDI được hưởng thuế suất thuế TNDN (10%), thấp hơn các doanh
nghiệp trong nước và được miễn thuế TNDN trong 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu
thuế và giảm 50% cho 9 năm tiếp theo. Đề xuất, có ưu đãi tương tự đối với các doanh
nghiệp nội địa hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ
- Đối với thuế thu nhập cá nhân, điều chỉnh giảm 50% thuế thu nhập với các đối
tượng là người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại KCN, khu kinh tế thuộc
diện chịu thuế TNCN.
(3) Chính sách liên quan đến chi phí sản xuất: Các doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh
vực CNHT không thuộc Danh mục lĩnh vực hoặc đặc biệt khuyến khích đầu tư
(khoản A - Phụ lục I - Nghị định 108/2006/NĐ-CP), vì vậy không thuộc nhóm đối
tượng được hưởng các ưu đãi về thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và
tiền thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về thuế (Điều
26, Nghị định 108/2006/NĐ-CP). Đề xuất bổ sung doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực
CNHT vào Danh mục lĩnh vực hoặc đặc biệt khuyến khích đầu tư để được hưởng ưu
đãi này.
130
(3) Chính sách tín dụng: Ngành Ngân hàng cần tiếp tục xác định DNNVV là
đối tượng ưu tiên về sử dụng vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Nghiên cứu
kinh nghiệm của Nhật Bản ở trên để thành lập các ngân hàng hỗ trợ các DNNVV.
Ngoài ra còn tận dụng nhiều hơn nữa các kênh huy động vốn khác trên thị trường, hỗ
trợ các gói sản phẩm tiết kiệm dài hạn và tăng cường sự liên kết giữa các ban ngành
với doanh nghiệp.
Ngoài các chính sách trên thì một trong những chính sách cần hoàn thiện là
chính sách phát triển các ngành công nghiệp hạ nguồn, phát triển thị trường cho các
ngành CNHT. Bổ sung danh mục các ngành CNHT trong hệ thống thống kê các
ngành kinh tế kỹ thuật, để các doanh nghiệp có điều kiện tham gia sản xuất CNHT và
phù hợp với thông lệ quốc tế.
4.4.1.2. Xây đựng Quy hoạch phát triển cho ngành công nghiệp hỗ trợ
Quyết định 879/QĐ- TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam
đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035” được Thủ tướng Chính phủ ban hành vào
Ngày 09/6/2014; Quyết định 880/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển
các ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Theo đó,
Chính phủ đã xác định: phát triển CNHT tập trung vào 03 ngành Ô tô; điện tử - tin
học, dệt may - da giày; và xây dựng các khu, cụm CNHT tại một số tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
- Bài học thứ nhất- Kinh nghiệm từ Thái Lan và Nhật Bản
Việt Nam nên lựa chọn các nhóm ngành công nghiệp phụ trợ cần ưu tiên phát
triển phù hợp với điều kiện cụ thể của từng giai đoạn để lên các chiến lược quy hoạch
phù hợp với điều kiện thực tế. Theo bài học kinh nghiệm của Nhật Bản và Thái Lan
cho thấy mỗi thời kỳ chỉ nên tập trung vào một số nhóm ít các ngành, không thể dàn
trải, phân tán nguồn lực, mặt khác nhờ đó tạo ra các sản phẩm mũi nhọn tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là giải pháp mang tính kỹ thuật và quyết định đến việc
điều chỉnh cơ cấu công nghiệp quốc gia cho một thời kỳ dài. Cụ thể theo tác giả nên
tập trung nguồn lực phát triển CNHT các ngành mũi nhọn như Ô tô, dệt may- da giày,
điện tử. Đậy là những ngành CNHT đã đạt được nhiều kết quả đáng kinh ngạc, và
nước ta cũng có lợi thế cạnh tranh về các lĩnh vực này. Từ đó, phát triển các ngành và
CNHT của các ngành này đi đôi với quy hoạch và phát triển cơ sở hạ tầng.
131
- Bài học thứ hai- Kinh nghiệm của Trung Quốc, Nhật Bản
Dành quỹ đất để xây dựng các khu công nghiệp hỗ trợ ngay tại các khu kinh tế
trọng điểm. (Khu công nghiệp hỗ trợ là một mô hình tổ chức sản xuất rất hiệu quả mà
Nhật Bản, Trung Quốc đã thực hiện rất thành công) nhằm giảm thiểu chi phí giao
dịch, cải thiện năng lực cạnh tranh. Ở đó có các dịch vụ chung để các doanh nghiệp
làm công nghiệp hỗ trợ có thể cùng chung sử dụng như khu trưng bày giới thiệu sản
phẩm, công nghệ, dịch vụ kiểm định chất lượng vật tư, thành phẩm, phòng hội
họp…). Tiến tới xây dựng quy hoạch tổng thể hệ thống khu công nghiệp phụ trợ cho
cả nước.
- Bài học thứ ba: Kinh nghiệm Thái Lan
Ở mỗi ngành nghề CNHT ưu tiên, Việt Nam cần đưa ra danh mục linh kiện và
phụ tùng của các ngành này với hiện trạng cụ thể (nhập khẩu hay nội địa hóa) và các
bảng tóm tắt các biện pháp đề xuất. Đây là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách
đưa ra các ưu đãi và chương trình phát triển cụ thể.
Chính phủ cần sớm có quy hoạch vùng trong phát triển công nghiệp hỗ trợ để
các địa phương không bị lấn chân nhau. Các dự án FDI thu hút được khi đi vào hoạt
động có thể kết nối cung ứng sản phẩm đầu vào cho nhau và tránh được tình trạng
thừa và thiếu. Theo các chuyên gia đánh giá, các DN FDI đầu tư vào vùng, miền đa
số muốn tìm đối tác cung cấp sản phẩm đầu vào tại Việt Nam. Nếu Chính phủ quy
hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ tốt và tăng kết nối giao thương tại chỗ từng
ngành hàng để các DN trong nước, FDI gặp gỡ ký kết hợp đồng mua bán sản phẩm sẽ
tạo thuận lợi cho DN là chủ động sản xuất, giảm chi phí, thời gian vận chuyển và tận
dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do đem lại.
4.4.1.3. Phát triển các DNNVV trong ngành CNHT
Phát triển doanh nghiệp hỗ trợ sẽ đồng nghĩa với việc thúc đẩy phát triển khu
vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, sẽ góp phần giải quyết tốt vấn đề cấp bách hiện nay, đó
là giải quyết việc làm. Tuy nhiên, trước thực trạng của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
nước ta hiện nay, để phát triển được lực lượng này, bên cạnh những hỗ trợ về tài
chính, cần đẩy mạnh hơn nữa sự hỗ trợ về công nghệ để họ dễ dàng hơn trong việc
tiếp cận được những thiết bị mới.
132
- Bài học thứ nhất: Kinh nghiệm của Nhật Bản
Ở Việt Nam, hiện có Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và
Đầu tư). Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về xúc tiến phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; đăng ký kinh
doanh; khuyến khích đầu tư trong nước và sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh
nghiệp nhà nước. Cục cần sớm chủ trì hoặc tham gia sọan thảo các văn bản quy phạm
pháp luật, cơ chế quản lý và chính sách hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp nhà nước và phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, đăng ký kinh doanh, ưu đãi đầu tư không phân biệt
các doanh nghiệp đó, thuộc thành phần kinh tế nào, miễn là nó hoạt động có lợi cho
“quốc kế dân sinh” để Bộ kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ hoặc ban
hành theo thẩm quyền.
- Bài học thứ hai: Kinh nghiệm từ Nhật Bản, Thái Lan
“Nâng cao khả năng cấp tín dụng cho DNNVV (năng lực kinh doanh, tăng
cường quy chế, hoàn thiện hạ tầng), và đồng thời đưa ra những ưu đãi về chính sách
kết hợp giữa tín dụng và chính sách hỗ trợ cho CNHT. Tín dụng ưu đãi kết hợp giữa
chế độ bảo đảm tín dụng và bù lãi suất đối với ngành CNHT; cho vay bảo đảm tín
dụng/bù lãi suất đối với ngành CNHT thông qua sự hợp tác với thẩm định viên
DNNVV và văn phòng kiểm toán; tăng cường khả năng hỗ trợ cho ngành CNHT của
ngân hàng thông qua các khoản vay 2 bước (two-step) của JBIC”[Manabu Tsurutani - Chuyên gia JBIC: Thu hút vào ngành CNHT với nguồn vốn có hạn]2.
Nhà nước nên thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng trung gian kết nối giữa ngân
hàng với các DNVVN, giúp DNVVN có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế
chấp; có thể bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay từ ngắn hạn đến dài hạn nếu thấy
dự án kinh doanh, sản xuất khả thi, đồng thời chia sẻ rủi ro giữa quỹ bảo lãnh tín
dụng với tổ chức tín dụng khi xảy ra bất khả kháng không trả được nợ.
Thúc đẩy ý muốn đầu tư vào ngành sản xuất thay cho các ngành khác, chuyển
các nguồn lực từ ngành này sang quỹ hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời,
xây dựng chế độ hỗ trợ đặc biệt của Nhà nước cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà
nước cần gánh lấy rủi ro để làm hạ lãi suất, thành lập ngân hàng chuyên cho SMEs
2http://tinkinhte.jcapt.com/nd5/viewsubject/doanh-nghiep-nho-va-vua-viet-nam/phat-trien-cong-nghiep-phu- tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-o-dau/14356.s_62.3.html
133
vay vốn với lãi suất thấp…
Việt Nam cần áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp như các quốc gia khác. Hiện,
thuế suất với các doanh nghiệp nói chung là 20%. Ở Thái Lan, thuế này là 15% và ở
Indonesia là 12,5%.
Thứ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư Đặng Huy Đông cho biết: Việt Nam không
thể đuổi theo Nhật Bản vì nguồn lực của chúng ta giai đoạn này hữu hạn nhưng cách
tiếp cận của họ là phương pháp đi đúng, bài bản. Quan trọng số tiền của chúng ta bỏ
ra không nhiều nhưng đi đúng thì vẫn hỗ trợ Thứ trưởng Đặng Huy Đông hiệu quả.
Bài học thứ ba: Kinh nghiệm từ Thái Lan, Trung Quốc
Bên cạnh việc hỗ trợ về tài chính, cần tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ
và vừa trong lĩnh vực CNHT về công nghệ, thông tin, nguồn nhân lực cũng như
những định hướng và những quy định tạo khuôn khổ hoạt động cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cần coi trọng hơn nữa việc tạo dựng và phát triển thị trường đầu ra cho
các DNVNV trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
Việt Nam hiện này đã có nghị định số: 80/2021/NĐ-CP Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó hỗ
trợ về công nghệ, thông tin, nguồn nhân lực được thể hiện rất rõ trong nghị định, tại
Luận Văn này tác giả muốn bổ sung một số đề xuất trên kinh nghiệm của các nước
cho các DN VVN trong lĩnh vực CNHT: (1) Bộ KH-CN hỗ trợ tư vấn về thiết bị,
công nghệ mới hiện đại, thích hợp và cung cấp thông tin công nghệ, thị trường cho
các DNVVN nói chung và trong ngành CNHT nói riêng; tạo lập và phát triển thị
trường công nghệ, tạo điều kiện để các DN này tăng cường cạnh tranh trong sản xuất,
chế biến sản phẩm. (2) Chính phủ thành lập một số tổ chức hỗ trợ tư vấn về công
nghệ, phát triển nguồn nhân lực (bằng những hình thức đa dạng) trong các lĩnh vực,
ngành nghề khác nhau, giúp các DNVVN CNHT, có thêm tiềm lực mới trong công
cuộc hội nhập quốc tế, (3) Chính phủ hoặc các sở ngành làm cầu nối kết nối các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực chuyển đổi số với các nhà hoạch định chính
sách, doanh nghiệp và tổ chức trong nước và quốc tế để củng cố hệ sinh thái số của
Việt Nam và hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số
năng động, sáng tạo và linh hoạt có thể mở rộng khắp khu vực.
134
4.4.1.4. Hoàn thiện và bổ sung các chính sách thu hút đầu tư FDI vào phát
triển công nghiệp hỗ trợ.
Việt Nam cần xây dựng các chính sách tổng thể về hoàn thiện cơ sở hạ tầng
giao thông; tạo ra các ưu đãi về thuế, môi trường đầu tư, ... là cần thiết cho việc thu
hút dòng vốn FDI vào phát triển các ngành CNHT.
- Bài học thứ nhất: Kinh nghiệm của Nhật Bản
Thu hút đầu tư có chọn lọc, nhất là FDI, hướng đầu tư trực tiếp cả trong và
ngoài nước vào các lĩnh vực CNHT cho ngành công nghiệp hỗ trợ. Việc cam kết thực
thi hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán, ổn định, minh bạch nhằm tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi cho phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ở một số nước có
vai trò đặc biệt quan trọng trong thu hút đầu tư từ các hãng sản xuất ô tô lớn nước
ngoài, khuyến khích họ tìm kiếm các đối tác cung ứng trong nước. Bên cạnh đó, việc
thu hút chọn lọc một số hãng FDI như những đối tác chiến lược trong hợp tác với các
doanh nghiệp trong nước, hướng vào một số lĩnh vực CNHT cho ngành mũi nhọn
trong nước là biện pháp quan trọng để thúc đẩy CNHT cho ngành công nghiệp ở Việt
Nam phát triển.
- Bài học thứ hai- Kinh nghiệm từ Trung Quốc
Việt Nam cần thực hiện triển khai nhiều biện pháp khá mạnh mẽ nhằm “giữ chân”
các nhà đầu tư, giảm thiểu việc dịch chuyển mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng ra khỏi
nước ta, như xây dựng các chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các doanh nghiệp hàng đầu
thế giới, nhất là các tập đoàn đa quốc gia của phương Tây; ban hành Luật Đầu tư nước
ngoài sửa đổi; mở rộng các khu thương mại tự do thí điểm với nhiều ưu đãi; tăng cường
hợp tác kinh tế với khu vực, trọng tâm là hợp tác khu vực ASEAN , cần thiết phải áp dụng
một số rào cản kỹ thuật nhằm hạn chế nhà đầu tư rút vốn…
Những chính sách để thúc đẩy sự phát triển công nghiệp hỗ trợ chuẩn nhất phải
kể đến là giảm thuế nhập khẩu và các ưu đãi về thuế khác. Thuế nhập khẩu linh kiện,
phụ tùng yêu cầu giảm tới 5% cho giai đoạn đầu và 0% theo giai đoạn tiếp áp dụng
dựa trên lộ trình giảm thuế mà Việt Nam đã cam kết khi gia nhập WTO và các tổ
chức khác. Nếu những điều này còn chưa được thực hiện, các nhà lắp ráp Việt Nam
sẽ dễ dàng mất đi lợi thế cạnh tranh về chi phí so với việc nhập khẩu sản phẩm từ các
nước khác đặc biệt là các nước ASEAN. Như vậy, các tập đoàn lớn đang đầu tư tại
135
các công ty con của họ ở Việt Nam sẽ chuyển hướng đầu tư sang các công ty con của
họ tại các nước ASEAN khác. Thiệt thòi lại thuộc về chúng ta.
Nhà nước ta trước mắt chỉ đưa ra chính sách ưu đãi đặc biệt và áp dụng có thời
hạn từ 3 – 5 năm. Cần ưu tiên trước mắt một số KCN để giải quyết các mặt về thủ tục
hành chính, nguồn nhân lực, hạ tầng …Ngoài ra cần đa dạng hóa các nguồn đầu tư
vào phát triển CNHT, tập trung chủ yếu vào đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài.
- Bài học thứ ba- Kinh nghiệm từ Nhật Bản, Thái Lan
Việt Nam cũng cần tăng cường năng lực nội tại của doanh nghiệp trong nước,
tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung một số ngành, nghề cụ
thể, nhằm thúc đẩy kết nối với doanh nghiệp nước ngoài để tham gia chuỗi cung ứng
toàn cầu. Gia tăng giá trị sản xuất nội địa, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, chủ
động hội nhập quốc tế, nắm bắt và đón đầu các xu hướng kinh doanh mới, xu hướng
thị trường mới.
Cần khuyến khích nước ta tập trung chuyên môn hóa sản xuất một số các linh
kiện cụ thể, tiếp theo là hỗ trợ doanh nghiệp tự do hóa nhập khẩu linh kiện đẩy mạnh
trao đổi thương mại từ đó gia tăng xuất khẩu ra toàn thế giới. Tiếp tục giảm thuế nhập
khẩu đầu tư thiết bị cho phát triển R&D; giảm thuế nhập khẩu cho nguyên liệu thô,
thực hiện bảo hộ một số nhà cung cấp nguyên liệu thô nhằm phát triển CNHT.
Cần điều chỉnh hoạt động xúc tiến đầu tư theo hướng thống nhất, có trọng tâm,
trọng điểm, mang tầm quốc gia, thể hiện tính liên ngành, liên vùng, gắn với thị
trường, đối tác đầu tư và dự án cụ thể.
Bên cạnh đó là chủ động tận dụng các cơ hội và lợi thế đem lại từ các FTA mới
mà Việt Nam đã tham gia. Chú trọng việc hỗ trợ nâng cao năng lực cho các doanh
nghiệp Việt Nam để tăng cường sự liên kết, hợp tác, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật
tiến tiến, tri thức mới. Qua đó, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp CNHT tham gia
vào chuỗi giá trị toàn cầu.
4.4.1.5. Tập trung nâng cao năng lực khoa học và công nghệ cho DN CNHT
- Bài học thứ nhất: Kinh nghiệm Thái Lan
Chú trọng các chính sách hỗ trợ về đổi mới công nghệ thông qua việc hình
thành các trung tâm thử nghiệm, kiểm tra, hướng dẫn về công nghệ mới và phát triển
công nghệ; có chính sách cần thiết để nâng cao bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo
136
môi trường lành mạnh cho sự phát triển các ngành CNHT và ngành CN chính (kinh
nghiệm của Thái Lan), Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo
chuẩn quốc tế làm căn cứ cho định hướng phát triển.
- Bài học thứ hai- Kinh nghiệm Thái Lan
Hỗ trợ tài chính để đổi mới công nghệ, như tăng cường ngân sách đầu tư hỗ trợ
kinh phí để doanh nghiệp mua bản quyền công nghệ từ nước ngoài và ứng dụng hiệu
quả sự chuyển giao công nghệ của thế giới và thực hiện theo từng giai đoạn. Ở mỗi
giai đoạn kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh cho sát mục tiêu, kế hoạch đề ra.
- Bài học thứ ba- Kinh nghiệm Trung Quốc
Khuyến khích các Viện Nghiên cứu chuyên ngành triển khai nghiên cứu, thực
nghiệm các đề tài, dự án gắn với nhu cầu phát triển sản xuất các chủng loại vật liệu,
linh phụ kiện, phụ tùng…phục vụ CNHT; thành lập các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật
chuyên nghiệp về CNHT, giúp các doanh nghiệp SMEs có thể nhận được tư vấn kỹ
thuật cần thiết đáp ứng được yêu cầu chất lượng của các nhà lắp ráp. Đồng thời tăng
cường mối liên kết giữa các Viện, Trung tâm, các doanh nghiệp SMEs để nhanh
chóng đổi mới công nghệ, tiếp nhận kỹ thuật thuận lợi.
4.4.1.6.Thúc đẩy các mối liên kết công nghiệp
- Bài học thứ nhất: Kinh nghiệm của Thái Lan
Nâng cao sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà cung cấp linh kiện với các nhà lắp
ráp đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển CNHT nhằm giảm chi phí sản
xuất nhờ có sự hợp tác chặt chẽ với các nhà lắp ráp để giảm giá thành ngay từ khâu
thiết kế; việc liên kết hợp tác trong CNHT còn được thực hiện trên nhiều lĩnh vực
khác như đầu tư thiết bị, phụ tùng mới, nghiên cứu và phát triển. Chính phủ cần quan
tâm thúc đẩy các liên kết công nghiệp giữa các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước;
tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp
Gia tăng tính liên kết giữa các nhà cung cấp địa phương với các tập đoàn đa
quốc gia, giữa các DN trong nước, giữa DN CNHT với các DN lắp ráp, DN FDI, các tập
đoàn đa quốc gia ... để hỗ trợ phát triển sản phẩm, đảm bảo được tính ổn định với cả thị
trường nguyên liệu đầu vào và thị trường đầu ra cho các sản phẩm CNHT, từ đó, nâng cao
sức cạnh tranh, GTGT cho sản phẩm CN chính và cho nền kinh tế.
Quan tâm đến chương trình xúc tiến thương mại, xây dựng hệ thống thông tin
137
DN và sản phẩm CNHT, thông tin về nhu cầu CNHT ..., để tạo cầu nối giữa DN
CNHT với các DN lắp ráp, MNC, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch, từ
đó, nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế.
- Bài học thứ hai: Kinh nghiệm từ Trung Quốc
Để ngành CNHT có thể phát triển mạnh mẽ thì cần tạo mối liên kết hợp tác
chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong nước. Các công ty hạ nguồn trong nước có
được nguồn cung các linh kiện- phụ tùng đảm bảo chất lượng, giá thành rẻ ngay từ
phía các nhà cung cấp trong nước, đặc biết là các DNVVN. Hiện nay, Trung Quốc có
mạng lưới liên kết cung cấp đồ linh kiện ô tô lên tới 4.172 hãng. Ngoài sự liên kết
các nhà cung cấp nội địa, Trung Quốc còn tăng cường liên kết hợp tác với các công ty
lắp ráp nước ngoài, các tập đoàn TNCs, MNCs…Giải pháp rút ra ở đây là tăng cường
hơn nữa mối liên kết giữa các doanh nghiệp tham gia vào công nghiệp hỗ trợ và công
nghiệp lắp ráp, chế tạo. Đẩy mạnh hơn nữa sự liên doanh, liên kết giữa các doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ nội địa với các doanh nghiệp lắp ráp và doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ có vốn đầu tư nước ngoài.
- Bài học thứ ba: Kinh nghiệm từ Nhật Bản.
Tăng cường mối liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp và doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ thông qua việc tổ chức những cuộc triển lãm “tạo cơ
hội cho cả Người mua và Người bán gặp gỡ lẫn nhau ngay tại một địa điểm” như
Triển lãm Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam - Nhật Bản qua các lần, hay Triển lãm quốc
tế lần thứ 9 về máy móc công nghiệp dệt may và nguyên phụ liệu, phụ kiện ngành dệt
may (VTG 2009) sẽ góp phần tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp FDI nói
chung và FDI của Nhật Bản nói riêng với các doanh nghiệp Việt Nam để đẩy mạnh
chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam, tăng cường khả năng cạnh
tranh của khu vực này, đồng thời làm cho các công ty FDI tích cực sử dụng các sản
phẩm phụ trợ do các doanh nghiệp Việt nam sản xuất.
Chính phủ cũng cần có các biện pháp nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động
của các Hiệp hội nghề nghiệp liên quan đến các sản phẩm hỗ trợ để thực sự tạo cầu
nối giữa các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa với các hãng chính (các nhà lắp ráp FDI) và
giữa doanh nghiệp hỗ trợ nội địa với các doanh nghiệp hỗ trợ FDI, đảm nhận được
vai trò của người xúc tiến đầu tư với năng lực bảo lãnh tốt đối với các khoản tín dụng
138
trong và ngoài nước cho việc đầu tư phát triển khối các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa.
4.4.1.7. Chính sách về tỷ lệ nội địa hóa
Để phát triển ngành CNHT thì cần phải xây dựng một chính sách tỷ lệ nội địa
hóa phù hợp tiềm lực của mỗi quốc gia. “Tỷ lệ nội địa hóa ở các ngành khác nhau là
khác nhau và cũng không cần thiết phải đạt tới tỷ lệ nội địa hóa 100% (làm như vậy
sẽ đi ngược lại với xu hướng của thế giới đang hướng tới việc chuyên môn hóa các
ngành sản xuất” [15, trang 57].
- Bài học thứ nhất: Kinh nghiệm từ Thái Lan.
Tận dụng triệt để lợi thế cạnh tranh của nước ta để cải thiện khả năng cung cấp
sản phẩm tại chỗ của Việt Nam. Ví dụ: Việt Nam có lợi thế rất lớn một số lĩnh vực
công nghiệp trong những năm qua. Cụ thể, dệt may từ 10-20% đã tăng lên 50%, da
giày từ 20 tăng lên 65% và các lĩnh vực khác như xi măng, thiết bị sử dụng cho nhà
máy điện... do Việt Nam tự sản xuất cũng gia tăng nhiều. Trong lĩnh vực công nghiệp
ô tô, riêng với ô tô con dưới 9 chỗ ngồi, tỷ lệ nội địa hóa còn thấp, chỉ đạt khoảng 10
- 15%. Tuy nhiên, đối với xe chở khách và xe tải dưới 5 tấn, Việt Nam đã đạt tỷ lệ nội
địa hóa khoảng 40%, thậm chí tới 85%. Vậy bài học ở đây là Việt Nam cần tập trung
và tận dụng nguồn lực và vốn vào các ngành nghề là thế mạnh của để nâng cao tỷ lệ
hóa nội địa của các ngành đó, hạn chế nhập khẩu nguyên liệu linh kiện ở các ngành
có lợi thế để tiết kiệm chi phí cũng như thu hút đầu tư nước ngoài. Tránh đầu tư dàn
trải như bài học thất bại ở Thái Lan.
- Bài học thứ hai- Kinh nghiệm từ Nhật Bản.
Để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa thì cần thiết phải xây dựng cơ chế, chính sách
khuyến khích DN phát triển công nghiệp hỗ trợ. Phải coi đây là một mục tiêu quan
trọng với những chính sách khuyến khích đủ mạnh. Cụ thể là chính sách hỗ trợ giải
phóng mặt bằng, miễn, giảm tiền thuê đất, thuế sử dụng đất. Cần khuyến khích các
ngân hàng thương mại dành sự ưu tiên nhất định về lãi suất và hạn mức tín dụng để
tạo thuận lợi cho các DN công nghiệp hỗ trợ, nhất là trong trường hợp các DN này
đầu tư hiện đại hóa máy móc, thiết bị hay sản xuất các sản phẩm thay thế nhập khẩu
cung cấp cho các DN khác. Tăng cường hỗ trợ DN trong nước được gặp gỡ trao đổi,
chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm thông qua việc hợp tác với các bộ, ngành
trung ương, các tổ chức trong nước và quốc tế dưới hình thức hội chợ, hội thảo…
139
- Bài học thứ ba: Kinh nghiệm từ Trung Quốc
Khuyến khích kết hợp chính sách nội địa hóa với giải pháp mạnh trong hạn chế
nhập khẩu nội địa. Tuy nhiên việc này không phải thực hiện trong ngày một ngày hai,
do trong tiến trình gia nhập các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Chính vì vậy,
khi Chính phủ xây dựng chính sách về tỷ lệ nội địa hóa, Việt Nam cần xem xét cụ thể
khả năng các doanh nghiệp ở nước ra có thể đáp ứng như thế nào, đồng thời cũng
phải xem xét để tránh các xung đột với các chính sách ban hành, ký kết trước đó.
Chính sách tăng thuế nhập khẩu linh kiện để ép các công ty lắp ráp đồ điện gia
dụng (tivi, máy giặt,…) phải tăng cường nội địa hoá được áp dụng gần đây được đánh
giá là biện pháp chưa thực sự triệt để. Mục tiêu của chính sách là muốn nhanh chóng
tạo điều kiện xây dựng các ngành hỗ trợ là đúng; tuy nhiên, tình hình hiện nay cho
thấy là chính sách này đang khiến cho các công ty đã đầu tư lắp ráp chịu thách thức
khi cạnh tranh trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), vì vậy giải pháp khắc
phục lại phải cho nhập khẩu tự do, miễn thuế các linh kiện bộ phận lắp ráp để giảm
giá thành sản phẩm, duy trì khả năng cạnh tranh với các nước ASEAN khác.
Tóm lại, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, không nên dùng biện pháp thuế
quan để ép công ty nước ngoài tăng tỷ lệ nội địa hoá mà điều quan trọng là phải cải
thiện khả năng cung cấp sản phẩm tại chỗ. Nếu các ngành CNHT trong nước phát
triển, cung cấp đầy đủ và kịp thời các linh kiện chất lượng tốt và giá thành rẻ mặc
định tỷ lệ nội địa hoá sẽ tăng.
Theo phỏng vấn ông Bruno Jaspaert, Tổng giám đốc Tổ hợp KCN Deep C-nhà đầu
tư đang đầu tư hạ tầng hai KCN tại Quảng Ninh cho biết vấn đề nguồn nhân lực chất lượng
cao đang là thách thức với địa phương. Việt Nam cần phải xóa bỏ tư duy có lợi thế về nguồn
lao động giá rẻ và ưu tiên đào tạo, tập trung vào những ngành nghề như điện tử, sản xuất
máy móc, thiết bị.
4.4.1.8. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Bài học thứ nhất: Kinh nghiệm từ Thái Lan
Phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao cần sự phối hợp của cả doanh nghiệp
trong và ngoài nước, các cơ sở đào tạo. Liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với
các công ty mẹ là một giải pháp để phát triển nguồn nhân lực. Chính phủ Việt Nam
cần đề ra và phát huy những chính sách khuyến khích xuất khẩu lao động, trong đó,
140
đặc biệt ưu tiên xuất khẩu lao động kỹ thuật. Sau một thời gian làm việc ở nước
ngoài, có thể ở chính công ty mẹ, người lao động sẽ nắm được kỹ thuật, tác phong
làm việc và trở về nước. Có thể nói, sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ
sở đào tạo sẽ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Việt Nam nên chú trọng
nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng và các trường đào tạo
nghề trên địa bàn tỉnh, công tác đào tạo phải gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, của
người sử dụng lao động và nhu cầu của thị trường
- Bài học thứ hai- kinh nghiệm của Trung Quốc có thể học hỏi chính là đặt các
trường đại học và khu nghiên cứu khoa học ở các khu công nghiệp chính, vừa giúp tạo
điều kiện để các sinh viên và nghiên cứu sinh được trực tiếp thực hành thông qua công
việc ngoài giờ tại các Khu công nghiệp, chế xuất vừa giúp các khu công nghiệp có điều
kiện và chứng minh được năng lực huy động được nguồn nhân lực và công nghệ cho các
doanh nghiệp, khiến nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các khu công nghiệp.
Vẫn là Bài học của Trung Quốc mà Việt Nam có thể học hỏi về đào tạo nguồn
nhân lực: Bàn hành hệ thống văn bản về kỹ năng nghề nghiệp theo chuẩn chung quốc
tế, chú trọng cả quy trình, phương thức đào tạo, hệ thống chứng chỉ để sẵn sàng thực
hiện trao đổi lao động khu vực và quốc tế.
Ban hành kế hoạch đào tạo nguồn lực cho các ngành công nghiệp mới đáp ứng
nhu cầu của các ngành đã chọn và có chính sách hỗ trợ tài chính cho các chương trình
đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ
Xây dựng chương trình hợp tác đào tạo giữa Nhà nước, các doanh nghiệp công
nghiệp và các cấp trường đào tạo.
- Bài học thứ ba: Kinh nghiệm của Nhật Bản có thể phù hợp điều kiện của
Việt Nam nhất hiện nay: Nhật Bản đưa ra cơ chế đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao tại chỗ làm việc, theo quy mô của doanh nghiệp, công ty lớn đào tạo càng nhiều.
Trong đó chú trọng đào tạo phong cách và kỷ luật lao động; kiến thức thực tế; tinh
thần tập thể trong công ty. Doanh nghiệp CNHT Việt Nam có thể học hỏi để xây
dựng trường huấn luyện nghiệp vụ, đào tạo ở ngay trong chính doanh nghiệp của
mình, vừa có thể đào tạo nguồn nhân lực qua nhiều lớp, vừa tiết kiệm được nguồn
kinh phí đầu tư cho đào tạo.
Nước ta nên tự hình thành một mô hình quản lý và đào tạo nguồn nhân lực chất
141
lượng cao, học hỏi từ các mô hình Nhật Bản, tác giả thấy Mô hình đào tạo hạt nhân
phù hợp với Việt Nam hơn cả: Là mô hình đào tạo trong đó sinh viên/học viên xuất
sắc thuộc các trường đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề trong ngành CNHT
sang các nước có công nghệ phát triển hơn để tu nghiệp kỹ thuật. Sau thời gian thực
tập, trở về nước họ sẽ là lực lượng kỹ thuật và quản lý nòng cốt của nguồn nhân lực
CNHT. Tạo thành mạng lưới nhân lực công nghiệp và công nghệ thông tin chất lượng
cao, là xúc tác cho CNHT phát triển tiến bộ.
4.4.1.9. Xây dựng cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp hỗ trợ và sản phẩm hỗ
trợ và phổ biến thông tin doanh nghiệp
Thứ nhất, thiết lập các cơ quan đầu mối, các tổ chức thông tin chuyên nghiệp về
CNHT nhằm hỗ trợ các nhà cung cấp nội địa các thông tin cũng như mong muốn của các
nhà lắp ráp FDI về các loại, dòng sản phẩm. Thông tin này phải mang tính hai chiều, đồng
thời cũng thiết lập các hệ thống thông tin về các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa, khả năng và
kinh nghiệm sản xuất. Hiện nay, ngành CNHT khu vực ASEAN đã có website:
www.asidnet.org giới thiệu các doanh nghiệp hỗ trợ tại các nước thành viên, có phân loại
theo ngành nghề, lĩnh vực sản xuất nhằm quảng bá hình ảnh các doanh nghiệp hỗ trợ trong
khu vực này đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, cần phải hoàn thiện hơn nữa
trang web này, bởi nó mới chỉ ở dạng liệt kê các doanh nghiệp hỗ trợ theo ngành nghề,
quốc gia mà chưa kèm theo đó những thông tin cụ thể hơn về sản phẩm, trình độ và năng
lực sản xuất cũng như kinh nghiệm sản xuất của cá nhà cung cấp – điều mà các doanh
nghiệp FDI vẫn luôn tìm kiếm.
Thứ hai, việc xây dựng cơ sở dữ liệu CNHT khác với danh bạ doanh nghiệp.
Việt Nam hiện đã có một số danh bạ doanh nghiệp theo kiểu trang vàng, bao gồm
một số lượng lớn các doanh nghiệp như: Trang vàng Việt Nam – dữ liệu 60.000
doanh nghiệp; Danh bạ doanh nghiệp Việt Nam của VCCI – dữ liệu của hơn 20.000
doanh nghiệp; Các danh bạ của các hiệp hội ngành nghề. Nhưng những cuốn danh bạ
này mới chỉ nêu được tên công ty, địa chỉ, sản phẩm chính công ty đang sản xuất. Tuy
nhiên các doanh nghiệp FDI cần thông tin cụ thể hơn nữa về tiềm năng sản xuất của
các công ty.
Thứ ba, Chính phủ Việt Nam tiến hành tổng hợp và xây dựng một cuốn danh
bạ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất CNHT trong nước, chúng ta có thể sẽ đạt tới
142
bước tiến lớn hơn về mảng thông tin trong quá trình phát triển CNHT của mình. Cơ
sở dữ liệu Việt Nam xây dựng cũng cần thiết phải được xây dựng chuyên biệt, với các
nội dung cụ thể như: đối với mỗi nhà cung cấp hỗ trợ nội địa, phải giới thiệu rõ
những kỹ năng đặc biệt, kinh nghiệm JIT (quản lý sản xuất theo thời gian – Just in
time); nêu rõ thiết bị sản xuất với danh mục máy móc, tên nhà sản xuất; cụ thể độ
chính xác trong chế tạo đến đơn vị milimet; giới thiệu các chứng chỉ liên quan mà
doanh nghiệp đạt được như ISO 9000, ISO 14000,….
Thứ tư, bên cạnh một cơ sở dữ liệu dễ dàng tiếp cận cho các doanh nghiệp, cần
thiết phải phổ biến thông tin tới các doanh nghiệp. Để làm được việc này, các thông
tin và dịch vụ hỗ trợ của Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI), của
Công đoàn Hiệp hội Công nghiệp và Thương mại (UAIC), và của Trung tâm xúc tiến
thương mại và đầu tư (ITPC) cần được thúc đẩy mạnh hơn.
4.4.2.Nhóm bài học rút ra phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành ô tô,
dệt may và điện tử, da giày
Ngành CNHT ô tô, dệt may và điện tử Việt Nam là ba ngành CNHT trong các
ngành CNHT Việt Nam mà Luận án đưa ra để minh chứng cho cơ sở lý luận, phân
tích, đánh giá thực trạng ngành CNHT của Việt Nam. Tác giả đề xuất cụ thể một số
giải pháp chính đối với từng ngành.
4.4.2.1. Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành ô tô.
Số liệu của Tổ chức Năng lượng Quốc tế IEA cho thấy, trong khi doanh số bán ô
tô toàn cầu bị ảnh hưởng bởi đại dịch, cứ 10 ô tô bán ra trên thế giới sẽ có một chiếc
xe điện. Điều này cho thấy kỷ nguyên ô tô điện đang bước tới thời kỳ bùng nổ. Có thể
thấy hiện một số doanh nghiệp cũng đã bắt đầu phát triển sản xuất, lắp ráp xe nhiên
liệu sạch trong nước để phù hợp với cam kết của Việt Nam với thế giới về việc giảm
thải carbon, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới
hướng tới tương lai của ngành công nghiệp ô tô nhiên liệu sạch.
- Vì vậy, Việt Nam cần sớm nghiên cứu, ban hành chiến lược phát triển ngành
công nghiệp ôtô nhiên liệu sạch. Bên cạnh đó việc tạo ra các chính sách đủ mạnh để
hỗ trợ công nghiệp phụ trợ của các ngành công nghiệp nền tảng là hết sức cần thiết.
Việc tạo ra một mạng lưới công nghiệp hỗ trợ vững mạnh với trình độ công nghệ cao
sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp trong nước.
143
- Khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Bài học rút ra từ Thái Lan:
Thứ nhất, Nhà nước hỗ trợ cả thị trường và cả doanh nghiệp vừa và nhỏ sản
xuất linh kiện phụ tùng ô tô. Không chỉ tạo ra thị trường, Nhà nước nên còn trực tiếp
hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn, về đất đai nhà xưởng, về công nghệ kỹ thuật, về nhân
lực và cái thủ tục hành chính rất tốt, cực kỳ ưu đãi cho DNVVN, tạo điều kiện gia
nhập thị trường như ưu đãi thuế, miễn thuế không chỉ với ngành sản xuất ô tô mà còn
đối với hoạt động nghiên cứu phát triển trong lĩnh vực CNHT ô tô. Học hỏi kinh
nghiệm Thái Lan từ 10 năm trước, Chính phủ nước ra có thể xây dựng chính sách để
cho những mẫu xe thân thiện môi trường cỡ nhỏ - ví như xe điện.
Thứ hai, Việt Nam cần có chủ chương để hướng vào tập chung vào một số
mẫu xe (tránh tập trung nhiều ngành, gây lãnh phí vốn đầu tư) từ kinh nghiệm Thái
Lan có thể tập trung vào các dòng xe bán tải, xe tải và qua đó xây dựng mẫu xe này
thành dòng xe chủ lực và có sản lượng đủ lớn, khi mà có sản lượng đủ lớn thì tự khắc
sẽ thu hút các nhà cung ứng đầu tư để sản xuất linh kiện cho mẫu xe này và hạ giá
thành và tăng năng lực cạnh tranh. Thaco chính là doanh nghiệp sản xuất xe ô tô đang
làm được điều này khi tập trung chủ yếu vào các dòng xe bán tải, xe tải.
Bài học rút ra từ Nhật Bản: Cần khuyến khích, đẩy mạnh phát triển DNNVV về
lĩnh vực CNHT. Mô hình phát triển này được thực hiện bằng sự liên kết dọc giữa các DN
theo chuyên ngành CNHT (điện - điện tử, viễn thông, ô tô, CN công nghệ cao, cơ khí,
nhựa, cao su, hóa chất…) để đẩy nhanh cơ cấu lại ngành CN ô tô theo hướng hiện đại.
Khuyến khích tinh thần khởi nghiệp DN về lĩnh vực CNHT ngành SX ô tô,
trên cơ sở vừa thành lập DN CNHT mới, hoặc DN CNHT tự tách ra để thành lập
thêm DN CNHT khác, nhằm tối ưu hóa các công đoạn SX sản phẩm CNHT, hạn chế
việc tăng quy mô DN CNHT. Chính vì vậy, cần gấp rút thực hiện nhân rộng thêm
nhiều DNNVV về lĩnh vực CNHT theo chuyên ngành. Chính phủ cần đưa ra các giải
pháp hỗ trợ về: Vốn, khoa học- công nghệ, chuyên gia, ưu đã thuế, xúc tiến thương
mại, xây dựng CSDL về CNHT ngành SX ô tô… Các Viện nghiên cứu phát triển sản
xuất các chủng loại vật liệu, chi tiết, phụ tùng linh kiện chất lượng cao, thiết kế đẹp
mắt, tạo lợi thế cho các DN CNHT trong quản lý, rút ngắn thời gian sản xuất và tăng hiệu
quả sản phẩm đầu ra. Mặt khác, doanh nghiệp CNHT cần chủ động đầu tư công nghệ, tạo
144
khuôn mẫu cho sản phẩm, thiết kế chế tạo, tìm kiếm thị trường… để tạo nhiều sản phẩm
phụ tùng linh kiện mang thương hiệu của Việt Nam.
Bên cạnh đó, xây dựng và bố trí các DN CNHT ngay cạnh các DN lắp ráp,
nhằm tạo điều kiện cho DN lắp ráp sản phẩm cuối cùng, các DN sản xuất phụ tùng
linh kiện cấp 1, cấp 2, cấp 3 được cung cấp phụ tùng linh kiện tại chỗ giúp giảm chi
phí và thời gian R&D, giao hàng. Bằng cách này sẽ tự động tạo ra và mở rộng, phát
triển cụm CNHT theo từng chuyên ngành. Do vậy, phát triển cụm CNHT cho từng
ngành cụ thể sẽ hiệu quả hơn cụm CNHT của nhiều ngành.
Tăng cường thu hút FDI nhằm phát triển CNHT ngành sản xuất ô tô.
Bài học rút ra từ kinh nghiệm của Nhật Bản;
- Xây dựng chính sách pháp luật trong ưu đãi đầu tư phát triển đối với ngành
công nghiệp ô tô, đặc biệt về thuế tiêu thụ đặc biệt, để khuyến khích, gia tăng tỷ lệ
nội địa hóa. Mang đến việc thu hút các tập đoàn lớn trong sản xuất các linh phụ kiện
tại Việt Nam cho ngành ô tô- đặc biệt là các ngành sản xuất linh kiện cho ô tô điện.
“Theo số liệu của tổ chức JETRO tiến hành tại các cơ sở lắp ráp cơ khí của
các nhà đầu tư Nhật Bản ở Đông Nam Á, chi phí linh kiện, phụ tùng chiếm 70% –
75% giá thành sản phẩm, trong khi chi phí nhân công chỉ chiếm khoảng 10%” [91,
trang 106]. Vì thế, hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài trong CN chế tác đều tiến hành
các hoạt động thâm dụng lao động để nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm của
mình, song họ vẫn rất cần có CNHT ngành SX ô tô phát triển ở nước sở tại để giảm
chi phí về nhập khẩu linh phụ kiện.
Đối với Việt Nam, lĩnh vực CNHT ngành SX ô tô và DN FDI về lĩnh vực ô tô
có quan hệ mật thiết với nhau. DN FDI là tiền đề thúc đẩy CNHT về ô tô trong nước phát
triển, bởi DN FDI có thế mạnh về vốn, công nghệ, thị trường và quản lý nên có sự lan
tỏa, thúc đẩy CNHT nội địa phát triển. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của CNHT ở
trong nước sẽ làm tăng sức hấp dẫn trong thu hút đầu tư của DN FDI.
Khuyến khích liên kết các doanh nghiệp
Khuyến khích chuyển hóa SX từ phương thức tích hợp theo chiều dọc sang
chuyên môn hóa trong một mạng lưới có nhiều DN hoạt động. Thúc đẩy nhanh tiến
trình cổ phần hóa DN nhà nước, nhằm sử dụng nguồn lực đầu vào một cách tiết kiệm
và hiệu quả. Tiếp tục khuyến khích mọi hoạt động SX các sản phẩm phụ tùng linh
145
kiện ô tô. Chủ động liên doanh, liên kết DN để tranh thủ bước đi nhanh, chắc, hiệu
quả cần xây dựng các chương trình hợp tác dài hạn với TNCs, MNCs về ô tô. Thông
qua các chương trình giới thiệu các sản phẩm hỗ trợ, các cơ hội hợp tác, việc ký kết
các hợp đồng kinh tế giữa hai bên thực hiện kết nối các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài với các doanh nghiệp trong nước.
Các DN CNHT về ô tô phải mở rộng liên doanh, liên kết kinh tế, nhanh chóng
tiếp thu và làm chủ các công nghệ tiên tiến, đặc biệt là các mô hình tổ chức SX hiện
đại. Nếu có mô hình SX tốt, DN CNHT ngành SX ô tô có thể vươn lên vượt qua giới
hạn của dung lượng thị trường để đạt tới một quy mô sản lượng lớn gấp nhiều lần.
Mô hình này cần kết hợp cả ba chiều: (i) Phát triển SX theo chiều ngang, nhằm phát
huy năng lực công nghệ, SX phụ tùng, linh kiện có những thuộc tính kỹ thuật gần
nhau cho nhiều ngành CN chế tác; (ii) Chuyên môn hóa theo chiều dọc, nhằm nâng
cao cả giá trị và giá trị tăng thêm trong các sản phẩm CNHT; ( iii) Mở rộng hình thức
nhận thầu phụ, thông qua việc liên kết với nhà cung cấp nước ngoài để vừa tiêu thụ
được sản phẩm vừa học hỏi về công nghệ và các kỹ năng khá.
4.4.2.2.Giải pháp phát triển CNHT trong ngành dệt may, da giày
Phát triển nguyên vật liệu và phụ liệu phục vụ ngành dệt may - da giày, đáp
ứng mục tiêu đến năm 2025, tỷ lệ cung cấp trong nước của ngành công nghiệp dệt
may đạt 65%, ngành da giày đạt 75 - 80%, với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao
phục vụ sản xuất xuất khẩu. Mục tiêu đến năm 2025 xuất khẩu của dệt may Việt Nam
sẽ đạt 55 tỷ USD; trong đó, các sản phẩm chính bao gồm xơ, sợi các loại đạt 4.000 tấn, vải đạt 3.500 triệu m2, sản phẩm may hơn 8.500 sản phẩm3. Tuy nhiên, CNHT
ngành dệt may-Da giày còn hạn chế, tỷ lệ nội địa hóa thấp,…để thực hiện định
hướng, mục tiêu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
- Chính phủ có chính sách, cơ chế khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư
sản xuất các nguyên phụ liệu, các sản phẩm CNHT cho ngành dệt may, nhất là các
DNNVV, các nhà đầu tư nước ngoài.
- Nghiên cứu thị hiếu thời trang thế giới, tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn
cầu. Tận dụng tối đa thị trường nội địa, xây dựng thương hiệu riêng, tạo nhiều kênh
3https://baotintuc.vn/kinh-te/nganh-det-may-dat-muc-tieu-den-nam-2025-xuat-khau-55-ty-usd- 20201219120017752.htm
146
phân phối, linh hoạt trong tiếp thị nhằm tạo niềm tin và cảm xúc ấn tượng đối với
người tiêu dùng. Đặc biệt đẩy mạnh khâu thiết kế thời trang, khai thác nguồn nguyên
phụ liệu tốt để có mẫu mã tốt, phục vụ người tiêu dùng.
- Đa dạng hoá các nguồn đầu tư vào phát triển CNHT ngành dệt may, trong đó
phải coi đầu tư ngoài Nhà nước và FDI là chủ yếu. Chính phủ cần có kế hoạch rõ
ràng nhằm hỗ trợ ngành CNHT dệt may thông qua các chính sách ưu đãi.
- Ngành dệt may Việt Nam cần tìm ra thị trường ngách để tạo bứt phá. Tuy thị
trường ngách thường nhỏ hơn, khách hàng có nhu cầu xác định hẹp hoặc kết hợp các
nhu cầu độc đáo nhưng việc tập trung phục vụ khách hàng trong thị trường ngách sẽ
có nhiều lợi thế, có cơ hội biết rõ từng khách hàng, có ít đối thủ cạnh tranh và có
được lợi nhuận lớn.
- “Hoàn thiện cơ chế, chính sách nội địa hóa; cơ chế, chính sách này phải được
đi kèm với chính sách hạn chế nhập khẩu sản phẩm hoàn chỉnh và các nguyên phụ
liệu nằm trong danh sách phải “nội địa hoá”[95]. Đồng thời, tăng cường áp dụng các
định mức kinh tế kỹ thuật mới, tiên tiến, chuyển giao công nghệ đối với ngành dệt
may. Chính phủ phải quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu bông tập trung, bảo hộ
cho người dân vùng trồng bông (trợ giá, giống,…). Đẩy mạnh liên kết trồng bông
giữa doanh nghiệp và nông dân nhằm bảo đảm nguyên liệu phục vụ sản xuất, để vùng
chuyên canh bông vải phát triển bền vững.
- Tái cấu trúc lại ngành dệt may Việt Nam để đạt được mục tiêu phát triển bền
vững, theo hướng sản xuất những sản phẩm sinh thái, kỹ thuật cao; nâng cao giá trị
gia tăng cho sản phẩm, tiết kiệm năng lượng, cải thiện môi trường làm việc cho người
lao động,... Các doanh nghiệp CNHT dệt may phải tập trung đẩy mạnh thương mại
điện tử, có định hướng phối hợp xây dựng các sàn giao dịch sản phẩm dệt may điện
tử. Việc quản lý, phân phối sẽ trở lên dễ dàng khi có một hệ thống hàng hóa được mã
hóa, số hóa doanh nghiệp.
- Ngành dệt may cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại chỗ. Có chính sách
thu hút nhân tài, nguồn nhân lực từ địa phương khác. Khuyến khích các chương trình
đào tạo với nước ngoài, liên kết tổ chức đào tạo trong các doanh nghiệp....từ đó đề
xuất những chương trình đào tạo nhân lực của địa phương được tiếp cận với nguồn
nhân lực giỏi của quốc gia trong lĩnh vực CNHT.
147
Nhà nước hỗ trợ ngành hình thành các KCN sản xuất sản phẩm CNHT chuyên biệt
cho ngành. Các KCN này phải có nhà máy xử lý nước thải đáp ứng các tiêu chuẩn
của quốc gia. Chính phủ tạo cơ chế thu hút các doanh nghiệp có công nghệ xử lý
nước thải tiên tiến hỗ trợ doanh nghiệp da giày. Bên cạnh đó, cần có sự đồng bộ cơ
chế, chính sách, giải pháp thu hút đầu tư từ những tập đoàn đa quốc gia; kết nối
doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng nguyên phụ liệu với DN FDI.
4.4.2.3.Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành điện tử
Bài học từ Chính phủ Trung Quốc là chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ
trên nền tảng các ngành chế tạo khuôn mẫu, đột dập chi tiết kim loại, rèn, đúc, ép
nhựa và xử lý bề mặt với hàng triệu lao động tay nghề cao, hàng ngàn doanh nghiệp
phát triển rất mạnh mẽ. Công nghiệp hỗ trợ phục vụ ngành điện tử Trung Quốc đã
nghiên cứu thiết kế và sản xuất được các phụ tùng linh kiện nhựa, kim loại, thùng vỏ
máy, nguyên vật liệu bao bì đóng gói, chỉ trừ một số rất ít loại linh kiện điện tử công
nghệ siêu tinh vi chuyên dụng [95].
- Chính phủ cần đề ra các chính sách, ưu đãi cụ thể và cần thiết hơn cho doanh
nghiệp CNHT ngành điện tử; lên phương án xây dựng một số khu công nghiệp hỗ trợ
ngành điện tử thí điểm với các ưu đãi đặc thù. Thực hiện quy hoạch ngành CNHT
điện tử như một ngành công nghiệp then chốt, phát triển các chương trình liên kết sản
xuất quốc tế giữa các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ với các doanh nghiệp lắp ráp
ở hạ nguồn, đồng thời cần phải lựa chọn hình thức liên kết sản xuất quốc tế phù hợp
với thực tranh CNHT điện tử ở nước ta hiện nay.
- Xây dựng các chính sách phát triển ngành CNHT điện tử hợp lý, tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi. Đặc biệt, có phương án khuyến khích thúc đẩy các doanh
nghiệp sớm có biện pháp cải thiện năng xuất sản xuất, tăng tỷ lệ nội địa hóa, với mục
đích cuối cùng là cung cấp những sản phẩm được thị trường chấp nhận.
148
KẾT LUẬN
Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn kém phát triển, chưa đáp
ứng được nhu cầu về sản phẩm hỗ trợ cho các ngành công nghiệp chính hiện nay. Số
lượng các doanh nghiệp CNHT còn rất ít, công nghệ lạc hậu, rất khó cạnh tranh ngay
cả với các nước trong khu vực ASEAN; các sản phẩm hỗ trợ của nước ta còn nghèo
nàn về chủng loại, kiểu dáng; công nghệ còn lạc hậu dẫn đến việc nước ta vẫn phụ
thuộc vào nhập khẩu các sản phẩm CNHT; nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hỗ
trợ thì yếu kém cả về kỹ năng lẫn kiến thức chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất
lượng,…
Thời gian qua nhờ vào các chính sách phát triển CNHT của chính phủ ngành
CNHT nước ra đã cải thiện một phần nào. Tuy nhiên những công cụ này cũng có
những hạn chế nhất định cụ thể như sau:
Thứ nhất, Lưu lượng thị trường các ngành công nghiệp hỗ trợ còn thấp, chưa
thật sự hấp dẫn các doanh nghiệp bỏ vốn để sản xuất các sản phẩmCNHT; Các sản
phẩm CNHT có giá thành cao, chất lượng còn thấp, mẫu mã kém đa dang làm giảm
khả năng cạnh trang trên thị trường;
Thứ hai, hiện nay vẫn chưa bộ luật về phát triển CNHT, chưa có một cơ quan
đầu mối quản lý nhà nước về CNHT để đề xuất và thực hiện chính sách khuyến khích
phát triển CNHT một cách cụ thể, sát thực vì vậy từ khâu hoạch định chính sách kế
hoạch đến thực thi các doanh nghiệp CNHT vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba; Các chương trình ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích phát triển CNHT chưa thật
sự hiệu quả; Doanh nghiệp CNHT vẫn chưa nhận được các hỗ trợ cần thiết.
Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận cơ bản về CNHT và rút ra một số bài
học phát triển CNHT của các nước Đông Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan); từ đó
đưa ra một số gợi ý các bài học phù hợp với thực trạng ngành CNHT Việt Nam.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng và dưới tác động cạnh
tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nhiều hạn chế về chất lượng của nền kinh tế đang
dần lộ diện. Vấn đề cấu trúc lại nền kinh tế, lựa chọn mô hình tăng trưởng mới, cơ
cấu lại các ngành công nghiệp, đang trở nên cấp bách nhằm phát huy cao nhất lợi thế
của Việt Nam, hướng tới phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hẹp
khoảng cách với các nước trong khu vực. Trong đó, vai trò của các ngành công
149
nghiệp và nhất là CNHT được xác định là những trụ cột quan trọng nhất. Tuy nhiên,
phát triển CNHT cần quá trình tích lũy kỹ năng quản lý và sản xuất lâu dài, không thể
có bước nhảy vọt nếu không có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Nhà nước. Từ những bài học
của các nước Đông Á và nghiên cứu tính phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, bài học
tổng thể giúp phát triển CNHT Việt Nam trong giai đoạn hiện tại được tác giả đúc rút
như sau:
(1) Nhà nước cần có chủ trương nhất quán, dài hạn, phân bổ nguồn lực đủ lớn để
hỗ trợ các doanh nghiệp CNHT đạt tới trình độ khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, đưa
ra bộ luật riêng, các chính sách phát triển thị trường cho CNHT như thúc đẩy sự phát
triển của các ngành công nghiệp hạ nguồn, công nghiệp vật liệu cũng như thu hút đầu
tư sản xuất sản phẩm CNHT.
(2) Ngoài các giải pháp hỗ trợ về tài chính, phát triển khoa học - công nghệ cũng
như nguồn nhân lực, còn cần thúc đẩy liên kết giữa cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam với các doanh nghiệp đa quốc gia, công ty sản xuất và lắp ráp nước ngoài.
(3) Chính phủ cần có các chính sách phù hợp nhằm bảo vệ thị trường nội địa, tạo
lập môi trường kinh doanh lành mạnh để thúc đẩy phát triển sản xuất CNHT cho các
ngành CN trọng điểm như ngành ô tô, điện - điện tử, dệt may, da giày; xây dựng
chính sách về thuế nhập khẩu, lãi xuất, … đối với linh kiện, phụ tùng nhập khẩu linh
hoạt, phù hợp để giúp các DN sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh cắt giảm giá thành sản
phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh so với hàng hóa nhập khẩu...
(4) Về phía các doanh nghiệp, không thể chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà
nước mà phải chủ động trong đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản trị và sản
xuất để từng bước giành được chỗ đứng trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt như hiện nay.
Ðây mới là những bài học, giải pháp căn cơ để bảo đảm sự phát triển ổn định
của ngành CNHT, từ đó tạo nền tảng quan trọng giúp nền kinh tế tăng trưởng bền
vững trong dài hạn, củng cố nội lực, tự cường đất nước.
150
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Đỗ Trung Hiếu (2021), “ Ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt nam trong bối
cảnh đại dịch COVID-19”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 12 tháng 12
năm 2021.
2. Đỗ Trung Hiếu (2021), “ Nâng cao vai trò của công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi
giá trị ngành điện tử Việt nam – thực trạng và giải pháp” Tạp chí Kinh tế
Châu Á- Thái Bình Dương số 593 tháng 7 năm 2021.
3. Đỗ Trung Hiếu (2016),” Phát triển công nghiệp hỗ trợ : Kinh nghiệm của một
số nước và vùng lãnh thổ ở Châu Á”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 11
tháng 11 năm 2016.
4. Đỗ Trung Hiếu (2016),” Quản lý nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ-
Kinh nghiệm của một số nước Châu Á” , Tạp chí nghiên cứu khoa học nội vụ
số 13 tháng 7 năm 2016.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ Thúy Anh (2010), Phát triển cụm công nghiệp hỗ trợ chuyên ngành: lý
thuyết và thực tiễn, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 383, 30-37.
2. Nguyễn Hoàng Ánh, Vũ Thị Hạnh (2019), Kinh nghiệm phát triển ngành công
nghiệp điện tử Nhật Bản, Kỷ yếu Hội thảo “Kế hoạch hành động và phát triển
công nghiệp hỗ trợ”, Viện chiến lược và chính sách khoa học công nghệ.
3. Báo Công thương (2020), Phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam và kinh
nghiệm từ Nhật Bản, số 2/2020, 12-13.
4. Đinh Văn Bảo, (Ban quản lý Khu kinh tế mở Chu Lai) (2016), Kinh nghiệm
phát triển công nghiệp hỗ trợ của một số nước ở châu Á, Tạp chí Lý luận chính
trị, Số 43, 39-40.
5. Ngô Thái Bình và Lê Hằng (2009), Phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô
tô- xe máy, Tạp chí Công nghiệp, số 1, 21-22.
6. Trương Thị Chí Bình (2010), Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành gia
dụng ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Kinh tế quốc dân.
7. Trương Thị Chí Bình (2006), Nghiên cứu đế xuất các giải pháp phát triển công
nghiệp hỗ trợ Việt Nam thông qua nâng cao hiệu quả của liên kết kinh doanh
giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ công nghiệp, 78-
90.
8. Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản, Sách trắng về Hợp tác kinh
tế và thương mại quốc tế”, công bố năm 1985.
9. Bộ Công thương (2007), Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN về việc “Quy hoạch
phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020”, ban hành
ngày 31/07/2007, Hà Nội.
10. Bộ Công thương (2014), Quyết định số 9028/QĐ-BCT “Quy hoạch phát triển
CNHT đến năm 2025 tầm nhìn 2030”, ban hành ngày 08/10/2014, Hà Nội.
11. Bộ Công Thương (2011), Hội thảo “Giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ
trợ Việt Nam” tổ chức ngày 25/11/2011, Hà Nội
12. Bộ Công Thương (2020), Báo cáo về phát triển các ngành công nghiệp từ năm
152
2008- 2020, Báo cáo tổng hợp trên https://moit.gov.vn/thong-ke/bao-cao-tong-
hop, Hà Nội
13. Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (2004) , Ấn phẩm “Các ngành công nghiệp hỗ trợ: Công
nghiệp của tương lai”, Báo cáo về các ngành công nghiệp năm 2004, New York.
14. Bộ Tài chính (2008), Quyết định số 36/2008/QĐ-BTC về việc ban hành Biểu
thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về chương
trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT của các nước ASEAN trong
giai đoạn 2008-2013, ban hành ngày 12/06/2008, Hà Nội
15. C. Mác, Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, NXB chính quốc gia sự thật, Hà Nội.
16. Hoàng Văn Châu (2010), Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt
Nam, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
17. Hoàng Văn Châu (tuyển chọn) (2010), Công nghiệp hỗ trợ: Kinh nghiệm của
các nước và giải pháp cho Việt Nam, NXB. Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
18. Chính phủ (2020). Nghị quyết số 115/NQ-CP, ngày 8/6/2020 về các giải pháp
thúc đẩy phát triển CNHT.
19. Chính phủ (2015), Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ
trợ, ban hành ngày 03/11/2015,Hà Nội.
20. Chính phủ (2017), Nghị định số 68/QĐ-TTg quyết định về việc phê duyệt
chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025, Ban
hành ngày 18/01/2017, Hà Nội.
21. Chính phủ (2011), Quyết định số 12/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ:
Về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ, ban hành ngày
22/02/2011, Hà Nội.
22. Phan Thế Công, Hồ Thị Mai Sương (2011), Giải pháp thúc đẩy phát triển khu
công nghiệp gắn với phát triển công nghiệp hỗ trợ tạo ra mạng liên kết sản xuất
và hình thành chuỗi giá trị, Hội thảo “Phát triển cụm công nghiệp, khu công
nghiệp gắn với phát triển công nghiệp hỗ trợ tạo mạng liên kết sản xuất và hình
thành chuỗi giá trị, Viên nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Đà Nẵng.
23. Diễn đàn phát triển Việt Nam (2007), Cuốn sách: Xây dựng công nghiệp hỗ trợ
tại Việt Nam, Hợp tác nghiên cứu giữa NEU và Grips đã xuất bản năm 2007.
24. Nguyễn Thùy Dương (2015), Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở một số
153
nước Đông Á và bài học cho Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học quốc
gia Hà Nội.
25. Đặng Đình Đào (2016) và Nguyễn Thị Diệu Chi, Xuất nhập khẩu Việt Nam
năm 2016 & triển vọng 2017, Báo “Just in time”, số 20, 10-12.
26. Lê Thế Giới (chủ nhiệm) (2008), Các giải pháp phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ của TP Đà Nẵng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Thành phố, Đại
học Đà Nẵng.
27. Trần Văn Hào, Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ: nhìn từ thực trạng giải
pháp, Tạp chí Tài chính, số ra ngày 27/11/2014, trang 1-2
28. Phạm Trương Hoàng (2010), Phạm vi và đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ,
NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
29. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), Các mối liên hệ cơ bản trong công nghiệp hỗ trợ,
Tạp chí Công nghiệp, kỳ 1, tháng 9, Trang 23-25.
30. Phạm Thanh Hiền và Trần Thị Lan Hương (2012), Chính sách phát triển công
nghiệp hỗ trợ của các nước Đông Á và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam,
Tạp chí Kinh tế và phát triển, Số 179 (II), tháng 5 năm 2012, trang 97-102.
31. Kennichi Ohno (2006), Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan,
Malaysia và Nhật Bản: Bài học kinh nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách
của Việt Nam, Diễn đàn Phát triển Việt Nam, chủ biên, NXB. Lý luận Chính trị,
Hà Nội.
32. Ohno, Kenichi (2008), Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, từ quy hoạch đến Kế
hoạch hành động thông qua quan hệ đối tác Monozukuri Việt Nam - Nhật Bản,
Kỷ yếu Hội thảo “Kế hoạch hành động và phát triển công nghiệp hỗ trợ”, Diễn
đàn phát triển Việt Nam, NXB. Lý luận Chính trị Hà Nội.
33. Ohno Kenichi chủ biên (2007), Xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam,
NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.
34. Kyoshiro Ichikawa (2010) “Báo cáo điều tra: xây dựng và tăng cường CNHT
tại Việt Nam, Cục Xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản, Hà Nội.
35. Hà Thị Hương Lan (2011), Phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm thu hút FDI:
Kinh nghiệm của Trung Quốc và gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí khoa học xã hội
Việt Nam, số 45, trang 19-26.
154
36. Hà Thị Hương Lan (2014), Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công
nghiệp ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
37. Hà Thị Hương Lan (2012), Công nghiệp hỗ trợ giải pháp hạn chế nhập siêu,
Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp, tháng 12, tr.12-14.
38. Hà Thị Hương Lan (2013), Chính sách ưu đãi phát triển CNHT ở Việt Nam,
Tạp chí Tài chính, số 5(583), tháng 5, tr.50-53.
39. Trần Quang Lâm, Đinh Trung Thành (2007), Phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt
Nam trước làn sóng đầu tư mới của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản, Tạp
chí kinh tế châu Á- Thái Bình Dương, số 10, Tr. 25-26.
40. Mori J, Nguyễn Thị Xuân Thúy (2007), Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp
phục vụ công nghiệp hóa định hướng FDI ở Việt Nam, trong Việt Nam với tư
cách là một quốc gia công nghiệp mới nổi: Phạm vi chính sách đến năm 2020,
Ohno K.(Chủ biên),VDF.
41. M. Porter, 2009. Lợi thế cạnh tranh quốc gia, Nhà xuất bản Trẻ, Hà Nội.
42. Phạm Thi Kim Ngọc, (2016), Các chiến lược quốc tế hóa: Nghiên cứu so sánh
các công ty Thái Lan và Việt Nam trong hai ngành, Luận văn tiến sĩ, Khoa Kinh
tế và Khoa học Xã hội, Đại học Fribourg (Thụy Sĩ).
43. Lê Minh Quang (2000), Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Tiền
Giang hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
44. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam 2005, Luật thương mại sửa đổi, Số
36/2005/QH11, Ban hành ngày 14/06/2005, Hà Nội.
45. Nguyễn Thị Tố Quyên (2012), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong mô
hình tăng trưởng kinh tế mới, giai đoạn 2011 - 2020, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
46. Lê Xuân Sang (1996), Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị
trường: trường hợp Việt Nam, Luận văn Tiến sỹ, Đại học quốc gia Moscow,
Moscow, 1996 (tiếng Nga).
47. Lê Xuân Sang (2007), Điều chỉnh chính sách thuế và trợ cấp sau khi gia nhập
WTO: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và định hướng chính sách cho Việt Nam,
155
NXB. Tài chính, Hà Nội, tháng 6/2007.
48. Lê Xuân Sang (2011), Nguyễn Thị Thu Huyền, Chính sách thúc đẩy phát triển
CNHT; Lý luận, thực tiễn và định hướng cho Việt Nam, Viện nghiên cứu Quản
lý kinh tế Trung ương, Đề tài cấp bộ, Đề án Bộ Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội,
tháng 12/2011.
49. Lê Xuân Sang (2011), Phát triển cụm công nghiệp, khu công nghiệp gắn với
phát triển công nghiệp hỗ trợ tạo mạng liên kết sản xuất và hình thành chuỗi
giá trị, Đề tài cấp bộ, Đề án Bộ Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, tháng 12/2011.
50. Phạm Đình Tài (2013), Mô hình nào cho cụm liên kết ngành ở Việt Nam, Tạp
chí Tài chính , số 4, 11-13.
51. Nguyễn Thế Tiệp (2016), Phát triển công nghiệp hỗ trợ của các nước Đông Á
và bài học cho Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường kinh tế quốc dân.
52. Đào Ngọc Tiến (2010), Phát triển công nghiệp hỗ trợ của các nước và bài học
cho Việt Nam, Tạp chí kinh tế đối ngoại, số 42/2010 và Phát triển công nghiệp
hỗ trợ của Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam,
Hội thảo quốc tế “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Kinh nghiệm của Nhật Bản và
một số nước châu Á” do Trường Đại học Ngoại thương tổ chức tại Hà Nội,
10/2009.
53. Nguyễn Văn Thường chủ biên (2005), Hoàn thiện chiến lược phát triển công
nghiệp Việt Nam” do Kennichi Ohno, 2005, NXB. Lý luận Chính trị.
54. Nguyễn Thu Thủy (2010), Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản và bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Ngoại thương.
55. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về phát triển một
số ngành CNHT, Ban hành ngày 24/02/2011
56. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1556/QĐ-TTg về Trợ giúp phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực CNHT, ban hành ngày
17/10/2012, Hà Nội.
57. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1483/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về Ban hành danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát
triển, ban hành ngày 26/08/2011, Hà Nội.
58. Trang web Bộ công thương Việt Nam http://moi.gov.vn
156
59. Trang web Việt Nam Economic News: http://www.ven.vn.
60. Trang web Tin kinh tế: http://tinkinhte.jcapt.com/nd5/viewsubject/doanh-
nghiep-nho-va-vua-viet-nam/phat-trien-cong-nghiep-phu-tro-doanh-nghiep-nho-
va-vua-o-dau/14356.s_62.3.html
61. Trang web Báo Lao động: https://laodong.vn/kinh-te/nganh-det-may-viet-nam-
vi-sao-cong-nghiep-ho-tro-di-sau-772564.ldo
62. Trang web Just in Time: http://justintimevn.com/chi-tiet-tin/Xuat-nhap-khau-
Viet-Nam-nam-2016-trien-vong-2017-187.html-
63. Trang web Bộ kế hoạch và đầu tư- Cục đầu tư nước ngoài
64. Trang web Tạp chí Kinh tế và dự báo https://kinhtevadubao.vn/ -Bí quyết thu
hút FDI của một số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, số 5 kỳ 2, Tr. 64.
65. Trang web Luật Minh Khuê: https://luatminhkhue.vn/kien-thuc-luat-doanh-
nghiep/tim-hieu-ve-vi-tri--vai-tro-cua-cong-nghiep-phu-tro-dinh-huong-phat-
trien-CNHT-tai-viet-nam.aspx.
66. Trang web Cổng thông tin điện tử Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
https://vsi.gov.vn
67. Trang web Tổng cục thống kê, số liệu website (www.gso.gov.vn) 2000 -2020.
68. Trang web Tổng cục Hải quan, số liệu Website (http://www.customs.gov.vn),
giai đoạn 2010- 2020
69. Trang web Điện tử Việt Nam: www.dientuvietnam.net
70. Trang web Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí Việt Nam: www.vami.com.vn - Bài
viết: “Công nghiệp ôtô và phụ tùng Thái Lan với mục tiêu “Detroit của Châu Á.
71. Trang web Đầu tư chứng khoán: www.dautuchungkhoan.com - Công nghiệp
khuôn mẫu sẽ kéo theo công nghiệp hỗ trợ phát triển".
72. Trang web Bộ công thương Việt Nam: https://moit.gov.vn/
73. Vũ Nhữ Thăng (chủ nhiệm), (2013), Giải pháp tài chính phát triển ngành công
nghiệp hỗ trợ, Đề tài cấp Bộ, Viện chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài
chính.
74. Trần Đình Thiên và các cộng sự. (2012), Phát triển công nghiệp hỗ trợ -Đánh
giá thực trạng và hệ quả, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 21-47, 104-
157
115.
75. Trần Văn Thọ (2005), Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2005;
76. Trung tâm Thông tin Kinh doanh & Thương mại (TBIC) (2008), Công nghiệp
hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam – Thực trạng và những khuyến nghị, NXB Bộ
Công Thương, Hà Nội, Tr. 123-124.
77. Trung tâm phát triển doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện nghiên cứu chiến
lược chính sách Công nghiệp (2017), Niên giám về công nghiệp hỗ trợ các
ngành chế tạo Việt Nam 2017-2018, Nhà xuất bản Công thương, Hà Nội, tr. 219
– 230.
78. Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp (2007), Quy hoạch tổng
thể phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm
2020, NXB Bộ Tài chính, Hà Nội
79. VDF và Jica (2011), Điều tra so sánh bối cảnh, biện pháp chính sách và kết quả
Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở ASEAN, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội
80. Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp (2010), Nghiên cứu chính
sách tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ trong điều kiện hội nhập, Báo cáo
đề tài cấp bộ, Hà Nội.
81. Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp (2011), Công nghiệp hỗ trợ
ngành dệt may Việt Nam, Báo cáo đề tài cấp bộ, Hà Nội.
82. Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp (2011), Nghiên cứu đánh
giá năng lực các doanh nghiệp CNHT ngành cơ khí chế tạo và đề xuất mô hình
liên kết trong dài hạn, Báo cáo đề tài cấp bộ, Hà Nội
83. Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp (2011)- Tài liệu hội thảo
chính sách tài chính hỗ trợ phát triển CNHT, NXB Bộ Tài chính, Hà Nội.
Tài liệu bằng tiếng Anh.
84. ASEAN (2017), Supporting Industry Database, Thai lan
85. Asian Productivity Organisation APO (2002)- Strengthening of Supporting
Industries: Asian Experience , Japan.
86. Abonyi G. (2007), Linking greater Mekong subregion Enterprises to
international Market. The role of global value chains, International production
158
networks, New York.
87. Dennis Mcnamara (2004), Intelgrating Supporting Industries – APEC’s Next
Challenge, Georgetown University.
88. Do manh hong (2008), Promotion of support industry: the key for attacting FDI
in developing countries, Japan.
89. Goh Ban Lee (1998), Liên kết giữa các tập đoàn đa quốc gia và các ngành
CNHT nội địa (Linkage between the Multinational Corporations and Local
Supporting Industries), Đại học Sains, Ma-lay-xi-a.
90. Goodwill consultant JSC và Diễn đàn phát triển Việt Nam- “Survey on
comparision of background, policy measuares and outcome for delelopment of
supporting industries in ASEAN”
91. JETRO, (2003), “Japanese - Affiliated Manufactures in Asia”, Japan.
92. JBIC (2004), “Survey report on overseas business operation by Japanese
manufacturing companies”, Survey report of overseas parts of Japanese
assembly companies, Japan.
93. JICA (1995), Investigation report for industrial development: Supporting
industry sector, Tokyo.
94. JICA (2005), Tokyo - Investigation report for industrial development:
supporting industry sector, Tokyo.
95. Ichikawa (2004), Building and strengthening supporting industries in
Vietnam: A survey report, Research of JETRO, Hanoi,
96. Keizaikikakuchou (2000), Report on the Asian economy of the General
Department of Planning and Economics of Japan, the General Department of
Planning and Economics of Japan, 120-126.
97. Kimura F. (2006), International Production and Distribution Networks in East
Asia: Eighteen Facts, Mechanics, and Policy Implications, Asian Economic
Policy Review, Vol. 1, 326-344.
98. Kimura F. (2009), The Spatial Structure of Production/Distribution Networks
and Its Implication for Technology Transfers and Spillovers, Faculty of
Economics, Keio University, Japan., 99-112.
159
99. Kyohey Yamazaki- Paper, No. 2009-02. Development and Enhancement of
Supporting Industries in Malaysia- Coniglio, Nicola D, Francesco Prota and
Gianfranco Viesti (2011), “The economic case for cluster policies: lessons from
international experience for Vietnam”, University of Bari.
100. Lauridsen (2019). Policies and institutions of industrial deepening and
upgrading in Thailand II – The supporting industry policy with particular
emphasis in the downstream plastic parts and mould industries, Roskilde
University, Denmark.
101. M.E. Porter, 1990, The Competitive Advantage of Nations, Harvard Business
Review, Harvard University.
102. Mehmet Sıtkı Saygili, Ziynet Karabacak, “Green Practices in Supply Chain
Management: Case Studies”, Sakarya Universit, Turkiye, 2020, 14-17.
103. Mori,J.(2005), Development of supporting industries for Vietnam’s
industrialization: increasing positive vertical externalities through collaborative
training, Master of Arts in Law and Diplomacy Thesis, Tufts University.
104. Ohno K. (2006), Supporting industries in Vietnam, VDF&GRIPS.
105. Ohno K. (2007), Building supporting industries in Vietnam, VDF&GRIPS.
106. Ohno K. and Fujimoto T. (2006), Industrialization of Developing countries:
Analyses by Japanese Economies, GRIPS, Tokyo.
107. Peter Larkin, the President and CEO of the National Grocers Association
(NGA), (2011), “Comprehensive Supporting Industries” ThaiLand Board of
Investment North America, Supporting industries in Thailand.
108. Ratana. E, (1999), The role of small and medium supporting industries in Japan
and Thailand, IDE APEC, Working Paper Series 98/99 Tokyo.
109. Ryuichiro, Inoue, (1999) “Future prospects of Supporting Industries in
ThaiLand and Malaysia”, APEC Study Center, Institute of Developing
Economies.
110. Small and Medium Enterprise Agency (2009), Japan’s Policy for Small and
Medium Enterprise, Tokyo.
111. Terence P. Steward (2007), China’s Support Progams for Selected Industries:
112. Textile and Apparel (2020), The Trade Lawyers Advisory Group, USA.
160
113. Nguyen Thi Xuan Thuy (2006), Supporting Industries: A Review of Concepts
and Development,
114. Thomas Brandt, (2012), Industries in Malaysia Engineering Supporting
Industry, Malaysian Investment Development Authority (MIDA).
115. UNIDO (2000), Development of Clusters and networks of SMEs, United
Nations Industrial Development Organization Program, 304-306.
116. T.J. Sturgeon và J.V. Biesebroeck (2010), Effects of the Crisis on the
Automotive Industry in Developing Countries A Global Value Chain
Perspective”, World Bank Policy Research Working Paper No. 5330.
117. Trang Web www.businessmonitor.com/Thailand- Supporting Industries in
ThaiLan.
118. Trang web www.investpenang.gov - Engineering support industry.
119. Trang web https://www.wider.unu.edu/sites/default/files/Firm-level-
competitiveness-technology-in-vietnamese.pdf
120. Văn phòng Nghiên cứu Doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản (2016) “2016 White
Paper on Small and Medium Enterprises in Japan (outline)”, Tokyo.
121. Ủy ban đầu tư Thái Lan (2000), Chính sách về thể chế phát triển CNHT ở Thái
Lan, Báo cáo về phát triển CNHT 2000, 230-235.
161
PHẦN PHỤ LỤC 01
Phiếu hỏi: Dành cho cơ quan tổ chức nước ngoài và Việt Nam
Tên tổ chức Địa chỉ Số điện thoại Email Contact liên hệ 1. Xin tổ chức cung cấp thông tin về số lượng và quy mô doanh nghiệp CNHT
Số lượng doanh
Số lượng DN vừa và
Tỷ lệ DN VVN
STT
Quốc gia
nghiệp CNHT
nhỏ CNHT
chiếm
1
Số lượng doanh nghiệp CNHT
STT
Quốc gia
Nhà cung cấp cấp 1
Nhà cung cấp 2 và
Nhà cung cấp cấp 4
trở lên
cấp 3
1
của nước sở tại.
2. Xin tổ chức cung cấp thông tin về Tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu, vật tư, linh
Tỷ lệ nội địa hoá nguyên liệu,
Tỷ lệ nội địa hoá nguyên liệu,
STT
Quốc Gia
vật tư, linh kiện tại các nước
vật tư, linh kiện tại các nước
(2017)
(2021)
1
kiện tại các nước.
3. Xin tổ chức đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
của quốc gia
Mức độ cạnh tranh sản phẩm CNHT được các tổ chức
STT
Quốc Gia
đánh giá theo thang điểm 5-10
Trung Quốc
1
Thái Lan
2
Nhật Bản
3
Việt Nam
4
4. Xin tổ chức cho biết mức độ ưu tiên các chính sách trong phát triển nguồn nhân
162
lực phục vụ CNHT (Xếp thứ tự 1-4, trong đó điểm 4 là ưu tiên cao nhất)
STT
Quốc Gia
1
2
3
4
Thực hiện trao đổi lao động khu vực và quốc tế Đưa ra các kế hoạch đào tạo nguồn lực bài bản và có lộ trình cho CNHT Có những chế độ đãi ngộ để đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho CNHT Cử chuyên gia kỹ thuật trình độ cao sang huấn luyện, đào tạo
Mức độ ưu tiên các chính sách trong phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNHT từ 1-4
5. Ở quốc gia bạn, khi nhà thầu chính lựa chọn nhà cung cấp phụ trợ, các yếu tố sau
có tầm quan trọng như thế nào (hãy chọn theo mức độ):
STT
Các yếu tố
Các tiêu chuẩn quản lý SX, môi trường… Trình độ của nguồn nhân lực
Thông tin về DN đầy đủ, rõ ràng 1 Chất lượng sản phẩm 2 3 Năng lực (quy mô) sản xuất 4 Năng lực tự thiết kế, đổi mới sản phẩm 5 Khả năng thay thế sản phẩm 6 Giá cả hợp lý 7 8 9 Quan hệ hợp tác lâu dài 10 Yếu tố khác
Rất quan trọng
Quan trọng
Không cần thiết lắm
6. Đánh giá hiệu quả các chính sách hỗ trợ phát triển CNHT ở Quốc gia của bạn
RHQ: Rất Hiệu quả, HQ: Hiệu quả, TĐHQ: Tương đối Hiệu quả, KHQ: Không
Hiệu quả.
STT Các yếu tố Hiệu quả
Thành lập các tổ chức hỗ trợ DN CNHT
Rất hiệu quả Tương đối hiệu quả Chưa hiệu quả
1 2 Chính sách miễn giảm thuế, lãi suất … 2 Hỗ trợ quỹ đất xây dựng 3 Hỗ trợ vốn vay, tín dụng 4 Các chính sách thúc đẩy tăng tỷ lệ nội
địa hóa Phát triên triển nguồn nhân lực 6 7 Ứng dụng chuyển giao công nghệ 8 9
Thu Hút đầu tư FDI Liên kết các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất 10 Yếu tố khác
163
7. Chính sách tại quốc gia của bạn đã thực hiện nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp hỗ trợ
phát triển.
.................................................................................................................................................................
Xin cảm ơn Quý tổ chức!
Hà Nội, Ngày…. Tháng…. Năm ….