Phòng thủ chồng chéo
Các ngân hàng thương mại nỗ lực, kể cả dưới sức ép của một số biện pháp hành chính, giảm lãi suất tiết kiệm và cho vay, nhưng lãi suất vẫn chưa về mức kỳ vọng.
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Phòng thủ chồng chéo
- Phòng thủ chồng chéo
Các ngân hàng thương mại nỗ lực, kể cả dưới sức ép của một số biện pháp
hành chính, giảm lãi suất tiết kiệm và cho vay, nhưng lãi suất vẫn chưa về
mức kỳ vọng. Nguyên nhân chính là hàng loạt biện pháp phòng thủ trong
trích lập dự phòng rủi ro mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dựng lên nhằm
bảo vệ sự an toàn của các tổ chức tín dụng từ nhiều năm nay đang khiến chi
phí giá thành huy động vốn của ngân hàng tăng cao và lãi suất đầu ra không
thể nào giảm được.
Năm năm đã quá 86 ngày
Một phần ba biên chế nhân lực của chi nhánh NHNN tại các tỉnh, thành là
cán bộ bộ phận thanh tra, giám sát. Hoạt động thanh tra rải đều hàng tháng,
- hàng quí tại các ngân hàng trên địa bàn. Một trong những vấn đề được thanh
tra NHNN xem xét kỹ nhất trong các cuộc kiểm tra là tỷ lệ trích lập dự
phòng rủi ro. Điều này là xác đáng vì hiện nay tín dụng vẫn là hoạt động chủ
lực của các ngân hàng. Các khoản cho vay, cho dù có tài sản thế chấp, vẫn
phải phân loại theo từng nhóm theo quy định của NHNN và trích lập dự
phòng cụ thể tương ứng cho từng khoản vay đó.
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22-4-2005 quy định phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng, nợ cho vay của ngân hàng được phân ra làm
năm nhóm với mức trích lập cụ thể từ 0-100% tùy mức độ rủi ro. Ngoài các
mức trích cụ thể này, điều 9 của Quyết định 493 còn quy định rõ: “Các tổ
chức tín dụng phải trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá
trị của các khoản nợ. Trong thời hạn tối đa năm năm kể từ khi quyết định
này có hiệu lực, tổ chức tín dụng phải trích lập đầy đủ số tiền dự phòng
chung”.
Quyết định 493 được đăng công báo ngày 30-4-2005 và có hiệu lực từ 15-5-
2005. Tính đến nay thời hạn tối đa năm năm quy định tại điều 9 nói trên đã
là năm năm cộng thêm 86 ngày. Nghĩa là tất cả các tổ chức tín dụng đã phải
trích thêm một khoản dự phòng chung 0,75% tổng giá trị các khoản nợ. Thí
dụ nếu tổng dư nợ của một ngân hàng là 20.000 tỉ đồng, ngân hàng đó phải
trích dự phòng chung 150 tỉ đồng. Nếu gọi các khoản dự phòng cụ thể cho
từng khoản vay là phòng thủ cấp một, thì dự phòng chung 0,75% là phòng
thủ cấp hai mà không ngân hàng nào không phải thực hiện.
- Tiền “chết”
Dự phòng chung, theo định nghĩa tại khoản 2, điều 2, Quyết định 493 là
“khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định
trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường
hợp khó khăn về tài chính của tổ chức tín dụng khi chất lượng các khoản nợ
suy giảm”. Điều 17 nói rõ: “Dự phòng chung và dự phòng cụ thể được hạch
toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng (đưa vào tài khoản “dự phòng rủi
ro”)”.
Như vậy, một khi được tính vào chi phí hoạt động, các khoản dự phòng
chung và cụ thể là có lợi cho ngân hàng, bảo vệ ngân hàng khỏi bị rủi ro tối
đa. Song cũng chính vì được phòng thủ chặt chẽ như thế, ngân hàng đâm ra
bị bó tay.
Thứ nhất, khi huy động vốn, ngân hàng phải trích một tỷ lệ nhất định đảm
bảo dự trữ bắt buộc.
Thứ hai khi cho vay phải trích dự phòng cụ thể từng khoản, nay thêm dự
phòng chung là chồng chéo. Chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra của ngân
hàng hiện đang rút ngắn dần, chỉ còn 1-2%/năm.
Theo chi nhánh NHNN TPHCM, lãi suất cho vay tiền đồng bình quân của
các ngân hàng trên địa bàn tháng 7-2010 là 13,91%/năm. Nay phải trích dự
phòng chung 0,75% trên tổng dư nợ - đây chính là mấu chốt của câu chuyện
vì sao ngân hàng không thể hạ lãi suất cho vay được!
- Ở một khía cạnh khác, thử tính số tiền trích lập dự phòng chung nằm bất
động là bao nhiêu. Cuối năm 2009, tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng, theo
nhiều số liệu tính toán, ước tính 1,76 triệu tỉ đồng. Tăng trưởng tín dụng bảy
tháng đầu năm nay, theo NHNN là 12,97%, như vậy tổng dư nợ của ngân
hàng hiện khoảng 1,99 triệu tỉ đồng. 0,75% trích dự phòng chung của dư nợ
nói trên là gần 15.000 tỉ đồng - một số vốn không nhỏ để đưa vào sản xuất -
kinh doanh.
Từ tháng 5-2010 trở về trước, các ngân hàng thường không trích đủ dự
phòng rủi ro chung, lấy lý do là chưa đến hạn và họ đưa ra lộ trình trích lập.
Chẳng hạn có ngân hàng đầu năm nay đã trích 0,5%. Một số ngân hàng trích
ít hơn 0,3-0,4%. Thanh tra NHNN cũng châm chước vì chưa đến hạn.
Nhưng kể từ giữa tháng 5-2010, việc châm chước không còn nữa. Điều 20
của Quyết định 493 liệt kê rõ các hình thức xử lý nếu ngân hàng nào vi
phạm, không trích lập đầy đủ dự phòng chung, trong đó có tăng trích lập dự
phòng tương ứng với mức độ rủi ro của các khoản nợ và hạn chế tín dụng,
mở rộng mạng lưới, nội dung hoạt động… Khi hoạt động tín dụng mang lại
quá ít lợi nhuận, ngân hàng đã chuyển sang tăng cường giao dịch trái phiếu.
Thực tế kinh doanh trái phiếu giờ đây cũng không mang lại nhiều lợi nhuận,
nhưng vẫn còn thuận lợi hơn tín dụng.
Thời điểm thực hiện Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20-5-2010 về các tỷ
lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng đang ngày một gần,
từ ngày 1-10-2010. Các khoản cho vay chứng khoán và kinh doanh bất động
sản chuẩn bị phải tính hệ số rủi ro tới 250% thay vì 100% như trước. Thông
tư 13 sẽ là một hàng phòng thủ thứ ba cho sự an toàn của các ngân hàng.
Hơn nữa, sự an toàn của các ngân hàng cần phải được nhìn nhận như thế nào
- một khi dòng vốn chảy từ đây vào nền kinh tế không suôn sẻ?
Quyết định 493 ra đời đã hơn năm năm và trong thời gian đó đã xảy ra cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới, khiến những khái niệm an toàn tài chính
cũng thay đổi. Đã đến lúc NHNN nên xem xét lại cơ chế phòng thủ cho các
tổ chức tín dụng, lược bớt sự chồng chéo để mặt bằng lãi suất có thể vận
động theo chỉ đạo của Chính phủ cũng như đòi hỏi của nền kinh tế.
www.SAGA.vn - sic | Nguồn TBKTSG