Phát triển kiến trúc thương hiệu-phần1

Bài viết này dựa trên những khảo sát về kiến trúc thương hiệu của

Paul Temporal và David Aaker, sau đó tác giả nghiên cứu bổ sung

những vấn đề mới hơn dựa trên kinh nghiệm tư vấn thương hiệu của

chuyên gia trong hoạt động hiện nay tại Cowan Australia, nhất là vấn

đề kiến trúc nhận diện thương hiệu và kiến trúc tên thương hiệu,

những vấn đề mà hấu hết các tập đoàn hay tổng công ty hiện đang rất

quan tâm.

Kiến trúc Thương hiệu (Brand Architecture) là một trong những khái

niệm quan trọng trong phương pháp luận quản trị chiến lược thương hiệu

(brand marketing strategy). Về cơ bản có thể hình dung Kiến trúc Thương

hiệu như là một cơ cấu phả hệ hoặc sơ đồ tổ chức mà các vị trí trong sơ

đồ là các thương hiệu thay cho các cá nhân. Mục đích chủ yếu của kiến

trúc thương hiệu là hình thành một cơ cấu mang tầm chiến lược đối với

việc phát triển sản phẩm và thương hiệu trong các doanh nghiệp lớn mà

trong đó có quá nhiều chủng loại sản phẩm và nhắm đến nhiều đối tượng

khách hàng khác nhau.

Tư duy cần thiết đối với kiến trúc thương hiệu là xem nó như một cái cây

đang sinh trưởng trong không gian cụ thể xung quanh, chứ không phải là

một kiến trúc cơ học khô cứng và không nảy nở. Vì vậy yêu cầu tối thiểu

đối với một kiến trúc thương hiệu là xem xét lại cấu trúc ít nhất hàng năm

trong mỗi chu kỳ hoạch định marketing cho từng thương hiệu.

Bài viết này tập trung mô tả các Cấp độ và Hình thái khả dĩ có thể xem xét

cho một kiến trúc thương hiệu thích hợp mà doanh nghiệp có thể tham

khảo. Tuy nhiên không có một mô thức hay hình mẫu chung nào cho Kiến

trúc Thương hiệu đối với hai doanh nghiệp khác nhau. Các hình thái dưới

đây có thể giúp các CEO (hay CMO) đi đến quyết định hợp lý cơ cấu

'thương hiệu - sản phẩm' cho doanh nghiệp mình. Về nguyên tắc trước tiên

cần phân biệt các lĩnh vực cơ bản trong nghiên cứu kiến trúc thương hiệu:

(a) kiến trúc thương hiệu công ty (tổng công ty hay tập đoàn), (b) kiến trúc

thương hiệu sản phẩm, (c) kiến trúc nhận diện thương hiệu và (d) kiến trúc

tên thương hiệu.

Kiến trúc theo sản phẩm (product branding)

Có thể nói đây là hình thái cơ bản của Kiến trúc Thương hiệu. Các tập

đoàn hàng tiêu dùng tiên phong khai mở khái niệm Brand Architecture là

P&G và Unilever và một số hãng dược phẩm sau đó đã sử dụng hình thái

này trong những thập kỷ nửa sau thế kỷ 20. Các chức danh tương ứng cho

các bố trí nhãn hiệu này là Product Manager, hay Product Group Manager.

Pringles, Ariel, và Lux là những nhãn hiệu tiêu biểu. Hầu như không thấy

xuất hiện tên Thương hiệu Công ty trong việc gắn nhãn theo phương thức

này. Ngân sách tiếp thị, vì vậy được đầu tư độc lập cho từng dòng sản

phẩm riêng biệt. Khá nhiều công ty dược phẩm hiện vẫn đang áp dụng cấu

trúc theo sản phẩm, và hệ thống quản trị marketing theo sản phẩm, vì vậy

các chức danh chúng ta thường thấy là "giám đốc sản phẩm" chứ không là

giám đốc thương hiệu. Ở một vài công ty khác, nhất là các tập đoàn

chuyên phân phối (SUTL của Singapore, EAC của Đan Mạch và Diethem

của Đức) cơ cấu này được gọi là các Business Unit. Tư duy kiến trúc theo

dòng sản phẩm cũng được mở rộng theo xu hướng của chính mình để tạo

ra khái niệm ngành hàng (product category) và thậm chí những góc nhìn

rộng hơn như ngành công nghiệp (the industry) và hình ảnh tư duy quản lý

theo ngành, hay theo sản phẩm (vĩ mô, quản lý nhà nước).

Dưới góc độ marketing hiện đại càng ngày mô thức này chỉ bộc lộ tính hợp

lý đối với những ngành, sản phẩm truyền thống hay những phân đoạn đầu

của chuỗi giá trị. Và dĩ nhiên nó vẫn được áp dụng phổ biến trong tiếp thị

công nghiệp (industrial marketing).

Dưới góc nhìn tư duy thì product branding dựa trên chủ yếu là tư duy nhà

sản xuất phân loại sản phẩm của mình theo công dụng hay theo phân

nhánh công nghệ.

Ưu điểm:

Điểm quan trọng nhất trong hình thái kiến trúc dòng sản phẩm đó là xem

mỗi dòng sản phẩm là độc lập, không liên quan gì đến các dòng sản phẩm

khác. Tư duy này hình thành từ thời kỳ mà chúng tôi gọi là "thời kỳ

marketing theo sản phẩm" (product marketing). Sự hình thành các thương

hiệu được xem như gán cho mỗi sản phẩm hay mỗi dòng sản phẩm "một

cái tên", chứ không phải sáng tạo một ý tưởng thương hiệu (brand

concept) - sản phẩm hoàn chỉnh cho từng nhóm khách hàng mục tiêu. Đối

với P&G, nhãn Pringles được gán cho dòng sản phẩm khoai chiên hay đồ

ăn nhanh (snack food); đối với Unilever nhãn hàng Lipton gắn cho các loại

thức uống từ trà. Ngay trong những năm 90 ở Unilever vẫn hình thành các

vị trí Product Group Manager với tư duy tiếp thị theo từng nhóm-sản-phẩm.

Nhược điểm:

Bằng mô thức này, có những thương hiệu hình thành từ cùng sản phẩm

cho nên đối với hai nhóm người tiêu dùng cao cấp và bình dân luôn xảy ra

mâu thuẫn là hình ảnh thương hiệu bị cạnh tranh nuốt lẫn nhau

(canibalism). Trong khi người tiêu dùng mang ấn tượng mỗi thương hiệu

với mức giá khác nhau như là một sự khẳng định về đẳng cấp (status).

Người tiêu dùng cao cấp khó có thể chấp nhận thương hiệu "của mình"

gắn vào một nhóm sản phẩm cùng loại nhưng rẻ tiền. Để dễ nhớ và dễ

phân tích hơn, các bạn hãy xem mô hình "kiến trúc theo sản phẩm"

(poroduct branding) là mô hình product marketing, trong đó vai trò của

thương hiệu còn "nằm bên trong sản phẩm". Hay nói cách khác mô hình

này thường chỉ thích hợp khi cấu trúc sản phẩm theo góc nhìn của Lý tính.

Đối với các sản phẩm công nghiệp dạng thô hay nguyên vật liệu thì mô

thức này vẫn có thể được áp dụng.

Kiến trúc hình cây dù (umbrella branding)

Đây là trường hợp mà thương hiệu chính 'bao trùm' và dùng cho hầu hết

tất cả các sản phẩm của một công ty. Ví dụ điển hình là Canon và

Mercedes Benz và Panasonic. Từ năm 2000, hãng Matsushita đã quyết

định xóa sổ dòng thương hiệu National vốn được gắn cho nhóm điện tử

"hàng trắng" (tức nhóm điều hòa, tủ lạnh và đồ gia dụng) nhập chung với

Panasonic (vốn là thương hiệu dòng black goods) và hình thành một nhãn

duy nhất.

Vai trò umbrella brand cũng thường được dành cho thương hiệu công ty.

Mô hình này cũng đang tồn tại trong những nhóm ngành hàng mà mức

cạnh tranh thương hiệu vẫn còn thấp. Tuy nhiên cần thấy rằng đây là

phương thức cổ điển và có thể dễ dàng bị phá vỡ theo cạnh tranh. Cơ cấu

thương hiệu của SONY là sự kết hợp hài hoà giữa product range và

umbrella brand, được thấy rõ bởi SONY là một umbrella điển hình, còn các

range brand có thể kể Bravia, Playstation, Anpha & Cybershot (máy ảnh)...

Tập đoàn FPT vốn hình thành một kiến trúc cây dù, tuy nhiên trong một

tương lai không xa có lẽ FPT sẽ hình thành thêm những thương hiệu

nhánh (range product brand) hay thương hiệu ngôi sao (niché, star brand).

Trong tư duy kiến trúc thương hiệu hình cây dù, thương hiệu mẹ hay

masterbrand là tối cao, và mọi nỗ lực truyền thông quảng bá đề nhằm xây

dựng thương hiệu lớn (masterbrand). Cần lưu ý rằng không phải tất caœ

các thương hiệu tập đoàn đều áp dụng kiến trúc cây dù. Unilever là một

điển hình, mặc dù bản thân Unilever là một thương hiệu nổi bật nhưng hầu

hết các sản phẩm đều mang những thương hiệu riêng biệt.

Ưu điểm:

Lợi ích nổi bật nhất đối với umbrella brand là khả năng tập trung nguồn lực

vào trong một thương hiệu lớn, có thể kiêm luôn cả chức năng thương

hiệu công ty hay tập đoàn.

Bất lợi:

Về mặt pháp lý các nhãn hiệu con (sub-brand) tự nó không thể đứng độc

lập, ví dụ dòng sản phẩm cụ thể như S320 của Mercedes; dòng máy in

BJC-2100SP Printer của Canon... Ngay cả Mercedes Benz trong những

thập kỷ rất gần đây đã ý thức sự bất lợi của mô hình Umbrella, và đã hình

thành cơ cấu đinh vị hợp lý với 3 dòng S-Class, E-Class và C-Class (trong

tương lai sẽ là A-Class) với những tiêu chí định vị rõ ràng.

Và một khi các dòng nhãn hiệu con đi đến một giới hạn về: hình ảnh, cá

tính, tính năng sản phẩm khác biệt hay quan trọng nhất, nhắm đến một

nhóm khách hàng hoàn toàn mới thì khi đó cần thiết phải xây dựng thêm

các hình thái kiến trúc mới, chẳng hạn như hình thành một dòng nhãn hiệu

mới hoàn toàn như trường hợp Lexus của Toyota. Vì vậy chúng ta không

thể áp dụng mô thức Umbrella một cách máy móc và thiếu cân nhắc, cần

nhận biết rõ khi nào phải tạo ra một thương hiệu độc lập, và nhận thức sự

hạn chế của umbrella đối với các dòng sản phẩm tiềm năng. Nhất là khi

mà đối thủ đã mạnh dạn tạo ra một dòng thương hiệu (độc lập) mới, đó là

lúc cần phải xem lại toàn bộ cấu trúc hiện tại của mình nếu không quá

muộn.