intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phố cổ Hội An - Wiki Pedia

Chia sẻ: Nguyễn Thị Hiền Phúc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:19

106
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết gồm các phần chính: Lịch sử (Thời kỳ tiền Hội An, thời kỳ Hội An, ra đời và phát triển phồn vinh, thời kỳ suy vong); Kiến trúc đô thị (Khu phố cổ, kiến trúc truyền thống, các di tích kiến trúc, chùa đền miếu, nhà thờ tộc, hội quán, chùa Cầu); Văn hóa (Tín ngưỡng, lễ hội truyền thống, âm nhạc diễn xướng và trò chơi dân gian, ẩm thực dân gian). Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phố cổ Hội An - Wiki Pedia

Phố cổ Hội An<br /> <br /> Phố cổ Hội An<br /> Bởi:<br /> Wiki Pedia<br /> <br /> Phố cổ Hội An<br /> Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven<br /> biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam.<br /> Nhờ những yếu tố địa lý và khí hậu thuận lợi, Hội An từng là một thương cảng quốc<br /> tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây<br /> trong suốt thế kỷ 17 và 18. Trước thời kỳ này, nơi đây cũng từng có những dấu tích của<br /> thương cảng Chăm Pa hay được nhắc đến cùng con đường tơ lụa trên biển. Thế kỷ 19,<br /> do giao thông đường thủy ở đây không còn thuận tiện, cảng thị Hội An dần suy thoái,<br /> nhường chỗ cho Đà Nẵng khi đó đang được người Pháp xây dựng. Hội An may mắn<br /> không bị tàn phá trong hai cuộc chiến tranh và tránh được quá trình đô thị hóa ồ ạt cuối<br /> thế kỷ 20. Bắt đầu từ thập niên 1980, những giá trị kiến trúc và văn hóa của phố cổ Hội<br /> An dần được giới học giả và cả du khách chú ý, khiến nơi đây trở thành một trong những<br /> điểm du lịch hấp dẫn của Việt Nam.<br /> Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền thống ở Đông<br /> Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn những ngôi nhà ở đây là những<br /> kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, phần bố dọc theo những<br /> trục phố nhỏ hẹp. Nằm xen kẽ giữa các ngôi nhà phố, những công trình kiến trúc tôn<br /> giáo, tín ngưỡng minh chứng cho quá trình hình thành, phát triển và cả suy tàn của đô<br /> thị. Hội An cũng là vùng đất ghi nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao thoa văn hóa. Các<br /> hội quán, đền miếu mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà phố truyền<br /> thống của người Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp. Bên cạnh<br /> những giá trị văn hóa qua các công trình kiến trúc, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa<br /> phi vật thể đa dạng và phong phú. Cuộc sống thường nhật của cư dân phố cổ với những<br /> phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hóa vẫn đang<br /> được bảo tồn và phát triển. Hội An được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối<br /> sống đô thị.<br /> Với những giá trị nổi bật, tại kỳ họp lần thứ 23 cuối năm 1999, Tổ chức Giáo dục, Khoa<br /> học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận đô thị cổ Hội An là một di<br /> sản văn hóa thế giới, dựa trên hai tiêu chí:<br /> <br /> 1/19<br /> <br /> Phố cổ Hội An<br /> <br /> * Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ<br /> trong một thương cảng quốc tế.<br /> * Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống được bảo tồn một<br /> cách hoàn hảo.<br /> <br /> Tên gọi<br /> Tên gọi Hội An ngày nay được hình thành từ rất lâu trong lịch sử, nhưng thật khó có<br /> thể xác định chính xác thời điểm ra đời của nó. Theo tác giả Dương Văn An trong cuốn<br /> sách Ô Châu cận lục, vào năm 1553, huyện Điện Bàn có 66 xã, trong đó có các xã Hoài<br /> Phô, Cẩm Phô, Lai Nghi, nhưng chưa thấy cái tên Hội An được ghi lại. Dưới thời Lê,<br /> tấm bản đồ do đại thần Đỗ Bá vẽ in trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ có ghi lần đầu tiên các<br /> địa danh Hội An phố, Hội An đàm, Hội An kiều. Trên tấm bia Phổ Đà Linh Sơn Trung<br /> Phật tại động Hoa Nghiêm, Ngũ Hành Sơn ghi tên những người góp tiền xây dựng chùa,<br /> tên làng Hội An được nhắc tới ba lần. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan, làng Minh Hương<br /> được thành lập bên cạnh làng Hội An đã có trước đó. Căn cứ vào văn bản của dinh trấn<br /> Quảng Nam thời Minh Mạng gửi trưởng bang Hoa kiều, Hội An phố gồm 6 làng: Hội<br /> An, Minh Hương, Cổ Trai, Đông An, Diêm Hộ, Hoa Phô. Nhà nghiên cứu người Pháp<br /> Albert Sallet cho rằng làng Hội An là làng quan trọng nhất trong năm làng tạo nên quần<br /> cư Hội An cổ, gồm Hội An, Cẩm Phô, Phong Niên, Minh Hương và An Thọ.<br /> Người phương Tây xưa kia gọi Hội An bằng cái tên Faifo. Xuất xứ của cái tên này<br /> ngày nay vẫn tồn tại nhiều giả thuyết. Trong cuốn Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre<br /> de Rhodes in tại Roma năm 1651, chữ Hoài phô được định nghĩa: một làng trong xứ<br /> Cochinchine mà người Nhật ở và gọi là Faifo.Một giả thuyết phổ biến cho rằng Faifo<br /> xuất phát từ tên Hội An phố, cái tên sử sách và địa chí Trung, Việt đều nhắc tới. Theo<br /> một thuyết khác, sông Thu Bồn trước kia có tên là sông Hoài, nên Hội An còn được<br /> gọi là Hoài Phố, sau Hoài Phố biến thành Phai Phố, từ đó xuất hiện cái tên Faifo.Trong<br /> những thư từ, ghi chép của những giáo sĩ, học giả phương Tây, những cái tên Faifo,<br /> Faifoo, Fayfoo, Faiso, Facfo... từng xuất hiện nhiều lần. Alexandre de Rhodes trong bản<br /> đồ An Nam gồm Đàng Trong và Đàng Ngoài ấn hành năm 1651 có ghi rõ tên Haifo. Về<br /> sau, trên bản đồ chính thức của chính quyền Đông Dương, người Pháp đều sử dụng tên<br /> Faifo để chỉ Hội An.<br /> <br /> Lịch sử<br /> Thời kỳ tiền Hội An<br /> Khu đô thị cổ Hội An nằm gần cửa sông Thu Bồn, con sông lớn nhất của tỉnh Quảng<br /> Nam. Mặc dù vậy, ngày nay từ trung tâm thành phố tới đến cửa sông cũng không còn<br /> gần lắm. Hạ lưu sông Thu Bồn khi đổ ra biển Đông được chia thành nhiều nhánh. Nhánh<br /> tiếp xúc với khu phố cổ mang tên sông Hội An, còn dòng chảy giữa hai cồn Cẩm Nam<br /> 2/19<br /> <br /> Phố cổ Hội An<br /> <br /> và Cẩm Kim là dòng chính của sông Thu Bồn. Trên những bản đồ cổ thế kỷ 17, 18, Hội<br /> An nằm trên bờ Bắc của sông Thu Bồn, thông với biển Đông bẳng cửa Đại Chiêm và<br /> một dòng sông nối với cửa Đại của Đà Nẵng, phía ngoài là một doi cát rộng. Dấu vết<br /> dòng sông nối liền Hội An với biển Cửa Hàn có thể xác định là con sông Cổ Cò - Đế<br /> Võng ngày nay. Trên thủy trình cổ này đã từng tìm thấy nhiều lô tàu, mỏ neo bị chôn<br /> vùi trong lòng đất.<br /> Tuy địa danh "Hội An" được cho rằng xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 16, nhưng vùng<br /> đất xung quanh đô thị này đã có một lịch sử rất lâu đời. Trong suốt thời kỳ "tiền Hội<br /> An", nơi đây từng tồn tại hai nền văn hóa lớn, đó là văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chăm<br /> Pa. Di chỉ đầu tiên của văn hóa Sa Huỳnh là phố Sa huỳnh ở Quảng Ngãi bị cát vùi lấp,<br /> được các nhà khảo cổ người Pháp phát hiện. Năm 1937, nữ học giả Madeleine Colani<br /> chính thức xác nhận đây là một nền văn hóa. Chỉ riêng trong khu vực thành phố Hội An<br /> đã phát hiện được hơn 50 địa điểm là di tích của nền văn hóa này, phần lớn tập trung<br /> ở những cồn cát ven sông Thu Bồn cũ.Đặc biệt, sự phát hiện hai loại tiền đồng Trung<br /> Quốc thời Hán, những hiện vật sắt kiểu Tây Hán... đã minh chứng ngay từ đầu Công<br /> nguyên, nơi đây đã bắt đầu có những giao dịch ngoại thương.Một đặc điểm khác có thể<br /> nhận thấy là khu vực Hội An không có những dấu tích của thời kỳ đầu và giữa,nhưng<br /> mảnh đất nơi đây đã từng tồn tại và có sự phát triển rực rỡ nền văn hóa Sa Huỳnh muộn.<br /> Tiếp sau nền văn hóa Sa Huỳnh, suốt từ thế kỷ 2 đến đến thế kỷ 15, một dải đất miền<br /> trung Việt Nam nằm dưới sự thống trị của vương quốc Chăm Pa. Những di tích đặc<br /> trưng của nền văn hóa này là các nhóm điện thờ đạo Hindu phân bổ dọc từ miền Trung<br /> tới miền Nam, và một trong những trung tâm đó nằm ở lưu vực con sông Thu Bồn. Ở<br /> đây, có thể thấy một thủ phủ mang tính chính trị tại Trà Kiệu và một trung trung tâm<br /> mang tính tôn giáo nằm tại Mỹ Sơn. Những dấu tích đền tháp Chăm còn lại, những<br /> giếng nước Chăm, những pho tượng Chăm, những di vật của người Đại Việt, Trung<br /> Hoa, Trung Đông thế kỷ 2 - 14 làm sáng tỏ giả thuyết nơi đây từng có một Lâm Ấp Phố<br /> với một cảng biển là Đại Chiêm phát triển hưng thịnh. Nhiều thư tịch cổ ghi nhận trong<br /> một thời gian khá dài, Chiêm cảng - Lâm Ấp Phố đóng một vai trò quan trọng trong việc<br /> tạo nên sự phồn vinh của kinh thành Trà Kiệu và khu di tích đền tháp Mỹ Sơn.[9] Trải<br /> qua nhiều cuộc chiến tranh, vương quốc Chăm Pa bị Đại Việt đẩy dần về phía Nam.<br /> Năm 1471, thủ phủ cuối cùng của Chăm Pa ở Bầu Giá, Bình Định ngày nay, bị nhà Lê<br /> chiếm. Vùng đất Hội An trở thành lãnh thổ của Đại Việt từ đó, nhưng phải về sau nơi<br /> đây mới phát triển thành một khu vực thương mại. Hội An được hình thành dựa trên sự<br /> kế thừa cảng biển của người Chăm và người Việt bắt đầu tới đây từ thế kỷ 15. Đó là<br /> bước chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của đô thị Hội An.<br /> Thời kỳ Hội An<br /> <br /> 3/19<br /> <br /> Phố cổ Hội An<br /> <br /> Ra đời và phát triển phồn vinh<br /> Hội An ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỷ 16, thời kỳ Việt Nam nằm dưới sự trị vì của<br /> nhà Lê. Vào năm 1527, Mạc Đăng Dung giành ngôi nhà Lê, vùng Đông Kinh thuộc<br /> quyền cai quản của nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim nhân danh nhà Lê tập hợp binh sĩ<br /> chống lại nhà Mạc. Sau khi Nguyễn Kim chết năm 1545, người con rể Trịnh Kiểm nắm<br /> giữ quyền hành, dòng họ Nguyễn Kim bị lấn át. Năm 1558, người con thứ của Nguyễn<br /> Kim là Nguyễn Hoàng cùng gia quyến và một số binh lính lui về cố thủ ở vùng Thuận<br /> Hóa và từ sau năm 1570, Nguyễn Hoàng tiếp tục nắm quyền trấn thủ Quảng Nam.Cùng<br /> với con trai là Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Hoàng xây dựng thành lũy, ra sức phát<br /> triển kinh tế Đàng Trong, mở rộng giao thương buôn bán với nước ngoài và Hội An trở<br /> thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực Đông Nam Á thời kỳ đó.<br /> Hội An trong bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ<br /> Thế kỷ 17, trong khi vẫn tiếp tục cuộc chiến với chúa Trịnh ở miền Bắc, chúa Nguyễn<br /> không ngừng khai phá miền Nam, lấn chiếm lãnh thổ của người Chăm. Trên những<br /> vùng đất do chúa Nguyễn cai quản, có những khu phố nước ngoài hình thành dựa trên<br /> một số luật lệ nhằm bảo hộ cho các hoạt động thương mại của người ngoại quốc. Vào<br /> năm 1567, triều đình nhà Minh của Trung Quốc từ bỏ chủ trương bế quan tỏa cảng, cho<br /> thuyền buôn vượt biển giao thương với các quốc gia vùng Đông Nam Á, nhưng vẫn cấm<br /> xuất khẩu một số nguyên liệu quan trọng sang Nhật Bản. Điều này đã bắt buộc Mạc<br /> phủ Toyotomi rồi Mạc phủ Tokugawa cấp phép cho các thuyền buôn Châu Ấn sang<br /> mở rộng quan hệ thông thương với Đông Nam Á và mua lại hàng hóa Trung Quốc từ<br /> các quốc gia đó.Những con tàu Châu Ấn bắt đầu xuất dương từ năm 1604 dưới thời<br /> Mặc phủ Tokugawa, cho tới năm 1635, khi chính sách đóng cửa được ban bố, đã có<br /> ít nhất 356 con tàu Châu Ấn ra đời.Nơi thuyền Châu Ấn đi qua nhiều nhất chính là<br /> cảng Hội An. Trong vòng 30 năm, 75 con tàu Châu Ấn đã cập cảng nơi đây, so với<br /> 37 con tàu cập bến Đông Kinh, khu vực do chúa Trịnh cai trị.Các thương nhân người<br /> Nhật khi đó tới bán những đồ đồng, tiền đồng, sắt, đồ gia dụng... và mua lại đường, tơ<br /> lụa, trầm hương... Khoảng năm 1617, phố Nhật Bản ở Hội An được hình thành và phát<br /> triển cực thịnh trong đầu thế kỷ 17. Qua bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ<br /> của Chaya Shinroku, có thể thấy khu phố người Nhật với những công trình kết cấu gỗ<br /> hai, ba tầng.Thuyền trưởng người Hà Lan Delft Haven ghi lại năm 1651, Hội An khi đó<br /> có khoảng 60 căn nhà của người Nhật nơi dọc bờ sông, nhà cửa xây bằng đá để tránh<br /> hỏa hoạn, nằm sát vách nhau. Nhưng khoảng thời gian tiếp sau, do chính sách bế quan<br /> của Mạc phủ Tokugawa cũng những chính sách đàn áp người Nhật Công giáo của chúa<br /> Nguyễn,khu phố Nhật ở Hội An dần bị lu mờ. Mặc dù vẫn còn một số nhỏ người Nhật<br /> định cư lại đây nhưng người Hoa dần thay thế vai trò của người Nhật trong việc buôn<br /> bán.<br /> Khác với người Nhật, những người Hoa biết đến Hội An từ rất sớm, ngày từ thời vùng<br /> đất này còn thuộc về vương quốc Chăm Pa. Đến thời kỳ người Việt thay thế người<br /> <br /> 4/19<br /> <br /> Phố cổ Hội An<br /> <br /> Chăm, những thương nhân Trung Hoa vẫn tiếp tục tới buôn bán vì các tỉnh miền Nam<br /> của Trung Quốc rất cần các mặt hàng muối, vàng, quế... Mặc dù vậy, trong suốt thời<br /> kỳ tiền Hội An, người Hoa chỉ tới buôn bán rồi trở về, không ở lại định cư, lập phố<br /> xá.Phải sau loạn Minh Thanh xảy ra khoảng giữa thế kỷ 17, đặc biệt sau khi nhà Minh<br /> bị thất thủ, rất nhiều người Hoa di cư tới Trung Bộ Việt Nam và xây dựng nên nhiều<br /> cộng đồng Minh Hương Xã. Tại Hội An, người Hoa tới lưu trú ngày một nhiều và thế<br /> chân người Nhật nắm quyền buôn bán. Cảng thị Hội An khi đó là nơi tập trung nhiều<br /> nhất hàng hóa ngoại quốc. Khu phố dọc bờ sông, được gọi khu Đại Đường, kéo dài 3, 4<br /> dặm. Các cửa hàng hai bên phố không khi nào rảnh rỗi. Dân cư ở đây phần lớn là người<br /> Phúc Kiến, mọi người ăn vận theo trang phục của nhà Minh. Nhiều người Trung Quốc<br /> tới định cư để buôn bán đã kết hôn với những phụ nữ bản địa. Bên cạnh những người<br /> Hoa nhập quốc tịch Việt Nam, nhiều người Hoa khác vẫn giữ quốc tịnh Trung Quốc mà<br /> người Việt thường gọi là Khách trú.Năm 1695, sứ giả người Anh Thomas Bowyear của<br /> Công ty Đông Ấn Anh đến đàm phán với chúa Nguyễn về việc xây dựng một khu cư<br /> trú tại Hội An. Việc thương thảo tuy không thành, nhưng cũng đã để lại một ghi chép:“<br /> Khu phố Faifo này có một con đường nằm sát với sông. Hai bên đường có khoảng 100<br /> ngôi nhà xây dựng san sát nhau. Ngoại trừ khoảng bốn năm ngôi nhà là của người Nhật<br /> còn lại toàn bộ là của người Hoa. Trước kia, người Nhật đã từng là cư dân chủ yếu của<br /> khu phố này và là chủ nhân phần lớn của các hoạt động thông thương ở bến cảng Hội<br /> An. Bây giờ, vai trò thương nghiệp chính đã chuyển sang cho người Hoa. So với thời<br /> kỳ trước thì không được sầm uất, nhưng hàng năm ít nhất cũng có từ 10 đến 12 tàu của<br /> các nước Nhật Bản, Quảng Đông, Xiêm, Campuchia, Manila, và có cả tàu của Indonesia<br /> cũng đến cảng thị này.”<br /> Thời kỳ suy vong<br /> Thế kỷ 18, khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn diễn ra ở miền Nam, chúa Trịnh đánh chiếm<br /> Quảng Nam dinh năm 1775, cảng thị Hội An rơi vào cảnh chiến tranh loạn lạc.Sau khi<br /> chiếm được Hội An, quân Trịnh đã triệt phá những nhà cửa thuộc khu vực thương mại,<br /> chỉ để lại các công trình tín ngưỡng.Nhiều nhân vật quan trọng của dòng họ Nguyễn<br /> cùng những thương gia người Hoa giàu có đã di cư vào miền Nam, mang theo của cải<br /> và lập nghiệp tại Sài Gòn - Chợ Lớn, để lại một Hội An điêu tàn, đổ nát.Năm 1778,<br /> một người Anh Charles Chapman đi qua đây sau thời Tây Sơn đã ghi lại: "Khi tới Hội<br /> An, thành phố lớn này chẳng còn lại là bao những khu phố được quy hoạch quy củ với<br /> những ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá mà chỉ thấy một cảnh hoang tàn làm cho ta<br /> cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công trình ấy bây giờ chỉ còn đọng lại trong ký ức mà<br /> thôi." Khoảng 5 năm sau, cảng thị Hội An mới dần dần hồi sinh, hoạt động thương mại<br /> được phục hồi nhưng không được như trước. Người Việt cùng người Hoa cùng xây lại<br /> thành phố từ những đống đổ nát cũ, những ngôi nhà mới mọc lên theo kiến trúc của họ<br /> và vô tình, dấu vết của khu phố Nhật Bản đã bị xóa đi mãi mãi.<br /> Thế kỷ 19, cửa sông Cửa Đại ngày càng bị thu hẹp lại và con sông Cổ Cò cũng bị phù<br /> sa bồi lấp, khiến các thuyền lớn không còn ghé được cảng Hội An. Bên cạnh đó, triều<br /> 5/19<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2