ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------o0o---------

NGUYỂN TRUNG DŨNG

PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI BẢO VỆ AN NINH BIỂN ĐẢO Ở QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

Hà Nội - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------o0o---------

NGUYỂN TRUNG DŨNG

PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI BẢO VỆ AN NINH BIỂN ĐẢO Ở QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành Kinh tế chính trị

Mã số: 60 31 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Phạm Văn Dũng

Hà Nội - 2014

MỤC LỤC

NỘI DUNG Trang

PHẦN MỞ ĐẦU 1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG

5

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

GẮN VỚI BẢO VỆ AN NINH BIỂN ĐẢO

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 5

1.1.1. Các công trình nghiên cứu nƣớc ngoài 5

1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc 10

1.1.3. Những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu 18

1.2 Khái luận về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển 19

đảo

1.2.1 Các khái niệm cơ bản 19

1.2.2. Quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển 21

đảo

1.2.3 Những nhân tố ảnh hƣởng đến quá trình phát triển kinh 23

tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo

1.2.4. Nội dung gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh 26

biển đảo

1.3 Thực tiễn một số nƣớc, địa phƣơng trong phát triển kinh tế

35 gắn với bảo vệ an ninh biển đảo và bài học kinh nghiệm cho

Quảng Bình

1.3.1. Nhật Bản 35

1.3.2. Philippines 36

1.3.3. Trung Quốc 37

1.3.4. Mỹ 38

1.3.5. Kinh nghiệm của các tỉnh khác 40

1.3.6. Bài học kinh nghiệm cho Quảng Bình 41

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

43

43 2.1. Phƣơng pháp luận

2.2. Các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng để thực hiện luận

44 văn

48 2.3. Phƣơng pháp thu thập và xử lý số liệu

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI BẢO

50

VỆ AN NINH BIỂN ĐẢO Ở QUẢNG BÌNH

3.1. Những nhân tố chủ yếu ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế

50 gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình

3.1.1. Điều kiện tự nhiên 50

53 3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

55 3.2. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển

đảo ở Quảng Bình những năm qua

3.2.1. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo 55

trong các chiến lƣợc, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của

tỉnh

3.2.2. Phát triển kinh tế gắn với nâng cao sức mạnh bảo vệ 58

biển đảo địa phƣơng

3.2.3. Bảo vệ an ninh biển đảo tạo điều kiện phát triển kinh tế 60

của tỉnh

3.2.4. Kết hợp khai thác, sử dụng các nguồn lực cho phát triển 61

kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo

3.2.5. Đảm bảo hậu cần quân đội trên địa bàn tỉnh 61

3.2.6. Hoạt động điều hành của chính quyền Tỉnh trong phát 62

triển kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo

3.3 Đánh giá quá trình phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh 62

biển đảo

3.3.1 Các kết quả đạt đƣợc 62

3.3.2 Tồn tại, hạn chế 76

3.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 80

CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GẮN KẾT HƠN

81

NỮA GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI BẢO VỆ AN NINH BIỂN ĐẢO

Ở QUẢNG BÌNH TRONG THỜI GIAN TỚI

4.1. Bối cảnh mới ảnh hƣởng đến sự gắn kết giữa phát triển 81

kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo

4.1.1. Những cơ hội mới 81

4.1.2. Những thách thức mới 82

4.2. Quan điểm gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh 83

biển đảo ở Quảng Bình trong thời gian tới

4.2.1. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo 83

vừa là điều kiện phát triển kinh tế, vừa là điều kiện đảm bảo an ninh

biển đảo

4.2.2. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo 84

là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân, toàn quân trong đó chính

quyền tỉnh là nhân tố quyết định

4.2.3. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo 85

phải đặt trong quan hệ chặt chẽ giữa Quảng Bình và cả nƣớc

4.3. Giải pháp hoàn thiện công tác phát triển kinh tế kết hợp với 85

bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình

4.3.1. Hoàn thiện các quy hoạch, kế hoạch của tỉnh theo 85

hƣớng gắn kết hơn nữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển

đảo

4.3.2. Bảo vệ an ninh biển đảo phục vụ phát triển kinh tế 87

4.3.3. Sử dụng thành quả phát triển kinh tế để nâng cao sức 87

mạnh bảo vệ biển đảo

4.3.4. Kết hợp sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế và 88

bảo vệ an ninh biển đảo

4.3.5. Đảm bảo hậu cần quân đội trên địa bàn tỉnh 90

4.3.6. Nâng cao chất lƣợng điều hành các hoạt động phát triển 90

kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo của chính quyền các cấp

4.3.7. Phối hợp chặt chẽ giữa Quảng Bình với các tỉnh bạn và 91

cả nƣớc trong việc gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển

đảo

4.3.8. Nâng cao chất lƣợng trong phát triển kinh tế gắn với 92

bảo vệ an ninh biển đảo trong huy động các phƣơng tiện và lực

lƣợng dự bị động viên, dân quân biển

KẾT LUẬN 94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96

BẢNG VIẾT TẮT

- TNHH: Trách nhiệm hữu hạn

- CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa

- CHDCND: Cộng hòa dân chủ nhân dân

- QLNN: Quản lý nhà nƣớc

- UBND: Ủy ban nhân dân

- MTQG: Mục tiêu quốc gia

- KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình

- TTCN: Tiểu thủ công nghiệp

- QG: Quốc gia

- QH: Quy hoạch

- TDTT: Thể dục thể thao

i

- KH: Kế hoạch

PHẦN MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông, một biển lớn và thuộc loại

quan trọng nhất của khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng cũng nhƣ của thế

giới. Từ bao đời nay, vùng biển, ven biển và hải đảo đã gắn bó chặt chẽ với

mọi hoạt động sản xuất và đời sống của dân tộc Việt Nam. Theo Tuyên bố

ngày 12/7/1977 của Chính phủ Việt Nam và Công ƣớc của Liên Hợp quốc về

Luật biển năm 1982 thì nƣớc Việt Nam có một vùng biển rộng khoảng 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền. Vùng biển và ven biển nƣớc ta có vị trí hết

sức quan trọng cả về kinh tế, chính trị và an ninh - quốc phòng nên từ lâu

Đảng và Nhà nƣớc ta đã rất quan tâm đến phát triển kinh tế biển, vùng ven

biển và hải đảo.

Thực hiện chủ trƣơng phát triển kinh tế biển của Đảng và Nhà nƣớc,

trong những năm qua, cùng với việc đẩy mạnh quá trình đổi mới và mở cửa,

Quảng Bình rất quan tâm phát triển kinh tế nói chung, kinh tế biển nói riêng

và đã thu đƣợc những kết quả rất đáng khích lệ. Cơ cấu ngành nghề đang có

sự thay đổi lớn. Ngoài các ngành nghề truyền thống, ở Quảng Bình đã xuất

hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với công nghệ - kỹ thuật hiện đại nhƣ đánh

bắt xa bờ, vận tải biển, du lịch biển - đảo và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... Việc

khai thác nguồn lợi biển đã có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của

Quảng Bình, nhất là tạo việc làm, góp phần tăng trƣởng kinh tế... Tuy nhiên,

tình hình biển đảo nƣớc ta và Quảng Bình nói riêng những năm gần đây trở

nên rất phức tạp. Trung Quốc đã hạ đặt trái phép dàn khoan Hải Dƣơng 891,

đâm chìm tàu cá của ngƣ dân Việt Nam, đâm hỏng nhiều tàu kiểm ngƣ, tàu

cảnh sát biển và bắt các tàu cá của các ngƣ dân Quảng Bình trên lãnh hải Việt

1

Nam vi phạm trắng trợn luật pháp Quốc tế, quyền chủ quyền, quyền tài phán

của Việt Nam. Với những hành động ngang ngƣợc nhƣ vậy không chỉ chủ

quyền quốc gia và an ninh biển đảo bị đe dọa, mà phát triển kinh tế (trong đó

có kinh tế biển) cũng bị ảnh hƣởng nghiêm trọng. Đây không chỉ là vấn đề

trƣớc mắt, mà còn có ý nghĩa lâu dài. Từ đó, câu hỏi lớn đang đƣợc đặt ra cho

đất nƣớc và cho mỗi địa phƣơng là làm thế nào để vừa phát triển đƣợc kinh tế,

vừa bảo vệ đƣợc chủ quyền quốc gia và an ninh biển đảo? Trả lời câu hỏi trên

là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân; của cả nƣớc và của mỗi địa phƣơng.

Từ thực tiễn sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc tại địa bàn tỉnh

Quảng Bình và kiến thức Kinh tế chính trị đã học tập, học viên xác định đề tài

nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ là “Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an

ninh biển đảo ở Quảng Bình”.

* Câu hỏi nghiên cứu của luận văn:

Thế nào là phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo? Quảng

Bình cần phải làm gì và làm nhƣ thế nào để vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ

đƣợc an ninh biển đảo?

1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

*Mục đích nghiên cứu

Từ việc xây dựng cơ sở lý luận và phân tích thực trạng phát triển kinh

tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình trong những năm qua, luận

văn đề xuất các giải pháp nhằm gắn kết tốt hơn nữa giữa phát triển kinh tế với

bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình trong những năm tới.

*Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ

an ninh biển đảo.

- Làm rõ thực trạng phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở

Quảng Bình trong những năm qua; chỉ ra những thành tựu, hạn chế chủ yếu

2

và nguyên nhân.

- Đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế gắn kết hơn nữa với bảo vệ an

ninh biển đảo ở Quảng Bình trong thời gian tới.

1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu quan hệ giữa phát triển kinh

tế biển với bảo vệ an ninh biển đảo dƣới góc độ Kinh tế chính trị, tức là dƣới

góc kinh tế - xã hội. An ninh biển đảo không chỉ nhằm bảo vệ chủ quyền quốc

gia về biển đảo, mà còn đƣợc coi là dịch vụ công, là điều kiện để phát triển

kinh tế. Ngƣợc lại, phát triển kinh tế không chỉ là mục tiêu, là cơ sở nâng cao

đời sống nhân dân, mà còn là điều kiện để nâng cao sức mạnh bảo vệ anh

ninh biển đảo.

Sự gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo đòi hỏi có sự

tham gia của nhiều chủ thể, đặc biệt là nhà nƣớc - trung ƣơng và địa phƣơng.

Do vậy, thực hiện sự gắn kết này đòi hỏi phải giải quyết mối quan hệ giữa cơ

sở hạ tầng và kiến trúc thƣợng tầng. Nhƣ vậy, đề tài đƣợc tiếp cận dƣới góc

độ liên ngành.

- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu sự gắn kết giữa phát

triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

Thời kỳ nghiên cứu để đánh giá thực trạng phát triển kinh tế gắn với

bảo vệ an ninh biển đảo từ ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số

20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hƣớng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa. Để tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỷ XXI,

Hội nghị lần thứ tƣ ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khoá X) đã thông qua

Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lƣợc biển Việt Nam đến

năm 2020” và khi có nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình về chiến lƣợc

biển từ năm 2012 cho đến nay .

1.4. Kết cấu của đề tài nghiên cứu

Với tên gọi “Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng

Bình”, ngoài Lời nói đầu và phần kết luận, đề tài nghiên cứu gồm 04 Chƣơng

3

chính nhƣ sau:

Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận,

thực tiễn cơ bản về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo

Chƣơng 2: Phƣơng pháp nghiên cứu

Chƣơng 3: Thực trạng phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển

đảo ở Quảng Bình

Chƣơng 4: Quan điểm và giải pháp nhằm gắn kết hơn nữa giữa phát

triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình trong thời gian tới.

CHƢƠNG 1:

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ

LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

GẮN VỚI BẢO VỆ AN NINH BIỂN ĐẢO

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài

- Đặng Đình Quý (Chủ biên – 2013): Tranh chấp Biển Đông: Luật

pháp, Địa Chính trị và Hợp tác Quốc tế. Cuốn sách này tập hợp các tham

luận của các học giả quốc tế trong và ngoài nƣớc tham gia tại Hội thảo khoa

học quốc tế lần thứ 3 về Biển Đông với chủ đề “Tranh chấp Biển Đông : Luật

pháp, Địa Chính trị và Hợp tác Quốc tế” do Ho ̣c viê ̣n Ngoa ̣i giao và Hô ̣i Luâ ̣t gia tổ chƣ́ c tại Hà Nội tƣ̀ 4-5/11/2011.

Thời gian qua, cộng đồng khu vực và thế giới ngày càng quan tâm

nhiều hơn tới Biển Đông bởi ý nghĩa quan trọng của vùng biển này đối với

hòa bình, ổn định và phát triển, không chỉ của khu vực Đông Á mà của toàn

Châu Á - Thái Bình Dƣơng.

Đồng hành cùng với những diễn biến tích cực trên, Biển Đông vẫn tiềm

4

ẩn những bất ổn mà nếu không có sự kiềm chế của các bên liên quan, sự tôn

trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và những nỗ lực có trách

nhiệm của cộng đồng quốc tế thì xung đột có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Biển

Đông là một trong những khu vực có tranh chấp phức tạp nhất trên thế giới.

Sự phức tạp ấy đang gia tăng gấp bội do những biến chuyển của tình hình

kinh tế, chính trị, quân sự và an ninh ở khu vực. Bên cạnh những vấn đề an

ninh truyền thống nhƣ tranh chấp đảo, tranh chấp vùng biển, các vấn đề an

ninh phi truyền thống nhƣ cƣớp biển, cƣớp có vũ trang trên biển, ô nhiễm môi

trƣờng biển, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên sinh vật biển, sự suy giảm

đa dạng sinh học biển, biến đổi khí hậu… đang ngày càng trở nên nghiêm

trọng. Chính vì vậy, việc công bố các công trình nghiên cứu về Biển Đông

đóng góp rất thiết thực cho việc giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển

Đông. Chính những hoạt động nghiên cứu và thảo luận này đã góp phần đƣa

Biển Đông vào “ra-đa” kiểm soát của cộng đồng quốc tế; bản chất của tranh

chấp trên Biển Đông cũng nhƣ các vụ việc xảy ra trên Biển Đông đƣợc phân

tích, đánh giá trên tinh thần khoa học, khách quan để dƣ luận trong nội bộ

từng bên liên quan đến tranh chấp và dƣ luận quốc tế có thông tin đầy đủ và

nhiều chiều hơn. Những nỗ lực hợp tác trên đây mới chỉ là bƣớc đầu trên một

con đƣờng vô cùng lâu dài và gian khổ để các bên liên quan đến tranh chấp,

trực tiếp và không trực tiếp, hành động vì lợi ích của mình và tính đến lợi ích

của các bên liên quan khác và của cả cộng đồng quốc tế, hƣớng đến mục tiêu

cuối cùng là biến Biển Đông từ khu vực tranh chấp phức tạp, thực sự trở

thành một khu vực hòa bình, hợp tác và phát triển.

Trên tinh thần đó, Học viện Ngoại giao phối hợp với Hội Luật gia Việt

Nam tiếp tục tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ ba với chủ đề “Biển

Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực”. Nội dung của Hội thảo

tập trung vào sáu nhóm chủ đề chính sau: (i) Tầm quan trọng của Biển Đông

5

đối với thế giới và khu vực; (ii) Lợi ích của các nƣớc trong và ngoài khu vực

Biển Đông; (iii) Những diễn biến gần đây tại Biển Đông; (iv) Những khía

cạnh pháp lý quốc tế của tranh chấp Biển Đông; (v) Vấn đề giải quyết tranh

chấp và quản lý xung đột ở Biển Đông; (vi) Phƣơng cách và biện pháp thúc

đẩy hợp tác ở Biển Đông. Cuốn sách này tập hợp phần lớn tham luận của các

học giả trong nƣớc và quốc tế tham gia Hội thảo theo các nhóm chủ đề trên.

Một số bài viết tiêu biểu về các vấn đề đó là:

- Các vấn đề về lợi ích tại Biển Đông. Bài của ĐS.Rodolfo.Severino.

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện nghiên cứu Đông Nam

Á, Singapore.

Biển Đông còn tồn tại nhiều vấn đề nhƣ việc phân biệt giữa vùng đất

và nƣớc, giữa đảo và đá theo quy định tại điều 121 của UNCLOS 1982. Một

vấn đề khác là làm thế nào để tuyên bố về "Chủ quyền không thể tranh cải"

của Trung Quốc ở Biển Đông với bản chất gây tranh cãi của nó. “Đƣờng chín

đoạn” trên bản đồ Trung Quốc cần đƣợc định nghĩa làm rõ. Việc Trung Quốc

tuyên bố ƣu tiên các cuộc đàm phán song phƣơng với các bên tranh chấp và

phản đối “đa phƣơng hóa” vấn đề Biển Đông vẫn là nguyên nhân gây bất

đồng. Cần phải nghiên cứa sự khác biệt (nếu có) giữa tính khả thi của bộ Quy

tắc ứng xử và một tuyên bố chính trị cuối cùng, một vấn đề đƣợc đặt ra là:

điều gì sẽ xảy ra nếu nhƣ một Quốc gia trong tranh chấp nhận ra rằng các quy

định của luật mà họ đã cam kết đi ngƣợc lại với những gì mà họ coi là lợi ích

thiết yếu, cốt lỏi, lợi ích của dân tộc hay lợi ích của chế độ?

- Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển ở khu vực ĐS. Hasjim

Djalal Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Indonesia.

Bài viết nêu một số bài học rút ra từ cách tiếp cận không chính thức của

Indonesia trong quản lý tranh chấp Biển Đông. Tiến trình Hội thảo về quản lý

các xung đột tiềm ẩn ở Biển Đông bắt đầu từ năm 1990 tuy không giải quyết

6

tranh chấp lãnh thổ chủ quyền giữa các quốc gia nhƣng cũng góp phần: (1) tạo ra

các chƣơng trình hợp tác trong đó tất cả các nƣớc có liên quan có thể tham gia;

(2) thúc đẩy đối thoại giữa các bên có lợi ích liên quan trực tiếp để các nƣớc có

thể tìm ra cách giải quyết cho các vấn đề của mình; (3) phát triển tiến trình xây

dựng lòng tin để mọi ngƣời đều cảm thấy thoải mái với nhau.

- Hợp tác khu vực ở Biển Đông GS. Jon M. Van Dyke Trƣờng Luật

William S. Richardson, Đại học Hawaii ở Manoa, Mỹ.

Biển Đông là biển nửa kín đƣợc điều chỉnh theo Phần 9 của Công ƣớc

Luật biển, theo đó, Điều 123 quy định các quốc gia kề cận với biển kín/ nửa

kín “hợp tác với nhau để thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định trong

Công ƣớc”. Cụ thể, các nƣớc có thể “tiến hành, trực tiếp hoặc thông qua một

tổ chức khu vực hữu quan để phối hợp trong việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và

khai thác các tài nguyên sinh vật biển” và đồng thời phối hợp các hoạt động

nhằm “bảo vệ và gìn giữ môi trƣờng biển”. Các nƣớc quanh Biển Đông đã

thất bại trong việc thành lập một tổ chức khu vực hiệu quả và hình thức hợp

tác “trực tiếp” nhìn chung cũng không đạt thành công. Cơ quan điều phối các

nƣớc Biển Đông Á (COBSEA) gần nhƣ không có hoạt động và tổ chức đối

tác về quản lý môi trƣờng các quốc gia biển Đông Á (PEMSEA) đạt đƣợc một

số thành tựu khiêm tốn. Chƣa có một tổ chức hiệu quả về quản lý nghề cá

chung đƣợc thành lập.

- Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp biển đông. Bài của

GS. Geoffrey Till Giám đốc Trung tâm Corbett về Nghiên cứu Chính sách

Biển, Đại học King, Luân Đôn, Anh.

Mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định cần coi tranh chấp Biển Đông là

vấn đề hoàn toàn của các quốc gia liên quan và của khu vực, trên thực tế nó

ngày càng đƣợc xem là vấn đề toàn cầu. Điều này là bởi vấn đề Biển Đông

đang là thƣớc đo để đánh giá vai trò và chính sách của Trung Quốc trong

7

tƣơng lai – một vấn đề ngày càng làm đau đầu đối với Hoa Kỳ và một số

nƣớc ngoài khu vực. Tầm quan trọng chiến lƣợc của tranh chấp này đƣợc

minh họa rõ ràng nhất bởi các mối quan tâm bên ngoài về tác động có thể xảy

ra của tranh chấp đối với tự do hàng hải và bởi mức độ, tính chất và hậu quả

của chƣơng trình hiện đại hóa hải quân của các bên tranh chấp. Vì những

nguy cơ đang hiện hữu khi Biển Đông tăng nhiệt, cần có sự rõ ràng và những

cái đầu lạnh ở cả trong và ngoài khu vực.

- Tại sao Trung Quốc nhất định cần Biển Đông cho riêng mình: một

quan điểm dự đoán và độc lập từ bên ngoài. Bài của Tƣớng (về hƣu) Daniel

Schaeffer Viện chính sách Châu Á 21, Pháp.

Sự hiếu chiến gần đây để bảo vệ những gì mà họ coi là quyền lợi

chính đáng ở Biển Đông theo đƣờng chín đoạn đứt khúc khiến mọi ngƣời trên

thế giới đều tin rằng sự quả quyết này của Trung Quốc chỉ dựa trên những lý

do về kinh tế nhƣ dầu khí, đánh bắt cá, bảo vệ môi trƣờng... Tất nhiên trên tất

cả, những lý do này đều không phải là không có căn cứ. Nhƣng đây có thể chỉ

là những lý do bề mặt nhằm che dấu những ý định và lợi ích sâu xa của Trung

Quốc. Những ý định và lợi ích này đều liên quan đến bố trận quốc phòng của

Trung Quốc, để chống lại những gì mà Trung Quốc coi là “chính sách ngăn

chặn” của Mỹ, nếu không muốn nói là "mối đe dọa" Mỹ. Với bài tính nhƣ vậy

Biển Đông không khác gì một quân cờ-một quân cờ quan trọng, nhƣng chỉ là

một quân cờ trong kế hoạch phòng thủ tổng thể Trung Quốc đang xây dựng

nhằm hạn chế “mối đe dọa Mỹ”.

- Biển Đông: Sự trổi dậy của Trung Quốc và những hệ lụy đối với hợp

tác an ninh. Bài của GS.Koichi Sato Đại học J.F.Oberlin, Tokyo, Nhật Bản.

Tháng 3 năm 2010, các nhà ngoại giao Trung Quốc khẳng định với

quan chức chính quyền Obama rằng Trung Quốc sẽ không chấp nhận bất kỳ

hành động can thiệp nào tại Biển Đông, khu vực mà hiện tại Trung Quốc coi

8

là một phần “lợi ích cốt lõi” thuộc chủ quyền của mình. Hải quân Quân giải

phóng Nhân dân Trung Quốc đã bắt đầu triển khai các tàu chiến và tàu tuần

tra tại Biển Đông; căng thẳng giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng

Đông Nam Á đang gia tăng. Mỹ, Nhật Bản và Australia đã bày tỏ quan ngại

đối với an ninh của các tuyến đƣờng thông thƣơng trên biển (SLOC) ở Biển

Đông. Có ý kiến cho rằng Hải quân Trung Quốc đang có kế hoạch phát triển

hàng không mẫu hạm. Bài tham luận này phân tích những thách thức trên

biển, đồng thời đánh gia tác động đối với hợp tác an ninh giữa Trung Quốc và

các quốc gia láng giềng bao gồm cả Nhật Bản và Mỹ.

- Vai trò của quốc tế hóa Biển Đông trong quản lý và ngăn ngừa xung

đột. GS. Leszek Buszynski Trung tâm Nghiên cứu Chiến lƣợc và Quốc

phòng, Đại học Quốc gia Australia.

Bài tham luận nhận định về quá trình phát triển của tranh chấp Biển

Đông: từ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ liên quan tới các đảo và các vùng

biển, từ việc tiếp cận các nguồn dầu mỏ và khí đốt ở biển vốn càng trở nên

cấp thiết khi mà nhu cầu năng lƣợng toàn cầu gia tăng, tới vấn đề đối đầu

chiến lƣợc giữa Mỹ và Trung Quốc. Điều này liên quan tới các vấn đề chiến

lƣợc rộng lớn hơn, một mặt là chiến lƣợc hải quân của Trung Quốc khi nƣớc

này tăng cƣờng năng lực hải quân, mặt khác là sự hiện diện của Mỹ ở phía

Tây Thái Bình Dƣơng và những mối quan hệ đồng minh của Mỹ trong khu

vực. Bài tham luận lập luận rằng, một thỏa thuận ngăn ngừa xung đột là cần

thiết để tránh gây leo thang những vụ việc nhỏ trở thành xung đột, từ đó cản

trở quá trình giải quyết các yêu sách chồng lấn. Thỏa thuận này nên tính tới

hai cƣờng quốc quan trọng Mỹ và Trung Quốc, đồng thời bao gồm các bên

yêu sách của ASEAN.

9

1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước

- Tập trung phát triển kinh tế biển gắn với an ninh quốc phòng. Bài nói

của Chủ tịch nƣớc Trƣơng Tấn Sang trong buổi làm việc tại TP. Đà Nẵng

ngày 04/07/2014.

Phát biểu tại cuộc làm việc, Chủ tịch nƣớc khẳng định: “Đảng, Nhà

nƣớc luôn kiên quyết bảo vệ đến cùng chủ quyền biển đảo của tổ quốc, các

lực lƣợng và nhân dân luôn yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan khỏi vùng

biển Hoàng Sa. Các lực lƣợng cảnh sát biển, kiểm ngƣ, ngƣ dân đều mong

muốn tăng cƣờng công tác phòng vệ, tăng số tàu cá, công suất, sản lƣợng,

phát triển kinh tế biển để đủ sức bảo vệ chủ quyền biển đảo. Phát triển kinh tế

biển gắn với gắn với an ninh quốc phòng là chủ trƣơng lớn của Đảng, Nhà

nƣớc. Các bộ ngành, địa phƣơng cần nhanh chóng phân bổ nguồn vốn, làm

nhanh các thủ tục để ngƣ dân đƣợc nhanh chóng tiếp cận nguồn vốn, đóng tàu

xa bờ, bám biển, bảo vệ ngƣ trƣờng truyền thống”. Chủ tịch Nƣớc cũng yêu

cầu các bộ ngành tập trung nguồn lực yểm trợ các địa phƣơng có vai trò đặc

biệt về phát triển kinh tế biển gắn với an ninh quốc phòng, đảm bảo chủ

quyền trên biển. Đối với thành phố Đà Nẵng cũng nhƣ các địa phƣơng ven

biển, Chủ tịch nƣớc yêu cầu cần tiếp tục phát huy khả năng của địa phƣơng,

củng cố các tổ đội, nghiệp đoàn nghề cá, để sẵn sàng xử lý khi có tình huống

phức tạp.

- Kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ chủ quyền trên biển, bài viết của

tác giả Văn Hào trên Trang điện tử báo Tin tức Thứ Hai, 02/06/2014.

Theo tác giả bài viết, một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng để

thực hiện thành công “Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020”, đó là kết

hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền,

quyền chủ quyền và an ninh trên biển. Do đó, việc xây dựng và phát triển

kinh tế biển phải gắn chặt với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh để xây dựng thế

10

trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trên biển.

Để phát huy hơn nữa vai trò của biển, đảo trong phát triển kinh tế, ngay

từ bây giờ chúng ta cần đẩy mạnh đánh bắt hải sản xa bờ, điều chỉnh nghề cá

ven bờ hợp lý. Phát triển mạnh ngành nuôi trồng thủy sản theo hƣớng hài hòa

với môi trƣờng. Đồng thời ứng dụng công nghệ sau thu hoạch. Đi đôi với việc

phát triển hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá, bao gồm các hoạt động cảng cá,

sửa chữa và đóng tàu, ngƣ cụ, cung cấp các dịch vụ bảo quản, chế biến và tiêu

thụ sản phẩm chú ý công tác thông tin liên lạc và cứu hộ cứu nạn trên biển.

Đặc biệt ngày 29/5 vừa qua, Chính phủ đã đƣa ra bàn thảo chính sách

hỗ trợ ngƣ dân bám biển, có cơ chế tín dụng ƣu đãi cho ngƣ dân đánh bắt xa

bờ đóng tàu vỏ thép, dự kiến lãi suất vay 3% trong thời gian 10 năm; ngƣời

vay đƣợc thế chấp bằng thân tàu, nếu xảy ra rủi ro Nhà nƣớc cũng sẽ hỗ trợ.

Đây là những chính sách thể hiện rõ quyết tâm giúp ngƣ dân yên tâm đánh bắt

xa bờ và bám biển của Nhà nƣớc. Để giúp ngƣ dân vƣơn khơi, bám biển vừa

khai thác sản xuất vừa góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo, việc hỗ trợ nguồn

vốn giúp cải hoán tàu cũ, đóng mới tàu công suất lớn đang đƣợc hệ thống

ngân hàng tích cực tham gia.

Cùng với đó, Đảng và Nhà nƣớc chủ trƣơng điều chỉnh Chiến lƣợc phát

triển kinh tế biển kết hợp với tăng cƣờng quốc phòng, an ninh trên biển phù

hợp với tƣ duy mới về biển và đại dƣơng. Đẩy mạnh giáo dục quốc phòng, an

ninh biển cho toàn dân, coi trọng bồi dƣỡng các lực lƣợng trực tiếp hoạt động

trên biển, đảo. Nghiên cứu chiến lƣợc biển của các nƣớc trong khu vực và

trên thế giới để đề ra các chính sách phù hợp, nhằm bảo vệ hữu hiệu chủ

quyền quốc gia trên biển, đảo.

Hoạt động ngoại giao cũng đƣợc đẩy mạnh nhằm đảm bảo tính nghiêm

minh và hiệu quả của Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông có lợi cho hòa bình,

11

ổn định và phát triển trong khu vực. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính

sách bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nƣớc và

quyền làm chủ của nhân dân trên vùng biển, đảo của Tổ quốc.

Các lực lƣợng chuyên trách đƣợc kiện toàn, từng bƣớc thực hiện quản

lý nhà nƣớc trên các vùng biển, thông qua việc xây dựng các lực lƣợng và

phƣơng tiện để chỉ huy, điều hành cứu hộ, cứu nạn trên biển nhƣ: xây dựng hệ

thống trinh sát, quan sát, cảnh giới từ xa; hiện đại hóa thông tin liên lạc hàng

hải; thành lập đội tàu tuần tra Biên phòng, Kiểm ngƣ, Cảnh sát biển, Hải

quan…

Hiện tại các cơ quan chức năng cũng đã và đang tiến hành phân vùng

biển dựa trên hệ sinh thái, quy hoạch sử dụng biển và hải đảo, nhằm xác định

rõ những khu vực dành riêng cho nhiệm vụ quốc phòng. Những khu vực cho

phép và khuyến khích phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng nhƣ

những khu vực phát triển đa mục đích. Nâng cao năng lực quản lý về biển, đảo

của chính quyền các huyện đảo, xã đảo để phát triển mạnh kinh tế-xã hội kết

hợp với bố trí dân cƣ, tổ chức lực lƣợng bảo vệ chủ quyền biển, hải đảo.

Tăng cƣờng sự gắn bó giữa ngƣ dân, diêm dân, các tầng lớp dân cƣ

vùng biển với các lực lƣợng vũ trang, trực tiếp là Bộ đội Biên phòng, để giúp

nhau sản xuất, nâng cao đời sống văn hóa, tạo dựng thế trận lòng dân. Từng

bƣớc dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở khai thác có hiệu quả các

nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển, vừa là tiền đề để xây dựng, củng cố và

phát huy lực lƣợng tại chỗ phục vụ chiến lƣợc quốc phòng-an ninh trên biển

và hải đảo.

- Phát triển kinh tế biển, đảo gắn với an ninh quốc phòng của tác giả

Hữu Trà, Thanh Niên Online – Thứ bảy, ngày 24 tháng chín năm 2011.

Ngày 23.9.2011, tại Hội An, Tạp chí Cộng sản phối hợp với Tỉnh ủy

Quảng Nam tổ chức hội thảo khoa học “Phát triển kinh tế biển, đảo gắn với

12

bảo đảm quốc phòng, an ninh ở các tỉnh duyên hải miền Trung”. Tại hội thảo,

TS. Nguyễn Đăng Đạo - Phó tổng cục trƣởng Tổng cục Biển và hải đảo Việt

Nam (Bộ Tài nguyên & Môi trƣờng) cho rằng, để trở thành một quốc gia

mạnh về biển và giàu lên từ biển, trƣớc hết cần tập trung bảo vệ chủ quyền

biển, đảo; phát triển kinh tế biển bền vững; phát triển kinh tế - xã hội vùng

ven biển, hải đảo gắn với bảo vệ môi trƣờng và an ninh quốc gia. Liên quan

đến công tác tuyên truyền biển, đảo, đại tá Nguyễn Đức Vƣợng - Phó chính

ủy Vùng 4 Hải quân, cho rằng cần xác định đúng vị trí, vai trò, tiềm năng sức

mạnh của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung,

bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng. Đại tá Nguyễn Đức Vƣợng khẳng định

chƣơng trình “Hành trình vì biển, đảo quê hương” đƣa đoàn viên thanh niên

đến với biển, đảo, nhất là quần đảo Trƣờng Sa, nhà giàn DK1... tạo hiệu ứng

xã hội tích cực về hành trình tiến ra biển, làm chủ biển của tuổi trẻ cả nƣớc.

- Phát triển kinh tế biển gắn với thế trận lòng dân, bài viết của Phƣơng

Yến trên trang tin Bến Tre, ngày 23/03/2012.

Theo quan điểm của tác giả, khai thác kinh tế biển đồng thời với ý thức

chấp hành pháp luật về biên giới biển là góp phần giữ vững an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới biển của tỉnh, bảo vệ vững chắc

chủ quyền biên giới quốc gia.

Thực hiện chủ trƣơng về tăng cƣờng xây dựng và phát triển kinh tế - xã

hội, củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên

biển, đảo, Bến Tre đã tập trung mọi nguồn lực đầu tƣ, xây dựng nhiều dự án,

công trình mang tính chiến lƣợc nhằm khai thác các tiềm năng của biển, đảo.

Tác giả bài viết đặc biệt quan tâm đến sự kết hợp vai trò lãnh đạo của

Đảng, vai trò quản lý của nhà nƣớc với sự tham gia của ngƣời dân trong giải

quyết mối quan hệ này. Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng thế trận

lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lƣợc bảo vệ Tổ quốc” xem đây là

13

nhiệm vụ thƣờng xuyên, trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả

hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà

nƣớc là yếu tố quyết định. Nhƣng ý chí, nguyện vọng của quần chúng nhân

dân là cơ sở, điều kiện tiên quyết và là nhân tố chủ yếu tác động đến hiệu quả

xây dựng thế trận lòng dân. Chính vì vậy, thế trận lòng dân đã đƣợc xây dựng,

củng cố trên cơ sở hệ thống chính trị vững mạnh, nhất là ở cơ sở, trong từng

khu vực phòng thủ địa phƣơng. Đây cũng chính là xây dựng nền tảng, trọng

tâm của xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần của khu vực phòng thủ, đủ sức

- Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm chủ quyền vùng biển

đề kháng trƣớc mọi âm mƣu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

quốc gia, bài viết của PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi, phó Tổng cục trƣởng Tổng

cục Biển và Hải đảo Việt Nam, đăng trên trang web.www.baomoi.com.

Mục tiêu kết hợp kinh tế-xã hội với quốc phòng-an ninh nhằm khẳng

định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ vùng biển và hải đảo của Tổ quốc; khai

thác, sử dụng nguồn lợi biển của quốc gia có hiệu quả để thực hiện hai nhiệm

vụ chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động kết hợp phải đƣợc tiến

hành trong từng cơ sở đánh bắt hải sản, khai thác tài nguyên, phát triển du

lịch, dịch vụ; nghiên cứu khoa học biển; kết hợp theo quy hoạch, kế hoạch

của từng địa phƣơng, vùng biển, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của quốc

phòng-an ninh để nâng cao năng lực quản lý, bảo vệ biển và hải đảo của Tổ

quốc. Phát huy lợi thế của vùng ven biển, tạo động lực lan tỏa hỗ trợ phát

triển kinh tế nội địa, làm “bàn đạp” cho phát triển một nền kinh tế biển hiệu

quả và vững chắc, gắn với bảo đảm chủ quyền vùng biển quốc gia đƣợc xác

định là một trong những hƣớng ƣu tiên có tính đột phá chiến lƣợc để đƣa

nƣớc ta trở thành “một quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển”. Xây dựng

tuyến ven biển gắn với một số tuyến đảo chính thành những điểm kinh tế

14

mạnh và căn cứ hậu cần kỹ thuật vững chắc cho các hoạt động biển xa. Bảo

đảm cung cấp nƣớc ngọt, cơ sở hạ tầng và điều kiện sống cơ bản để ngƣời dân

yên tâm bám trụ, sản xuất trên các vùng biển, hải đảo tiền tiêu của Tổ quốc.

- Phát triển kinh tế biển, đảo gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bài

viết của PGS, TS Vũ Văn Phúc - Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, đăng trên

trang điện tử của bộ giao thông vận tải - tổng công ty an toàn hàng hải Việt

Nam http://www.vms-south.vn/.

Bài viết bàn về những quyết sách lớn, quan trọng của Đảng ta về phát

triển kinh tế biển, đảo gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tiềm năng, cơ

hội cho phát triển kinh tế biển, đảo của Việt Nam. Tiếp tục giải quyết những

vấn đề đặt ra, không ngừng phát triển kinh tế biển, đảo gắn với bảo đảm quốc

phòng, an ninh.

- Sức mạnh tổng hợp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam, bài viết của

Thiếu tƣớng, PGS. TS Nguyễn Đình Chiến - Phó viện trƣởng Viện Chiến

lƣợc quốc phòng, Bộ Quốc phòng đăng trên trang thông tin điện tử nhà xuất

bản chính trị quốc gia - sự thật http://www.nxbctqg.org.vn.

Bài viết đề cập đến vấn đề biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ

thiêng liêng của Tổ quốc, cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của quốc

gia… Nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc rất nặng

nề, đòi hỏi phải thƣờng xuyên quán triệt, nắm vững các quan điểm tƣ tƣởng

của Đảng, tổ chức triển khai thực hiện chủ động, sáng tạo trong thực tiễn ở

mọi cấp, ngành và toàn dân; phát huy cao nhất vai trò nòng cốt của các lực

lƣợng vũ trang nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền

biển, đảo của Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

- Định hướng phát triển kinh tế biển, đảo vùng Bắc Trung Bộ đến năm

2020, tầm nhìn đến năm 2030. Bài của tác giả Nguyễn Hoàng Hà, quyền

trƣởng ban Ban Tổng hợp Viện Chiến lƣợc phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu

15

tƣ, đăng trên tạp chí cộng sản điện tử ngày 17/1/2014. Để xây dựng định

hƣớng phát triển kinh tế biển, đảo của vùng Bắc Trung Bộ một cách hợp lý,

bài viết đi sâu nghiên cứu, tiếp cận, đánh giá và phân tích vấn đề theo “3 cấp

độ không gian”: (i) Việt Nam trong khu vực; (ii) Miền Trung trong Việt Nam;

(iii) Bắc Trung Bộ trong miền Trung.

Nghị quyết của Chính phủ số 27/2007/NQ-CP ngày 30-5-2007 ban

hành Chƣơng trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị

lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X về Chiến lƣợc biển Việt

Nam đến năm 2020 nêu rõ: nhiệm vụ của ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ƣơng có biển, cần xây dựng quy hoạch phát triển vùng biển,

đảo thuộc địa phƣơng quản lý và xây dựng các danh mục ƣu tiên đầu tƣ trình

Chính phủ phê duyệt.

Định hƣớng phát triển các ngành kinh tế biển đã đƣợc Chiến lƣợc biển

và Luật Biển Việt Nam xác định; đồng thời dựa trên lợi thế cạnh tranh, mang

tính khác biệt của vùng, phù hợp với nhu cầu của thị trƣờng trong thời gian

tới, đó chính là phát triển mạnh các khu kinh tế, tạo chân hàng lớn để có thể

phát triển kinh tế hàng hải; xây dựng các trung tâm tiến ra biển; du lịch biển;

đào tạo nhân lực biển và nuôi trồng hải sản.

Để thực hiện Kết luận 60-KL/TW của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc biển,

tập trung phát triển 6 nhóm ngành kinh tế biển theo Điều 43 Luật Biển Việt

Nam năm 2012, Nghị quyết của Chính phủ số 27/2007/NQ-CP ngày 30-5-

2007 ban hành Chƣơng trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X về Chiến lƣợc

biển Việt Nam đến năm 2020, định hƣớng phát triển kinh tế biển, đảo vùng

Bắc Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, cần triển khai thực

hiện một số giải pháp:

Một là, sơ kết, đánh giá nghiêm túc, chính xác các nhiệm vụ trong

16

Chƣơng trình hành động thực hiện Chiến lƣợc biển, trong đó trọng tâm là

đánh giá về xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế biển, đảo, thực hiện các dự

án đầu tƣ trọng điểm và việc di giãn dân đến các huyện ven biển; đồng thời,

đề xuất các nhiệm vụ mới trong phát triển kinh tế biển phù hợp với bối cảnh

mới.

Hai là, xây dựng các chƣơng trình nâng cao văn minh thƣơng mại, văn

minh du lịch; xúc tiến, quảng bá hình ảnh chung cho toàn vùng; chƣơng trình

ứng phó và giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu; tiếp tục thực hiện các

chƣơng trình hỗ trợ ngƣ dân, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời dân biển, đảo

bám biển, mở rộng sinh kế theo hƣớng bền vững.

Ba là, các địa phƣơng tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hóa, đồng bộ hóa

các chính sách phát triển kinh tế biển, đảo của Trung ƣơng phù hợp với tình

hình của địa phƣơng mình. Tăng cƣờng và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả

công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Chiến lƣợc biển. Kiện toàn,

ổn định các cơ quan quản lý biển đảo tại địa phƣơng. Tăng cƣờng kết nối,

phối hợp giữa các địa phƣơng trong vùng, giữa địa phƣơng với các bộ, ngành

trung ƣơng; tăng cƣờng hiện đại hóa cơ sở vật chất và hệ thống thông tin liên

lạc trên các tuyến ven biển, đảo và trên biển.

Bốn là, đẩy mạnh phổ biến và cập nhật kiến thức về biển, đảo cho các

ngành, các cấp, cho ngƣ dân, tạo ra sự hiểu biết và thống nhất trong cách quản

lý, thực hiện, giám sát các hoạt động liên quan đến kinh tế biển và vấn đề chủ

quyền quốc gia; kết hợp chặt chẽ, gắn bó phát triển kinh tế biển, đảo với bảo

vệ toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, với các hoạt động quốc phòng an ninh.

- Định hướng phát triển du lịch biển, đảo tỉnh Nghệ An đến năm 2020,

của Nguyễn Đình Mạnh đăng trên trang tin điện tử www.tailieu.vn. Bài viết

nghiên cứu các giải pháp khai thác có hiệu quả những tiềm năng và lợi thế của

vùng ven biển và hải đảo của tỉnh Nghệ An phục vụ phát triển du lịch gắn với

17

đảm bảo an ninh quốc phòng trên biển và hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở

xác định rõ các định hƣớng phát triển chủ yếu của du lịch biển, đảo trong mối

quan hệ với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và các mục

tiêu chiến lƣợc về phát triển kinh tế biển.Đồng thời xác định mục tiêu, định

hƣớng và giải pháp phát triển du lịch biển, đảo Nghệ An đến năm 2020 trên

cơ sở phát huy vai trò, thế mạnh tài nguyên du lịch biển, sử dụng hiệu quả và

tiết kiệm các nguồn lực về du lịch biển, đẩy nhanh tốc độ phát triển của du

lịch Nghệ An nói chung, du lịch biển, đảo nói riêng.

- Công ty yến sào Khánh Hòa kết hợp tốt giữa bảo vệ các đảo yến với

xây dựng thế trận quốc phòng an ninh trên biển của tác giả Đăng Khoa đăng

trên trang tin điện tử của đài truyền thanh và truyền hình Khánh Hòa

http://ktv.org.vn/

Là một doanh nghiệp nhà nƣớc, Công ty TNHH Nhà Nƣớc một thành

viên Yến sào Khánh Hòa hiện đang quản lý trên 30 đảo yến với 152 hang yến.

Những năm qua, cùng với việc ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học để phát

triển đàn yến, công ty còn xây đƣợc 2 trung đội tự vệ biển làm nhiêm vụ bảo vệ

đàn yến trên các đảo, phối hợp với các lực lƣợng chức năng giữ vững an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội trên tuyến biển đảo tỉnh Khánh Hòa.

Trong chiến lƣợc phát triển sản xuất kinh doanh, Công ty luôn chú

trọng đến công tác bảo vệ an toàn doanh nghiệp, đặc biệt là bảo vệ an ninh

quốc phòng tuyến biển đảo. Đây là lực lƣợng nòng cốt để giữ gìn an ninh

tuyến biển đảo, nhất là các đảo yến và phát triển nguồn tài nguyên yến sào

của tỉnh. Sắp tới Công ty sẽ tiếp tục xây dựng lực lƣợng tự vệ công ty, nâng

cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ kinh tế

kết hợp với an ninh quốc phòng.

Với mục tiêu phát triển bền vững, Công ty yến sào Khánh Hòa tiếp tục

18

đẩy mạnh công tác lãnh đạo chính trị tƣ tƣởng, thực hiện tốt nhiệm vụ kết hợp

phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh. Thực sự là một trong những doanh

nghiệp lớn hoạt động có hiệu quả của tỉnh Khánh Hòa.

Các công trình nghiên cứu này có những đóng góp đáng kể trong việc

giải quyết vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế gắn với bảo

vệ an ninh biển đảo và chiến lƣợc phát triển kinh tế gắn với bảo vệ chủ quyền

biển đảo của đất nƣớc ta. Các tài liệu trên đã đƣợc học viên tham khảo,

nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc trong luận văn.

Ngoài ra, các nghị quyết các văn kiện đại hội Đảng, các bài báo của các

học giả về phát triển kinh tế về biển và chiến lƣợc bảo vệ an ninh trên biển

trên các bài báo, các tạp chí trong và ngoài nƣớc cũng là nguồn tƣ liệu giúp

học viên tìm hiểu và rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác nghiên cứu phát

triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình.

1.1.3. Những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu

Những công trình nghiên cứu và các bài viết của các tác giả trong nƣớc

và quốc tế đã đề cập đến các vấn đề về chính sách an ninh biển đảo, chính

sách phát triển kinh tế trong nƣớc và quốc tế. Tuy nhiên, chƣa có công trình

nào trực tiếp bàn về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở trong

điều kiện cụ thể của tỉnh Quảng Bình. Mặc dù là bộ phận không thể tách rời

của đất nƣớc nhƣng Quảng Bình có những đặc điểm rất riêng trong phát triển

kinh tế; bảo vệ an ninh biển đảo và kết hợp 2 vấn đề này trong thể thống nhất.

Bởi vậy, tác giả lựa chọn vấn đề này làm đề tài luận văn.

1.2 Khái luận về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo

1.2.1 Các khái niệm cơ bản

19

* Phát triển kinh tế

Phát triển kinh tế là sự tăng lên về số lƣợng, chất lƣợng các mặt của đời

sống kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế bao gồm những nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, tăng trƣởng kinh tế. Muốn phát triển các mặt của đời sống

kinh tế - xã hội, trƣớc hết xã hội phải có thêm của cải, tức là năng lực của nền

sản xuất phải đƣợc mở rộng hay nền kinh tế phải tăng trƣởng. Những nƣớc có

nền kinh tế phát triển trƣớc hết nền kinh tế phải tăng trƣởng với tốc độ cao

trong thời gian dài. Cũng vì vậy, các tỉnh nghèo muốn phát triển kinh tế phải

coi tăng trƣởng kinh tế là mục tiêu số một trong chiến lƣợc kinh tế - xã hội

của mình.

Thứ hai, cơ cấu các ngành kinh tế thay đổi theo hƣớng tiến bộ. Theo

cách phân chia hiện đại, nền kinh tế gồm ba khu vực: khu vực I bao gồm nông

nghiệp, lâm nghiệp, ngƣ nghiệp và khai khoáng; khu vực II gồm có công

nghiệp và xây dựng; khu vực III là khu vực dịch vụ bao gồm các ngành nhƣ

ngân hàng, bảo hiểm, thƣơng mại, giao thông vận tải, thông tin bƣu điện, du

lịch... Khu vực I có hai đặc điểm: phụ thuộc nặng nề vào tự nhiên; năng suất

lao động và hiệu quả kinh tế thấp. Do đó, trong cơ cấu các ngành kinh tế, khu

vực I càng chiếm tỷ trọng lớn, khu vực II và III càng chiếm tỷ trọng nhỏ bao

nhiêu thì nền kinh tế càng phụ thuộc vào tự nhiên nhiều bấy nhiêu, năng suất

lao động và hiệu quả của nền sản xuất xã hội càng thấp bấy nhiêu. Và ngƣợc

lại, khu vực I chiếm tỷ trọng càng nhỏ... nền kinh tế càng ít phụ thuộc vào tự

nhiên, năng suất lao động và hiệu quả của nền sản xuất xã hội càng cao. Bởi

vậy, cơ cấu các ngành kinh tế thay đổi theo hƣớng: khu vực I giảm về tỷ

trọng, khu vực II và III tăng về tỷ trọng đƣợc coi là tiến bộ và sự thay đổi đó

là một nội dung của phát triển kinh tế.

Các quốc gia và địa phƣơng có biển, muốn phát triển kinh tế phải coi

biển đảo là tiềm năng to lớn cho phát triển kinh tế và tìm mọi cơ hội để khai

20

thác những tiềm năng đó.

Thứ ba, những tiến bộ kinh tế chủ yếu phải xuất phát từ động lực nội

tại. Nền kinh tế tăng trƣởng, cơ cấu các ngành kinh tế thay đổi tiến bộ chủ yếu

phải do các nguyên nhân bên trong, do các nguồn lực trong nƣớc. Ngƣợc lại,

nền kinh tế có thể tăng trƣởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hƣớng

tiến bộ nhƣng nếu chủ yếu dựa vào nguồn lực bên ngoài thì quốc gia đó sẽ

không đƣợc coi là có nền kinh tế phát triển. Do vậy, việc đề cao nội lực là cần

thiết và đúng đắn.

Ở Việt Nam, các tỉnh nghèo có thể nhận đƣợc sự hỗ trợ của trung ƣơng.

Sự hỗ trợ đó là rất cần thiết và quý giá. Tuy nhiên, để phát triển kinh tế, các

tỉnh phải vƣơn lên để chủ yếu dựa vào nội lực của mình.

Thứ tư, chất lƣợng cuộc sống của dân cƣ không ngừng đƣợc nâng cao.

Nói cách khác, ngƣời dân phải đƣợc thụ hƣởng những thành quả của tăng

trƣởng kinh tế, cơ cấu các ngành kinh tế thay đổi theo hƣớng tiến bộ. Chất

lƣợng cuộc sống đƣợc thể hiện ở mức thu nhập; tuổi thọ; mức độ thụ hƣởng

các dịch vụ văn hoá, y tế, giáo dục; cơ hội lựa chọn trong việc thoả mãn các

nhu cầu; sự đảm bảo về quốc phòng, an ninh...

Vì vậy, để phát triển kinh tế, các tỉnh phải đặc biệt quan tâm, chăm lo

đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

*Bảo vệ an ninh biển đảo

Là các hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các

hoạt động xâm hại đến sự ổn định, phát triển bền vững, sự bất khả xâm phạm

độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh hải, thềm lục địa và các đảo của

quốc gia dựa trên quy định của luật pháp quốc tế.

Theo nghĩa rộng, bảo vệ an ninh biển đảo là toàn bộ các hoạt động

chống lại sự xâm phạm chủ quyền quốc gia, quyền chủ quyền và quyền tài

phán về các vùng biển đảo của đất nƣớc; đảm bảo an toàn cho con ngƣời, cho

các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn biển đảo. Nhƣ vậy, bảo vệ an ninh

21

biển đảo bao hàm không chỉ các hoạt động bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với

vùng lãnh hải, thềm lục địa và các đảo, mà còn bao hàm các hoạt động cảnh

báo, hỗ trợ, khắc phục tình trạng mất an toàn do thời tiết, địa hình, luồng lạch,

các hoạt động cứu trợ, cứu nạn…

1.2.2. Quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo

Kinh tế, quốc phòng - an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi

quốc gia, dân tộc có độc lập, chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức

hoạt động và quy luật riêng, song giữa chúng có mối quan hệ, tác động qua lại

lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố quyết định đến bảo vệ an ninh biển đảo;

ngƣợc lại, bảo vệ an ninh biển đảo cũng có tác động trở lại (tích cực hoặc tiêu

cực) với kinh tế, thúc đẩy (hoặc kìm hãm) phát triển kinh tế.

1.2.2.1. Bảo vệ an ninh biển đảo là điều kiện phát triển kinh tế

Nền quốc phòng vững mạnh, an ninh giữ vững sẽ tạo môi trƣờng và

điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế trên 4 khía cạnh:

- Khai thác được những tiềm năng vốn có của quốc gia và địa phƣơng,

đặc biệt là tiềm năng kinh tế biển. Hoạt động nuôi trồng, đánh bắt thủy

hải sản; khai thác dầu khí và các nguồn tài nguyên khác, giao lƣu kinh

tế giữa các địa phƣơng và với nƣớc ngoài… đƣợc mở rộng.

- Mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư cho kinh tế biển. An ninh biển

đảo tốt góp phần đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tƣ; từ đó sẽ có tác

dụng khuyến khích cả đầu tƣ trong nƣớc và nƣớc ngoài cho kinh tế

biển. Đồng thời, các doanh nghiệp có cơ hội lựa chọn trong đầu tƣ, từ

đó nâng cao hiệu quả đầu tƣ.

- Góp phần tạo việc làm, đảm bảo đời sống cho người dân. Biển đảo có

diện tích rộng, nhiều loại tài nguyên… là nơi làm ăn bao đời của ngƣời

dân ven biển. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học - công nghệ

22

biển, các nguồn lực của doanh nghiệp và ngƣời dân đƣợc cải thiện đáng

kể, nếu an ninh đƣợc đảm bảo, biển đảo sẽ là nơi tạo ra lƣợng việc làm

rất lớn và đem lại thu nhập lớn cho ngƣời dân và doanh nghiệp.

- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do những tiềm năng to lớn, nếu an ninh

đƣợc đảm bảo, kinh tế biển đảo sẽ thu hút đƣợc đầu tƣ các nguồn lực và

sẽ trực tiếp góp phần quan trọng cho tăng trƣởng kinh tế của đất nƣớc

và địa phƣơng. Đồng thời, do tác động lan tỏa, kinh tế biển đảo sẽ góp

phần thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác tăng trƣởng. Không phải ngẫu

nhiên, một số chuyên gia cho rằng, thế kỷ XXI là thế kỷ của các đại

dƣơng.

Muốn bảo vệ đƣợc an ninh biển đảo, cần phải có các nguồn lực, phải có

sức mạnh tổng hợp của toàn dân, trong đó có sức mạnh của các lực lƣợng vũ

trang bảo vệ biển đảo. Tuy nhiên, việc sử dụng sức mạnh này cần hết sức cân

nhắc. Đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình cần đƣợc ƣu tiên. Nhƣng khi

cần thiết, chúng ta cũng không e ngại sử dụng sức mạnh quân sự và phải bảo

vệ bằng đƣợc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Tất nhiên là đầu tƣ cho an ninh biển đảo quá mức cần thiết có thể ảnh

hƣởng đến đầu tƣ cho phát triển kinh tế. Do đó, đầu tƣ cho an ninh biển đảo cũng

cần phải cân nhắc tính toán; việc sử dụng các nguồn lực cũng phải hiệu quả.

1.2.2.2. Phát triển kinh tế góp phần nâng cao năng lực bảo vệ an ninh

biển đảo

Những tham vọng về kinh tế suy đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh

các mâu thuẫn và xung đột xã hội. Những mâu thuẫn và xung đột không chỉ

diễn ra trong nội bộ quốc gia, mà còn giữa các quốc gia, đặc biệt là các quốc

gia láng giềng. Để giải quyết các mâu thuẫn đó, phải có hoạt động quốc

phòng, an ninh.

Đồng thời, phát triển kinh tế là cơ sở đảm bảo sức mạnh quốc phòng -

23

an ninh. Kinh tế quyết định quy mô và trình độ vũ khí, trang bị cho các lực

lƣợng vũ trang, đến việc cung cấp các cơ sở vật chất kĩ thuật cần thiết khác.

Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lƣợng, chất lƣợng nguồn nhân

lực cho bảo vệ an ninh biển đảo, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của

lực lƣợng vũ trang; quyết định đến đƣờng lối chiến lƣợc bảo vệ an ninh biển

đảo. Ăngghen đã khẳng định “Thất bại hay thắng lợi của chiến tranh đều phụ

thuộc vào điều kiện kinh tế”. Vì vậy, để bảo vệ an ninh biển đảo đƣợc tốt phải

xây dựng, phát triển kinh tế.

Nhƣ vậy, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cƣờng bảo vệ an

ninh biển đảo là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động có nội dung,

phƣơng thức riêng nhƣng lại có sự thống nhất ở mục đích chung, cái này là

điều kiện tồn tại của cái kia và ngƣợc lại. Tuy nhiên, việc kết hợp cần phải

đƣợc thực hiện một cách khoa học, hợp lí, cân đối và hài hoà.

1.2.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế gắn

với bảo vệ an ninh biển đảo

1.2.3.1. Điều kiện tự nhiên

Điều kiện tự nhiên là nhân tố quan trọng, không chỉ ảnh hƣởng đến

phát triển kinh tế, đến bảo vệ an ninh biển đảo, mà cả sự gắn kết giữa phát

triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo. Điều kiện tự nhiên gắn liền với

những tiềm năng kinh tế: các nguồn lợi thủy hải sản, các tài nguyên biển

khác, các tuyến đƣờng hàng không, hàng hải… là những điều kiện quan trọng

để phát triển kinh tế của các quốc gia cũng nhƣ các tỉnh. Điều kiện tự nhiên

càng thuận lợi, tài nguyên càng dồi dào, phát triển kinh tế càng nhanh.

Điều kiện tự nhiên có ảnh hƣởng trực tiếp đến bảo vệ an ninh biển đảo.

Địa hình, địa vật là nhân tố quan trọng ảnh hƣởng đến khả năng phòng thủ,

bảo vệ an ninh biển đảo. Vì vậy, sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ

an ninh biển đảo tùy thuộc một phần vào các điều kiện tự nhiên, phải đặc biệt

24

tranh thủ khai thác những điều kiện tự nhiên sẵn có.

1.2.3.2. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội

Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo tùy thuộc

vào các nguồn lực; vào khả năng nhận thức và sự tham gia đóng góp của

ngƣời dân. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội càng cao, các nguồn lực càng

dồi dào, ngƣời dân càng có điều kiện tham gia đóng góp vào sự gắn kết này.

Bởi vậy, trình độ phát triển kinh tế - xã hội trở thành nhân tố có ảnh hƣởng

quan trọng đến sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo.

Do vậy, phát triển kinh tế - xã hội không chỉ là mục tiêu, mà còn là điều kiện

thực hiện sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo.

1.2.3.3. Cơ chế, chính sách của nhà nước

Cơ chế, chính sách của nhà nƣớc có vai trò quan trọng định hƣớng, điều

tiết, hỗ trợ các hoạt động của các chủ thể trong thực hiện sự gắn kết giữa phát

triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo. Khi có cơ chế, chính sách phù hợp,

nhà nƣớc sẽ huy động đƣợc các nguồn lực, động viên đƣợc các chủ thể tham

gia thực hiện sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo.

Cơ chế, chính sách của nhà nƣớc bao gồm các cơ chế, chính sách của

trung ƣơng và của địa phƣơng. Nâng cao nhận thức về vai trò của kinh tế biển

và tầm quan trọng của phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo.

Đổi mới nội dung, phƣơng thức lãnh đạo của Tỉnh ủy và chính quyền

cấp tỉnh đối với phát triển kinh tế biển và bảo vệ an ninh biển đảo, xác định

trọng tâm, trọng điểm để tập trung chỉ đạo đang là yêu cầu bức thiết. Phải có

sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong lãnh đạo và phát triển kinh

tế biển. Phát huy mạnh mẽ vai trò các cơ quan tham mƣu, sự phối kết hợp

chặt chẽ của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Tăng

25

cƣờng công tác kiểm tra, giám sát

Tập trung đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở vật chất,

ứng dụng khoa học và công nghệ mới cho phát triển kinh tế biển và bảo vệ an

ninh biển đảo.

1.2.3.4. Phương tiện truyền thông và ý thức của người dân

Để tập trung phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo, lãnh

đạo chính quyền tỉnh đã tập trung chỉ đạo cơ quan truyền thông hƣớng tới các

ngày lễ lớn và các sự kiện quan trọng của đất nƣớc và của tỉnh, các hoạt động

văn hoá, thông tin, phát thanh truyền hình, thể dục, thể thao diễn ra sôi nổi,

rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh. Phong trào ''Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hoá” tiếp tục đƣợc duy trì. Phong trào thể dục, thể thao có những

chuyển biến mạnh, góp phần đáng kể vào việc duy trì và nâng cao thể chất

cho nhân dân, các hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn với nhiều hình thức

ngày càng phong phú, đa dạng. Thể thao thành tích cao ngày càng đƣợc chú

trọng và đã thu đƣợc nhiều kết quả đáng khích lệ.

Hoạt động báo chí, thông tin liên lạc đảm bảo thông suốt phục vụ chỉ

đạo, điều hành của các cấp và nhu cầu hƣởng thụ văn hóa thông tin của nhân

dân. Mạng lƣới bƣu chính, viễn thông đƣợc đầu tƣ ngày đồng bộ, hiện đại,

bảo đảm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và phòng,

chống bão lụt. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý nhà

nƣớc đã đƣợc các cấp, các ngành quan tâm đẩy mạnh. Tăng cƣờng quản lý

nhà nƣớc về hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa, thông tin và truyền thông,

góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội và xây dựng môi trƣờng văn hoá lành

mạnh ở địa phƣơng.

Lòng yêu nƣớc của ngƣời dân có ý nghĩa rất quan trọng cả trong phát

triển kinh tế và trong bảo vệ an ninh biển đảo bởi họ là ngƣời trực tiếp tham

gia vào cả hai công việc trọng đại này.

26

1.2.3.5. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ

Đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh có vai trò to lớn trong việc tổ chức thực

hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc; sự chỉ đạo của lãnh đạo

tỉnh trong phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo. Do đó, sự kết hợp

phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo nhƣ thế nào tùy thuộc một phần

vào trình độ, năng lực và phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ này.

Việc thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 4 (khóa XI) có ý nghĩa quan

trọng trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, củng cố lòng tin của

ngƣời dân đối với Đảng. Đồng thời, việc xây dựng bộ máy chính quyền tinh

gọn cần tiếp tục đƣợc tăng cƣờng.

Trƣớc mắt, các địa phƣơng cần tập trung cho cải cách hành chính. Các

ngành, các địa phƣơng cần ban hành kế hoạch và chỉ đạo thực hiện rà soát thủ

tục hành chính trọng tâm, làm cơ sở cho việc bãi bỏ, bổ sung, thay thế hoặc

kiến nghị bãi bỏ, bổ sung, thay thế các quy định về thủ tục hành chính. Chỉ

đạo nâng cao chất lƣợng hoạt động cơ chế một cửa và mở rộng thực hiện cơ

chế một cửa liên thông.

Tuy vậy, cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông" một số nơi hiệu quả

chƣa cao; cải cách thủ tục hành chính một số sở, ban ngành, địa phƣơng chƣa

đáp ứng yêu cầu; chất lƣợng phong trào thi đua và công tác khen thƣởng có

lúc, có nơi thiếu chặt chẽ, chƣa chú trọng chất lƣợng; một số cán bộ, công

chức chƣa đề cao trách nhiệm trong thực thi công vụ đƣợc giao. Đây là nhân

tố trực tiếp ảnh hƣởng đến cuộc sống hàng ngày của ngƣời dân, không chỉ ảnh

hƣởng đến lòng tin của ngƣời dân đối với Đảng và Nhà nƣớc, mà còn ảnh

hƣởng đến sự kết hợp giữa phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo.

1.2.3.6. Môi trường quốc tế

Môi trƣờng quốc tế hòa bình, ổn định là điều kiện thuận lợi cho sự kết

hợp phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo. Do đó, việc thực hiện

27

đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ trên cơ sở các bên cùng có lợi; mọi tranh

chấp đều phải giải quyết bằng con đƣờng đàm phán… là hết sức cần thiết và

đúng đắn. Các tỉnh cần quán triệt đầy đủ và thực hiện nghiêm túc chủ trƣơng,

đƣờng lối của Đảng về vấn đề này.

Việc Trung Quốc hạ đặt trái phép dàn khoan Hải Dƣơng 981 vi phạm

nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam, bắt

các ngƣ dân của tỉnh khi đang đánh bắt trên ngƣ trƣờng của Việt Nam đã ảnh

hƣởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển

đảo ở Quảng Bình. Đồng thời, thực tiễn đó cũng cho thấy, sự kết hợp phát

triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo là hết sức cấp bách.

1.2.4. Nội dung gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo

1.2.4.1. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo trong

các chiến lược, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cƣờng, củng cố bảo vệ an ninh biển

đảo phải đƣợc thể hiện ngay trong việc xây dựng chiến lƣợc phát triển kinh tế

của tỉnh. Điều này đƣợc thể hiện trong việc hoạch định mục tiêu phát triển

tỉnh, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp

chiến lƣợc

Mục tiêu và phƣơng hƣớng tổng quát phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

là: Phát huy sức mạnh toàn dân, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy

động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá của

tỉnh. Phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng cƣờng

quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại. Chủ động và tích cực hội

nhập kinh tế quốc tế. Giữ vững ổn định chính trị xã hội, sớm đƣa đƣợc nền

kinh tế của tỉnh ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng cho tỉnh đến

năm 2020 cơ bản trở thành tỉnh có trình độ phát triển công nghiệp theo hƣớng

28

hiện đại.

Nhƣ vậy, trong mục tiêu chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội đã bao

quát toàn diện các vấn đề của đời sống xã hội, trong đó nổi lên ba vấn đề lớn

là: tăng trƣởng kinh tế gắn với tiến bộ xã hội; tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển

đảo và mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm giải quyết hài hoà 2 nhiệm vụ chiến

lƣợc xây dựng và bảo vệ sự bình yên của tỉnh nhà. Gắn kết phát triển kinh tế

với bảo vệ an ninh biển đảo trong các chiến lƣợc, kế hoạch, dự án phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh đƣợc thể hiện cụ thể ở những nội dung sau:

- Xây dựng chiến lƣợc, qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đồng

thời với xây dựng chiến lƣợc quốc phòng - an ninh của tỉnh. Hội đồng

thông qua các chiến lƣợc, qui hoạch này vừa phải có các chuyên gia

trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, chuyên gia về quốc phòng - an ninh

và những ngƣời đứng đầu các lĩnh vực của tỉnh.

- Quy hoạch vùng kinh tế phải gắn với xây dựng các khu phòng thủ then

chốt, các cụm chiến đấu liên hoàn, các xã (phƣờng) chiến đấu trên địa

bàn của các tỉnh.

- Phân bổ lại dân cƣ, tổ chức lao động phải gắn với tổ chức xây dựng và

điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lại lực lƣợng quốc phòng, an ninh trên địa bàn;

phù hợp với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch phòng thủ

bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có biển, đảo là ở đó có dân và có

lực lƣợng quốc phòng, an ninh để bảo vệ cơ sở kinh tế, bảo vệ Tổ quốc.

Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển đảo sẽ

phát huy sức mạnh của từng lĩnh vực, kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh

tổng hợp, quy tụ mọi nguồn lực, lực lƣợng trong tỉnh, trong nƣớc và quốc tế

nhằm hoàn thành thắng lợi mục tiêu của chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội

đến năm 2020.

1.2.4.2. Phát triển kinh tế gắn với nâng cao sức mạnh bảo vệ biển đảo

29

địa phương

Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cƣờng sức mạnh bảo vệ

biển đảo của tỉnh là sự phát triển kinh tế đến đâu phải góp phần nâng cao sức

mạnh quốc phòng - an ninh đến đó. Các lực lƣợng tham gia phát triển kinh tế

phát triển đến đâu thì lực lƣợng dân quân, tự vệ sẽ phải đƣợc phát triển tới đó.

Những kết quả của các hoạt động kinh tế cần phải coi là thành quả chung của

các lực lƣợng này và cần có đãi ngộ xứng đáng cho họ.

Đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội không chỉ nhằm phục vụ

phát triển kinh tế - xã hội, mà còn phải tính đến khả năng đáp ứng nhu cầu

quốc phòng - an ninh. Ngƣợc lại, xây dựng các công trình quốc phòng - an

ninh cũng phải chú ý đến khả năng phục vụ sản xuất và đời sống… Bảo đảm

tính “lƣỡng dụng” trong mỗi công trình đƣợc xây dựng.

Xây dựng các cơ sở, kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng khắp với xây

dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kĩ thuật và hậu phƣơng vững chắc

để sẵn sàng đối phó khi có chiến tranh xâm lƣợc.

1.2.4.3. Bảo vệ biển đảo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển

kinh tế; coi bảo vệ các hoạt động kinh tế là mục tiêu

Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất của đất nƣớc cũng nhƣ

các địa phƣơng. Do đó, các hoạt động bảo vệ an ninh biển đảo phải trực tiếp

phục vụ cho các hoạt động phát triển kinh tế. Về nguyên tắc, các hoạt động

kinh tế phát triển đến đâu, các hoạt động bảo vệ an ninh biển đảo phải phát

triển đến đó.

Ngày nay, mặc dù phƣơng thức tiến hành chiến tranh đã có nhiều thay

đổi nhƣng để bảo vệ an ninh biển đảo vẫn phải dựa vào nhân dân. Các địa

phƣơng cần sớm xây dựng qui hoạch, kế hoạch từng bƣớc đƣa dân ra vùng

ven biển và các tuyến đảo gần trƣớc để có lực lƣợng xây dựng căn cứ hậu

30

phƣơng, bám trụ phát triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một cách vững chắc.

Về lâu dài, tất cả các hải đảo của ta đều phải có dân còn để khẳng định chủ

quyền quốc gia theo luật pháp quốc tế.

Để bảo vệ an ninh biển đảo, nhà nƣớc cần sớm có cơ chế, chính sách

thoả đáng động viên, khích lệ dân ra đảo bám trụ làm ăn lâu dài. Phát triển

các loại hình dịch vụ trên biển, tạo điều kiện cho dân bám trụ, sinh sống và

làm ăn. Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn

kinh tế ở vùng biển với các tỉnh bạn.

Chƣơng trình đánh bắt xa bờ không chỉ là chƣơng trình phát triển kinh

tế, mà cần đƣợc coi là một hình thức kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ an

ninh biển đảo. Thông qua chƣơng trình này, các tỉnh vừa phải phát triển đƣợc

kinh tế biển; vừa phải xây dựng đƣợc lực lƣợng dân quân biển, bộ đội biên

phòng, cảnh sát biển, kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt động

vi phạm chủ quyền biển, đảo của nƣớc ta.

Xây dựng phƣơng án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở vùng

biển đảo của tỉnh. Đầu tƣ xây dựng lực lƣợng nòng cốt và thế trận phòng thủ

trên biển đảo, trƣớc hết là phát triển và hiện đại hoá lực lƣợng tuần tra trên

biển để đủ sức mạnh canh giữ, bảo vệ vùng biển đảo.

1.2.4.4. Kết hợp khai thác, sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế

và bảo vệ an ninh biển đảo

Để bảo đảm tốt các nguồn lực cho phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh

biển đảo Lãnh đạo tỉnh đã tập trung chỉ đạo khai thác các nguồn lực cho cả

phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo. Cụ thể là:

Một là, kết hợp trong công nghiệp. Ngay từ khâu quy hoạch bố trí các

đơn vị kinh tế của ngành công nghiệp một cách hợp lí trên các địa bàn của

tỉnh, quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển, thực hiện

31

CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Tập trung đầu tƣ một số ngành công nghiệp liên quan đến quốc phòng

nhƣ: Cơ khí chế tạo, đóng tàu, sửa chữa tàu thuyền, sản xuất trang thiết bị, đồ

ăn cho ngƣời đi biển… vừa đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho phát triển

kinh tế, vừa có thể đáp ứng nhu cầu của các lực lƣợng bảo vệ biển đảo.

Các địa phƣơng cần mở rộng liên doanh, liên kết, chuyển giao công

nghệ giữa ngành công nghiệp với các địa phƣơng khác, với các doanh nghiệp

của trung ƣơng và nƣớc ngoài nhằm huy động các nguồn lực tốt nhất, sản

xuất các sản phẩm có chất lƣợng tốt nhất nhằm thực hiện tốt nhất cả hai mục

tiêu: phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo.

Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp của tỉnh phục vụ thời chiến;

thực hiện dự trữ chiến lƣợc các nguyên, nhiên, vật liệu quý hiếm cho sản xuất

quân sự.

Hai là, kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp. Việc kết hợp này phải

nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển đảo và lực lƣợng lao

động để phát triển đa dạng các ngành trong nông, lâm, ngƣ nghiệp theo hƣớng

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Kết hợp trong nông, lâm, ngƣ nghiệp phải gắn với việc giải quyết tốt các

vấn đề xã hội nhƣ xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ,

đền ơn đáp nghĩa, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng

nông thôn mới văn minh, hiện đại. Bảo đảm an ninh lƣơng thực và an ninh

nông thôn, góp phần tạo thế trận phòng thủ “thế trận lòng dân” vững chắc. Đây

là cơ sở đảm bảo lâu dài nguồn nhân lực vừa cho phát triển kinh tế, vừa bảo vệ

an ninh biển đảo.

Phải kết hợp gắn việc động viên đƣa dân ra lập nghiệp ở các đảo để xây

dựng các làng xã, huyện đảo vững mạnh với chú trọng đầu tƣ xây dựng phát

triển các hợp tác xã, các đội tàu thuyền đánh cá xa bờ… Đây là lực lƣợng phát

32

triển kinh tế, khẳng định chủ quyền biển đảo quốc gia nhƣng đồng thời cũng

có khả năng hỗ trợ tích cực các lực lƣợng vũ trang bảo vệ biển đảo trong

trƣờng hợp chiến sự xảy ra.

Ba là, kết hợp trong giao thông vận tải, bưu điện, y tế, khoa học - công

nghệ, giáo dục và xây dựng cơ bản. Phát triển hệ thống giao thông vận tải

đồng bộ cả đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng không, đƣờng thuỷ, đáp ứng nhu cầu

đi lại, vận chuyển hàng hoá trong tỉnh và mở rộng giao lƣu cả trong nƣớc với

nƣớc ngoài.

Trong xây dựng các mạng đƣờng bộ, cần chú trọng mở rộng, nâng cấp

các tuyến đƣờng trục Bắc – Nam với tuyến đƣờng trục dọc Trƣờng Sơn,

đƣờng Hồ Chí Minh. Từ các tuyến đƣờng này, phải phát triển các tuyến

đƣờng ngang nối liền giữa các tuyến trục dọc với nhau và phát triển đến các

huyện xã trong cả nƣớc, nhất là đến các vùng cao, vùng sâu, miền núi biên

giới, xây dựng các tuyến đƣờng vành đai biên giới.

Trong thiết kế, thi công các công trình giao thông vận tải, đặc biệt là

các tuyến vận tải chiến lƣợc, phải tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và

thời chiến, nhất là cho các phƣơng tiện cơ động của lực lƣợng vũ trang có

trọng tải và lƣu lƣợng vận chuyển lớn, liên tục. Phải có kế hoạch làm nhiều

đƣờng tránh ở các nút giao thông quan trọng, làm các bến phà, bến vƣợt ngầm

bên cạnh các cây cầu, làm đƣờng hầm xuyên núi, cải tạo các hang động có

sẵn làm kho trạm, nơi trú quân khi cần.

Ở vùng đồng bằng ven biển, đi đôi với phát triển hệ thống đƣờng bộ,

cần chú trọng cải tạo, phát triển đƣờng sông, đƣờng biển, xây dựng các cảng

sông, cảng biển, bảo đảm đi lại, bốc dỡ thuận tiện.

Việc mở rộng nâng cấp sân bay phải chú ý cả sân bay ở tuyến sau, ở

sâu trong nội địa, sân bay dã chiến và có kế hoạch sử dụng cả đƣờng cao tốc

làm đƣờng băng cho máy bay khi cần thiết trong chiến tranh.

33

Xây dựng kế hoạch động viên giao thông vận tải cho thời chiến.

Trong bưu chính viễn thông, phải kết hợp chặt chẽ giữa ngành bƣu điện

tỉnh với ngành thông tin của Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh, công an để phát triển

hệ thống thông tin hiện đại, đảm bảo nhanh chóng, chính xác, an toàn thông

tin liên lạc phục vụ lãnh đạo chỉ huy, điều hành trong mọi tình huống, cả thời

bình và thời chiến, bảo vệ hệ thống thông tin liên lạc một cách vững chắc

trong mọi tình huống

Khi hợp tác với nƣớc ngoài về xây dựng, mua sắm các thiết bị thông

tin điện tử phải cảnh giác cao, lựa chọn đối tác, phải đƣợc bảo đảm bí mật và

có khả năng chống nhiễu cao, phòng chống chiến tranh thông tin điện tử có

phƣơng án chống âm mƣu phá hoại của địch. Xây dựng kế hoạch động viên

thông tin liên lạc cho thời chiến.

Trong xây dựng cơ bản. Khi xây dựng bất cứ công trình nào, ở đâu, qui

mô nào cũng phải tính đến yếu tố tự bảo vệ và có thể chuyển hoá phục vụ

đƣợc cho cả quốc phòng, an ninh, cho phòng thủ tác chiến và phòng thủ dân

sự, phải xây dựng các công trình ngầm, phải tính đến khả năng bảo vệ và di

dời khi cần thiết. Hạn chế xâm phạm các địa hình có giá trị về phòng thủ quân

sự, quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc.

Đối với các xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, cần kết hợp trong

nghiên cứu, sáng chế, chế tạo những vật liệu siêu bền, có khả năng chống

xuyên, chống mặn, chống bức xạ, dễ vận chuyển phục vụ các công trình

phòng thủ, công sự trận địa của lực lƣợng vũ trang và của khu vực phòng thủ

tỉnh, thành phố.

Khi cấp phép đầu tƣ xây dựng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các đối

tác nƣớc ngoài, phải có sự tham gia ý kiến của cơ quan quân sự có thẩm

quyền.

Trong khoa học và công nghệ, giáo dục. Phải phối hợp chặt chẽ và toàn

34

diện hoạt động giữa các ngành khoa học và công nghệ then chốt, nghiên cứu

ban hành chính sách các tổ chức cá nhân có đề tài khoa học, dự án công nghệ

và sản xuất các sản phẩm có ý nghĩa vừa phục vụ cho nhu cầu CNH, HĐH

của tỉnh vừa phục vụ nhu cầu quốc phòng, an ninh bảo vệ biển đảo.

Coi trọng, giáo dục và bồi dƣỡng nhân lực, đào tạo nhân tài của tỉnh,

đáp ứng cả sự nghiệp xây dựng phát triển kinh tế, xã hội, cả quốc phòng, an

ninh cho các đối tƣợng, đặc biệt là trong các nhà trƣờng .

Trong lĩnh vực y tế. Phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa ngành y tế dân sự

với y tế quân sự trong nghiên cứu, ứng dụng, trong đào tạo nguồn nhân lực,

trong khám chữa bệnh cho nhân dân, bộ đội và cho ngƣời nƣớc ngoài. Xây

dựng mô hình quân dân y kết hợp trên các địa bàn, đặc biệt là ở biên giới, hải

đảo; xây dựng kế hoạch động viên y tế dân sự cho quân sự khi có chiến tranh

xảy ra; phát huy vai trò của y tế quân sự trong phòng chống, khám chữa bệnh

cho nhân dân thời bình và thời chiến.

Bốn là, kết hợp trong thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo biển đảo. Tổ

chức biên chế và bố trí lực lƣợng vũ trang phải phù hợp với điều kiện kinh tế

và nhu cầu phòng thủ của tỉnh. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nhân lực,

tài chính, cơ sở vật chất trong huấn luyện, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu

của lực lƣợng vũ trang.

Khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của quân đội, công an cho

phát triển kinh tế, xã hội. Xây dựng, phát triển các khu kinh tế quốc phòng,

các khu kinh tế quốc phòng trên địa bàn ven biển, giúp nhân dân ổn định sản

xuất, đời sống, phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên địa

bàn.

Phát huy tốt vai trò tham mƣu của các cơ quan quân sự, công an các

cấp trong việc thẩm định, đánh giá các dự án đầu tƣ, nhất là các dự án có vốn

35

nƣớc ngoài.

Năm là, kết hợp trong hoạt động đối ngoại. Mở rộng hoạt động đối

ngoại phải quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, giữ

gìn bản sắc dân tộc, giải quyết các tranh chấp bằng thƣơng lƣợng hoà bình.

Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, phải kết hợp từ khâu lựa chọn đối tác.

Phải lựa chọn đƣợc đối tác có ƣu thế chế ngự cạnh tranh với các thế lực mạnh

bên ngoài, làm hạn chế sự chống phá của các thế lực thù địch.

Kết hợp trong việc phân bổ đầu tƣ vào ngành nào, địa bàn nào có lợi

cho phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh của tỉnh. Khắc phục tình

trạng chỉ thấy lợi ích kinh tế trƣớc mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài và

nhiệm vụ bảo vệ biển đảo.

Phát huy vai trò của cán bộ, nhân viên sở ngoại vụ trong việc quảng bá

sản phẩm hàng hoá, truyền thống của tỉnh; đồng thời nắm vững đƣờng lối đối

ngoại, đƣờng lối quân sự của nƣớc ngoài cung cấp tình hình giúp Lãnh đạo

tỉnh hoạch định chính sách đối ngoại đúng đắn.

1.2.4.5. Đảm bảo hậu cần quân đội trên địa bàn tỉnh

Để thực hiện tốt phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo cùng

với sự chỉ đạo trực tiếp của Quân khu, Lãnh đạo tỉnh đã chỉ đạo thành lập các

đơn vị dự bị động viên, lực lƣợng dân quân biển, các kho trạm tiếp tế xăng

dầu, các phƣơng tiện giao thông thủy bộ, lƣơng thực thực phẩm, trang thiết bị

y tế... chuẩn bị sẵn sàng khi có tình bất cứ tình huống nào xảy ra.

1.2.4.6. Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo trong các

hoạt động điều hành của hệ thống chính quyền tỉnh

Do chức năng riêng, trong tỉnh sẽ có những cơ quan, ban ngành chuyên

chăm lo phát triển kinh tế hoặc chuyên chăm lo bảo vệ an ninh biển đảo. Do

36

đó, để gắn kết hoạt động của các cơ quan này, tức là phát triển kinh tế gắn với

bảo vệ an ninh biển đảo phải thông qua hoạt động điều hành của hệ thống

chính quyền tỉnh.

Đó là các hoạt động đảm bảo việc làm và đời sống cho ngƣời dân. Hoạt

động này vừa có ý nghĩa trong phát triển kinh tế - xã hội, vừa góp phần giữ

yên lòng dân, có thể huy động sức mạnh của họ trong xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Hoạt động chống buôn lậu, buôn hàng quốc cấm, làm hàng giả, tham

nhũng, rửa tiền… vừa trực tiếp góp phần phát triển kinh tế, vừa trực tiếp ngăn

chặn nguy gây mất an ninh trên đất liền và trên biển đảo.

1.2.4.7. Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo trong huy

động phương tiện và lực lượng dự bị động viên, dân quân biển.

Khi có tình huống xảy ra trên biển, để bảo đảm giử vửng độc lập chủ

quyền toàn vẹn lãnh thổ cùng với lực lƣợng chính quy nhƣ Hải quân, Biên

phòng, Cảnh sát biển, chính quyền sẻ phải huy động phƣơng tiện, lực lƣợng

dân quân tự vệ, dự bị động viên ... các lực lƣợng này đã góp phần không nhỏ

vào thắng lợi chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Để bảo đảm cho lực lƣợng này hoạt động thì chính quyền phải chi trả

cho chủ phƣơng tiện huy động và lực lƣợng dân quân tự vệ, dự bị động viên

theo luật định. Do đó chính quyền tỉnh muốn đảm bảo cho hoạt động này

đƣợc tốt một mặt cần phải trích ngân sách địa phƣơng của tỉnh để đảm bảo chi

trả, một mặt cần phải tạo điều kiện cho các phƣơng tiện lực lƣợng này vừa lao

động sản xuất tạo ra của cải vật chất cho tỉnh nhà. Chính vì vậy mà chính

quyền tỉnh cần phải phát triển kinh tế để có kinh phí bảo đảm cho huy động

phƣơng tiện và lực lƣợng vừa sử dụng phƣơng tiện và lực lƣợng đó bảo đảm

an ninh, an toàn cho phát triển kinh tế.

1.3 Kinh nghiệm nƣớc ngoài và các tỉnh khác đối với phát triển kinh tế

37

gắn với bảo vệ an ninh biển đảo của Quảng Bình

1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản

Là một nƣớc thua trận và bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh thế gới lần

thứ Hai, Nhật Bản không chú trọng phát triển quốc phòng mà chỉ tập trung

xây dựng đất nƣớc phát triển kinh tế và thành quả đạt đƣợc là một quốc gia

hùng mạnh có nền kinh tế lớn thứ 3 trên thế gới với nền khoa học kỹ thuật

hiện đại cùng với các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia lan tỏa trên khắp thế

giới. Theo Hiếp pháp năm 1946, Nhật Bản không đƣợc phép xây dựng Quân

đội và cũng không đƣợc thành lập Bộ Quốc phòng mà chỉ đƣợc tổ chức Cục

phòng vệ nên Nhật Bản đƣợc nhìn nhận là “quốc gia không bình thƣờng”,

theo đó sức mạnh quân sự không tƣơng xứng với tiềm lực kinh tế. Từ khi xảy

ra cuộc tranh chấp chủ quyền giữa Nhật Bản và Trung Quốc đối với đảo

Senkaky/Điều Ngƣ, Nhật Bản đã có những thay đổi nhanh chóng trong chính

sách của đất nƣớc nhằm bảo vệ chủ quyền an ninh biển đảo.

Ngày 1/7/2014, Nội các nƣớc này đƣa ra lời giải thích mới về nội dung

Điều 9 của Hiến pháp điều đó đã ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử Nhật Bản

nhƣ là cột mốc quan trọng trong quá trình điều chỉnh chính sách quốc phòng

để trở thành một “quốc gia bình thƣờng”, theo đó Lực lƣợng phòng vệ Nhật

Bản sẽ tham gia sứ mệnh phòng thủ tập thể bên ngoài lãnh thổ quốc gia.

Nhật Bản và Mỹ có thể thành lập một lực lƣợng quân sự chung Nhật -

Mỹ, cho phép Nhật Bản xuất khẩu vủ khí, thể hiện ảnh hƣởng trực tiếp trong

các vấn đề quốc tế an ninh quan trọng ở Đông Á. Với những động thái này,

cùng với sự mở rộng và phát triển của lực lƣợng quân sự, sự điều chỉnh chính

sách quốc phòng của Nhật Bản sẽ có tác động tích cực trong việc kiềm chế và

ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông, hoặc đòi chủ

quyền phi pháp trên Biển Hoa Đông.

Để bảo vệ an ninh biển đảo, Nhật Bản đã dựa trên năng lực của nền

38

kinh tế và trình độ khoa học - công nghệ cao của đất nƣớc. Do đó, trong mấy

năm gần đây, vũ khí, trang bị của quân đội Nhật Bản đã đƣợc cải thiện nhanh

chóng, buộc các đối thủ phải rất cẩn trọng trong việc gây sự với Nhật Bản.

Cũng nhờ đó, Nhật Bản có điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát triển kinh tế -

xã hội.

1.3.2. Kinh nghiệm của Philippines

Trƣớc sự gây hấn và xâm lấn biển đảo ngày càng tăng của Trung Quốc,

là một quốc gia nhỏ bé kinh tế kém phát triển, luôn bị tàn phá bởi thiên tai,

Philippineses đã có những chính sách để phát triển kinh tế và bảo vệ chủ

quyền của mình nhƣ sau:

Tuyên truyền cho nhân dân đặc biệt là ngƣ dân biết chính sách bành

trƣớng của Trung Quốc, đầu tƣ các trang thiết bị cho ngƣ dân, hỗ trợ thông tin

liên lạc, xây dựng và nâng cấp các cảng biển, các công trình công cộng để vừa

tạo điều kiện cho ngƣ dân, vừa củng cố tiềm lực quốc phòng. Tranh thủ các

nguồn lực của nƣớc ngoài, tập trung các nguồn lực kinh tế xã hội trong nƣớc

để phát triển kinh tế. Mặc dù có thời điểm tranh chấp biển đảo giữa Trung

Quốc và Philippines rất quyết liệt nhƣng chính phủ vẫn động viên ngƣ dân

bám biển làm ăn và quân đội hỗ trợ họ tối đa.

Đồng thời, để bảo vệ an ninh biển đảo, Philippines đã tìm cách tranh

thủ, huy động sức mạnh đoàn kết của các nƣớc trong khối ASEAN, quốc tế

hóa vấn đề tranh chấp biển đảo mà Trung Quốc đang gây hấn để tận dụng sức

mạnh quốc tế mang lại hiệu quả cao trong đấu tranh đòi lại chủ quyền.

Liên minh liên kết với các quốc gia có tiềm lực quân sự và kinh tế

mạnh nhƣ Mỹ, Nhật, Australia... cho Mỹ đặt các căn cứ quân sự trên lãnh thổ,

tổ chức các cuộc tập trận cùng với Mỹ và các quốc gia khác để tạo sức mạnh

đối trọng với Trung Quốc.

Tăng cƣờng ngân sách quốc phòng để mua sắm trang thiết bị quân sự

39

nhƣ tàu chiến, máy bay, tên lửa... từ các nƣớc có nền công nghiệp quốc phòng

phát triển để tăng cƣờng tiền lực quân sự nhằm nâng cao sức mạnh bảo vệ chủ

quyền đất nƣớc. Kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Ủng hộ, chia sẻ và góp

chung tiếng nói trên trƣờng quốc tế với các quốc gia bị gây hấn bởi Trung

Quốc nhƣ Nhật Bản, Việt Nam.

1.3.3. Chính sách của Trung Quốc

Thời gian gần đây, những điều chỉnh trong chiến lƣợc của Trung Quốc

đối với Biển Đông và thế giới đã có những thay đổi rõ rệt. Điều này dựa trên

mối liên hệ giữa chính sách Biển Đông của Trung Quốc với những diễn biến

mới trong bối cảnh quốc tế, chính trị nội bộ của Trung Quốc, đặc biệt là gắn

nó với chiến lƣợc an ninh - đối ngoại của Bắc Kinh hiện nay. Do đó, chiến

lƣợc “giấu mình chờ thời” hay “ ngoại giao hài hòa” nhƣờng chỗ cho chiến

lƣợc an ninh và đối ngoại mang tính khẳng định hơn , chủ động và hiếu chiến

hơn nhằm gây sức ép với các nƣớc tranh chấp trong khu vực.

Thay đổi cơ bản nhất trong môi trƣờng chiến lƣợc quốc tế là việc sức

mạnh tổng hợp của Trung Quốc tăng mạnh làm cho khoảng cách kinh tế, quân

sự và quốc phòng giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng thu hẹp, cán cân quyền

lực kinh tế và quân sự chuyển dịch theo hƣớng có lợi cho Trung Quốc. Trung

Quốc vƣơn lên mạnh mẽ vƣợt Đức và Nhật, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai

trên thế giới, trong lúc Mỹ suy yếu tƣơng đối sau cuộc khủng hoảng tài chính

- kinh tế, gặp khó khăn cả bên trong và bên ngoài. Một phần nguồn lực kinh

tế đƣợc đầu tƣ để hiện đại hóa quốc phòng, đặc biệt là hải quân. Đô đốc Mike

Mullen, Chủ tịch Hội đồng Tham mƣu trƣởng liên quân Mỹ nhận định rằng, ý

đồ chiến lƣợc đằng sau sự phát triển các khả năng quân sự mới của Trung

Quốc dƣờng nhƣ tập trung vào lực lƣợng hải quân Mỹ và căn cứ quân sự của

Mỹ ở khu vực Châu Ắ - Thái Bình Dƣơng.

Thực lực kinh tế hùng mạnh, đặc biệt là kho dự trữ ngoại hối to lớn và

40

vị thế hàng đầu trong nền thƣơng mại quốc tế cho phép Trung Quốc có khả

năng tác động mạnh đến kinh tế thế giới, không những thoát khỏi thế phụ

thuộc vào Mỹ để phát triển mà còn đƣa siêu cƣờng này vào một tình thế “phụ

thuộc sống còn về kinh tế”. Đó là lý do tại sao, Trung Quốc ngày càng tỏ ra tự

tin, ngạo mạn, không còn “giấu mình chờ thời”, mà chủ động phô diễn sức

mạnh về quân sự và sẵn sàng nói không với Mỹ trên nhiều vấn đề, xâm phạm

chủ quyền và gây hấn với Việt Nam, Nhật Bản và Philippines. Trung Quốc

tận dụng mọi cơ hội để thay đổi luật chơi, gạt bỏ vai trò chủ đạo của Mỹ. Hiện

nay, Trung Quốc là một đầu tàu kinh tế, là một bên chủ yếu nắm giữ chìa

khóa đối với nhiều vấn đề chính trị tại khu vực và đang muốn chứng tỏ vai trò

là cƣờng quốc quân sự châu Á duy nhất tại Đông Á, thách thức vai trò siêu

cƣờng của Mỹ ở khu vực.

Lợi dụng việc Mỹ sa lầy trong cuộc chiến ở Áp-ga-ni-xtan và I-rắc, bối

rối trong cách ứng phó với CHDCND Triều Tiên và I-ran, bận rộn xử lý vấn

đề I-xra-en và Pa-le-xtin, tiêu diệt nhà nƣớc hồi giáo cực đoan IS ở Irắc và

Xêri, tranh chấp địa chính trị với Nga trong cuộc nội chiến ở Ucraina, Trung

Quốc tìm cách từng bƣớc lấn lƣớt Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng,

mở rộng quan hệ với ASEAN và các nƣớc khác trong khu vực. Bằng cách đó,

Trung Quốc đã nâng cao vai trò và vị thế của mình ở khu vực châu Á - Thái

Bình Dƣơng một cách tƣơng đối so với vai trò và vị thế của Mỹ và Nhật Bản.

Sự kiện đƣa giàn khoan Hải Dƣơng 981 của Trung Quốc vào sâu trong thềm

lục địa và vùng đặc quyền kinh tế, cho các loại tàu đâm húc làm hỏng tàu

kiểm ngƣ, tàu cảnh sát biển, đâm chìm tàu cá của Việt Nam coi thƣờng luật

pháp quốc tế đã phần nào minh chứng cho quan điểm bá quyền đó của Trung

Quốc.

Thực tế trên cho thấy, Trung Quốc rất quan tâm và thực hiện rất tốt kết

hợp phát triển kinh tế với việc nâng cao sức mạnh quốc phòng, đặc biệt là sức

41

mạnh trên biển.

1.3.4. Chính sách của Mỹ

Chính sách của Mỹ liên quan đến Biển Đông là nhất quán kể từ khi

đƣợc tuyên bố chính thức vào năm 1995. Những lợi ích của Mỹ ở khu vực

này suy yếu khi Trung Quốc với chiêu bài viện trợ kinh tế và quân sự cho một

vài quốc gia ASEAN, chi phối đƣợc các nƣớc đó ở chừng mực nhất định.

Trong bối cảnh đó, ngƣời Mỹ đã tạm gác lại các yêu sách tranh chấp ở Biển

Đông. Khi tình hình thay đổi, Mỹ đã phản ứng một cách thực dụng và tuân

thủ với chính sách lâu dài của mình.

Mỹ chủ trƣơng “không ủng hộ yêu sách chủ quyền nào” ở Biển Đông;

coi việc duy trì tự do hàng hải là lợi ích quốc gia cơ bản của mình. Mỹ yêu

cầu các quốc gia không hạn chế các hoạt động khảo sát quân sự trong vùng

đặc quyền kinh tế của các quốc gia đó; yêu cầu Trung Quốc minh bạch về chi

tiêu Quốc Phòng. Trong khi nhất quán với chính sách tuyên bố năm 1995, khi

căng thẳng gia tăng trong vòng hai năm qua, Mỹ đã bổ sung quan điểm phản

ánh sự can thiệp sâu hơn của Mỹ vào vấn đề này. Mỹ đã phê bình yêu sách

của Trung Quốc bởi vì yêu sách này dựa trƣớc tiên trên cơ sở về sự hiện diện

lịch sử ở Biển Đông hơn là luật và tập quán quốc tế. Mỹ cũng thể hiện sự sẵn

sàng khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán giữa các bên yêu

sách ở Biển Đông. Bắt đầu vào năm 2008, chính sách đối đầu của Trung Quốc

ở Biển Đông đã châm ngòi cho phản ứng của Mỹ và dần dần leo thang khi

Trung Quốc tiến hành các hoạt động đƣợc hiểu một cách rộng rãi là một chiến

dịch cƣỡng ép các bên có lợi ích liên quan khác. Ban đầu, Mỹ có vẻ do dự để

đƣa Biển Đông vào chƣơng trình nghị sự của Mỹ với Trung Quốc hoặc các

quốc gia Đông Nam Á. Dần dần, vấn đề biển Đông trở nên báo động trong

mấy năm qua do các căng thẳng phát sinh trong một khu vực nơi mà Mỹ có

các lợi ích an ninh và chính sách đối ngoại quan trọng. Với việc hạ đặt giàn

42

khoan Hải Dƣơng 981 vào thềm lục địa của Việt Nam, gây hấn với Nhật Bản,

Philippines, Việt Nam, ngăn chặn máy bay tuần tra của Mỹ, Trung Quốc đã

tạo cớ cho Mỹ bƣớc chân vào Biển Đông.

Thực hiện chính sách xoay trục sang châu Á - Thái Bình Dƣơng nhằm

kiềm chế sự phát triển ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc. Mỹ tranh thủ cơ

hội Trung Quốc gây hấn với Việt Nam, Nhật Bản và Philippineses để thành

lập các liên minh quân sự và kinh tế chống Trung Quốc. Tranh chấp Biển

Đông là cái cớ để Mỹ thực hiện ý đồ kiểm chế Trung Quốc. Việt Nam cần

cảnh giác cần có chính sách ngoại giao đúng đắn nhằm bảo vệ chủ quyền của

mình tránh để là một quân cờ trong bàn cờ chiến lƣợc của các nƣớc lớn.

Đối với nƣớc Mỹ, các hoạt động quân sự bao giờ cũng xuất phát từ lợi

ích kinh tế. Vì vậy, bạn bè hay đối thủ của nƣớc Mỹ cũng chỉ là tạm thời.

Trên cơ sở sự đảm bảo về lợi ích kinh tế, nƣớc Mỹ lại có điều kiện để không

ngừng củng cố sức mạnh quân sự.

1.3.5. Kinh nghiệm của các tỉnh khác

Trên bình diện vĩ mô, chúng tôi cho rằng kinh tế Nghệ An và Đà Nẳng

năm 2013 đang trên đà phục hồi và tăng trƣởng trở lại. Khó khăn đã dần dần

đƣợc khắc phục. Bế tắc đã đƣợc tháo gỡ. Đời sống của nhân dân vẫn giữ ổn

định do giá cả giảm, tiền lƣơng tăng. Nguyên nhân yếu kém đã đƣợc nhận

thức và từng bƣớc khắc phục. Các nguồn lực đã đƣợc khai thông. Những rào

cản về thể chế đã dần đƣợc gỡ bỏ.

Trên cơ sở đó, Đảng bộ và Chính quyền của 2 tỉnh đã nghiên cứu khai

thác có hiệu quả những tiềm năng và lợi thế của vùng ven biển và hải đảo

phục vụ phát triển du lịch gắn với đảm bảo an ninh quốc phòng trên biển và

hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở xác định rõ các định hƣớng phát triển chủ

yếu của du lịch biển, đảo trong mối quan hệ với quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh và các mục tiêu chiến lƣợc về phát triển kinh tế biển.

43

Đồng thời xác định mục tiêu, định hƣớng và giải pháp phát triển du lịch biển,

đảo trên cơ sở phát huy vai trò, thế mạnh tài nguyên du lịch biển, sử dụng

hiệu quả và tiết kiệm các nguồn lực về du lịch biển, đẩy nhanh tốc độ phát

triển của du lịch nói chung, du lịch biển, đảo nói riêng.

Tăng cƣờng đầu tƣ về vốn để đóng các tàu đánh cá công suất lớn, mua

sắm ngƣ cụ để cho ngƣ dân vƣơn khơi bám biển. Tuyên truyền cho nhân dân

hiểu chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về biển và pháp luật về

biển để góp phần bảo vệ an ninh biển đảo.

Củng cố tiền lực quốc phòng, chủ động tích cực huấn luyện lực lƣợng

dân quân tự vệ biển, tổ chức diển tập bảo vệ biển đảo.Xây dựng các trung tâm

cứu hộ, hỗ trợ dịch vụ hậu cần cho ngƣ dân.

1.3.6. Bài học kinh nghiệm đối với Quảng Bình

Với đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mong muốn là bạn, là đối tác

tin cậy với tất cả các nƣớc trong cộng đồng quốc tế, về vấn đề biển đông, chủ

trƣơng nhất quán của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam là khẳng định chủ quyền

của Việt nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa. Đồng thời, phát

triển kinh tế biển cũng là định hƣớng quan trọng của đất nƣớc ta.

Là một tỉnh có hơn 100 km bờ biển, Quảng Bình có trách nhiệm với đất

nƣớc không chỉ trong phát triển kinh tế, mà cả bảo vệ an ninh biển đảo. Kết

hợp phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo đang là yêu cầu bức thiết

với Quảng Bình hiện nay. Từ thực tiễn chính sách của các nƣớc trên thế giới

và của các tỉnh khác, để bảo đảm cho quá trình phát triển kinh tế gắn với bảo

vệ an ninh biển đảo đƣợc diễn ra một cách đồng bộ và có hiệu quả thì bài học

kinh nghiệm đối với Quảng Bình đó là:

Một là, tranh thủ sự hỗ trợ, lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ƣơng và các bộ,

ngành có liên quan tập trung cho đầu tƣ phát triển kinh tế; phải có sự phối hợp

chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong lãnh đạo và phát triển kinh tế biển.

44

Phát huy mạnh mẽ vai trò các cơ quan tham mƣu, sự phối kết hợp chặt chẽ

của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Tăng cƣờng công

tác kiểm tra, giám sát

Tập trung đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở vật chất,

ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cho phát triển kinh tế biển.

Phát huy thế mạnh của các ngành kinh tế có đƣợc mà thiên nhiên ƣu đãi nhƣ

du lịch, dịch vụ, thủy sản...

Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn

vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời của Tổ quốc và quyền chủ quyền, quyền tài

phán thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; bảo vệ lợi ích quốc gia

trên các vùng biển, đảo; duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.

Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại

giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lý bảo vệ biển, đảo. Phát triển

kinh tế biển gắn liền với quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo và xây dựng thế

trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.

Ba là, xây dựng lực lƣợng vũ trang, nòng cốt là hải quân, biên phòng,

dân quân tự vệ biển mạnh làm chỗ dựa vững chắc cho ngƣ dân cùng các thành

phần kinh tế sản xuất và khai thác tài nguyên biển.

Với chiến lƣợc bảo vệ Quốc Phòng - An Ninh của đất nƣớc, cách

phòng thủ tốt nhất là tấn công. Do đó, chúng ta không để chủ quan bị động

trong mọi tình huống mà phải chủ động bành trƣớng (học theo Trung Quốc)

và đánh đòn phủ đầu (học theo Mỹ), (Lịch sử đã chứng minh Lý Thƣờng Kiệt

đã đem quân chủ động phá các thành trì, cơ sở hậu cần của nhà Tống trƣớc

lúc chúng xâm lƣợc nƣớc ta). Muốn làm đƣợc điều này thì phải xây dựng đất

nƣớc có nền kinh tế phát triển có tiềm lực quốc phòng vững mạnh sánh vai

45

với các cƣờng quốc trên thế giới.

CHƢƠNG 2:

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Phƣơng pháp luận

Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận để nghiên cứu là duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử.

Phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đòi hỏi việc

nghiên cứu phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình

trƣớc hết phải kế thừa đƣợc những kết quả nghiên cứu của những ngƣời đi

trƣớc. Vì vậy, tác giả luận văn đã rất cố gắng trong việc tìm hiểu những tài

liệu khoa học viết về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo và các

46

công trình có liên quan. Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu, đặt trong

điều kiện mới, luận văn tiếp tục hoàn thiện khung khổ lý luận để phân tích các

vấn đề ở các chƣơng sau.

Sử dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác

giả luận văn đã xuất phát từ việc nghiên cứu hai phạm trù cơ bản của đề tài là

phát triển kinh tế và an ninh biển đảo; mối quan hệ giữa hai phạm trù đó. Trên

cơ sở đó, luận văn tập trung nghiên cứu, làm rõ bản chất, nội dung, điều kiện

thực hiện sự gắn kết giữa phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo

trên địa bàn tỉnh.

Phƣơng pháp luận đòi hỏi phải xây dựng khung khổ lý thuyết để nghiên

cứu nhƣng khung khổ đó cần đƣợc kiểm nghiệm bằng thực tiễn. Do đó, luận

văn đã nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia và địa phƣơng trong thực

hiện sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo để kiểm

nghiệm khung khổ lý thuyết đã đƣợc xây dựng; rút ra những bài học cho

Quảng Bình. Đồng thời, việc nghiên cứu sự gắn kết đó phải đặt trong các mối

quan hệ qua lại không chỉ giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh, mà còn với

các quan hệ chính trị, xã hội; quan hệ giữa Quảng Bình với cả nƣớc; quan hệ

trong nƣớc với quốc tế... Các quan hệ đó luôn đƣợc xem xét trong sự vận

động, biến đổi…

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đƣợc thể hiện trong nghiên cứu vấn

đề phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo mang tính phổ biến

không chỉ riêng một quốc gia nào mà đó là một hình thức phổ biến chung của

toàn thế giới và thể hiện mối quan hệ phức tạp của chúng giữa hoạt động phát

triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo và những nhân tố xung quanh

nó. Áp dụng quan điểm này cần phải xây dựng quan điểm toàn diện trong

hoạt động phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo, sử dụng đồng bộ

các phƣơng pháp, các biện pháp, các phƣơng tiện để giải quyết vấn đề. Thực

47

hiện chính sách dàn đều và chính sách có trọng điểm, vừa chú ý giải quyết về

mặt tổng thể vừa lựa chọn những vấn đề trọng tâm để tập trung giải quyết dứt

điểm tạo đà cho giải quyết những vấn đề khác

Nguyên lý về tính phát triển của thế giới đƣợc thể hiện qua sự vận

động, biến đổi không ngừng và đều có xu hƣớng phát triển, chuyển hóa. Đối

với hoạt động phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo phải nắm

đƣợc khuynh hƣớng vận động, biến đổi tƣơng lai của nó, đồng thời nhận thức

rỏ phát triển là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn, chiến thắng của cái mới

là vô cùng khó khăn từ đó đề ra những giải pháp cụ thể, từng công việc cụ thể

để tổ chức thực hiện.

Phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đòi hỏi việc

nghiên cứu phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình

không đƣợc xuất phát từ tình cảm, nguyện vọng của tác giả, mà phải xuất từ

những điều kiện khách quan và chủ quan, do các quy luật khách quan chi

phối. Tác giả cố gắng nghiên cứu một cách toàn diện nhƣng trong đó hết sức

quan tâm đến nhân tố bên trong, những quan hệ bản chất… vì nhân tố này giữ

vai trò quyết định.

2.2. Các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng để thực hiện luận văn

*Phân tích và tổng hợp

Phương pháp phân tích: Luận văn sử dụng phƣơng pháp phân tích trong

cả 4 chƣơng. Sử dụng phƣơng pháp phân tích có nghĩa là mọi vấn đề đặt ra đều

phải trả lời câu hỏi “tại sao”? Điều đó cho phép mọi vấn đề đều đƣợc hiều một

cách thấu đáo, cặn kẽ.

Ở chƣơng 1, để xây dựng khung khổ phân tích của đề tài, luận văn đã

phân tích nội dung rất nhiều công trình khoa học có liên quan. Từ đó, tác giả

luận văn đã nhận thức và kế thừa đƣợc những thành quả nghiên cứu trong lĩnh

vực này; thấy đƣợc những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu. Trong chƣơng

48

3, khung khổ lý luận và thực tiễn đã đƣợc sử dụng để phân tích thực trạng kết

hợp phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình trong những

năm vừa qua. Phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng ở chƣơng 4 để phân tích

những nhân tố mới ảnh hƣởng đến sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và bảo vệ

an ninh biển đảo và những lý do phải áp dụng các giải pháp để hoàn thiện hơn

nữa sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng

Bình trong thời gian tới.

Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở kết quả phân tích, phƣơng pháp tổng

hợp đƣợc sử dụng để kết nối giữa các mặt, các nhân tố… để có đƣợc cái nhìn

tổng thể về sự vật, hiện tƣợng.

Ở chƣơng 1, bằng phƣơng pháp tổng hợp, luận văn chỉ ra đƣợc những

thành tựu và hạn chế của các công trình nghiên cứu đã có. Đây là cơ sở quan

trọng để luận văn vừa kế thừa đƣợc các thành tựu, vừa tránh đƣợc sự trùng lặp

trong nghiên cứu.

Ở chƣơng 3, từ việc phân tích rất nhiều hiện tƣợng cụ thể về quan hệ

giữa phát triển kinh tế và an ninh biển đảo, luận văn đã sử dụng phƣơng pháp

tổng hợp để đƣa ra những đánh giá khái quát về tình hình phát triển kinh tế gắn

với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình; chỉ ra những thành tựu, hạn chế và

nguyên nhân. Đây là những căn cứ quan trọng để tác giả đƣa ra các quan điểm

và các giải pháp ở chƣơng 4.

Trong chƣơng 4, phƣơng pháp tổng hợp đƣợc sử dụng để đảm bảo các

giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và bảo vệ

an ninh biển đảo mang tính hệ thống, đồng bộ, không trùng lặp; đồng thời có

thể thực thi đƣợc trong thực tế.

* Lô gich và lịch sử

Phương pháp lô gich: Là phƣơng pháp nghiên cứu sự vật hiện tƣợng

49

bằng việc sử dụng hệ thống khái niệm, phạm trù và sử dụng sức mạnh của tƣ

duy để tìm ra các mối quan hệ bên trong, bản chất, các quy luật chi phối sự

vận động, phát triển của các sự vật, hiện tƣợng.

Phƣơng pháp này đã đƣợc sử dụng ở chƣơng 1 để xây dựng khung khổ

lý thuyết về sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo, từ

khái niệm đến nội dung và các nhân tố ảnh hƣởng. Ở chƣơng 3, phƣơng pháp

lô gich đƣợc sử dụng để phân tích sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo

vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình trong thời gian qua, thông qua việc bám sát

cơ sở lý luận ở chƣơng 1 để phân tích. Trong chƣơng 4, phƣơng pháp lô gich

để gắn kết lý luận ở chƣơng 1, những tồn tại, hạn chế ở chƣơng 3, những nhân

tố mới xuất hiện để đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm gắn kết hơn nữa

phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình trong thời gian

tới.

Phương pháp lịch sử: Đƣợc sử dụng kết hợp với phƣơng pháp lô gich.

Ở chƣơng 1, thực tiễn của một số quốc gia và địa phƣơng trong gắn kết hoạt

động phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo để kiểm nghiệm những kết

quả nghiên cứu bằng phƣơng pháp lô gich.

Ở chƣơng 3, phƣơng pháp lịch sử đƣợc sử dụng thông qua hoạt động

thực tiễn liên quan đến sự gắn kết hoạt động phát triển kinh tế với bảo vệ an

ninh biển đảo ở Quảng Bình. Sử dụng phƣơng pháp này yêu cầu phải đảm bảo

tính liên tục về thời gian, làm rõ điều kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển từ

thấp đến cao, làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng trong hoạt động phát triển

kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo với các vấn đề khác liên quan đến nó.

Đồng thời đặt quá trình phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo

trong mối quan hệ tƣơng tác qua lại, thúc đẩy hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong quá

trình phát triển. Bằng phƣơng pháp này có thể cho ta bức tranh khoa học của

các hoạt động phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo đã diễn ra ở

50

địa bàn tỉnh Quảng Bình. Khi trình bày các sự việc, luận văn đã chú ý đến sự

vận động "logich" của hoạt động phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh

biển đảo, chỉ ra xu hƣớng vận động có tính chất quy luật của chúng, loại bỏ

các chi tiết không cơ bản. Luận văn sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết hợp với

phƣơng pháp logich để xem xét, nghiên cứu ra các sự kiện lịch sử của phát

triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo dƣới dạng tổng quát, nhằm chỉ ra

bản chất, khuynh hƣớng tất yếu, quy luật vận động, nắm lấy bƣớc phát triển

tất yếu, cốt lõi. Phƣơng pháp lịch sử kết hợp với phƣơng pháp logich sử dụng

các luận điểm khoa học trong tƣ duy nhằm lý giải, đánh giá và rút ra những

kết luận từ thực tiễn của các hoạt động của phát triển kinh tế gắn với bảo vệ

an ninh biển đảo ở Quảng Bình.

* Trừu tượng hóa khoa học

Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học đƣợc sử dụng để nâng từ nhận

thức kinh nghiệm lên thành nhận thức khoa học, từ trực quan sinh động lên tƣ

duy trừu tƣợng. Để sử dụng phƣơng pháp này, ngƣời ta thƣờng tìm các biện

pháp để loại bỏ những yếu tố, những quan hệ không bản chất để tập trung vào

những yếu tố và quan hệ bản chất hơn của các sự vật và hiện tƣợng, hình

thành các phạm trù, quy luật, rồi sau đó vạch rõ mối liên hệ giữa bản chất và

hiện tƣợng.

Trong kinh tế chính trị cũng nhƣ trong các khoa học xã hội nói chung,

phƣơng pháp trừu tƣợng hóa có ý nghĩa nhận thức lớn lao, đòi hỏi gạt bỏ

những yếu tố ngẫu nhiên, tách ra những cái điển hình, bền vững ổn định, trên

cơ sở ấy nắm đƣợc bản chất của các hiện tƣợng, từ bản chất cấp một tiến tới

bản chất ở trình độ sâu hơn hình thành những phạm trù và những quy luật

phản ánh những bản chất đó.

* Các phương pháp nghiên cứu định lượng

Luận văn sử dụng phƣơng pháp này cho phép thông qua tất cả các bảng

51

thống kê về số lƣợng của hoạt động phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh

biển đảo, vạch ra tính quy định thuộc về tính chất của hoạt động phát triển

kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo. Luận văn sử dụng phƣơng pháp này

để thống kê về thực trạng và so sánh, các ngành các chỉ tiêu phát triển kinh tế

và các giải pháp, chƣơng trình đầu tƣ cho bảo vệ an ninh biển đảo qua các

năm. Các số liệu là những minh chứng hùng hồn cho những thành tựu cũng

nhƣ những hạn chế trong sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh

biển đảo. Từ đó luận văn đề xuất những giải pháp nhằm phát triển kinh tế gắn

với bảo vệ an ninh biển đảo trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có căn cứ, có tính

thuyết phục hơn.

2.3. Phƣơng pháp thu thập và xử lý số liệu

* Nguồn số liệu thực hiện luận văn

Nguồn dữ liệu bên trong để thực hiện luận văn: Số liệu của Tổng cục

Thống kê, Cục thống kê Quảng Bình và của các sở, ban ngành ở Quảng Bình

là nguồn tài liệu thứ cấp chủ yếu để thực hiện luận văn.

Nguồn dữ liệu bên ngoài để thực hiện luận văn: Ngoài ra, luận văn còn

sử dụng các thông tin thu thập đƣợc từ các sách, báo và các trang web của các

hiệp hội nghề nghiệp có tƣ liệu liên quan đến công trình nghiên cứu.

Các bài viết của các nhà nghiên cứu về biển, các loại sách báo, các

trang web trong nƣớc và ngoài nƣớc để đánh giá cách tiếp cận của các cá

nhân và tổ chức trong và ngoài nƣớc một số tƣ liệu có liên quan thu thập từ

các cá nhân, đơn vị trong và ngoài nƣớc, các Báo cáo quá trình công tác nƣớc

ngoài của một số Đoàn/cá nhân, Báo và Tạp chí nghiên cứu khoa học về biển

và phát triển kinh tế biển… quá trình phân tích đánh giá để biết đƣợc rằng các

cá nhân và các tổ chức họ có quan điểm nhƣ thế nào về phát triển kinh tế,

đánh giá nhƣ thế nào về bảo vệ an ninh biển đảo để từ đó rút ra cách tiếp cận

của luận văn làm cho đề tài phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo

52

đƣợc tiếp cận một cách liên ngành và cụ thể.

Các văn kiện hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI, các báo cáo

kinh tế xã hội của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng

Bình năm 2013 phƣơng hƣớng năm 2014 và 6 tháng đầu năm 2014. Nghị

quyết của Hội đồng Nhân dân tỉnh về phát triển kinh tế xã hội năm 2013, năm

2014, tình hình thực tiển tại các hiệp hội nghề nghiệp có tƣ liệu liên quan đến

công trình nghiên cứu nhằm phân tích đánh giá sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng,

chính quyền tỉnh, quá trình triển khai về cơ sở qua các thời kỳ để từ đó rút ra

đƣợc bài học kinh nghiệm, phƣơng hƣớng và giải pháp cho quá trình phát

triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình.

* Phương pháp xử lý số liệu

Từ số liệu thu thập đƣợc qua các nguồn, trong quá trình thực hiện Luận

văn, chúng tôi đã loại bỏ những tài liệu, số liệu không có nguồn gốc xuất xứ

rõ ràng hoặc không đáng tin cậy. Bằng phƣơng pháp này, tác giả phân tích để

hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn, đánh giá tài liệu, quan sát,

kiểm chứng để nghiên cứu, tổng kết, phân tích, đánh giá thực trạng các vấn đề

cần nghiên cứu, xác định rõ những nguyên nhân làm cơ sở đề xuất phƣơng

hƣớng và giải pháp hoàn thiện công tác phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an

53

ninh biển đảo ở Quảng Bình.

CHƢƠNG 3:

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI BẢO VỆ AN

NINH BIỂN ĐẢO Ở QUẢNG BÌNH

3.1. Những nhân tố chủ yếu ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế gắn với bảo

vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình

Tỉnh Quảng Bình là tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ, Việt Nam, Diện tích tự nhiên 8.037,6 km2. Toạ độ địa lý ở phần đất liền là: Điểm cực Bắc: 18005,12,, vĩ độ Bắc; Điểm cực Nam: 17005,02,, vĩ độ Bắc; Điểm cực Đông: 106059,37,, kinh độ Đông; Điểm cực Tây: 105036,55,, kinh độ Đông.

3.1.1. Điều kiện tự nhiên

Tỉnh có bờ biển dài 116,04 km ở phía Đông và có chung biên giới với

CHDCND Lào 201,87 km ở phía Tây, phía Bắc tiếp giáp tỉnh Hà Tĩnh với

chiều dài địa giới 136,5 km, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị với địa giới 78,8km.

Trên địa bàn Quảng Bình có Quốc lộ 1A và đƣờng Hồ Chí Minh, đƣờng sắt

Bắc Nam, quốc lộ 12 và tỉnh lộ 20, 16 chạy từ Đông sang Tây qua cửa khẩu

Quốc tế Cha Lo và một số cửa khẩu khác nối liền với Nƣớc CHDCND Lào.

Theo sơ đồ kiến tạo toàn lãnh thổ Việt Nam, Quảng Bình thuộc đới uốn

54

nếp Việt - Lào phát triển trên rìa phía Bắc của một tiểu lục địa cổ nằm ở phía

Nam Hải Vân. Từ đầu cổ sinh đại (cách ngày nay khoảng 500 triệu năm) phần

lớn địa hình Quảng Bình đã bắt đầu bị bào mòn và dần dần đƣợc hình thành là

do những chuyển động nâng của vỏ trái đất vào cuối cổ sinh đại (cách ngày

nay khoảng 200 triệu năm).

Đặc điểm chung của địa hình Quảng Bình là hẹp, nơi hẹp nhất (vĩ độ tại

Đồng Hới) theo chiều Đông - Tây chỉ xấp xỉ 50 km, dốc dần không đều từ phía

Tây sang phía Đông nhƣng sự phân bậc Tây - Đông không mang tính giảm dần.

Vùng đồng bằng, vùng cửa sông có khi chỉ cao hơn mặt nƣớc biển 2 - 3m , trong

khi đó dải cồn cát ven biển lại cao hơn, thậm chí cao tới 40 - 50m...

Cùng với sự phân hoá địa hình theo hƣớng Tây - Đông, địa hình theo

hƣớng Tây - Nam cũng phân dị rõ rệt. Các dạng địa hình thấp dần đi từ Bắc

xuống Nam có hƣớng á vĩ tuyến. Bắc Quảng Bình là dãy Hoành Sơn - Đèo

Ngang, vùng núi Minh Hoá cao 2000m, xuống đến Quảng Ninh núi cao nhất

chỉ có 1.257m. Sông Gianh là hệ quả đặc trƣng của đứt gãy Rào Nậy tạo nên

bồn thu nƣớc lớn nhất.

Sự phân hoá địa hình Quảng Bình theo hƣớng Đông - Tây và Bắc -

Nam, nhất là sự phân hoá theo độ cao và hƣớng núi á vĩ tuyến đã trực tiếp ảnh

hƣởng đến sự phân bố vật chất và năng lƣợng, ảnh hƣởng trực tiếp đến chế độ

khí hậu (nhiệt ẩm), sự phân hoá lớp thực bì, tạo nên sự đa dạng sinh thái đặc

sắc của Quảng Bình.

Về cấu trúc, 85% tổng diện tích tự nhiên Quảng Bình là vùng rừng núi

và gò đồi, còn lại là vùng gò đồi và đồng bằng. Địa hình Quảng Bình đƣợc

chia thành 4 vùng rõ rệt :

Vùng núi có tổng diện tích 5.236,16 km2 chiếm 65% diện tích tự nhiên,

đƣợc chia thành 3 loại: vùng núi cao, vùng núi trung bình và vùng núi thấp.

Vùng đồi gò đồi, có diện tích 1.677,95km2, chiếm 19,7% tổng diện tích

55

đất tự nhiên. Vùng gò đồi có độ cao từ 50m đến 250 mét, độ dốc trung bình từ

30 trở lên. Vùng gò đồi Quảng Bình nằm trong địa giới 87 xã kéo dài theo

chiều dọc của tỉnh. Địa hình vùng gò đồi hẹp và dốc, dòng chảy các sông đều

chạy theo hƣớng cắt ngang địa hình, nhiều dãy núi vƣơn ra tận bờ biển nên

địa hình vùng gò đồi phức tạp và bị chia cắt tƣơng đối mạnh. Do dặc điểm bị

chia cắt nên vùng gò đồi Quảng Bình tuy có kết dải nhƣng không thuần nhất.

Trong từng tiểu vùng đồng thời tồn tại cả khu vực bồi tích và bào mòn. Các

tính chất hoá lý của đất chênh lệch nhau rất xa.

Vùng đồng bằng có tổng diện tích 866,90 km2 chiếm 10,95% diện tích

đất tự nhiên. Nhìn chung dải đồng bằng Quảng Bình hẹp, nơi rộng nhất 26 km

bề ngang, nơi hẹp nhất khoảng 10 km. Các đồng bằng liền dải chủ yếu là: đồng bằng Lệ Thuỷ, Quảng Ninh 248 km 2, đồng bằng Quảng Trạch 161 km2.

Vùng ven biển chủ yếu là dải cát nội đồng hình lƣỡi liềm hay hình rẽ quạt có tổng diện tích 358,40 km2 chiếm 4% tổng diện tích đất tự nhiên, độ

cao từ 3 - 4 mét đến 50 mét, phân phối suốt chiều dài bờ biển của tỉnh.

Vùng cát ven biển có chiều rộng và chiều cao tăng dần từ Bắc vào

Nam, ở phía Bắc dải cát hẹp và thấp, có chiều rộng từ 300 đến 400m độ cao

từ +5 đến +10m, càng về phía Nam dải cát càng mở rộng (từ 1 - 6km), có độ

cao 17 - 20m, có đỉnh đạt đến độ cao 50m. Địa hình mặt dải cát rất phức tạp.

Sự xuất hiện hệ thống cồn cát ven biển là yếu tố địa hình bất lợi nhiều mặt.

Dƣới tác động của gió, hiện tƣợng cát bay, cát chảy đã làm cho các cồn cát

tiến dần về phía lục địa, thu hẹp đồng bằng ven biển vốn dĩ đã nhỏ bé lại càng

nhỏ bé hơn, làm tăng tình trạng úng lụt vùng cửa sông, nhất là cửa sông Nhật

Lệ (Theo Địa lý tự nhiên - Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Bình

dostquangbinh.gov.vn/uploads/410qb/diachi/1.doc).

Quảng Bình có tiềm năng du lịch rất đáng kể. Từ nam đỉnh Đèo Ngang,

Quảng Bình trải ra nhƣ một bức tranh tuyệt đẹp với non xanh nƣớc biếc. Nơi

56

đây có rừng, có biển với nhiều cảnh quan thiên nhiên tƣơi sắc, nhiều thắng

cảnh nổi tiếng và còn biết bao điểm du lịch hấp dẫn khác đang chờ đón du

khách. Đó là Hoành Sơn Quan, đèo Lý Hòa, biển Nhật Lệ, Bảo Ninh, Đá

Nhảy, phá Hạc Hải, Bàu Tró, khu nghỉ dƣỡng cao cấp Sun Spa Resort Mỹ

Cảnh - Bảo Ninh, suối nƣớc khoáng nóng Bang, Cổng Trời, Cha Lo, Di sản

Thiên nhiên thế giới Vƣờn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng với hệ thống hang

động kỳ vĩ, nhiều loài động, thực vật quý hiếm có trong sách đỏ Việt Nam và

thế giới. Đó là nhiều di tích văn hóa vật thể, phi vật thể đa dạng phong phú,

cùng hệ thống giao thông thuận tiện là cơ hội để tỉnh Quảng Bình phát triển

du lịch nói chung và du lịch biển đảo nói riêng.

Quảng Bình có đƣờng bờ biển dài 116.04 km với năm cửa sông, trong

đó có hai cửa sông lớn là Nhật Lệ và Cửa Gianh; năm hòn đảo là hòn La, hòn

Gió (đảo Chim), hòn Nồm, hòn Cỏ và Vũng Chùa – đảo Yến với nhiều thắng

cảnh đẹp, cùng với thềm lục địa rộng gấp 2,6 lần diện tích đất liền tạo cho

Quảng Bình một ngƣ trƣờng rộng lớn, với 1.650 loài hải sản, trong đó có

những loài quý hiếm nhƣ tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang, sò huyết, cá

mú, hải sâm… Phía Bắc tỉnh có bãi san hô trắng với diện tích hàng chục ha,

tạo ra vùng sinh thái của hệ san hô, là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất

hàng thủ công mỹ nghệ, hàng lƣu niệm phục vụ du lịch. Dọc bờ biển từ đèo

Ngang giáp Hà Tĩnh đến Ngƣ Thủy Nam giáp Quảng Trị có 9 bãi tắm, 8 di

tích lịch sử văn hóa cùng với những danh thắng phân bố trải đều rất thuận tiện

cho phát triển loại hình du lịch biển [Trích bài của Lê Thanh Bình đăng trên

trang www.quangbinhtourism.vn].

Tỉnh Quảng Bình có vị trí thuận lợi, có điều kiện để trở thành một đầu

mối trung chuyển quan trọng trong nƣớc, khu vực, thúc đẩy giao lƣu buôn

bán, hợp tác phát triển của các nƣớc trong khu vực. Nằm ở khu vực Bắc

Trung bộ có nhiều tiềm năng phát triển; đặc biệt có tuyến giao thông xuyên Á

57

từ Myanmar tới Thái Lan (tỉnh Na Khon Pha Nom) đi qua Lào (tỉnh Khăm

Muộn), qua Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo, tỉnh Quảng Bình, tới cảng nƣớc sâu

Hòn La (Quảng Bình), cảng Vũng Áng (tỉnh Hà Tĩnh) và đây cũng là tuyến

đƣờng bộ ngắn nhất nối biển Đông Việt Nam với các nƣớc Trung Á và từ

Thái Lan đi Trung Quốc... Đây là điều kiện thuận lợi để Lãnh đạo tỉnh tập

trung đƣa Khu Kinh tế Hòn La và Khu Kinh tế cửa khẩu quốc tế Cha Lo vào

danh mục các khu kinh tế trọng điểm của tỉnh và cả nƣớc nhằm đẩy mạnh đầu

tƣ, phát huy hết tiềm năng, lợi thế của tỉnh.

Do đặc điểm của khí hậu và địa hình, Quảng Bình thƣờng bị thiên tai

tàn phá, đặc biệt trong 2 trận lũ lịch sử năm 2010 và 2013, hàng trăm km bờ

sông và cửa biển đang bị xói lở, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính mạng và tài

sản của nhân dân; một số vùng bị chia cắt, đặc biệt là các vùng thấp trũng và

sạt lở,... Mặc dù đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ƣơng đã

quan tâm hỗ trợ lập và triển khai các dự án phòng, tránh, giảm nhẹ thiên tai.

Tuy nhiên, do nguồn ngân sách của tỉnh còn hạn chế, do đó nguồn lực kinh tế

của tỉnh hàng năm phải triển khai xây dựng hoàn thành các công trình đê, kè

chống xói lở; các dự án di dân khẩn cấp tại một số huyện có địa bàn xung yếu

để đƣa nhân dân đến nơi an toàn nên phần nào củng ảnh hƣởng đến phát triển

kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo.

3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

Quảng Bình vốn là tỉnh nghèo. Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế - xã hội

Quảng Bình từng bƣớc khởi sắc. Trong những năm gần đây, nhờ sự nỗ lực

của toàn dân, toàn quân trong tỉnh và sự hỗ trợ của Trung ƣơng, Quảng Bình

đang có cơ hội lớn vƣơn lên thoát nghèo.

Bƣớc vào năm 2014, trong điều kiện tình hình kinh tế - xã hội trong

nƣớc, của tỉnh thuận lợi hơn nhƣng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Tình

hình căng thẳng ở biển Đông, thị trƣờng thu hẹp, sức mua vẫn còn yếu, tăng

trƣởng tín dụng thấp, hậu quả nặng nề của cơn bão số 10 và hoàn lƣu bão số

58

11... Trƣớc tình hình đó, ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã triển khai kịp thời

Kế hoạch hành động thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, của Tỉnh ủy,

HĐND tỉnh; tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vƣớng mắc cho các doanh

nghiệp, ổn định đời sống nhân dân. Với sự đoàn kết, nỗ lực, cố gắng của cả hệ

thống chính trị, của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế

- xã hội 6 tháng đầu năm 2014 vẫn duy trì sự ổn định và đạt những kết quả

tích cực trên các lĩnh vực. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế 7,8%, giá trị sản xuất

của cả 3 khu vực kinh tế tăng cao hơn so cùng kỳ, GDP đạt 6,3%; vụ Đông

Xuân đƣợc mùa toàn diện, năng suất lúa, sản lƣợng lƣơng thực đạt cao nhất từ

trƣớc đến nay; sản xuất công nghiệp tuy vẫn gặp nhiều khó khăn, nhƣng tăng

trƣởng cao hơn cùng kỳ và cao hơn mức kế hoạch năm đề ra; du lịch Quảng

Bình đã thực sự khẳng định đƣợc thƣơng hiệu, lƣợt khách du lịch đến Quảng

Bình đạt: 1,81 triệu lƣợt khách, cao hơn của cả năm 2013; kết cấu hạ tầng

kinh tế, xã hội đƣợc chú trọng đầu tƣ; đã tổ chức thành công chuỗi các hoạt

động kỷ niệm 410 năm hình thành tỉnh Quảng Bình, tổ chức thành công Hội

nghị Xúc tiến đầu tƣ vào địa bàn tỉnh; hoàn thành việc thành lập thị xã Ba

Đồn trên cơ sở chia tách địa giới hành chính huyện Quảng Trạch; lĩnh vực

văn hóa, xã hội có những chuyển biến tiến bộ; công tác an sinh xã hội đƣợc

quan tâm, đời sống nhân dân ổn định và có bƣớc cải thiện; quốc phòng - an

ninh đƣợc tăng cƣờng, trật tự an toàn xã hội đƣợc giữ vững.

Tuy vậy, một số chỉ tiêu đạt thấp so với kế hoạch năm đề ra nhƣ: giá trị

sản xuất dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu... Một số lĩnh vực văn hóa, xã hội có

chuyển biến nhƣng còn chậm, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; một số địa bàn an ninh

trật tự, tệ nạn ma túy còn diễn biến phức tạp.

Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu:

- Tốc độ tăng trƣởng GDP đạt 7,8 % (kế hoạch cả năm tăng 7,5%, thực

59

hiện cùng kỳ 6,3%);

- Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,6% (kế hoạch cả

năm tăng 3,0%, thực hiện cùng kỳ 4,3%);

- Sản lƣợng lƣơng thực vụ Đông Xuân đạt 196.387 tấn, vƣợt 5,9% KH,

tăng 5% cùng kỳ (KH cả năm đạt 27,5 vạn tấn);

- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10,2% (kế hoạch cả năm tăng 10%,

thực hiện cùng kỳ 9,8%); chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 8,3%

so cùng kỳ (kế hoạch tăng 6,5%, thực hiện cùng kỳ 6,1%);

- Giá trị sản xuất dịch vụ tăng 7,4% (kế hoạch cả năm tăng 10%, thực

hiện cùng kỳ 5,9 %);

- Thu ngân sách trên địa bàn ƣớc đạt 1.100 tỷ đồng (dự toán cả năm

2.200 tỷ đồng), bằng 50 % dự toán địa phƣơng;

- Giải quyết việc làm cho 1,65 vạn lao động, đạt 51,6% kế hoạch (KH cả

năm 3,2 vạn lao động);

- Tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,3%, còn 11,88% (kế hoạch giảm 3,5%);

- Tỷ lệ xã, phƣờng, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế: 60,37% (KH cả

năm đạt 75%);

- Tỷ lệ phổ cập THCS đạt 99,4% xã, phƣờng thị trấn (KH đạt 99,4%)

(Theo báo cáo kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2014)

3.2. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo ở

Quảng Bình những năm qua

3.2.1. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo trong

các chiến lược, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

Trong thời gian qua việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cƣờng củng

cố bảo vệ an ninh biển đảo đã đƣợc thể hiện ngay trong việc xây dựng chiến

lƣợc phát triển kinh tế- xã hội thông qua các dự án của tỉnh.

Quảng Bình đã thực hiện hàng loạt dự án, trƣớc hết là cải tạo vad nâng

60

cấp hệ thống điện lƣới. Đƣờng dây và các trạm biến áp 22 KV, 35 KV, 110

KV, 220 KV đã đƣợc xây dựng. Dự án thủy lợi Hồ Bang hoàn thành đã nâng

cao năng lực tƣới tiêu của tỉnh. Dự án thiết bị Bệnh viện Việt Nam - Cu Ba

Đồng Hới hoàn thành đã góp phần nâng cao chất lƣợng khám chữa bệnh cho

nhân dân.

Quảng Bình đặc biệt quan tâm phát triển kết cấu hạ tầng đƣờng bộ.

Quốc lộ 1A đoạn 2 đầu thành phố Đồng Hới và thị trấn Ba Đồn đƣợc mở

rộng. Cầu Nhật Lệ 2; đƣờng ven biển từ Cảnh Dƣơng - Ngƣ Thủy; đƣờng nối

đảo Hòn Cỏ - Hòn La; đƣờng Nam Lý - Trung Trƣơng; đƣờng từ Quốc lộ 1A

(Bàu Sen) đi trung tâm xã Kim Thủy; đƣờng từ xã Cao Quảng về xã Tân Hóa;

đƣờng và cầu về xã Văn Hóa; các đƣờng tỉnh 562, 565; đƣờng nối Khu Kinh

tế Hòn La với Khu công nghiệp xi măng Tiến - Châu - Văn Hóa đã đƣợc xây

dựng... vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, vừa tạo điều kiện

thuận lợi cho sự di chuyển của lực lƣợng vũ trang khi có chiến sự. Hệ thống

đƣờng cứu hộ, cứu nạn, chống ngập lụt; đƣờng tuần tra và đƣờng vào các

đồng Biên phòng biên giới.

Hạ tầng kỹ thuật nhiều khu đô thị, khu dân cƣ khu tái định cƣ đƣợc cải

tạo, nâng cấp: Khu kinh tế Hòn La; các khu công nghiệp. Hệ thống cấp nƣớc

các thị trấn, khu công nghiệp, vùng khó khăn về nguồn nƣớc. Xây dựng hệ

thống đê kè sông, biển; xây dựng, nâng cấp các hồ chứa, công trình thủy lợi.

Xây dựng bệnh viện chuyên khoa cấp Tỉnh; cơ sở vật chất và các trang thiết

bị y tế. Xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị giáo dục.

Hạ tầng công nghệ thông tin. Xây dựng cơ sở hạ tầng các khu du lịch.

Dự án quản lý tổng hợp đới bờ toàn Tỉnh. Dự án đầu tƣ vào các khu công

nghiệp. Nhà máy nhiệt điện Hòn La, các nhà máy thủy điện, phong điện. Các

nhà máy xi măng cao cấp; xi măng Trƣờng Thịnh; xi măng Sông Gianh (giai

61

đoạn 2); xi măng Văn Hóa. Xây dựng cảng Hòn La (giai đoạn 2). Xây dựng

các trung tâm thƣơng mại, dịch vụ; các dự án xây dựng khu đô thị mới và các

khu chung cƣ cao tầng.

Ngày 31/12/2013, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 3349/QĐ-

UBND về việc phê duyệt Kế hoạch phát triển du lịch tỉnh Quảng Bình giai

đoạn 2014 - 2015. Theo đó, Kế hoạch có những nội dung cụ thể nhƣ sau: đến

năm 2015, du lịch Quảng Bình từng bƣớc trở thành ngành kinh tế mũi nhọn

của tỉnh, góp phần to lớn vào tăng trƣởng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hƣớng tăng dần tỷ trọng du lịch - dịch vụ trong GDP; tạo ra

nhiều việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời lao động và cộng đồng dân cƣ, tăng

nguồn thu cho ngân sách; tạo tiền đề cho các ngành nghề khác phát triển.

Phát triển du lịch theo hƣớng bền vững, giữ gìn bản sắc văn hóa dân

tộc, bảo tồn sinh thái môi trƣờng, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội.

Đẩy mạnh công tác xã hội hóa du lịch, nâng cao nhận thức của cộng đồng dân

cƣ và huy động các nguồn lực cho đầu tƣ phát triển du lịch.

Nâng cao chất lƣợng và đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ du lịch; tạo

dựng các sản phẩm du lịch đặc sắc có tính cạnh tranh cao và hấp dẫn khách

du lịch. Nâng cao vị thế của du lịch Quảng Bình trong cả nƣớc và quốc tế;

dần dần xây dựng Quảng Bình trở thành điểm đến hấp dẫn, độc đáo và mến

khách.

Đầu tƣ cho ngƣ dân mua sắm ngƣ cụ, đóng mới tàu thuyền, hỗ trợ xăng

dầu, phƣơng tiện thông tin liên lạc để ngƣ dân yên tâm vƣơn khơi bám biển

đảm bảo vững chắc chủ quyền biển đảo. Hỗ trợ các nguồn lực bảo đảm cho

các lực lƣợng chấp pháp trên biển có các trang tiết bị tiên tiến, hiện đại, cán

bộ chiến sỹ luôn an tâm công tác thực hiện tốt các nhiệm vụ đƣợc giao.

Đƣợc cụ thể hóa bằng các chiến lƣợc kế hoạch, mục tiêu và phƣơng

hƣớng tổng quát phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là: Phát huy sức mạnh

62

toàn dân, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt

mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh. Phát triển văn hoá,

thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng cƣờng quốc phòng và an ninh,

chú trọng bảo vệ an ninh biển đảo, mở rộng quan hệ đối ngoại. Chủ động và

tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Giữ vững ổn định chính trị xã hội, sớm đƣa

đƣợc nền kinh tế của tỉnh ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng cho

tỉnh đến năm 2020 cơ bản trở thành tỉnh có trình độ phát triển theo hƣớng

công nghiệp theo hƣớng hiện đại.

Nhƣ vậy, trong mục tiêu chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội đã bao

quát toàn diện các vấn đề của đời sống xã hội, trong đó nổi lên ba vấn đề lớn

là: tăng trƣởng kinh tế gắn với tiến bộ xã hội; tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển

đảo và mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm giải quyết hài hoà 2 nhiệm vụ chiến

lƣợc xây dựng và bảo vệ sự bình yên của tỉnh nhà.

Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển đảo sẽ

phát huy sức mạnh của từng lĩnh vực, kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh

tổng hợp, quy tụ mọi nguồn lực, lực lƣợng trong tỉnh, trong nƣớc và quốc tế

nhằm hoàn thành thắng lợi mục tiêu của chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội

đến năm 2020.

3.2.2. Phát triển kinh tế gắn với nâng cao sức mạnh bảo vệ biển đảo

địa phương

Dƣới sự chỉ đạo lãnh đạo của chính quyền tỉnh, kinh tế xã hội của

Quảng Bình theo báo cáo kinh tế - xã hội dự ƣớc các mục tiêu kế hoạch 5 năm

2011 - 2015 nhƣ sau:

* Các chỉ tiêu kinh tế

- Tăng trƣởng kinh tế (GDP) bình quân 7,6% (kế hoạch 12 - 13%);

- Giá trị sản xuất tăng bình quân: nông, lâm, ngƣ nghiệp 4,2%; công

nghiệp 9,9%; dịch vụ 12 % (kế hoạch 2011-2015: 4,5 - 5%; 21 - 22%; 12

63

- 12,5%);

- Cơ cấu kinh tế đến năm 2015: nông, lâm, ngƣ nghiệp 16,5%; công

nghiệp - xây dựng 43%; dịch vụ chiếm 40,5% (kế hoạch: 16,5%; 43%;

40,5%);

- Thu ngân sách ƣớc thực hiện đến 2015 đạt 2.500 tỷ đồng (kế hoạch đạt

trên 2.500 tỷ đồng);

- Sản lƣợng lƣơng thực năm 2015 dự ƣớc đạt 27,7 vạn tấn (kế hoạch 27,5 -

28 vạn tấn);

- Thu nhập bình quân đầu ngƣời năm 2013 đạt 26 triệu đồng, tƣơng đƣơng

1.230 USD, ƣớc thực hiện đến 2015 đạt 1.600 USD (kế hoạch: 28 - 30

triệu, tƣơng đƣơng 1.400 - 1.600 USD);

- Đến hết năm 2015 có 27 xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới, chiếm 20%

(kế hoạch phấn đấu có 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới);

* Các chỉ tiêu xã hội

- Dự ƣớc năm 2015, giải quyết việc làm cho 3,2 vạn lao động (kế hoạch

giải quyết việc làm hàng năm 3,0 - 3,2 vạn lao động);

- Tỷ lệ hộ nghèo bình quân hàng năm giảm 3,5 - 4% (kế hoạch 3,5-4%);

- 80 - 85% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế (kế hoạch: 80-85%);

- 100% xã, phƣờng, thị trấn hoàn thành phổ cập THCS (kế hoạch: 100%).

- 55 - 60% số ngƣời lao động đƣợc đào tạo, trong đó, qua đào tạo nghề đạt

35 - 40%.(kế hoạch: 55-60% và 35-40%).

Với những thành quả về kinh tế - xã hội đã đạt đƣợc nhƣ trên đã tạo cho

Quảng Bình vị thế mới, tiềm năng kinh tế xã hội đƣợc nâng lên. Do đó, tiềm

năng kinh tế để bảo đảm cho sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng

cƣờng sức mạnh bảo vệ biển đảo cũng đƣợc nâng lên rõ rệt.

Tỉnh đã xây dựng và phát triển vùng kinh tế chiến lƣợc với xây dựng

vùng chiến lƣợc quốc phòng, an ninh nhằm tạo ra thế bố trí chiến lƣợc mới cả

64

về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh trên trên địa bàn tỉnh, thành phố, theo ý đồ

phòng thủ chiến lƣợc của tỉnh. Đó là khu kinh tế cảng Hòn La, xây dựng

tuyến đƣờng ven biển từ Cảnh Dƣơng đi Ngƣ Thủy, xây dựng tổ, hợp tác

đoàn kết của ngƣ dân đánh bắt trên biển, đầu tƣ cho phát triển dịch vụ hậu cần

nghề cá…

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tăng dần tỷ trọng các

ngành dịch vụ, xây dựng, công nghiệp giảm dần tỷ trọng các ngành nông,

lâm, ngƣ nghiệp với xây dựng các khu phòng thủ then chốt, các cụm chiến

đấu liên hoàn, các xã (phƣờng) chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh.

Tăng cƣờng vốn cho ngƣ dân vay để đóng mới tàu có công suất lớn,

mua sắm ngƣ cụ để tạo điều kiện cho ngƣ dân vƣơn khơi bám biển nhằm bảo

vệ chủ quyền và an ninh biển đảo. Tăng cƣờng ngân sách bảo đảm cho huấn

luyện các lực lƣợng dự bị động viên, lực lƣợng dân quân biển, mua sắm sửa

chữa trang thiết bị cho bộ đội biên phòng, bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Đầu tƣ

mọi mặt cho lực lƣợng bộ đội đóng quân trên đảo Hòn La, vận động nhân dân

ra đảo sinh sống bảo đảm đâu có đất, có biển là ở đó có dân, đƣa các loại gia

súc, gia cầm ra đảo đã phần nào tạo điều kiện vật chất, động lực cho các lực

lƣợng bảo vệ biển đảo làm việc tốt hơn.

Đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế khu kinh tế cửa khẩu Cha Lo,

sân bay Đồng Hới, khu kinh tế Vũng Áng, xây dựng các sân bay giã chiến,

các khu căn cứ hậu phƣơng đã phần nào tạo thế vững chắc, sẵn sàng đối phó

khi có chiến tranh xâm lƣợc.

3.2.3. Bảo vệ an ninh biển đảo tạo điều kiện phát triển kinh tế của tỉnh

Dƣới sự lãnh đạo chỉ đạo của chính quyền các cấp của tỉnh tình hình an

ninh biển đảo đƣợc giữ vững. Điều đó đã tác động tích cực đến phát triển kinh

tế của tỉnh.

Tỉnh đã từng bƣớc đƣa dân ra vùng ven biển và các tuyến đảo gần để

65

có lực lƣợng xây dựng căn cứ hậu phƣơng; động viên, khích lệ dân ra đảo

bám trụ làm ăn, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ biển, đảo một cách vững

chắc, lâu dài.

Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, tạo điều kiện cho dân bám

trụ, sinh sống và làm ăn, tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh tế ở vùng

biển với các tỉnh bạn. Tỉnh cũng đã đầu tƣ phát triển chƣơng trình đánh bắt xa

bờ, thông qua đó xây dựng lực lƣợng dân quân biển, bộ đội biên phòng, cảnh

sát biển, kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt động vi phạm

chủ quyền biển, đảo của nƣớc ta.

Nhờ đó, kinh tế - xã hội của tỉnh ngày càng đƣợc cải thiện; kinh tế của

tỉnh phát triển ổn định, tốc độ tăng trƣởng khá, các chỉ tiêu cơ bản hoàn thành

và hoàn thành vƣợt mức kế hoạch; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hƣớng,

chất lƣợng, hiệu quả nền kinh tế từng bƣớc đƣợc nâng lên; thu ngân sách tăng

khá; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đƣợc cải thiện rõ rệt; các lĩnh vực văn hoá -

xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân cải thiện, công tác xoá đói giảm

nghèo, giải quyết việc làm và thực hiện các chính sách xã hội đạt kết quả khá;

an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục đƣợc giữ vững.

3.2.4. Kết hợp khai thác, sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh

tế và bảo vệ an ninh biển đảo

Để bảo đảm tốt các nguồn lực cho phát triển kinh tế và bảo vệ an

ninh biển đảo, Lãnh đạo tỉnh đã tập trung chỉ đạo khai thác các nguồn lực

sau: Sản xuất nông, lâm, ngƣ nghiệp, sản xuất công nghiệp, các ngành

dịch vụ, xây dựng cơ bản, tài chính - tín dụng, ngân hàng, hoạt động đối

ngoại và xúc tiến đầu tƣ, phát triển doanh nghiệp và các thành phần kinh

tế, tài nguyên và môi trƣờng, giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ,

công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá, thể thao, thông tin và truyền

thông, lao động, Thƣơng binh và Xã hội, công tác tổ chức bộ máy, xây

66

dựng chính quyền, công tác thanh tra, tƣ pháp, phòng chống tham nhũng,

quốc phòng, an ninh, công tác chỉ đạo, điều hành QLNN của chính quyền

các cấp. Sự kết hợp đồng bộ các nguồn lực kinh tế xã hội của tỉnh đã tạo

đà cho kinh tế phát triển, công tác bảo đản an ninh biển đảo ngày càng

đƣợc củng cố.

3.2.5. Đảm bảo hậu cần quân đội trên địa bàn tỉnh

Để thực hiện tốt phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo cùng

với sự chỉ đạo trực tiếp của Tƣ lệnh Quân khu 4, Lãnh đạo tỉnh đã chỉ đạo

thành lập các đơn vị dự bị động viên thƣờng trực của 8 huyện, thị, lực lƣợng

dân quân biển các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch, Thị

Xã Ba Đồn và Thành phố Đồng Hới, các kho trạm tiếp tế xăng dầu dọc tuyến

quốc lộ 1, quốc lộ 12, đƣờng Hồ Chí Minh, xây dựng các khu vực phòng thủ

tỉnh và huyện, các cụm tuyến an toàn làm chủ sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng

động viên các phƣơng tiện giao thông thủy bộ, bảo đảm lƣơng thực thực

phẩm, trang thiết bị y tế... chuẩn bị sẵn sàng khi có tình bất cứ tình huống nào

xảy ra.

Thực hiện những chính sách về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an

ninh biển đảo của tỉnh, những cơ sở hạ tầng trong thời bình đƣợc xây

dựng sẽ phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế nhƣng khi có chiến tranh

xảy ra cùng với các lực lƣợng khác hậu cần quân đội sẽ phát huy sức

mạnh của nhân dân, tận dụng những cơ sở hạ tầng vốn có nhƣ các trạm y

tế để phục vụ cứu chữa thƣơng binh, các trạm xăng dầu để tiếp tế nhiên

liệu, các công trình và phƣơng tiện giao thông sẽ đƣợc trƣng dụng phục

vụ cho nhu cầu vận chuyển quân, vận chyển vủ khí, lƣơng thực, thuốc

men... Do đó chính sách phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo đã

đƣợc gắn kết chặt chẽ với nhau.

3.2.6. Hoạt động điều hành của chính quyền Tỉnh trong phát triển

67

kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo

Sự gắn kết các hoạt động phát triển kinh tế với hoạt động bảo vệ an

ninh biển đảo còn tùy thuộc và hoạt động điều hành thƣờng ngày của chính

quyền các cấp trên địa bàn tỉnh.

Trƣớc hết, chính quyền các cấp hết sức quan tâm đảm bảo việc làm và

đời sống cho ngƣời dân. Đây là công việc có rất nhiều ý nghĩa, có tác dụng

quan trọng ổn định kinh tế, chính trị, xã hội. Nhờ đó, mặc dù là tỉnh nghèo

nhƣng ngƣời dân Quảng Bình không bị thiếu đói; không bị các thế lực phản

động lôi kéo, kích động.

Quảng Bình rất tích cực đấu tranh chống buôn lậu, làm hàng giả. Mặc

dù không gian trên bộ và trên biển của Quảng Bình rất rộng lớn, phức tạp

nhƣng nhờ sự quan tâm của các cấp cơ quan nên hoạt động chống buôn lậu,

làm hàng giả đƣợc thực hiện tốt. Điều đó đã giúp Quảng Bình vừa phát triển

kinh tế, vừa đảm bảo đƣợc an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã hội trên đất liền

và biển đảo.

3.3 Đánh giá quá trình phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo

3.3.1 Các kết quả đạt được

3.3.1.1 Về phát triển kinh tế - xã hội

Trong những năm qua, với sự nỗ lực của toàn Đảng toàn Dân, Quảng

Bình đã đạt đƣợc những thành tựu về kinh tế - xã hội rất quan trọng.

*Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Đây là lĩnh vực phát triển khá ổn

định của Quảng Bình. Kết quả trên phản ánh sự chuyển dịch tích cực trong cơ

cấu nội bộ ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.

Trồng trọt: Nhờ điều kiện thời tiết thuận lợi; chuyển dịch cơ cấu cây

trồng, cơ cấu giống hợp lý; thực hiện tốt mô hình cánh đồng mẫu lớn trên cây

lúa, sắn, ớt, kết hợp tích cực chăm bón, phòng trừ sâu bệnh, diệt chuột nên vụ

Đông Xuân đƣợc mùa toàn diện. Diện tích, năng suất, sản lƣợng nhiều loại

68

cây trồng đạt cao và tăng so cùng kỳ năm trƣớc. Sản lƣợng lƣơng thực toàn

tỉnh đạt 196.387 tấn, năng suất lúa bình quân đạt 59,8 tạ/ha, tăng 2,36 tạ so

cùng kỳ, cao nhất từ trƣớc đến nay. Sau thu hoạch vụ Đông Xuân, các địa

phƣơng đã tập trung triển khai ngay sản xuất vụ Hè Thu bảo đảm lịch thời vụ.

Cây lâu năm: do ảnh hƣởng của cơn bão số 10 và hoàn lƣu bão số 11

năm 2013, nhiều diện tích bị gãy đổ nên diện tích cây lâu năm còn 19.380 ha,

bằng 85,5% so cùng kỳ. Trong đó, diện tích cao su 14.233,8 ha, bằng 81%;

diện tích cây hồ tiêu 812,2 ha, bằng 90,5%; các loại cây ăn quả 3.321,4 ha,

tăng 4,7%. Sản lƣợng mũ cao su khai thác giảm, 6 tháng ƣớc đạt 2.638,6 tấn,

bằng 73,9%; hồ tiêu 370,2 tấn, tăng 14,6% so cùng kỳ. Đã tập trung chỉ đạo

phục hồi cây lâu năm bị gãy đổ do bão năm 2013, đang chuẩn bị các điều kiện

cho trồng mới cây cao su năm 2014.

Chăn nuôi tiếp tục phát triển ổn định, tổng đàn từng bƣớc đƣợc phục

hồi, chất lƣợng đàn gia súc đƣợc nâng lên, tỷ lệ bò lai sind chiếm tỷ trọng

khá. Chăn nuôi lợn, gia cầm theo mô hình sản xuất tập trung phát triển khá cả

về số lƣợng và quy mô. Sản lƣợng thịt hơi xuất chuồng tăng khá, đạt 29.754

tấn, tăng 3,5% so cùng kỳ. Đã tập trung đẩy mạnh công tác tiêm phòng, triển

khai các biện pháp phòng ngừa, khống chế dịch bệnh trên gia súc, gia cầm;

tăng cƣờng kiểm soát vận chuyển, giết mổ; tăng cƣờng hoạt động của các

chốt, trạm kiểm soát liên ngành, nên cơ bản đã khống chế đƣợc dịch bệnh lây

lan từ các tỉnh lân cận.

Lâm nghiệp: Đã tích cực chỉ đạo chăm sóc, quản lý và bảo vệ rừng,

triển khai kế hoạch trồng rừng và khai thác gỗ rừng trồng, gỗ rừng tự nhiên

theo kế hoạch. Nhìn chung, diện tích rừng trồng phát triển tốt, tỷ lệ cây sống

đạt khá. Hiệu quả của kinh tế rừng ngày càng đƣợc khẳng định, đặc biệt là

rừng trồng phục vụ chế biến.

Trong điều kiện nắng nóng gay gắt, khô hạn, nguy cơ xảy ra cháy rừng

69

cao, các địa phƣơng đã và đang đẩy mạnh triển khai công tác bảo vệ và phòng

chống cháy rừng; đồng thời, tăng cƣờng kiểm tra, ngăn chặn, xử lý nghiêm

các trƣờng hợp khai thác, buôn bán, vận chuyển gỗ, động vật hoang dã trái

phép, nhất là vùng ranh giới với Quảng Trị, Hà Tĩnh, các xã vùng đệm khu

vực Phong Nha - Kẻ Bàng.

Thủy sản: Sản lƣợng thủy sản ƣớc đạt 27.050 tấn, tăng 7,6% so cùng

kỳ, đạt 48,4% kế hoạch.

Về khai thác: trƣớc tình hình phức tạp ở biển Đông, bà con ngƣ dân vẫn

đầu tƣ nâng cấp, đóng mới tàu công suất lớn để đánh bắt vùng biển xa, quyết

tâm vƣơn khơi, bám biển, bảo vệ ngƣ trƣờng truyền thống, bảo vệ chủ quyền

biển đảo quê hƣơng, nên sản lƣợng khai thác thuỷ sản vẫn tăng 8,1% so cùng

kỳ năm trƣớc, ƣớc đạt: 23.845 tấn. Công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản đƣợc

tăng cƣờng, nên tình hình đánh bắt thủy sản sai tuyến, sử dụng xung điện,

chất nổ, chất độc, ngƣ cụ cấm sử dụng có xu hƣớng giảm, hạn chế ảnh hƣởng

đến nguồn lợi thủy sản.

Về nuôi trồng: 6 tháng đầu năm 2014, diện tích nuôi trồng 4.549 ha,

tăng 3,3% cùng kỳ. Đã chỉ đạo, hƣớng dẫn cải tạo xử lý ao nuôi, chuẩn bị tốt

nguồn con giống, áp dụng kỹ thuật nuôi tiên tiến, tăng cƣờng công tác phòng,

chống dịch bệnh. Sản lƣợng nuôi trồng đạt 3.205 tấn, tăng 3,9% so cùng kỳ.

Chương trình xây dựng nông thôn mới đã đƣợc tập trung chỉ đạo triển

khai một cách quyết liệt, cụ thể, đặc biệt là tập trung nguồn lực cho 11 xã

phấn đấu đạt tiêu chí nông thôn mới trong năm 2014. Đang tiếp tục rà soát các

xã có khả năng đạt tiêu chí nông thôn mới để đƣa vào kế hoạch 2015. Đến

nay, có 134/136 xã đã cắm mốc chỉ giới, chiếm 98,5%; 133/136 xã có quy

hoạch chi tiết trung tâm xã đƣợc phê duyệt, đạt 97,8%.

*Sản xuất công nghiệp. 6 tháng đầu năm 2014, UBND tỉnh tiếp tục

triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đẩy

70

mạnh phát triển sản xuất kinh doanh. Mặc dù, còn gặp không ít khó khăn

nhƣng nhờ sự đóng góp của các cơ sở công nghiệp lớn mới đi vào hoạt động,

làm tăng năng lực sản xuất trong kỳ nhƣ: xi măng Văn Hoá, Nhà máy May Hà

Quảng giai đoạn 2; một số doanh nghiệp có tốc độ tăng trƣởng khá (trên 10%)

nhƣ: xi măng sông Gianh, xi măng Vạn Ninh, Nhà máy may Đại Thành, khai

thác vật liệu xây dựng, các ngành phục vụ nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1, điện

thƣơng phẩm... nên sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng trƣởng khá. 6

tháng đầu năm 2014, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10,2% so cùng kỳ, chỉ

số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 8,3%, cao hơn kế hoạch cả năm đề ra . Một

số sản phẩm có mức tăng khá nhƣ: xi măng, điện thƣơng phẩm, nƣớc máy, áo

sơ mi, dăm gỗ.... Đây là sự cố gắng lớn của các cấp, các ngành và cộng đồng

doanh nghiệp trong thời điểm khó khăn hiện nay.

Lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn phát triển khá,

tạo việc làm ổn định cho một bộ phận lao động nông thôn, tập trung vào các

ngành, nghề: mộc mỹ nghệ, chế biến nông, lâm sản, mây tre đan... Đã hình

thành đƣợc một số doanh nghiệp đầu mối cung cấp nguyên liệu và thu mua sản

phẩm cho ngƣời lao động. Giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề

nông thôn 6 tháng đầu năm 2014 ƣớc đạt: 1.068 tỷ, tăng 8,5% so cùng kỳ.

*Các ngành dịch vụ

Hoạt động thương mại: Tổng mức bán lẻ hàng hoá 6 tháng đầu năm

2014 đạt 7.239,4 tỷ đồng, tăng 12,5% so cùng kỳ (nếu loại trừ yếu tố tăng giá

tăng 7,5%). Doanh thu 6 tháng đầu năm 2014 của hầu hết các thành phần kinh

tế, các nhóm hàng đều có mức tăng trƣởng hơn hơn so với cùng kỳ. Mạng lƣới

dịch vụ thƣơng mại tiếp tục phát triển, các mặt hàng thiết yếu, mặt hàng chính

sách đƣợc cung ứng đầy đủ, kịp thời. Công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị

trƣờng, giá cả đƣợc tăng cƣờng. Tăng cƣờng các hoạt động xúc tiến thƣơng

71

mại, tổ chức và hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các hội chợ thƣơng mại, du lịch.

Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động "Ngƣời Việt Nam ƣu tiên dùng hàng Việt

Nam”; khuyến khích sử dụng các sản phẩm sản xuất trong tỉnh.

Xuất, nhập khẩu: Kim ngạch xuất khẩu đạt 59,9 triệu USD, bằng

39,9% kế hoạch, bằng 80,2% so cùng kỳ, một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu

là cao su, gỗ các loại, dăm gỗ, hàng thủy sản, nhựa thông, phân bón, cà phê

hạt, than gỗ. Kim ngạch nhập khẩu đạt 39,4 triệu USD, đạt 78,8% KH, tăng

60,9% so cùng kỳ, 100% là nhập khẩu trực tiếp, mặt hàng nhập khẩu chủ yếu

là gỗ các loại, nguyên liệu sản xuất tân dƣợc và một số hàng hóa khác.

Hoạt động du lịch có bƣớc phát triển mạnh. Mạng lƣới cơ sở lƣu trú

phát triển khá, chất lƣợng phục vụ đƣợc nâng lên; đã đƣa vào khai thác các

tuyến, điểm du lịch mới nhƣ: Khám phá hang động Tú Làn (Minh Hoá), du

lịch bằng máy bay trực thăng; ký kết Chƣơng trình hợp tác phát triển du lịch

với thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Trị giai đoạn 2014 - 2018... và chuỗi

các hoạt động kỷ niệm 410 năm hình thành tỉnh, đã góp phần thu hút khách

du lịch đến Quảng Bình. Tham quan, du lịch, nghỉ dƣỡng tăng cao, 6 tháng

đầu năm 2014, số lƣợt khách du lịch đến Quảng Bình đạt mức kỷ lục: 1,809

triệu lƣợt khách, tăng 144,5% so cùng kỳ và cao hơn của cả năm 2013; trong

đó khách viếng mộ Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp: 67.333 đoàn/750.006 lƣợt,

ngày cao điểm lên đến 32.000 ngƣời. Điều này cho thấy, du lịch Quảng Bình

có sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong nƣớc và quốc tế, từng bƣớc trở

thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

Các loại hình dịch vụ khác: Vận tải biển, cảng biển và hàng không tiếp

tục phát huy hiệu quả; . Doanh thu vận tải ƣớc đạt 1.124 tỷ đồng, tăng 11,4%

so cùng kỳ. Các loại hình dịch vụ khác nhƣ: bƣu chính, viễn thông, tài chính,

ngân hàng, bảo hiểm, khám chữa bệnh, tƣ vấn pháp luật... tiếp tục phát triển,

72

đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân.

Giá cả thị trường: Công tác quản lý thị trƣờng đƣợc tăng cƣờng nên giá

cả thị trƣờng ổn định, không có biến động lớn. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 6

tháng đầu năm 2014 tăng 4,95% so cùng kỳ và tăng 1,26% so với tháng 12

năm trƣớc.

*Xây dựng cơ bản

Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 1792/CT-TTg, Chỉ thị số

14/CTTTg của Thủ tƣớng Chính phủ về tăng cƣờng quản lý đầu tƣ và xử lý

nợ đọng xây dựng cơ bản, UBND tỉnh đã tập trung bố trí vốn để xử lý nợ

đọng, vốn đối ứng ODA, vốn cho các công trình chuyển tiếp, chỉ bố trí vốn

thực hiện một số công trình mới thực sự cần thiết, cấp bách. Đồng thời, tiếp

tục chỉ đạo tăng cƣờng công tác quản lý đầu tƣ, kiên quyết không điều chỉnh

quy mô và bổ sung thêm các hạng mục so với quyết định phê duyệt dự án ban

đầu, loại bỏ các hạng mục không cần thiết, không sử dụng vật liệu đắt tiền;

chỉ đạo nâng cao trách nhiệm các chủ đầu tƣ, tƣ vấn; tổ chức kiểm tra, đôn

đốc các nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, dự án, nhất là các

công trình trọng điểm của tỉnh; chấn chỉnh và quản lý chặt chẽ việc tạm ứng

vốn... Công tác giám sát đầu tƣ đƣợc tăng cƣờng, đã tổ chức nhiều đợt giám

sát đối với các chƣơng trình dự án. Công tác thanh, quyết toán vốn đầu tƣ

thực hiện khá tốt, công tác giải ngân vốn đầu tƣ có nhiều tiến bộ, tỷ lệ giải

ngân 6 tháng đầu năm ƣớc đạt 51% dự toán.

Đã chỉ đạo thực hiện tốt công tác bồi thƣờng, GPMB các công trình, dự

án trên địa bàn tỉnh, nhất là các công trình, dự án trọng điểm của tỉnh. Đặc

biệt, trong 6 tháng đầu năm 2014, cả hệ thống chính trị của tỉnh đã vào cuộc

chỉ đạo triển khai thực hiện công tác bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng Dự án

mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 1 đoạn qua tỉnh Quảng Bình. Đến nay, các địa

73

phƣơng đã hoàn thành và bàn giao mặt bằng toàn tuyến (143,7 km/143,7 km)

cho các chủ đầu tƣ, nhà thầu thi công - đây là một sự nỗ lực, quyết tâm cao

của tỉnh.

*Tài chính - tín dụng, ngân hàng

Tài chính: Trong điều kiện kinh tế khó khăn, đồng thời phải thực hiện

các giải pháp miễn, giảm thuế, gia hạn, giãn thời gian nộp thuế để tháo gỡ khó

khăn cho doanh nghiệp, đã ảnh hƣởng đến thu ngân sách trên địa bàn, UBND

tỉnh đã chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp thu, tập trung thu hồi nợ đọng thuế,

phát triển quỹ đất để tăng nguồn thu, nên thu ngân sách tăng trƣởng so cùng

kỳ. 6 tháng đầu năm, tổng thu ngân sách trên địa bàn ƣớc đạt 1.100 tỷ đồng,

bằng 50% dự toán địa phƣơng, tăng 16,7% so cùng kỳ. Tổng chi ngân sách

địa phƣơng ƣớc đạt 3.172 tỷ đồng, đạt 54,7% dự toán địa phƣơng giao. Công

tác quản lý, điều hành thu, chi ngân sách nhà nƣớc đƣợc thực hiện đúng quy

định, tiết kiệm.

Tín dụng: Hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng đã thực hiện nghiêm

túc các chính sách tiền tệ, tín dụng, tập trung cho vay khắc phục hậu quả bão

lụt, 5 lĩnh vực ƣu tiên , các đối tƣợng chính sách. Chỉ đạo các ngân hàng, tổ

chức tín dụng triển khai Chƣơng trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp; tăng

cƣờng đối thoại trực tiếp với doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn trong quan hệ

tín dụng với ngân hàng; điều chỉnh giảm dần lãi suất cho vay, kể cả các khoản

dƣ nợ cho vay cũ về mức lãi suất thấp; thực hiện gia hạn, giãn nợ, kéo dài thời

hạn nợ, cho vay mới để chia sẽ, hỗ trợ doanh nghiệp. Đồng thời, triển khai các

giải pháp để huy động vốn, đáp ứng nhu cầu tăng trƣởng tín dụng. Ƣớc thực

hiện 6 tháng, nguồn vốn tăng 7,5%; dƣ nợ tăng 7,3% so với đầu năm. Chỉ đạo

xử lý nợ theo đề án phê duyệt. Thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các

quy định về cho vay, huy động vốn; việc chấp hành quy định về trần lãi suất

huy động, trần lãi suất cho vay với các lĩnh vực ƣu tiên.

74

*Hoạt động đối ngoại và xúc tiến đầu tư

Công tác ngoại vụ: Chú trọng tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác với

tỉnh Khăm Muộn, Savanakhet và các tỉnh lân cận của nƣớc bạn Lào, vùng

Đông Bắc Thái Lan... Việc quản lý đoàn vào, đoàn ra đƣợc thực hiện đúng

quy định. Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ trong việc đi

công tác nƣớc ngoài. Tạo điều kiện cho các đoàn phóng viên báo chí đến tác

nghiệp đƣa tin quảng bá hình ảnh, các sự kiện của tỉnh.

Các dự án ODA tiếp tục đƣợc triển khai thực hiện theo kế hoạch. 6

tháng đầu năm, các dự án ODA đã giải ngân: 157,562 tỷ đồng đạt 63,8% kế

hoạch, trong đó vốn ODA: 137,189 tỷ đồng, vốn đối ứng 20,373 tỷ đồng.

Trong điều kiện đầu tƣ công thắt chặt, UBND tỉnh tiếp tục vận động thêm các

dự án ODA để đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng của tỉnh.

Các dự án NGO: Công tác vận động thu hút và tiếp nhận nguồn viện

trợ NGO đƣợc triển khai tích cực. Trong 6 tháng đã vận động thực hiện 9

chƣơng trình, dự án với tổng mức vốn cam kết là 837.705 USD, góp phần hỗ

trợ sinh kế cho ngƣời nghèo, giáo dục trẻ em, nâng cao năng lực ngƣời khuyết

tật, hỗ trợ khám chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí, hỗ trợ nạn nhân bom mìn...

Công tác xúc tiến đầu tư: UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo nhằm đẩy

mạnh công tác xúc tiến, kêu gọi đầu tƣ vào địa bàn tỉnh; trực tiếp làm việc với

các nhà đầu tƣ đến từ: Đức, Ấn Độ, Nga, Thụy Điển, Séc, Hàn Quốc đến khảo

sát cơ hội đầu tƣ tại tỉnh. Đặc biệt, đã phối hợp với Ngân hàng TMCP Đầu tƣ

và Phát triển Việt Nam (BIDV) tổ chức thành công Hội nghị Xúc tiến đầu tƣ

vào tỉnh Quảng Bình. Tại hội nghị, UBND tỉnh đã cấp Giấy chứng nhận đầu

tƣ và ký thoả thuận hợp tác đầu tƣ: 23 dự án, với tổng số vốn đầu tƣ: 20.108

tỷ đồng. Trong đó: đã cấp giấy chứng nhận đầu tƣ cho 13 dự án với số vốn:

8.508 tỷ đồng; ký thoả thuận hợp tác với 5 nhà đầu tƣ để triển khai 10 dự án

với số vốn: 11.600 tỷ đồng. Đây là kết quả của cả một quá trình chuẩn bị công

75

phu, kỹ lƣỡng với cách làm mới, sáng tạo, các dự án mang tính khả thi cao.

Ngay sau Hội nghị, UBND tỉnh đã thành lập Tổ công tác hỗ trợ các dự án đầu

tƣ nhằm giải quyết ngay những khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình triển

khai thực hiện.

*Phát triển doanh nghiệp và các thành phần kinh tế

Trong điều kiện khó khăn chung, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã

thực hiện rà soát, tổ chức lại bộ máy; tiết kiệm chi phí, giảm giá thành; chủ

động tìm kiếm thị trƣờng để duy trì và mở rộng sản xuất. UBND tỉnh cũng đã

chỉ đạo thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Đã tổ

chức Hội nghị gặp mặt các doanh nghiệp nhằm lắng nghe, chia sẽ, động viên

và trực tiếp trả lời, giải quyết khó khăn, vƣớng mắc của doanh nghiệp.

Công tác đổi mới, sắp xếp DNNN: Công tác cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nƣớc đƣợc triển khai theo kế hoạch. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện lộ trình cổ

phần hóa đối với 02 doanh nghiệp: Công ty TNHH MTV Cấp thoát nƣớc

Quảng Bình và Công ty TNHH MTV Đƣờng sông Quảng Bình theo kế hoạch.

Đến nay, đã hoàn thành việc xác định giá trị doanh nghiệp, hƣớng dẫn các

doanh nghiệp hoàn chỉnh điều lệ, phƣơng án sản xuất kinh doanh, phƣơng án

sắp xếp lại lao động, phƣơng án sử dụng đất để thẩm định theo đúng quy

định.

Công tác đăng ký kinh doanh: 6 tháng đầu năm, đã cấp giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh cho 210 doanh nghiệp, bằng 94,2% SCK, với số

vốn đăng ký 886 tỷ đồng; nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký lên 3.641 DN,

với tổng số vốn đăng ký hơn 15.561 tỷ đồng. Công tác hậu kiểm đƣợc chú

trọng, đã tiến hành 20 đợt hậu kiểm, kiểm tra 52 doanh nghiệp, đã thu hồi

giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của 44 doanh nghiệp.

Kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể tiếp tục phát huy vai trò, vị trí trong giải

quyết việc làm, tăng thu nhập cho xã viên, ngƣời lao động. Nhiều mô hình

76

hoạt động của các tổ hợp tác, hợp tác xã, kinh tế trang trại, liên kết hộ trong

sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có hiệu quả, đã góp phần thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn.

*Tài nguyên và môi trường

Tiếp tục triển khai thực hiện Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và

kế hoạch sử dụng đất tỉnh giai đoạn 2011- 2015. Việc giới thiệu địa điểm,

giao đất, cho thuê đất, kiểm tra, xử lý thu hồi đất đƣợc thực hiện đúng quy

định. Công tác phát triển quỹ đất đƣợc đẩy mạnh, nhất là đất giá rẻ cho ngƣời

thu nhập thấp, tạo nguồn lực cho đầu tƣ phát triển. Đẩy mạnh việc đo đạc lập

bản đồ địa chính, chỉ đạo đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất cho các tổ chức và cá nhân. Đến nay, toàn tỉnh đã cấp 533.679 giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất, với diện tích 569.143 ha, đạt 94,55%. Chỉ đạo giao

đất sản xuất cho đồng bào dân tộc và ngƣời dân sống gần rừng để ổn định sản

xuất. Đã tổ chức triển khai thi hành Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản

hƣớng dẫn. Chỉ đạo thực hiện các kết luận của Ban Thƣờng vụ Tỉnh uỷ trong

lĩnh vực đất đai.

Công tác quản lý tài nguyên tiếp tục đƣợc tăng cƣờng, hoạt động kiểm

tra, thanh tra, khắc phục tình trạng khai thác khoáng sản trái phép đƣợc chú

trọng. UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo chấn chỉnh tình trạng khai thác cát sạn

lòng sông trái phép; đồng thời, thực hiện cấp phép tạm thời khai thác cát cho

các tổ chức, cá nhân để giải quyết tình trạng khan hiếm cát. Hiện nay, tình

trạng khai thác cát sạn trái phép đã đƣợc chấn chỉnh.

Công tác bảo vệ môi trƣờng đƣợc quan tâm chỉ đạo thực hiện, tiếp tục

thực hiện lộ trình xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trƣờng nghiêm

trọng theo Quyết định 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ. Thực hiện

việc ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trƣờng và thu phí nƣớc thải công nghiệp

theo quy định. Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại

77

trong lĩnh vực đất đai, khoáng sản và môi trƣờng.

*Giáo dục đào tạo

Chú trọng nâng cao chất lƣợng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo

dục. Quan tâm đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trƣờng, lớp học,

tập trung các nguồn lực để khắc phục, sửa chữa các trƣờng, lớp bị ảnh hƣởng

do bão số 10, 11 năm 2013 gây ra; củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo

dục tiểu học - chống mù chữ, phổ cập tiểu học - đúng độ tuổi, đẩy mạnh phổ

cập giáo dục THCS đến nay có 268 trƣờng đƣợc công nhận đạt chuẩn Quốc

gia. Chất lƣợng giáo dục đƣợc nâng lên, số lƣợng học sinh đạt giải trong các

kỳ thi học sinh giỏi quốc gia đồng đều ở các cấp học. Kỳ thi tốt nghiệp THPT

và bổ túc THPT đƣợc tổ chức an toàn, đúng quy chế. Tỷ lệ học sinh tốt

nghiệp khối THPT đạt 99,32%, bổ túc THPT đạt 96,93%. Công tác vận động,

huy động số lƣợng, duy trì sỹ số các cấp học đƣợc tiến hành tích cực nên số

lƣợng học sinh bỏ học giảm đáng kể so năm trƣớc. Chỉ đạo thực hiện phổ cập

giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi theo kế hoạch.

Đào tạo đại học và trung cấp chuyên nghiệp tiếp tục phát triển cả về

quy mô, cơ cấu ngành nghề. Tiếp tục mở rộng quy mô, ngành nghề đào tạo

theo hƣớng đa cấp, đa ngành và đa dạng hoá các loại hình đào tạo; thực hiện

các giải pháp phân luồng học sinh sau trung học. Từng bƣớc xây dựng mối

quan hệ hợp tác với các cơ sở sản xuất kinh doanh để tổ chức cho sinh viên,

học viên thực tập nghề và tạo cơ hội tìm kiếm việc làm.

*Khoa học và công nghệ

Công tác quản lý nhà nƣớc về khoa học và công nghệ đƣợc tăng cƣờng.

Chú trọng hoạt động ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ để

nâng cao năng suất, chất lƣợng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Tiếp tục hoàn

thiện cơ chế quản lý các đề tài, dự án khoa học, công nghệ; nâng cao chất

lƣợng công tác tuyển chọn, xét chọn, đánh giá, nghiệm thu đề tài, dự án khoa

78

học, công nghệ. Công tác quản lý tiêu chuẩn đo lƣờng chất lƣợng đƣợc quản lý

chặt chẽ, góp phần nâng cao chất lƣợng sản phẩm hàng hóa và đo lƣờng; đồng

thời, tạo môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở SXKD và bảo vệ

quyền lợi ngƣời tiêu dùng. Công tác xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học

và công nghệ đƣợc đẩy mạnh. Tổ chức thành công Hội thảo Khoa học Quốc

gia “Quảng Bình 410 năm hình thành và phát triển”; Hội thảo khoa học "Các

giải pháp nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững cây cao su trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình", qua Hội thảo đã đƣa ra các giải pháp cụ thể nhằm góp phần

giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra đối với cây cao su trong thời gian tới.

*Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân đƣợc quan tâm chỉ đạo,

chất lƣợng khám chữa bệnh đƣợc nâng lên. Công tác phòng, chống dịch bệnh

đƣợc tăng cƣờng, chỉ đạo triển khai các biện pháp phòng, chống các dịch

bệnh: dịch cúm A (H1N1, H5N1), sởi, tay chân miệng, sốt xuất huyết nên đã

kịp thời xử lý, sớm bao vây dập tắt dịch. Chỉ đạo việc phân tuyến chuyên

môn, chuyển tuyến điều trị và đăng ký khám bệnh chữa bệnh ban đầu bảo

hiểm y tế; tổ chức đấu thầu mua thuốc năm 2014 theo quy định.

Chƣơng trình MTQG và các chƣơng trình y tế khác đƣợc tổ chức thực

hiện tích cực, bảo đảm tiến độ. Tổ chức thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm

về an toàn vệ sinh thực phẩm, công tác hành nghề y, dƣợc tƣ nhân. Nhờ làm

tốt công tác kiểm tra, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm nên từ đầu năm

đến nay chƣa xảy ra trƣờng hợp ngộ độc thực phẩm. Công tác xã hội hóa về y

tế phát triển khá, góp phần phục vụ chẩn đoán và nâng cao chất lƣợng điều trị.

Mạng lƣới y tế cơ sở tiếp tục đƣợc củng cố. Thực hiện có hiệu quả công tác

chỉ đạo tuyến, cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ tuyến trên về hỗ trợ các

bệnh viện tuyến dƣới nhằm nâng cao chất lƣợng khám, chữa bệnh.

79

*Văn hoá, thể thao, thông tin và truyền thông

Tăng cƣờng QLNN về hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa, thông tin và

truyền thông, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội và xây dựng môi trƣờng

văn hoá lành mạnh ở địa phƣơng. Các hoạt động văn hoá, thông tin, phát thanh

truyền hình, thể dục, thể thao tập trung vào phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa

phƣơng, hƣớng vào kỷ niệm các ngày lễ lớn và các sự kiện quan trọng. Phong

trào ''Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục đƣợc duy trì. Đặc

biệt, đã tổ chức thành công chuỗi sự kiện kỷ niệm 410 năm hình thành tỉnh

Quảng Bình, mà điểm nhấn là Lễ mít tinh và đón nhận Huân chƣơng Hồ Chí

Minh, Chƣơng trình nghệ thuật đặc sắc kỷ niệm 410 năm hình thành tỉnh

Quảng Bình, khai mạc Đại hội Thể dục - Thể thao tỉnh lần thứ VII.

Phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển mạnh với nhiều hình

thức ngày càng phong phú, đa dạng. Thể thao thành tích cao ngày càng đƣợc

chú trọng và đã thu đƣợc nhiều kết quả đáng khích lệ.

Hoạt động quản lý báo chí, xuất bản, in và phát hành; bƣu chính và

thông tin truyền thông... đƣợc đẩy mạnh. Công tác thông tin, tuyên truyền tập

trung vào các chủ trƣờng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nƣớc; tình hình kinh tế, xã hội, các vấn đề thời sự trong tỉnh... Thực hiện phát

sóng kênh QBTV trên vệ tinh Vinasat 1. Đặc biệt, trƣớc sự kiện Trung Quốc

hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trên vùng lãnh hải và vùng đặc quyền

kinh tế của nƣớc ta ở Hoàng Sa, đã tập trung chỉ đạo công tác thông tin, tuyên

truyền để nhân dân nhận thức đúng, có các hành động đấu tranh bảo vệ chủ

quyền biển đảo của Tổ quốc theo đúng quy định của pháp luật và sự chỉ đạo

của Trung ƣơng. Mạng lƣới bƣu chính, viễn thông đƣợc đầu tƣ ngày đồng bộ,

hiện đại, thông tin liên lạc đảm bảo thông suốt phục vụ chỉ đạo, điều hành

phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và phòng, chống bão lụt. Việc

ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý nhà nƣớc đã đƣợc các

80

cấp, các ngành quan tâm đẩy mạnh.

*Lao động, Thương binh và Xã hội

Tập trung chỉ đạo công tác giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo,

tăng cƣờng đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài có thời hạn... 6

tháng đầu năm, đã giải quyết việc làm cho 16.528 lao động, đạt 51,6% KH.

Công tác an sinh xã hội, bảo trợ xã hội tiếp tục đƣợc quan tâm. Đã theo dõi,

nắm sát tình hình đời sống nhân dân, nhất là đời sống đồng bào dân tộc, vùng

sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, để có biện pháp hỗ trợ kịp thời. Thu nhập

và đời sống của nhân dân tiếp tục đƣợc cải thiện. Tiếp tục triển khai có kết

quả các hoạt động bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Giải quyết kịp thời các chế độ

chính sách cho các đối tƣợng chính sách; đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp

nghĩa, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho thƣơng binh, bệnh binh, gia

đình liệt sỹ, ngƣời có công với cách mạng. Chỉ đạo triển khai tổng rà soát việc

thực hiện chính sách ƣu đãi đối với ngƣời có công với cách mạng trên địa bàn

tỉnh. Tổ chức đón nhận và làm Lễ an táng 32 hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện

và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại chiến trƣờng Lào.

Tập trung chỉ đạo công tác xóa đói giảm nghèo, thực hiện rà soát kết quả

hộ nghèo, hộ cận nghèo. Thực hiện lồng ghép các chƣơng trình, dự án tác động

đến thực hiện Chƣơng trình giảm nghèo. Chƣơng trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh

và bền vững tại huyện Minh Hóa tiếp tục đạt đƣợc những kết quả tích cực. Trong

6 tháng đầu năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,3%, còn 11,88% .

*Công tác tổ chức bộ máy, xây dựng chính quyền

Công tác tổ chức bộ máy, xây dựng chính quyền đƣợc quan tâm chỉ đạo

thực hiện. Đã hoàn thành việc thành lập thị xã Ba Đồn theo Nghị quyết của

Chính phủ; hợp nhất 03 trung tâm cấp huyện để thành lập Trung tâm Giáo dục

- Dạy nghề các huyện, thành phố và thành lập mới Trung tâm Giáo dục - Dạy

nghề thị xã Ba Đồn; chuyển 07 Trung tâm Dân số - Kế hoạch hoá gia đình

81

cấp huyện thuộc Sở Y tế về thuộc UBND huyện, thành phố và thành lập mới

Trung tâm Dân số - KHHGĐ Thị xã Ba Đồn. Tập trung chỉ đạo xây dựng và

nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức; củng cố và hoàn thiện bộ

máy chính quyền cơ sở; thực hiện cải cách chế độ công vụ, công chức.

Công tác cải cách hành chính đã thực sự đƣợc chú trọng và có nhiều

chuyển biến đáng kể. Tập trung chỉ đạo triển khai rà soát các thủ tục hành

chính, bãi bỏ, bổ sung, thay thế hoặc kiến nghị bãi bỏ, bổ sung, thay thế các

quy định về thủ tục hành chính. Chỉ đạo nâng cao chất lƣợng hoạt động cơ

chế một cửa và mở rộng thực hiện cơ chế một cửa liên thông. Tập trung chỉ

đạo các ngành, các địa phƣơng duy trì chỉ số PAPI, khắc phục các hạn chế

trong việc đánh giá chỉ số cải cách hành chính PAR index.

Công tác thi đua khen thưởng: Phong trào thi đua yêu nƣớc tiếp tục

đƣợc đẩy mạnh. Các sở, ban, ngành, địa phƣơng đã tổ chức phát động các

phong trào thi đua, lập thành tích chào mừng kỷ niệm 410 năm hình thành

tỉnh Quảng Bình, 25 năm ngày tái lập tỉnh Quảng Bình, 66 năm Ngày Chủ

tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc. Đã tổ chức sơ kết, tổng kết

và trao thƣởng cho các tập thể, cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong thực

hiện phong trào thi đua.

*Công tác thanh tra, tư pháp, phòng chống tham nhũng

Công tác thẩm định, góp ý văn bản QPPL đƣợc triển khai thực hiện

thƣờng xuyên, kịp thời, có chất lƣợng. Công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống

hóa các văn bản quy phạm pháp luật đƣợc chú trọng. Công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật tiếp tục đƣợc đẩy mạnh, hoạt động ngày càng có hiệu quả. Đã

ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013. Công tác kiểm

soát thủ tục hành chính thực hiện nghiêm túc, hoạt động hành chính tƣ pháp,

bổ trợ tƣ pháp và trợ giúp pháp lý đi vào nền nếp. Công tác thi hành án dân sự

có chuyển biến tiến bộ. Việc tiếp cận pháp luật của ngƣời dân tại cơ sở đƣợc

82

quan tâm chỉ đạo thực hiện.

Công tác thanh tra, phòng chống tham nhũng tiếp tục đƣợc đẩy mạnh.

Qua thanh tra đã phát hiện, xử lý nhiều vi phạm pháp luật, phát hiện số tiền

sai phạm 67,995 tỷ đồng. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đƣợc chú

trọng, chỉ đạo giải quyết kịp thời theo đúng thẩm quyền của từng cấp. Tăng

cƣờng các biện pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng; triển khai có hiệu

quả Kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lƣợc quốc gia phòng, chống tham

nhũng đến năm 2020. Thực hiện công khai, minh bạch các hoạt động của cơ

quan nhà nƣớc; kê khai tài sản, thu nhập, công khai bản kê khai tài sản, thu

nhập; chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức...

Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có nhiều chuyển biến

tích cực. Các cấp chính quyền địa phƣơng đã quan tâm rà soát đơn thƣ khiếu

nại, tố cáo; xem xét, giải quyết kịp thời, đúng trình tự, thủ tục quy định. Nhiều

vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài, vƣợt cấp, phức tạp đã đƣợc tập trung giải

quyết.

3.3.1.2 Về công tác bảo vệ an ninh biển đảo

Đƣợc sự đầu tƣ về vật chất và động viên tinh thần, lực lƣợng bộ đội

trên đảo, bộ đội biên phòng của tỉnh ngày càng đƣợc củng cố và lớn mạnh,

tinh thần của cán bộ chiến sỹ đƣợc củng cố, an tâm công tác thực hiện nhiệm

vụ của mình.

Công tác chống buôn lậu, bảo vệ chủ quyền lãnh hải trƣớc sự vi phạm

của ngƣ dân nƣớc ngoài ngày càng đƣợc nâng cao. Ngƣ dân tích cực vƣơn

khơi bám biển vừa đánh bắt hải sản bảo vệ ngƣ trƣờng vừa giữ gìn và bảo vệ

chủ quyền lãnh hải. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ngày

càng đƣợc củng cố. Nhân dân và lực lƣợng vũ trang tỉnh luôn sẵn sàng cho

mọi tình huống bất ngờ có thể xảy ra.

Với những kết quả đạt đƣợc về kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo của

83

Quảng Bình nhƣ trên có thể nói rằng: bảo vệ an ninh biển đảo là điều kiện

phát triển kinh tế và phát triển kinh tế góp phần nâng cao năng lực bảo vệ an

ninh biển đảo.

3.3.2 Tồn tại, hạn chế

3.3.2.1. Về phát triển kinh tế - xã hội

Mặc dù đã đạt đƣợc những thành tựu về kinh tế - xã hội vừa nêu trên,

tuy vậy vẫn còn một số hạn chế mà Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Quảng Bình

cần phải tập trung khắc phục:

- Tăng trƣởng kinh tế chƣa thực sự vững chắc, chất lƣợng và hiệu quả

chƣa cao, chƣa tƣơng xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, những yếu kém

nội tại chậm đƣợc khắc phục, nhƣ sức cạnh tranh của nền kinh tế, của các

doanh nghiệp còn yếu; chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Tốc độ tăng

trƣởng GDP tuy đạt khá, nhƣng quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé, GDP bình

quân đầu ngƣời năm còn thấp so với mức trung bình cả nƣớc; chất lƣợng

nguồn nhân lực chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển; trình độ khoa học công

nghệ còn lạc hậu.

- Chuyển dịch cơ cấu cây trồng còn chậm, sản phẩm qua chế biến thấp.

Ngành nghề nông thôn phát triển chậm, thị trƣờng tiêu thụ nông, lâm, thuỷ

sản gặp nhiều khó khăn. Chƣơng trình phát triển chăn nuôi của một số địa

phƣơng chƣa đƣợc quan tâm, kết quả chƣa tƣơng xứng với tiềm năng, nhất là

chăn nuôi đại gia súc. Tình trạng khai thác gỗ, vận chuyển, buôn bán lâm sản,

động vật hoang dã trái phép vẫn còn xảy ra. Chế biến thuỷ sản gặp nhiều khó

khăn, nhƣng chƣa đƣợc tháo gỡ kịp thời.

Tuy giá trị sản xuất công nghiệp - TTCN đã có bƣớc phát triển, nhƣng

quy mô sản xuất còn nhỏ, trang thiết bị, công nghệ. Chất lƣợng, hiệu quả và

sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn chƣa đáp ứng yêu cầu; hiệu quả Chƣơng trình phát triển

84

TTCN và ngành nghề nông thôn còn hạn chế. Cơ sở hạ tầng các khu công

nghiệp chƣa thật sự đồng bộ. Một số làng nghề đã đƣợc đầu tƣ nhƣng chƣa

phát huy hiệu quả.

Hệ thống hạ tầng thƣơng mại nông thôn chƣa thật sự phát triển. Hoạt

động du lịch còn hạn chế, nhất là nhận thức về phát triển du lịch bền vững;

sản phẩm du lịch còn đơn điệu và thiếu sự gắn kết giữa các tour, tuyến, điểm

du lịch. Kim ngạch xuất khẩu tăng khá nhƣng chƣa vững chắc, nguồn hàng

xuất khẩu không ổn định, chủ yếu khai thác từ ngoài tỉnh và xuất nguyên liệu

thô. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bƣu chính, viễn thông... mở rộng về

nông thôn, miền núi còn chậm.

- Nguồn vốn đầu tƣ phát triển vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu phát

triển KT-XH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Hiệu quả sử dụng vốn

còn thấp, việc huy động nội lực còn yếu. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội chƣa thật sự đồng bộ, hoàn chỉnh, chƣa đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển

trong tình hình mới và còn có sự chênh lệch giữa các vùng. Công tác bồi

thƣờng, giải phóng mặt bằng còn nhiều vƣớng mắc làm ảnh hƣởng đến tiến

độ triển khai thực hiện các dự án. Chất lƣợng, tiến độ các công trình chƣa

đƣợc quản lý chặt chẽ.

Công tác quản lý, giám sát chất lƣợng thi công công trình còn nhiều

hạn chế, việc thực hiện các quy định về đánh giá giám sát đầu tƣ chƣa tốt,

việc quản lý vận hành bảo dƣỡng công trình hạ tầng sau đầu tƣ còn yếu nên

hiệu quả sử dụng công trình còn thấp.

- Chất lƣợng giáo dục - đào tạo vẫn chƣa đáp ứng yêu cầu; vẫn còn tình

trạng học sinh bỏ học, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn; tiến độ phổ cập

THCS ở một số địa phƣơng còn chậm. Công tác xã hội hóa giáo dục chƣa đạt

mục tiêu, yêu cầu đề ra. Một bộ phận giáo viên trình độ, năng lực còn hạn

85

chế. Chất lƣợng nguồn nhân lực, cũng nhƣ tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề

còn thấp. Lực lƣợng lao động kỹ thuật ít, lại phân bố chƣa hợp lý giữa các

ngành, các vùng

- Chất lƣợng khám chữa bệnh và các dịch vụ y tế tuy đã đƣợc nâng lên

nhƣng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Trình độ

chuyên môn, kỹ thuật, kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp với ngƣời bệnh

của một số cán bộ y tế còn yếu. Cơ sở vật chất, trang thiết bị các trung tâm y

tế dự phòng cấp huyện và trạm y tế xuống cấp, trang thiết bị chuyên môn còn

thiếu, không đồng bộ. Tỷ suất sinh hàng năm, tỷ lệ suy dinh dƣỡng trẻ em

dƣới 5 tuổi và tỷ lệ sinh con thứ 3 còn ở mức cao. Tình trạng mất cân bằng

giới tính khi sinh có xu hƣớng tăng.

- Hoạt động văn hoá cơ sở còn một số mặt hạn chế. Việc quản lý nhà

nƣớc trên một số lĩnh vực văn hoá, thể thao, thông tin truyền thông có mặt

thiếu chặt chẽ. Công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa chƣa

đƣợc quan tâm đúng mức.

- Chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm; còn nhiều lao động thiếu việc

làm. Đời sống nhân dân, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn còn khó

khăn. Giảm nghèo chƣa vững chắc; ý chí thoát nghèo của một bộ phận nhân

dân chƣa mạnh, đây là lực cản lớn trong công tác xoá đói giảm nghèo.

- Đầu tƣ xã hội cho khoa học và công nghệ còn thấp và chƣa thật sự là

động lực lớn để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, nhất là từ khu vực

doanh nghiệp; thị trƣờng khoa học và công nghệ chậm phát triển; công tác

kiểm tra, giám sát, kiểm định chất lƣợng đo lƣờng và chất lƣợng sản phẩm

còn hạn chế.

Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có mặt còn hạn chế. Việc

cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở đô thị vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu

86

cầu. Quản lý cấp phép, kiểm tra, giám sát việc khai thác khoáng sản còn thiếu

đồng bộ. Công tác quản lý môi trƣờng còn yếu kém, nhất là quản lý việc xử lý

nƣớc thải, khí thải, rác thải ... đô thị.

3.3.2.2. Về công tác bảo vệ an ninh biển đảo

Mặc dù đƣợc đầu Đảng và Chính quyền tỉnh quan tâm đầu tƣ mua sắm

trang thiết bị vật chất cho công tác bảo vệ an ninh biển đảo nhƣng so với thực

tế yêu cầu nhiện vụ vẫn còn hạn chế, chƣa đồng bộ và hiện đại. Phƣơng tiện

đánh bắt của ngƣ dân vẫn còn nhỏ, lạc hậu so với các nƣớc trên thế giới.

Lực lƣợng an ninh biển do trang thiết bị còn hạn chế nên chƣa đảm bảo

an toàn cho ngƣ dân. Ngƣ dân vẫn còn bị lực lƣợng chấp pháp của Trung

Quốc bắt giữ. Trình độ của cán bộ chiến sỹ mặc dù thƣờng xuyên đƣợc tập

huấn đào tạo nhƣng để đảm yêu cầu công việc trong tình hình mới so với lực

lƣợng của các tỉnh bạn vẫn còn hạn chế.

Là tỉnh miền trung chịu ảnh hƣởng khắc nghiệt của thời tiết, về mùa

mƣa bảo ngƣ dân không ra khơi bám biển đƣợc, các lực lƣợng chấp pháp của

tỉnh củng hoạt động có phần hạn chế.

Từ những hạn chế đó cho nên công tác bảo vệ anh ninh biển đảo vẫn

còn gặp nhiều khó khăn. Hy vọng trong thời gian tới cùng với sự phát triển

kinh tế ngày một đi lên của tỉnh và sự quan tâm của Lãnh đạo chính quyền

các cấp, công tác bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình sẽ ngày càng tốt hơn.

3.3.2.3. Về sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo

Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo không

phải khi nào và ở đâu cũng đƣợc thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Trong các

hoạt động kinh tế, thông thƣờng hiệu quả kinh tế đƣợc coi trọng, mà không

chú ý đầy đủ đến các yêu cầu về quốc phòng - an ninh. Đặc biệt, sự liên kết

giữa ngƣ dân trong đánh bắt hải sản để bảo vệ lẫn nhau chƣa đƣợc coi trọng

87

đúng mức.

Các hoạt động quốc phòng - an ninh không phải khi nào cũng coi bảo

vệ các hoạt động kinh tế là một trong những mục tiêu quan trọng nhất, mà

thƣờng đƣợc thực hiện theo kế hoạch, theo chỉ thị của cấp trên.

3.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

3.3.3.1 Nguyên nhân chủ quan

Sự lãnh đạo, chỉ đạo, năng lực cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị

quyết của một số cấp ủy, chính quyền thiếu nhạy bén, sáng tạo, đang xem nhẹ

vấn đề quốc phòng an ninh và bảo vệ an ninh biển đảo. Một số chƣơng trình,

kế hoạch đƣợc triển khai nhƣng chƣa kịp thời sơ kết, tổng kết rút kinh

nghiệm, chƣa lƣờng hết những tác động của thiên tai, diễn biến bất thƣờng

của kinh tế thế giới, khu vực, trong nƣớc.

3.3.3.2 Nguyên nhân khách quan

Tỉnh Quảng Bình có điểm xuất phát thấp, nguồn lực cho đầu tƣ phát

triển còn hạn chế; nhiều khó khăn nội tại chƣa đƣợc khắc phục, thƣờng xuyên

chịu ảnh hƣởng của thiên tai, lại bị tác động của tình hình lạm phát; cán bộ

chủ chốt của tỉnh có thời điểm chậm đƣợc kiện toàn.

Nguồn lực phục vụ đầu tƣ phát triển còn hạn chế đặc biệt là đầu tƣ cho

bảo vệ an ninh biển đảo, khả năng các nguồn lực trong nhân dân chƣa đƣợc

phát huy đúng mức, tƣ tƣởng trông chờ ỷ lại trong một bộ phận nhân dân

chƣa đƣợc khắc phục triệt để.

CHƢƠNG 4:

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GẮN KẾT HƠN NỮA

GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI BẢO VỆ AN NINH BIỂN

ĐẢO Ở QUẢNG BÌNH TRONG THỜI GIAN TỚI

4.1. Bối cảnh mới ảnh hƣởng đến sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với

88

bảo vệ an ninh biển đảo

4.1.1. Những cơ hội mới

Năm 2014, kinh tế thế giới và trong nƣớc đƣợc dự báo có khả năng

phục hồi và chuyển biến tích cực hơn so với năm 2013. Kinh tế vĩ mô ổn

định, lạm phát đƣợc kiềm chế. Điều đó sẽ tác động tích cực đến kinh tế tỉnh

Quảng Bình.

Những kết quả đạt đƣợc trong phát triển kinh tế - xã hội trong những

năm qua là tiền đề quan trọng để kinh tế Quảng Bình tiếp tục phát triển. Các

dự án trọng điểm của tỉnh đƣợc hoàn thành đƣa vào sử dụng tạo động lực

quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới. Công tác

cải cách hành chính đƣợc đẩy mạnh; môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh tiếp tục

đƣợc cải thiện theo hƣớng thông thoáng, thân thiện là điều kiện thuận lợi cho

việc thu hút các nguồn vốn cho đầu tƣ phát triển.

Với sự ƣu đãi của thiên nhiên dành cho Quảng Bình, thời gian tới

ngành công nghiệp không khói sẽ thúc đẩy và tạo điều kiện cho các ngành

kinh tế khác cùng phát triển theo. Sự đầu tƣ và quan tâm chỉ đạo của Lãnh

đạo tỉnh đối với công tác bảo vệ an ninh biển đảo đƣợc nâng cao. Trình độ và

năng lực điều hàng của lực lƣợng chấp pháp ngày càng tiến bộ rõ rệt.

Chính phủ có chủ trƣơng hỗ trợ lãi suất, cho ngƣ dân vay vốn, thành

lập các tổ đội đánh bắt, dịch vụ hậu cần nghề cá.

Việc hạ đặt trái phép dàn khoan Hải Dƣơng 981 của Trung Quốc vi

phạm chủ quyền của Việt Nam không những bị Việt Nam, mà còn các nƣớc

và học giả trên thế giới lên án. Tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng và Nhà nƣớc

có cơ sở pháp lý kiện Trung Quốc ra tòa án Quốc tế.

Lực lƣợng vũ trang và nhân dân Quảng Bình luôn giàu lòng yêu nƣớc,

luôn luôn sẵn sàng cho mọi tình huống có thể xảy ra. Không những bảo vệ tốt

sự bình yên trên đất liền mà còn bảo vệ sự bình yên của biển đảo.

89

4.1.2. Những thách thức mới

Kinh tế cả nƣớc tuy có nhiều khả năng phục hồi và chuyển biến tích

cực hơn năm 2013 nhƣng vẫn còn tiếp tục khó khăn. Kinh tế của tỉnh những

năm qua tuy có tăng trƣởng khá nhƣng chƣa bền vững, còn phụ thuộc vào cơ

chế, chính sách điều hành của Trung ƣơng và các yếu tố khách quan khác.

Quy mô, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp của tỉnh còn thấp, hiệu

quả kinh tế chƣa cao. Chất lƣợng nguồn nhân lực chƣa đáp ứng, thiếu lao

động tay nghề cao. Thiệt hại do bão số 10 và 11 trên tất cả các lĩnh vực kinh

tế - xã hội rất nặng nề, đòi hỏi cần có thời gian và sự chung tay góp sức của cả

cộng đồng xã hội mới có thể phục hồi lại nền kinh tế của tỉnh.

Dù đƣợc quan tâm đầu tƣ nhƣng cơ sở vật chất, năng lực của cán bộ

chấp pháp vẫn còn hạn chế chƣa đáp ứng đầy đủ yêu cầu và nhiệm vụ trong

tình hình mới. Một số cấp ủy chính quyền chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã

hội nhƣng vẫn chƣa coi trọng vấn đề quốc phòng an ninh và an ninh biển đảo.

Mặc dù đƣợc chính phủ, các bộ ngành và lãnh đạo tỉnh có chính sách

hỗ trợ vay vốn cho ngƣ dân song vẫn chƣa đáp ứng đủ nhu cầu của ngƣời dân.

Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ an ninh biển đảo có lúc

vẫn chƣa đồng bộ, chính sách bảo hộ ngƣ dân vƣơn khơi bám biển bảo vệ chủ

quyển vẫn chƣa đƣợc thƣờng xuyên.

Do sự biến đổi khí hậu trên thế giới, tình hình thời tiết Việt Nan nói

chung và Quảng Bình nói riêng trong thời gian tới sẽ chứa đựng nhiều yếu tố

nguy hiểm, khó lƣờng.

Tình hình thế giới và khu vực có nhiều diển biến phức tạp và khó

lƣờng, chính sách bành trƣớng của Trung Quốc, sự xoay trục của Mỹ về Châu

Á Thái Bình Dƣơng, mâu thuẩn lợi ích quốc gia, xung đột vũ trang khu vực,

tình hình tôn giáo, sắc tộc ... đang diển ra ngày càng phức tạp và khó lƣờng,

chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn. Việt Nam nói chung và Quảng Bình nói riêng

90

cần phải có những chính sách ngoại giao vừa mềm dẻo vừa cứng rắn để vừa

phát triển kinh tế vừa bảo đảm quốc phòng an ninh, bảo đảm sự ổn định chính

trị, sự bình yên của tổ quốc.

4.2. Quan điểm gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo ở

Quảng Bình trong thời gian tới

4.2.1. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo vừa là

điều kiện phát triển kinh tế, vừa là điều kiện đảm bảo an ninh biển đảo

Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo sẽ tạo môi

trƣờng hòa bình ổn định thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo động lực cho các

thành phần kinh tế - xã hội phát triển, khi nền kinh tế xã hội đã phát triển thì

sẽ tác động trở lại để bảo vệ an ninh biển đảo đƣợc tốt hơn

Kết hợp kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo là sự gắn kết giữa kinh tế

với bảo vệ an ninh biển đảo trong một thể thống nhất nhằm bổ sung, tạo điều

kiện, thúc đẩy cùng nhau phát triển với hiệu quả kinh tế- xã hội cao, kinh tế

phát triển, quốc phòng, an ninh vững mạnh góp phần quan trọng tạo nên sức

mạnh tổng hợp của đất nƣớc, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, an

ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, nếu chiến

tranh xảy ra thì đánh thắng.

Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển

đảo là hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nƣớc và nhân dân trong việc gắn

kết chặt chẽ hoạt động kinh tế- xã hội và bảo vệ an ninh biển đảo trong một

chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nƣớc cũng nhƣ trong tỉnh, thúc đẩy nhau

cùng phát triển, góp phần tăng cƣờng sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực

hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc

Việt Nam XHCN.

Nhƣ vậy, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ an ninh biển đảo

là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động có nội dung, phƣơng thức

91

riêng nhƣng lại có sự thống nhất ở mục đích chung, sự kết hợp đó đã vừa tạo

điều kiện cho phát triển kinh tế vừa tạo điều kiện cho bảo vệ an ninh biển đảo;

cái này là điều kiện tồn tại của cái kia và ngƣợc lại.

4.2.2. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo là nhiệm

vụ của toàn đảng, toàn dân, toàn quân trong đó chính quyền tỉnh là nhân

tố quyết định

Quá trình phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy nhiều bộ phận trong dân cƣ tập

trung nguồn lực, nhiều thành phần kinh tế - xã hội cùng phát triển và để thực

hiện đƣợc điều đó thì an ninh quốc phòng nói chung và an ninh biển đảo nói

riêng phải đƣợc giữ vững do đó trách nhiệm phải thuộc toàn đảng, toàn dân và

toàn quân chứ không phải của riêng ai. Để thực hiện tốt đƣợc điều đó thì vai

trò của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phƣơng phải là nhân tố quyết định,

chỉ đạo lãnh đạo mọi quá trình phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển

đảo.

Thƣờng xuyên nắm vững chủ trƣơng đƣờng lối của Đảng, kịp thời đề ra

những quyết định lãnh đạo ngành, địa phƣơng mình, thực hiện kết hợp phát

triển kinh tế xã hội với tăng cƣờng củng bảo vệ an ninh biển đảo một cách

đúng đắn

Gắn chủ trƣơng lãnh đạo với tăng cƣờng kiểm tra việc thực hiện của

chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh tế thực hiện chủ trƣơng đƣờng lối về

kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển đảo.

Tổ chức tốt việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để bổ sung

chủ trƣơng và chỉ đạo thực tiễn thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với

tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển đảo ở sở ban ngành, địa phƣơng thuộc phạm

vi lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng

Từng cấp làm đúng chức năng, nhiệm vụ theo qui định của pháp luật và

92

nghị định 119/2004/ NĐ – CP của chính phủ đã ban hành ngày 11/5/2004.

Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các qui hoạch, kế hoạch kết hợp phát

triển kinh tế xã hội với tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển đảo ở các sở ban

ngành, địa phƣơng cơ sở của của tỉnh dài hạn và hàng năm.

Đổi mới nâng cao qui trình, phƣơng pháp quản lí, điều hành của chính

quyền từ khâu lập qui hoạch, kế hoạch, nắm tình hình, thu thập xử lí thông

tin, định hƣớng hoạt động, tổ chức hƣớng dẫn chỉ đạo cấp dƣới và kiểm tra ở

mọi khâu, mọi bƣớc của quá trình thực hiện. Chính vì vậy, gắn kết phát triển

kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân, toàn

quân trong đó chính quyền tỉnh là nhân tố quyết định.

4.2.3. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo phải đặt

trong quan hệ chặt chẽ giữa Quảng Bình và cả nước

Là một tỉnh miền trung của Tổ quốc, trình độ phát triển kinh tế - xã hội

chƣa cao, do đó để xây dựng một tỉnh có nền kinh tế - xã hội phát triển thì

Quảng Bình cần phải hội nhập, cần phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với cả

nƣớc.

Phát huy thế mạnh mà thiên nhiên ƣu đãi, Quảng Bình cần phải tăng

cƣờng quảng bá du lịch với cả nƣớc và thế giới để phát huy hết tiềm năng của

hệ thống hang động kỳ vỹ, bờ biển dài và đẹp với những món ăn ẩm thực đậm

chất quê hƣơng.

Nằm trên trục đƣờng chính là quốc lộ 1, quốc lộ 12, đƣờng mòn Hồ Chí

Minh và các trục đƣờng khác, Quảng Bình là nơi trung chuyển hàng hóa của

cả nƣớc. Do đó, cần đầu tƣ mở rộng các khu kinh tế, cửa khẩu, cảng biển để

hàng hóa trong tỉnh, trong nƣớc và thế giới đƣợc lƣu thông thuận tiện, tăng

thêm nguồn thu ngân sách cho tỉnh, hệ thống giao thông thông suốt sẽ đảm

93

bảo kết nối khu vực phòng thủ khi có chiến tranh xảy ra.

Công tác tuần tra, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh nói chung và

bảo vệ an ninh biển đảo nói riêng phải gắn kết, phối hợp với các tỉnh bạn và

cả nƣớc thì hiệu quả công tác mới phát huy đƣợc tốt.

Nằm trong sự chỉ đạo chung của Đảng và Nhà nƣớc, do vậy Quảng

Bình cũng nhƣ các tỉnh khác cần phải gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an

ninh biển đảo phải đặt trong quan hệ chặt chẽ giữa Quảng Bình và cả nƣớc có

nhƣ thế Quảng Bình sẽ ngày càng dàu mạnh hơn.

4.3. Giải pháp hoàn thiện công tác phát triển kinh tế kết hợp với bảo vệ

an ninh biển đảo ở Quảng Bình

4.3.1. Hoàn thiện các quy hoạch, kế hoạch của tỉnh theo hướng gắn

kết hơn nữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo

Hiện nay, cùng với cả nƣớc, tỉnh Quảng Bình đã và đang xây dựng

chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội gắn với tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển

đảo đến năm 2020. Thực tiễn, sự vận dụng quy luật kinh tế, bảo vệ an ninh

biển đảo và quán triệt quan điểm đƣờng lối của Đảng đề ra còn nhiều mâu

thuẫn và bất cập do thiếu định hƣớng chiến lƣợc cơ bản cả ở tầm vĩ mô và vi

mô. Vì vậy, muốn kết hợp ngay từ đầu và trong suốt quá trình phát triển kinh

tế - xã hội của tỉnh một cách cơ bản và thống nhất trên phạm vi của cả tỉnh và

từng địa phƣơng, phải tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các quy hoạch và kế

hoạch chiến lƣợc tổng thể và kết hợp phát triển kinh tế với tăng cƣờng bảo vệ

an ninh biển đảo. Coi đó là một trong những mặt, khâu quan trọng hàng đầu

chỉ đạo, quản lí nhà nƣớc, về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cƣờng bảo vệ

an ninh biển đảo một cách có hiệu lực, hiệu quả.

Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch chiến lƣợc tổng thể về phát triển

kinh tế xã hội với tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển đảo và đối ngoại trong thời

kì mới, phải có sự phối hợp giữa các sở,ban, ngành, địa phƣơng từ khâu khảo

94

sát, đánh giá các nguồn lực. Trên cơ sở đó xác định mục tiêu, phƣơng hƣớng

phát triển và đề ra các chính sách đúng đắn, nhƣ: chính sách khai thác các

nguồn lực, chính sách đầu tƣ và phân bổ đầu tƣ; chính sách điều động nhân

lực, bố trí dân cƣ, chính sách ƣu đãi khoa học và công nghệ…

Giải pháp cho Quảng Bình trong thời gian tới là tiến hành rà soát, củng

cố các cơ quan, đơn vị tƣ vấn xây dựng quy hoạch trên địa bàn tỉnh bảo đảm

gắn kết giữa phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo. Thực hiện đào tạo,

đào tạo lại, đào tạo nâng cao hoặc tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ làm quy

hoạch đƣợc tiếp tục học tập, nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ, chuyên môn

nghiệp vụ để đảm bảo đủ năng lực đảm đƣơng đƣợc những quy hoạch những

lĩnh vực quan trọng của tỉnh. Tiếp tục phối hợp với các viện nghiên cứu, các

Bộ ngành Trung ƣơng, các tổ chức tƣ vấn quốc tế trong xây dựng quy hoạch

nhằm đảm bảo quy hoạch có tầm nhìn xa, có trọng tâm, trọng điểm và phù

hợp với yêu cầu của các cơ quan, đơn vị, các nhà đầu tƣ trên địa bàn tỉnh.

Thực hiện công khai các quy hoạch đã đƣợc duyệt để ngƣời dân biết, tuân thủ

và thực hiện giám sát. Chỉ đạo thực hiện tốt Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã

hội của tỉnh, huyện đến năm 2020, tập trung xây dựng các quy hoạch đô thị,

khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch; quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch

phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; quy hoạch các ngành, lĩnh

vực mà tỉnh có thế mạnh... Hoàn chỉnh các quy hoạch: quy hoạch Vƣờn QG

Phong Nha-Kẻ Bàng, bổ sung quy hoạch chung thành phố Đồng Hới, quy

hoạch xây dựng vùng toàn tỉnh, QH chi tiết khu kinh tế Hòn La, Quy hoạch

đô thị Bảo Ninh, khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Cha Lo, quy hoạch một số thị

trấn, thị tứ...

4.3.2. Bảo vệ an ninh biển đảo phục vụ phát triển kinh tế

Bảo vệ biển đảo phải tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế; coi

95

bảo vệ các hoạt động kinh tế là mục tiêu.

Tạo môi trƣờng hòa bình ổn định để nhân dân yên tâm phát triển kinh

tế, bảo đảm an toàn và tạo niềm tin, xây dựng cơ chế chính sách tao điều kiện

để động viên khích lệ dân ra vùng ven biển và các tuyến đảo bám trụ làm ăn

lâu dài, mở rộng liên kết với các tỉnh bạn để có lực lƣợng xây dựng căn cứ

hậu phƣơng, bám trụ phát triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một cách vững

chắc, lâu dài.

Chú trọng đầu tƣ phát triển chƣơng trình kế hoạch phát triển kinh tế

của tỉnh, phát triển các khu kinh tế trọng điển, các thế mạnh về lợi thế mà

thiên nhiên ban tặng, phát triển các làng nghề đánh bắt xa bờ, thông qua đó

xây dựng lực lƣợng dân quân biển, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, kiểm tra,

kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt động vi phạm chủ quyền biển, đảo

của nƣớc ta.

Tập trung xây dựng phƣơng án đối phó với các tình huống có thể xảy

ra ở vùng biển đảo của tỉnh. Đầu tƣ xây dựng lực lƣợng nòng cốt và thế trận

phòng thủ trên biển đảo, trƣớc hết là phát triển và hiện đại hoá lực lƣợng tuần

tra trên biển để đủ sức mạnh canh giữ, bảo vệ vùng biển đảo.

4.3.3. Sử dụng thành quả phát triển kinh tế để nâng cao sức mạnh

bảo vệ biển đảo

Với những thành tựu mà kinh tế đem lại đã tạo cho tỉnh có nguồn lực đầu

tƣ cho quốc phòng an ninh nói chung và bảo vệ an ninh biển đảo nói riêng.

Xây dựng chiến lƣợc, qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội với

bảo vệ an ninh biển đảo của tỉnh.

Đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các công trình

quốc phòng, quân sự, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trƣờng… Bảo đảm tính

“lƣỡng dụng” trong mỗi công trình đƣợc xây dựng.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế với xây dựng các khu phòng thủ then chốt, các

96

cụm chiến đấu liên hoàn, các xã (phƣờng) chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh.

Đầu tƣ nguồn vốn nhân lực cho ngƣ dân đóng các loại tàu cá có công

suất lớn, mua sắm ngƣ cụ để ngƣ dân vƣơn khơi bám biển bảo vệ chủ quyền

thiêng liêng của tổ quốc.

Hỗ trợ cho các lƣợc lƣợng chấp pháp nhƣ bộ đội biên phòng, bộ đội

đóng quân trên đảo mua sắm các trang thiết bị nghiệp vụ, nâng cao đời sống

vật chất tin thần để các lực lƣợng chấp pháp yên tâm công tác, hoàn thành tốt

nhiệm vụ.

Sắp xếp lại tổ chức, xây dựng và điều chỉnh, bố trí lại lực lƣợng quốc

phòng, an ninh trên địa bàn cho phù hợp với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã

hội và kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có biển,

đảo là ở đó có dân và có lực lƣợng quốc phòng, an ninh để bảo vệ cơ sở, bảo

vệ Tổ quốc.

Xây dựng các cơ sở, kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng khắp với xây

dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kĩ thuật và hậu phƣơng vững chắc

để sẵn sàng đối phó khi có chiến tranh xâm lƣợc.

4.3.4. Kết hợp sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế và bảo vệ

an ninh biển đảo

Để đáp ứng đƣợc nhu cầu nguồn vốn đầu tƣ phát triển phục vụ mục tiêu

tăng trƣởng nhanh và bền vững, giai đoạn 2016 - 2020 cần thực hiện đồng bộ

các giải pháp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong và ngoài

nƣớc cho đầu tƣ phát triển. Cụ thể:

Huy động nguồn lực đầu tƣ của toàn xã hội vào thực hiện mục tiêu

chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hƣớng tăng hiệu quả và phát huy đƣợc lợi thế

so sánh của từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm nhằm nâng cao năng lực

cạnh tranh của nền kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh

thu hút nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI), ƣu tiên các dự án thu hút

97

nhiều lao động, tiêu thụ nguyên liệu tại chỗ...

Huy động tối đa các nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong và

ngoài nƣớc để đầu tƣ hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Đẩy

mạnh áp dụng rộng rãi các hình thức đầu tƣ các công trình kết cấu hạ tầng

theo các phƣơng thức BOT, BT, đầu tƣ kết hợp công - tƣ (PPP) và đầu tƣ tƣ

nhân sở hữu kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng phát triển kinh tế - xã

hội trong phạm vi danh mục đầu tƣ do tỉnh ban hành.

Tranh thủ sự hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ƣơng để đầu

tƣ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ. Tập trung vào các công

trình giao thông đến các vùng trọng điểm kinh tế, các tuyến đƣờng ven biển,

tuần tra biên giới, các công trình cơ sở hạ tầng các khu kinh tế, công nghiệp,

khu du lịch, các công trình thuỷ lợi, cơ sở hạ tầng đô thị... Tăng mức đầu tƣ

cho giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học công nghệ và xoá đói giảm nghèo, nhất

là ở các vùng miền núi, vùng khó khăn, vùng thƣờng bị thiên tai.

Huy động nguồn vốn trong dân, các doanh nghiệp để thực hiện chƣơng

trình kiên cố hoá kênh mƣơng, bê tông hoá đƣờng giao thông nông thôn, xã

hội hoá các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá thông tin và TDTT.

Thực hiện tốt việc lồng ghép các nguồn vốn để vừa tạo sức mạnh tổng hợp,

vừa nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Phát triển đồng bộ và từng bƣớc hiện đại hóa hệ thống thủy lợi, chú

trọng xây dựng và củng cố hệ thống đê biển, đê sông, trạm bơm, công trình

ngăn mặn và xả lũ... Phát triển nhanh nguồn điện và hoàn chỉnh hệ thống lƣới

điện, đi đôi với tiết kiệm năng lƣợng, bảo đảm cung cấp đủ điện cho nhu cầu

phát triển.

Đẩy mạnh việc thực hiện bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng, tạo mặt bằng

sạch để triển khai thực hiện các dự án, công trình theo đúng tiến độ. Tăng cƣờng

công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc quản lý và sử dụng các dự án đầu tƣ

98

bằng nguồn vốn nhà nƣớc. Triển khai công tác giám sát cộng đồng đối với đầu

tƣ sử dụng vốn nhà nƣớc. Áp dụng nghiêm các chế tài trong giám sát thi công,

nghiệm thu, thanh quyết toán công trình. Củng cố lại các ban quản lý dự án,

nâng cao năng lực các chủ đầu tƣ, tăng cƣờng nâng cao kiến thức về quản lý dự

án để điều hành các dự án đầu tƣ tránh thất thoát, lãng phí.

Nhƣ vậy với những chính sách phát triển kinh tế đó của tỉnh, các nguồn

lực sẽ sử dụng hài hòa cho phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo ở địa

phƣơng.

4.3.5. Đảm bảo hậu cần quân đội trên địa bàn tỉnh

Để đảm bảo hậu cần quân đội trên địa bàn tỉnh cần phải tiếp tục giữ

vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tăng cƣờng quản lý và bảo vệ

vững chắc chủ quyền an ninh biển đảo. Sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi âm

mƣu, thủ đoạn của kẻ địch và các thế lực phản động chống phá an ninh chính

trị. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ an ninh biển đảo. Xây dựng

nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an

ninh nhân dân, xây dựng tỉnh và các huyện, thành phố thành khu vực phòng

thủ vững chắc. Tổ chức các cuộc Diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh và huyện.

Tăng cƣờng công tác giáo dục quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lƣợng tổng

hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lƣợng vũ trang.

Xây dựng hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống giao thông liên kết thủy

bộ để thuận khi công, rút khi thủ, thành lập các sân bay dã chiến, kho trạm

tiếp tế xăng dầu dọc tuyến quốc lộ 1, quốc lộ 12, đƣờng Hồ Chí Minh, sẵn

sàng động viên các phƣơng tiện giao thông thủy bộ, bảo đảm vủ khí, trang

thiết bị, lƣơng thực thực phẩm, trang thiết bị y tế... chuẩn bị sẵn sàng khi có

tình bất cứ tình huống nào xảy ra.

4.3.6. Nâng cao chất lượng điều hành các hoạt động phát triển kinh

99

tế và bảo vệ an ninh biển đảo của chính quyền các cấp

Chất lƣợng điều hành là nhân tố quan trọng góp phần gắn kết phát triển

kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo. Mặc dù có không ít thành tích trong lĩnh

vực này nhƣng Quảng Bình vẫn phải tiếp tục hoàn thiện theo các phƣơng

hƣớng sau:

- Nâng cao chất lƣợng cán bộ điều hành các hoạt động kinh tế và hoạt

động đảm bảo quốc phòng - an ninh ở các cấp chính quyền của Tỉnh. Mỗi cán

bộ lãnh đạo vừa phải có kiến thức kinh tế, vừa phải có kiến thức về quốc

phòng - an ninh.

- Cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm không chỉ lĩnh vực chuyên

môn đƣợc giao phụ trách, mà cả gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh

biển đảo.

- Hoàn thiện bộ máy chính quyền các cấp theo hƣớng tinh gọn, hiệu

lực, trong đó điều hành các hoạt động mang tính liên ngành phải đƣợc coi là

chức năng, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

4.3.7. Phối hợp chặt chẽ giữa Quảng Bình với các tỉnh bạn và cả

nước trong việc gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo

Là một tỉnh miền trung của tổ quốc trình độ phát triển kinh tế - xã hội

chƣa cao do đó để xây dựng một tỉnh có nền kinh tế - xã hội phát triển thì

Quảng Bình cần phải hội nhập, cần phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với

các tỉnh bạn và cả nƣớc.

Tăng cƣờng quảng bá những sản phẩm mà Quảnh Bình có thế mạnh đó

là quảng bá du lịch với các tỉnh bạn, cả nƣớc và thế giới để phát huy hết tiềm

năng của hệ thống hang động kỳ vỹ, bờ biển dài và đẹp với những món ăn ẩm

thực đậm chất quê hƣơng.

Cải cách thủ tục hành chính, chủ động xây dựng các dự án để kêu gọi

sự đầu tƣ của các tỉnh khác, các tập đoàn kinh tế trong nƣớc và thế giới đầu tƣ

100

vào Quảng Bình.

Tăng cƣờng giao lƣu với các tỉnh có thế mạnh về kinh tế, bảo vệ an

ninh biển đảo để từ đó nâng cao kinh nghiệm, năng lực quản lý, chỉ đạo, điều

hành cho đội ngủ cán bộ trong tỉnh.

Phối hợp với các tỉnh và cả nƣớc mở rộng các khu kinh tế, cửa khẩu,

cảng biển để hàng hóa trong tỉnh, trong nƣớc và thế giới đƣợc lƣu thông thuận

tiện, tăng thêm nguồn thu ngân sách cho tỉnh, hệ thống giao thông thông suốt

sẽ đảm bảo kết nối khu vực phòng thủ khi có chiến tranh xảy ra.

Phối hợp với các tỉnh bạn và cả nƣớc trong công tác tuần tra, giữ dìn an

ninh trật tự trên địa bàn tỉnh nói chung và bảo vệ an ninh biển đảo nói riêng

để bảo đảm tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Nằm trong sự chỉ đạo chung của Đảng và Nhà nƣớc, do vậy Quảng

Bình cần phải gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo phải đặt

trong quan hệ chặt chẽ quan hệ giữa Quảng Bình với các tỉnh bạn và cả nƣớc

có nhƣ thế Quảng Bình sẽ ngày càng dàu mạnh hơn.

4.3.8. Nâng cao chất lượng trong phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an

ninh biển đảo trong huy động phương tiện và lực lượng dự bị động viên,

dân quân biển.

Cùng với lực lƣợng chính quy nhƣ Hải quân, Biên phòng, Cảnh sát

biển, các phƣơng tiện cùng các lực lƣợng dân quân tự vệ, dự bị động viên ...

ngày càng đƣợc phát triển về chất và lƣợng góp phần không nhỏ vào thắng lợi

chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Để công tác này ngày càng

đƣợc hoàn thiện và chất lƣợng đƣợc tốt, chính quyền tỉnh cần phải:

Đảm bảo thống kê hàng năm số lƣợng, chất lƣợng củng loại các loại

phƣơng tiện kỷ thuật, bố trí trên từng địa bàn dân cƣ. Nắm chắc thực lực quân

số các lực lƣợng trong độ tuổi sẳn sàng động viên, các đơn vị dự bị động viên

101

ở các xã miền biển.

Chi trả kịp thời các khoản phụ cấp, trợ cấp cho lực lƣợng dự bị động

viên, các phƣơng tiện tham gia trong quá trình huy động. Hàng quý và hàng

năm tổ chức sinh hoạt và huấn luyện cho lực lƣợng dân quân tự vệ, dự bị

động viên các phƣơng án sẳn sàng chiến đấu trên biển và các tình huống bất

ngờ khác.

Tạo điều kiện cho các lực lƣợng này lao động sản xuất tại địa phƣơng

để khi cần có lƣợc lƣợng kịp thời khi điều động.

Chính quyền tỉnh cần quan tâm hơn nửa công tác quốc phòng an ninh ở

cơ sở, hổ trợ kịp thời các nguồn kinh phí đảm bảo cho huấn luyện, mua sắm

phƣơng tiện huấn luyện cho dân quân.

Thực hiện tốt các quan điểm trên thì công tác phát triển kinh tế gắn với

bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình trong huy động lực lƣợng dự bị động

viên và dân quân biển sẻ đƣợc tốt, góp phần xây dựng quê hƣơng Quảng Bình

102

ngày càng phát triển kinh tế và giử vửng đƣợc biển đảo quê hƣơng.

KẾT LUẬN

Quảng Bình là tỉnh miền Trung của Tổ quốc Việt Nam, là tỉnh đƣợc

thiên nhiên ban tặng bờ biển dài với nhiều cảnh quan thiên nhiên tƣơi sắc,

nhiều thắng cảnh nổi tiếng. Thế mạnh của tỉnh Quảng Bình là du lịch, đánh

bắt thủy hải sản, phát triển các khu kinh tế. Quá trình thực hiện đƣờng lối đổi

mới của Đảng, kinh tế - xã hội của Quảng Bình đã có bƣớc phát triển quan

trọng, đạt đƣợc những thành tựu to lớn, trƣớc hết là thành tựu kinh tế. Đạt

đƣợc những thành tựu trên là do Tỉnh ủy và các cấp ủy đảng trong tỉnh đã

lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, đây là nhân tố quyết định thắng lợi của sự

nghiệp phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo của tỉnh.

Sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cƣờng bảo vệ an ninh

biển đảo ở tỉnh là hoạt động tích cực, chủ động của chính quyền và nhân dân,

hoạt động đó nằm trong một chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả tỉnh cũng

nhƣ ở từng địa phƣơng, thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tăng cƣờng

sức mạnh tổng hợp của tỉnh, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lƣợc xây

dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở nắm vững ý nghĩa, tầm quan trọng của việc kết hợp phát

triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển đảo trong sự

103

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của tỉnh, nắm vững và vận dụng một cách

sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề này vào

trong thực tiễn tình hình tỉnh ta hiện nay, Đảng và chính quyền tỉnh Quảng

Bình đã đề ra đƣợc đƣờng lối phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ an

ninh biển đảo phù hợp mang lại những kết quả rất đáng ghi nhận.

Đảng bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình đã xây dựng thành công

đƣờng lối phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ an ninh biển đảo trên toàn

tỉnh. Cụ thể tập trung đi sâu vào các nội dung đó là: kết hợp trong việc xác

định chiến lƣợc phát triển kinh tế của tỉnh; kết hợp trong tập trung các nguồn

lực; kết hợp trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu; và kết hợp trong

hoạt động đối ngoại của tỉnh. Bảo đảm phát triển kinh tế để nâng cao sức

mạnh bảo vệ biển đảo và bảo vệ an ninh biển đảo phục vụ cho phát triển kinh

tế. Với những nội dung trên, thời gian qua Đảng bộ tỉnh Quảng Bình cùng với

chính quyền các cấp đã thực hiện tốt việc phát triển kinh tế - xã hội gắn với

tăng cƣờng bảo vệ an ninh biển đảo trên địa bàn tỉnh, đƣa tỉnh Quảng Bình

dần dần thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo, khắc phục đƣợc những khó khăn còn

vƣớng mắc, thu nhập bình quân của tỉnh đƣợc tăng lên hằng năm, quốc

phòng, an ninh ngày càng vững mạnh, ổn định, đặc biệt là tăng cƣờng bảo

đảm an ninh và hỗ trợ cho ngƣ dân vƣơn khơi bám biển.

Cùng với sự phát triển chung của cả nƣớc Quảng Bình cũng dần khẳng

định đƣợc vai trò và vị trí của mình. Với những khởi sắc mà chính quyền và

nhân dân tỉnh nhà đã đạt đƣợc trong những năm qua là một minh chứng

thuyết phục cho tính đúng đắn của đƣờng lối kết hợp phát triển kinh tế gắn

với bảo vệ an ninh biển đảo của tỉnh Quảng Bình nói riêng và cả nƣớc nói

chung. Những thành tựu đó góp phần thiết thực đƣa Quảng Bình trở thành

trung tâm kinh tế - chính trị của khu vực Bắc miền Trung và góp phần vào

104

thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong tình hình mới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tuyên giáo Trung ƣơng - Trung tâm thông tin công tác tƣ tƣởng

(2007), Biển và hải đảo Việt Nam, Hà Nội.

2. Ban Tuyên giáo Trung ƣơng (2007), Tình hình biển, đảo ở nước ta hiện

nay và một số giải pháp chủ yếu tăng cường quốc phòng, an ninh trên

biển góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược biển Việt Nam đến 2020.

3. Ban Tƣ tƣởng Văn hoá Trung ƣơng (2006), Một số vấn đề phát triển

kinh tế biển của Việt Nam.

4. Báo Nhân dân (2008), Giải pháp phát huy thế mạnh kinh tế biển miền

Trung, (48).

5. Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.

105

Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1996.

6. Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2001.

7. Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2006.

8. Đảng CSVN, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung

ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2007.

9. Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011.

10. Nguyễn Thị Ngân Loan (2007), Phát triển thị trường nguyên liệu của ngành

thủy sản Việt Nam trong quá trình hội nhập, Nghiên cứu kinh tế, (350).

11. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1998), Chủ quyền trên hai quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa, Hà Nội.

12. Tạ Quang Ngọc (2007), Để Việt Nam sớm trở thành một quốc gia

mạnh về biển và giàu lên từ biển, Tạp chí Cộng sản, (777).

13. Đào Duy Quát (2008), Biển và hải đảo, Báo Tuyên giáo, (9).

14. Quốc hội nƣớc CH XHCN Việt Nam (2005), Luật bảo vệ và phát triển

rừng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Sở Du lịch Nghệ An (2006), Đề án phát triển du lịch, Nghệ An.

16. Sở Kế hoạch và Đầu tƣ Nghệ An (2007), Chiến lược phát triển biển

Nghệ An.

17. Tạp chí Cộng sản (2007), Hồ sơ sự kiện chuyên đề về biển và kinh tế

biển, 29/5/2007.

18. Bùi Tất Thắng (2007), Quan điểm và giải pháp chủ yếu của chiến lược

biển Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, (5).

19. Bùi Tất Thắng (2007), Sự phát triển kinh tế biển và chiến lược biển

106

của một số nước trên thế giới, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (6).

20. Bùi Tất Thắng (2007), Về chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam,

Tạp chí Kinh tế và dự báo, (8).

21. Nguyễn Hồng Thao (1997), Những điều cần biết về biển, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

22. Tỉnh ủy Quảng Bình, Nghị quyết về chiến lược biển.

23. Nguyễn Đức Triều (2002), Phát triển kinh tế biển là cơ hội tạo việc

làm, nâng cao thu nhập và từng bước ổn định đời sống cho ngư dân,

nông dân, Tạp chí Nông Thôn mới, (7).

24. Trung tâm Khoa học - Công nghệ - Thuỷ sản (2006), Vị trí và vai trò

của ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân.

25. UBND tỉnh Quảng Bình, Báo cáo phát triển kinh tế -xã hội hàng năm.

26. Văn phòng Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Chiến lược

và mô hình quản lý biển của một số nước, Thông tin Chuyên đề số 08,

ngày 25/12/2006.

27. www.Báo điện tử ĐCSVN: 17/04/2009.

28. www.Bách khoa toàn thƣ. WIKIPEDIA.

29. www.nghiencuubiendong.vn

30. www.laodong.vn

31. www.tintuc.vn

32. www.thanhnien.vn

33. www.bentre.vn

34. www.khanhhoa.vn

35. www.dungquat.vn

36. www.baomoi.vn

37. http://ktv.org.vn/

38. http://www.vms-south.vn/.

107

39. http://www.nxbctqg.org.vn.

108

40. www.tailieu.vn