105
PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở KHU VỰC MIỀN TÂY NGHỆ AN
Nhâm Văn Sơn1
1. Viện Đào tạo Sau đại học. Email: nvson@tdmu.edu.vn
TÓM TẮT
Nghệ An còn là vùng đất lịch sử văn hóa lâu đời và truyền thống đấu tranh cách mạng
với trên 2.000 di tích lịch sử danh thắng. Với sự đa dạng các danh lam thắng cảnh, hệ thống di
tích, văn hoá phong phú về số lượng, độc đáo về nội dung, loại hình, Nghệ An đang là miền đất
hứa, cửa hàng du lịch quyến đối với du khách. Bài viết tập trung phân tích tiềm năng,
thực trạng phát triển du lịch ở khu vực miền Tây Nghệ An. Từ đó đề xuất những giải pháp phát
triển nhằm thúc đẩy ngành du lịch ở khu vực miền Tây Nghệ An nói riêng và tỉnh Nghệ An nói
chung ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Từ khoá: Giải pháp, du lịch, Nghệ An, phát triển.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghệ An được ví như “Việt Nam thu nhỏ” với địa hình đa dạng, có biển đảo, đồng bằng,
trung du miền núi; điều kiện hội để phát triển ngành du lịch. Khu vực miền Tây
Nghệ An bao gồm 11 huyện, thị Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương, K
Sơn, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn Thị Thái Hoà. diện tích
gần 1,4 triệu ha (chiếm 84% diện tích toàn tỉnh) với số dân thống năm 2020 1.417.809
người (chiếm 42% dân scả tỉnh). Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá; phía Đông giáp các huyện
Quỳnh Lưu, Yên Thành, Đô Lương, Nam Đàn; phía Nam giáp tỉnh Tĩnh; phía y giáp
nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với đường biên giới dài 419,5 km.
Hiện tại, kinh tế của khu vực miền Tây Nghệ An chưa phát triển, đời sống người dân còn
gặp nhiều khó khăn. Một trong những hướng đi để giải quyết vấn đề y phát triển du lịch
dựa trên nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú của vùng.
2. NỘI DUNG
2.1. Tiềm năng phát triển du lịch ở khu vực miền Tây Nghệ An
Theo tài liệu của các nhà Địa chất, Địa học, vùng núi miền Tây Nghệ An là cả một hệ
thống nhiều dãy núi chạy song song theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Địa hình khu vực miền
Tây Nghệ An khá đa dạng, phức tạp và bị chia cắt bởi nhiều dãy núi cao và khe suối, nhiều
dãy núi đá vôi. Độ cao trung bình của toàn hệ thống dãy núi là 800 đến 1000 m trên mặt nước
biển, độ dốc bình quân 250 - 350, những dãy núi cao trên 2000 m. Dãy núi cao nhất Xai
Lai Leng 2.711 m và Rào Cỏ 2.286 m nằm ở dọc đường biên giới Việt - Lào đều được cấu tạo
bằng đá xâm nhập, ờn rất dốc bị các dòng chảy chia cắt dữ dội. Tuy nhiên, các đèo
khu vực y nguồn gốc kiến tạo lại khá thấp làm cho sự đi lại giữa hai sườn Đông (thuộc
106
Nghệ An) và sườn Tây (thuộc Lào) khá dễ dàng, thuận tiện cho các hoạt động giao lưu thương
mại và du lịch.
Hệ thống sông suối ở đây khá dày đặc, sông lớn nhất sông Cả, những con sông nhỏ như
sông Dinh, sông Hiếu, lòng sông rộng, nước chảy mạnh. Sông Giăng, sông Nậm Rong, Nậm
Quang, sông Con.... những con sông gặp địa hình hiểm trở tạo thành những thác nước đẹp
hấp dẫn như thác Xao Va, thác Kèm.....
Miền Tây Nghệ An có tiềm năng lớn về tài nguyên sinh vật, là điều kiện tốt để phát triển
du lịch: có Vườn quốc gia Pù Mát, 2 khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống Hoạt. Đây là
khu bảo tồn thiên nhiên có thảm thực vật phong phú và đa dạng, có hệ động vật với nhiều loài
động vật quý hiếm, sức hấp dẫn khách du lịch theo các nhà chuyên môn đánh giá hiếm
có nơi nào ở châu Á có được.
Nghệ An mảnh đất diễn ra rất nhiều sự kiện lịch sử ý nghĩa to lớn đối với dân tộc,
do vậy hệ thống di ch lịch sử, văn hoá, khảo cổ còn tồn tại cho đến ngày nay khá dày đặc. Đến
nay, trên địa bàn gần 1.000 di tích lịch sử văn hoá được nhận biết, trong đó 131 di tích
lịch sử, văn hoá đã được công nhận cấp quốc gia. Trong đó thì một số lượng lớn nằm ở khu vực
miền Tây Nghệ An như: Di tích thành Trà Lân, Bia Nhai, y đa Cồn Chùa huyện Con
Cuông; di tích Hang Bua, hang Thẩm ồm, Thẩm Chạng huyện Quỳ Châu; Đền Chín Gian huyện
Quế Phong; di chỉ khảo cổ Làng Vạc huyện Nghĩa Đàn; Đình Liệt, Đền Bạch huyện
Thanh Chương…
Khu vực miền Tây Nghệ An là địa bàn cư trú của 5 dân tộc thiểu số, bao gồm Thái, Khơ
Mú, Thổ, Mông, Ơ Đu, tộc người Đan Lai…Mỗi dân tộc đều những nét đặc trưng văn
hóa của mình biểu thị trong cách ăn mặc, các phong tục truyền thống, kết cấu nhà ở và bản làng
…điều này đã tạo nên những bản sắc văn hóa đặc sắc và riêng biệt, là sức hút mạnh mẽ với du
khách, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài.
Trên địa bàn khu vực miền Tây Nghệ An có nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống nên lễ
hội cũng rất đa dạng và phong phú. Mỗi lễ hội mang một nét đặc sắc riêng và thu hút đông đảo
người dân địa phương cùng với khách du lịch tham gia. Tiêu biểu với một số lễ hội như: Lễ hội
Hang Bua, lễ hội Đền Chín Gian, lễ hội Làng Vạc...
Sản phẩm của các làng nghề thủ công là yếu tố không thể thiếu trong đời sống của đồng
bào các dân tộc thiểu số miền Tây Nghệ An. Sản phẩm làm ra không chỉ để phục vụ cho nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày của con đó còn những mặt hàng giá trị cao dùng để trao
đổi mua bán. Nổi bật nhất nghề dệt thcẩm của dân tộc Thái, bên cạnh đó nghề đan lát
của người Khơ Mú, nghề làm hương trầm...
Nghệ An mảnh đất bề dày truyền thống văn hóa phi vật thể của đồng bào như: những
làn điệu dân ca khắp, xuối, nhuôn… cùng các nhạc cụ như: khèn, sáo, chiêng, trống, bè, pí, xi
xa lo, boong bu… được sáng tạo trong lao động, sinh hoạt lễ hội dân gian của đồng bào Thái,
thể hiện nếp sống văn hóa, tâm linh và văn hóa cộng đồng.
Các món ẩm thực của người miền Tây Nghệ An mang đậm một phong vị không trộn lẫn,
từ ngàn đời đậm chất văn hoá. Đến với miền y Nghệ An ta dịp thưởng thức những món
như: món mọc, canh ột, thịt bò khô, cơm lam của dân tộc Thái; món lám nhộc của dân tộc Khơ
Mú; bánh dẻo của dân tộc Mông; rượu cần của dân tộc Thái, Khơ Mú, Ơdu.
107
Hiện nay, miền Tây Nghệ An đang được chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và
sở vật chất thuật đ thể khai thác được tốt hơn nguồn tài nguyên du lịch nơi đây. Mạng
lưới giao thông miền Tây Nghệ An đang tốc độ phát triển nhanh tạo nhiều thuận lợi cho phát
triển du lịch. Miền Tây được nối liền bởi các tuyến giao thông trong tỉnh và trong nước: tuyến
đường Hồ Chí Minh với chiều dài 132 km chạy dài từ Bắc đến Nam; tuyến đường quốc lộ 7 và
quốc lộ 48 từ Đông sang Tây nối đồng bằng ven biển với trung du, miền núi của tỉnh và nước
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào; tuyến đường 532 nối các huyện từ quốc lộ 48 đến quốc lộ 7
(từ huyện Quỳ Hợp đến huyện Tương Dương); tuyến đường dọc biên giới đang được xây dựng
nối các huyện dọc biên giới; tuyến đường quốc l15 xun suốt từ Bắc đến Nam qua vùng
trung du, miền núi của tỉnh. Các tuyến đường y tạo điều kiện cho du khách dễ tiếp cận với
khu vực miền Tây hơn.
Ngoài ra, hệ thống điện, nước cũng đã đáp ứng được nhu cầu của người dân địa phương.
Hiện tại, trên Sông Cả 3 công trình thủy điện lớn: Bản Vẽ với công suất 320 MW, Khe Bố
công suất 100 MW MLý; trên sông Hiếu 2 công trình Nhạn Hạc Bản Mồng; trên
sông Giăng 1 công trình Thác Muối trên sông Chu 1 công trình Hủa Na công suất
180MW. Các công trình thủy điện này có nhiệm vụ phát điện chiếu sáng, phòng chống lũ, thủy
lợi, cải thiện môi trường, cấp nước sản xuất và sinh hoạt cho người dân trong khu vực.
2.2. Thực trạng phát triển du lịch ở khu vực miền Tây Nghệ An
Hiện nay, khách du lịch ngày càng biết đến miền y Nghệ An nhiều hơn. Đa số khách
du lịch đến đây đều thông qua các công ty lữ hành, công ty du lịch trong tỉnh, số còn lại tự
phát. Khách tham gia vào hoạt động du lịch tại đây chủ yếu khách du lịch quốc tế (Anh, Pháp,
Mỹ, Thụy Điển, Úc…), số lượng khách nội địa khiêm tốn hơn do yếu tố địa hình và sự hấp dẫn
của các sản phẩm du lịch. Do khách du lịch đến với miền Tây Nghệ An còn lẻ tẻ nên ở đây vẫn
chưa có số liệu thống kê cụ thể. Hiện tại, khách du lịch đến với miền Tây Nghệ An chủ yếu tập
trung ở huyện Con Cuông và Quỳ Châu. Sở dĩ như vậy vì đây là hai huyện phát triển loại hình
du lịch cộng đồng có sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Theo ước tính, năm 2020, các bản làng
thuộc huyện Con Cuông đón được lượng khách du lịch lớn nhất so với c huyện khác,
khoảng 8 đoàn khách, mỗi đoàn khoảng từ 15 đến 20 người. Doanh thu đạt hơn 80 triệu đồng,
nhưng về sau lượng khách lại giảm dần. Tại huyện Quỳ Châu thì ngược lại, khách du lịch
xu hướng tăng dần lên theo các năm. Cụ thể, năm 2009 đón được 6 đoàn khách, mỗi đoàn
khoảng từ 18 đến 22 người, doanh thu đạt 28 triệu đồng. Nhưng đến năm 2021 lượt khách đã
tăng lên 22 đoàn, doanh thu đạt 76 triệu đồng (Trung tâm xúc tiến du lịch Nghệ An, 2021).
Khách du lịch đến đây ngoài chi tiêu cho các dịch vcần thiết thì chủ yếu mua hàng
lưu niệm, giúp đỡ bà con gặp nhiều khó khăn trong bản. Khách du lịch tập trung chủ yếu trong
thời gian từ mùa thu đến mùa đông. So với khách nội địa thì khách du lịch quốc tế lưu trú tại
đây dài ngày hơn, tuy nhiên chưa có số liệu thống kê cụ thể.
Để đáp ng đầy đủ nhu cầu lưu trú của khách du lịch, miền Tây Nghệ An đã có sự đầu
rất lớn vào việc xây dựng các sở u trú. Từ m 2002 đến nay, hệ thống sở u trú của miền
Tây Nghệ An đã sự phát triển nhanh cả về slượng chất lượng. m 2002, trên toàn địa n
chỉ có 9 sở lưu trú (95 buồng). Năm 2004, tăngn 22 sở u trú (237 buồng)theo thống
m 2006 tổng cơ sở lưu trú đã tăng lên 41 với 468 buồng. Đến năm 2021, toàn khu vực đã có
tới 74 cơ slưu trú với 976 phòng, trong đó 8 kch sạn và số còn lại nhà nghỉ.
108
Bng 2.1: Cơ sở lưu trú các huyện min Tây Ngh An năm 2021
STT
Huyện
CSLT
Số phòng
1
Con Cuông
5
75
2
Nghĩa Đàn
5
55
3
Thanh Chương
12
88
4
Anh Sơn
8
66
5
Tương Dương
8
82
6
Kỳ Sơn
4
115
7
Quế Phong
4
74
8
Quỳ Châu
5
47
9
Quỳ Hợp
10
138
10
Tân Kỳ
6
107
11
T.Xã Thái Hòa
7
129
Tổng CSLT
74
976
(Nguồn: Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Nghệ An)
Lực lượng lao động trong ngành du lịch ở các huyện miền Tây Nghệ An hiện naygần
500 người chủ yếu làm trong các nhà nghỉ, nhà hàng. Hầu hết số người này chưa qua đào tạo
về nghiệp vụ du lịch, do vậy chất lượng phục vụ khách du lịch chưa đáp ứng nhu cầu.
2.3. Giải pháp phát triển du lịch ở khu vực miền Tây Nghệ An
Phát triển du lịch miền y Nghệ An nhiệm vụ quan trọng trong việc thực hiện đề án
phát triển kinh tế - hội miền Tây Nghệ An đã được Th tướng Chính ph phê duyệt năm 2005.
Do vậy, trong thời gian qua Ủy ban nhân dân tỉnh Ngh An đã ban hành các văn bản nhằm thúc
đẩy phát triển du lịch như: Quyết định số 94/2007/QĐ-UBND phê duyệt đề án phát triển du lịch
miền Tây Ngh An đến năm 2010; Quyết định số 147/2005/QĐ-TTg ngày 15 tháng 6 năm 2005
của Thủ tướng Chính phủ p duyệt Đề án phát triển kinh tế - hội miền Tây Nghệ An đến m
2010; Quyết định số 106/2006/QĐ-UBND ngày 24/10/2006 của UBND tỉnh Nghệ An về việc
ban hành: “Chương trình phát triển du lịch NghAn thời kỳ 2006 2010; Quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch NghAn đến năm 2020; Quyết định s 84/2006/QĐ-UBND ngày 24/8/2006
ca UBND tnh v quy định mt s chính sách h tr bo tn, phát trin văn hóa các dân tộc thiu
s tnh Ngh An; Quyết định s 1051/QĐ-UBND ngày 08/3/2010 ca UBND tnh v vic phê
duyt Quy hoch chi tiết phát trin làng ngh tnh Ngh An giai đoạn 2010 - 2015.
Ban Thường v Tnh y đã ban hành Chương trình hành đng s 55-CT/TU ngày
04/01/2018 v phát trin du lch tr thành ngành kinh tế mũi nhọn trên địa bàn tnh Ngh An
giai đoạn 2018-2030. Chương trình hành động được c h thng chính tr ca tnh t chc thc
hiện và đạt nhiu kết qu bước đầu. Tuy nhiên, phát trin du lch ca tỉnh chưa tương xứng vi
tiềm năng, thế mnh ca tnh và b suy gim mạnh khi đại dch Covid-19 bùng phát.
Để tiếp tc phát trin du lch Ngh An sau đi dch Covid-19, cn t chc thc hin
hiu qu nhiu giải pháp. Trước hết, thc hiện “Chiến lược phát trin du lch Ngh An đến năm
2030, tm nhìn đến năm 2035”. Trong đó quan tâm đến Chiến lược v truyn thông, chiến lược
v sn phm, chiến lược đào tạo ngun nhân lc du lịch,… để to s thng nht cao v thế
mnh sn phm du lch ca Ngh An. Theo nhn thc ca chúng tôi thì thế mnh nhất để tnh
khai thác phát trin mà nhiu tnh, thành trong c nước không li thế bng Ngh An du
lịch văn hóa lịch s và du lch sinh thái.
109
Đồng thời, để du lch min Tây Ngh An th cất cánh trong tương lai thì cần phi
nhng gii pháp c th, thiết thc và hiu qu hơn nữa.
- Giải pháp về cơ chế chính sách và tổ chức quản lý
Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Ngh An nên thành lập một đơn vị phụ trách phát triển
du lịch ở khu vực miềny Nghệ An. Trách nhiệm của cơ quan y là đầu mối liên kết giữa
các nhà cung ứng như các công ty lữ hành, các nhà nghỉ, khách sạn, các khu vui chơi giải trí...
để hoạt động du lịch miền y Nghệ An nh thống nhất, y dựng được các chương
trình du lịch hấp dẫn. Đồng thời kết hợp giữa c doanh nghiệp du lịch với các quan ban
ngành quản lý du lịch tạo sự nhanh chóng, thuận tiện trong việc thực hiện các chương trình
du lịch của khách.
quan quản lý y cũng chịu trách nhiệm giám sát các hoạt động du lịch tại địa phương
đặc biệt là đối với loại hình du lịch cộng đồng, khuyến khích người dân tham gia vào hoạt động
du lịch một cách tích cực, đảm bảo lợi ích từ du lịch được chia sẻ đều trong cộng đồng; giúp
cộng đồng giảm thiểu những tác động không lợi từ hoạt động du lịch; đồng thời, báo cáo
tình hình hoạt động du lịch tại địa phương với Ban quản lý cấp trên.
- Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực địa phương
Hiện tại, lực lượng lao động trong ngành du lịch miền Tây Nghệ An còn yếu vchất
lượng và thiếu về số lượng. vậy các huyện miền y nói riêng tỉnh Nghệ An nói chung
phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch một cách phù hợp. Điều này đòi hỏi các
trường Cao đẳng du lịch và Trung cấp du lịch Nghệ An phải nâng cao chất lượng đào tạo và có
sự liên kết với các doanh nghiệp để đáp ứng đúng yêu cầu thực tế.
Bên cạnh đó công tác đào tạo nâng cao ý thức cho cán bộ và người dân địa phương cũng
rất quan trọng. Cần phải các lớp đào tạo nâng cao kiến thức quản chung về du lịch cho
các cán bộ phụ trách mảng du lịch hoặc các hoạt động liên quan. Đồng thời phải nâng cao
nhận thức cho người dân về các vấn đề : sự cần thiết phải bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống và bảo vệ môi trường ; bồi dưỡng kiến thức về an toàn sức khỏe những knăng
để chế biến thực phẩm (đồ ăn, thức uống) sạch, hợp vệ sinh; những hiểu biết kỹ năng tối
thiểu về sơ cứu và hướng dẫn, đón tiếp khách du lịch; hướng dẫn hành vi ứng xử đối với khách
du lịch một cách văn minh, lịch thiệp nhưng vẫn giữ được những nét thuần phong mỹ tục, đặc
trưng truyền thống của dân tộc...
- Giải pháp về đầu tư xây dựng CSHT và CSVCKT
Trên cơ sở chỉ đạo của UBND tỉnh, chính quyền và người dân địa phương cần phối hợp
chặt chẽ với các ngành liên quan như ngành giao thông vận tải, xây dựng, nông nghiệp
phát triển nông thôn, tài nguyên môi trường... Đồng thời tích cực kêu gọi sự đầu từ bên
ngoài nhằm nâng cấp hệ thống htầng sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch tại địa phương.
Đối với mỗi khu vực cần quan tâm đến các vấn đề như sau: nâng cấp sữa chữa các tuyến
đường; xây dựng hệ thống cấp thoát nước hoàn thiện mạng lưới điện trên địa bàn các bản
phục vụ du lịch và các bản vùng xung quanh; đầu xây dựng các cơ sở lưu trú cộng đồng và
các hình thức lưu trú tại gia (homestay) với các dịch vụ kèm theo như quầy bán hàng lưu niệm,
đồ ăn, thức ăn uống... đảm bảo vệ sinh an toàn nhằm phục vụ nhu cầu ở lại đêm và nghỉ ngơi