YOMEDIA
ADSENSE
Phương pháp chụp ảnh mang tính cách mạng của Lippmann và Gabor
60
lượt xem 4
download
lượt xem 4
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Các phương pháp được trao giải thưởng Trong số các giải Nobel vật lí, hai nhà khoa học đã được tôn vinh cho phương pháp xuất sắc của họ dùng để ghi và hiển thị hình ảnh: Gabriel Lippmann, trao giải năm 1908 “cho phương pháp của ông tái tạo ảnh màu dựa trên hiện tượng giao thoa”, và Dennis Gabor, trao giải năm 1971, “cho sự phát minh và phát triển của ông về phương pháp chụp ảnh giao thoa”....
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phương pháp chụp ảnh mang tính cách mạng của Lippmann và Gabor
- Phương pháp chụp ảnh mang tính cách mạng của Lippmann và Gabor Các phương pháp được trao giải thưởng Trong số các giải Nobel vật lí, hai nhà khoa học đã được tôn vinh cho phương pháp xuất sắc của họ dùng để ghi và hiển thị hình ảnh: Gabriel Lippmann, trao giải năm 1908 “cho phương pháp của ông tái tạo ảnh màu dựa trên hiện tượng giao thoa”, và Dennis Gabor, trao giải năm 1971, “cho sự phát minh và phát triển của ông về phương pháp chụp ảnh giao thoa”. Cả hai phương pháp đều cùng một mục tiêu mang lại sự tái tạo ảnh theo kiểu hơi khác với các nỗ lực khác trước đó với mục đích tương tự. Để đạt tới mục tiêu này, Lippmann và Gabor chọn một phương pháp mang tính cách mạng đối với nền vật lí cơ sở thay vì lần theo sự tiến bộ tiến triển từng bước trong kĩ thuật. Năm 1886, khi nghệ thuật và công nghệ chụp ảnh vẫn còn đang vật lộn với chuyển màu sắc tự nhiên sang những giá trị tương xứng theo màu đen và trắng, thì Gabriel nghĩ tới một phương pháp hai bước để ghi và tái tạo ảnh màu trực tiếp qua các bước sóng ở vật và ảnh chụp sau đó.
- Khi Lippmann cải tiến ảnh từ trắng đen sang màu, thì kĩ thuật chụp ảnh giao thoa của Gabor mở rộng ảnh từ hình phẳng sang ảnh không gian ba chiều. Thủ tục mang lại cho từng mắt của người nhìn thị sai của riêng nó – sự nhìn ảnh nổi – cũng mang tính lịch sử như chính ngành chụp ảnh. Nhưng ý tưởng “chụp ảnh giao thoa” của Gabor là lưu trữ tất cả thông tin trong toàn bộ không gian ảnh và không có trong bức ảnh thứ hai hơi khác một chút. Ý tưởng của phương pháp Thật thú vị, cơ sở vật lí của hai phương pháp đều có thể hiểu trên cùng một nguyên tắc, cụ thể là sử dụng bản chất sóng của ánh sáng, bao gồm việc mã hóa trường ảnh bằng sự giao thoa, ghi lại cấu trúc trên phim chụp, rồi sau đó đọc trường ảnh trở lại bằng cách gửi ánh sáng và cho nó điều biến trong cấu trúc này. Quang học sóng và sự giao thoa Khi chúng ta nhìn vào ảnh quang học, chúng ta thường nghĩ tới các tia sáng. Cả phép chụp ảnh của Lippmann và phép chụp ảnh giao thoa của Gabor đều dựa trên sự truyền sóng của ánh sáng. Hiện tượng sóng có mặt ở mọi nơi trong vật lí học. Dễ thấy nhất, chúng ta thấy chúng trên mặt nước. Chúng ta có thể thấy sóng trải ra với một hướng truyền, một vận tốc hay tốc độ truyền, và độ dài chu kì của chúng.
- Khi hai hay nhiều sóng chồng lên nhau, chúng ta để ý thấy kết quả là hình ảnh đặc trưng được gọi là “sự giao thoa”. Một cấu trúc giao thoa như thế chứa thông tin về tất cả các trường đang tương tác. Khi đã biết một trường, thì thông tin về các trường khác cũng có thể suy luận ra. So với sóng nước hay âm thanh, bản chất sóng của ánh sáng khó quan sát hơn nhiều. Các bước sóng nhỏ (ví dụ 0,4 – 0,7 mm, tức là 0,0004 – 0,0007 mm, đối với ánh sáng khả kiến) và nhỏ hơn, tần số của dao động sóng là 750 đến 400 THz (1 terahertz là một triệu triệu chu kì trong một giây). Tần số của ánh sáng là cơ bản, nên không có cơ chế nào đọc được chuyển động của sóng ánh sáng. Tuy nhiên, một chuyển động sóng có thể khảo sát bằng sự tương tác với một sóng rất giống như nó, hiệu ứng gọi là giao thoa, đến mức độ dừng lại trong một “sóng đứng”. Sóng đứng phát sinh từ sự giao thoa của hai sóng có tần số chính xác bằng nhau nhưng có pha biên độ dao động ngược nhau. Trong nhà trường phổ thông, sóng đứng được chứng minh bằng các sóng dao động trên một sợi dây phản xạ ở một điểm dừng và quay lại. Đối với ánh sáng, điểm dừng là gương, nơi sóng chạm tới bị phản xạ, như minh họa trong hình phía bên trái. Tại gương kim loại, tự nhiên tránh hấp thụ sóng bằng cách đảo pha cùng lúc khi hướng truyền thay đổi. Tại gương, trường thu được luôn bằng không; tại nơi cách gương một phần tư bước sóng, tổng của hai trường sẽ biến thiên tuần hoàn ở giá trị lên tới (+) và (-) 2 x biên độ. Đây là cái trong âm học người ta được dạy tương ứng là “nút” và “bụng” của dao động âm. Trong quang học, sự giao thoa được quan sát thấy dưới dạng vân sáng và vân tối và có thể ghi trên phim chụp hay bất kì máy dò ánh sáng nào khác. Trong hình ảnh ổn định của vân giao thoa, các sóng có cùng bước sóng – ánh sáng là đơn sắc – và chúng phải có cùng quan hệ pha, tức là thuộc cùng một nguồn – ánh sáng là kết hợp. Điều kiện này thu được khi sóng bị tách ra từ cùng một nguồn và độ trễ giữa sóng nguyên gốc và sóng phản xạ gương chỉ cách nhau vài bước sóng. Sóng đứng trong màng dầu mỏng trên nhựa đường ẩm ướt và trong nhũ tương sử dụng trong
- phép chụp ảnh của Lippman đáp ứng điều kiện này. Tuy nhiên, đối với phép chụp ảnh giao thoa ba chiều, Gabor tạo ra các vân bằng cách cho trường vật giao thoa với một trường tham chiếu ngoài. Nguồn sáng có mức độ đơn sắc và kết hợp tương xứng trở nên lần đầu tiên có sẵn trên thị trường là laser. Sự phản xạ của trường ánh sáng tại gương làm phát sinh sóng đứng (hình bên trái). Giản đồ cho thấy cách thức Lippmann sử dụng sóng đứng để mã hóa màu sắc trong ảnh chụp (hình bên phải). Phương pháp chụp ảnh màu của Lippmann Làm thế nào Gabriel Lippmann có thể sử dụng hiệu ứng giao thoa để thu được thuật chụp ảnh màu ? Sách vở lòng về quang học sóng và sự giao thoa bảo chúng ta rằng ánh sáng có bước sóng khác nhau sẽ tạo ra hình ảnh sóng đứng tại những chiều dài chu kì tương ứng. Lippmann bắt đầu với một kiểu sóng đứng, trong đó trường sóng gặp lại chính nó sau khi phản xạ ở một cái gương. Ông chiếu ảnh quang như thường lệ lên tấm phim, nhưng qua tấm thủy tinh của nó với chất nhũ tương hầu như trong suốt có các hạt rất tinh ở mặt sau. Rồi ông thêm hiệu ứng giao thoa bằng cách đặt một gương thủy ngân tiếp xúc với nhũ tương. Hình ảnh đi qua nhũ tương, chạm tới gương, và rồi phản xạ ánh sáng trở lại nhũ tương. Chiều
- dày thích hợp của lớp phim này tương ứng với khoảng chục bước sóng hoặc nhiều hơn. Hình ảnh chiếu lên tấm phim không phơi thẳng trên nhũ tương theo sự phân bố chiếu xạ cục bộ. Thay vì vậy, sự phơi sáng được mã hóa khi trường sóng quay trở lại bên trong nhũ tương và tạo ra sóng đứng, chúng có nút cho sự phơi sáng ít, còn bụng thì cho hiệu ứng cực đại. Vì thế, sau khi phát triển, lớp phim chứa chừng hai chục hoặc nhiều hơn lớp hạt bạc với chu kì khác nhau đối với những màu khác nhau trong hình ảnh. Khi, sau phát triển, ánh sáng được chiếu lên tấm phim phản xạ, nó sẽ bị tán xạ tại những hạt bạc này theo mọi hướng. Theo hướng sóng đứng hình thành, trường ánh sáng tán xạ có bước sóng bằng chu kì của các lá kính sẽ đồng pha nhau, giao thoa tăng cường, và cùng tạo ra ảnh màu sắc nét. Các loài côn trùng và bướm tao nhã nhất định có những phiến mỏng tuần hoàn như thế mà không hề biết gì về cơ sở quang học của sự tán xạ hay nhi ễu xạ. Chúng ta thấy thực chất dạng ghi ảnh này xây dựng trên một quá trình hai bước có hệ thống của sự giao thoa và nhiễu xạ: ban đầu mã hóa hình ảnh thành vân giao thoa, và sau đó tái tạo hình ảnh bằng sự nhiễu xạ trên vân giao thoa này. Phương pháp chụp ảnh ba chiều của Gabor Cũng nguyên tắc hai bước đó áp dụng cho ý tưởng của Gabor về việc tái tạo mặt sóng. Từ Lippmann, chúng ta đã biết làm thế nào ghi và tái tạo thông tin màu lên một hình phẳng tiếp xúc với tấm phim. Nếu Gabor muốn tái tạo các mặt sóng trong không gian ba chiều, ông cần một trường nhìn, và chúng ta tưởng tượng ông loại
- bỏ được ngưỡng bước sóng. Quá trình được thực hiện trong ánh sáng đơn sắc. Sự tham chiếu cho giao thoa không còn là sự phản xạ của chính trường ảnh (trong kĩ thuật chụp ảnh giao thoa thường gọi là trường vật) mà nó được mang lại bằng một trường tham chiếu độc lập. Góc giữa trường tham chiếu và bất kì điểm nào tính từ trường vật xác định chu kì và sự định hướng của cấu trúc giao thoa thu được, phức tạp hơn nhiều, cái ông gọi là “ảnh không gian giao thoa”. Điều này cũng có nghĩa là để thu được sự giao thoa tươm tất, chiều dài kết hợp phải lớn hơn hiệu đường đi giữa hai điểm bất kì tại trường vật và trường tham chiếu. Cơ cấu thực hiện chụp ảnh giao thoa. Ánh sáng phát ra từ laser ở phía dưới bên trái. Từ gương và thấu kính ở phía trên bên trái, nó rọi sáng vật, một cái loa phóng thanh, ở chính giữa. Cái loa làm phân tán ánh sáng sang tấm phim đối diện với nó. Vì không có thấu kính nào tại nơi chiếu ảnh, nên sự rọi sáng từ loa sang tấm phim khá đều. Tuy nhiên, một phần của chùm laser bị tách ra làm trường tham chiếu tại gương trong suốt một phần, và nó gặp trường vật tại bản phim sau cùng khoảng thời gian truyền. Hai trường khi đó giao thoa và cùng phơi sáng một vân sóng đứng phức tạp trong nhũ tương. Sau phát triển, một mình trường tham chiếu rọi lên phim và trở nên điều biến cấu trúc, tức là giao thoa ba chiều. Ánh sáng được phân bố vào vài trường nhiễu xạ, trong đó có một cái gọi là trường tái tạo truyền qua tấm phim là bản sao của trường vật trước đó chạm tới phim. Theo cách này, thuật chụp ảnh giao thoa đóng vai trò giống như một cửa sổ có trí nhớ.
- Tại sao lại là ảnh ba chiều của một cái loa phóng thanh ? Cấu hình trên minh họa một trong những ứng dụng kĩ thuật quan trọng của thuật chụp ảnh giao thoa ba chiều, đó là phép phân tích dao động. Bằng cách sử dụng giao thoa kế chụp ảnh ba chiều, hình ảnh mode dao động có thể làm cho nhìn thấy trên bất cứ mặt nào, giống hệt như cát ở trên màng phẳng trong hình ảnh Chladni hơn 200 năm trước đây. Khi Gabor nghĩ ra quá trình tái tạo đầu sóng năm 1948, rồi dự định hiệu chỉnh sắc sai trong kính hiển vi điện tử, thì đèn hồ quang thủy ngân có trên thị trường khi đó đã hạn chế tính khả thi quang học của ông muốn làm thí nghiệm với vật có kích thước vài mili mét. Đột phá đến lần đầu tiên vào năm 1963 khi Leith và Upatnieks tại Đại học Michigan chứng minh được hình ảnh ba chiều từ thuật chụp ảnh giao thoa thực hiện bằng laser. Một điểm sáng nghệ thuật trở thành thuật chụp ảnh giao thoa chân dung của Gabor thực hiện với một laser xung vào mùa xuân năm 1971; thể tích của không gian vật là vài mét khối. Cơ cấu chụp ảnh giao thoa ba chiều cỡ lớn tương tự như cơ cấu minh họa với cái loa phóng thanh. Ở đây chúng ta thấy là đầu năm 1971, Dennis Gabor ngồi tại bàn giải thích thuật chụp ảnh giao thoa ba chiều và bảo quản sự sống vĩnh cửu 3-D
- qua một tấm phim kiểu Lippmann 50x60cm. Tấm phim giữ trước mặt Gabor, ngay ở chính giữa cơ cấu trong hình. Hình nhỏ góc dưới: Ảnh của Gabor nhìn qua thuật chụp ảnh giao thoa ba chiều. Gabriel Lippmann Gabriel Lippmann là người Pháp, sinh năm 1845 ở Hollerich, Luxembourg, và mất năm 1921. Ông trưởng thành và học tập ở Paris. Trong số nhiều sở thích của ông, ông nghiên cứu văn học Pháp và Đức, và lấy bằng tiến sĩ triết học ở Đức năm 1874. Năm 1875, ông lấy một bằng tiến sĩ nữa, về khoa học nói về điện kế mao dẫn tại Sorbonne. Ông đảm nhận các vị trí giảng viên đại học ở Paris từ 1878 đến cuối đời ông. Có môt giai thoại phát sinh từ các hoạt đông của Lippmann: Trong phòng thı́ ̣ ̣ nghiêm của ông, Lippmann đã dung dưỡng môt sinh người Ba Lan trong nghiên ̣ ̣ cứu của cô ta, Marie Sklodowska. ng cũng giới thiêu cô ta với người công tác của ̣ ̣ ông v hiên tượng áp điên, Pierre Curie. Hai người họ l y nhau năm 1895, và k t ̣ ̣ quả nghiên cứu của gia đı̀nh Curie, g m cả con gái Irène và con r Frédéric Joliot, cu i cùng mang lại năm giải Nobel v sự phóng xạ. Nhờ giải Nobel, Lippmann n i ti ng trước công chúng vı̀ quá trı̀nh chụp ảnh màu mang tên ông. Trong khoa học, ông n i ti ng với nhi u phát tri n trong khoa học đo lường, thiên văn học và địa ch n học. Môt trong s chúng là coelostat, dụng ̣ cụ dùng trong kı́nh thiên văn đe giữ cho ảnh ngôi sao ở môt nơi trong thời gian ̣ phơi sáng lâu tùy ý. Môt trong những phát minh khác của ông trong quang học là “phép chụp ảnh ̣ toàn cảnh” mà ông công b vào năm 1908. Khi kı̃ thuât chụp ảnh giao thoa ba chi u ̣ vào cu i thâp niên 1960 môt l n nữa bừng lên ni m đam mê lớn đoi với ảnh ba ̣ ̣ chi u, các nhà khoa học và nhà phát minh lại nhớ tới ý tưởng của Lippmann. Mục tiêu của ông là tạo ra hı̀nh ảnh mà với nó nhà quan sát có th chịu thị sai bi n thiên khi di chuy n m t theo hướng ngang và th ng đứng. Giải pháp của ông là nhı̀n vào
- sự hi n thị ảo của môt m u tu n hoàn g n như liên tục của các bộ kı́nh camera ̣ nhỏ, từng kı́nh sẽ ghi hı̀nh của vât tại hướng của nó. ̣ Dennis Gabor Dennis Gabor là người Hungary, sinh năm 1900 ở Budapest, trở thành người Anh, qua đời năm 1976 ở London. ng l y mảnh b ng phát minh đau tiên của ông lúc lên tu i 11, l y văn b ng kı̃ sư điên năm 1924 tại Technishche Hochschule ở ̣ Berlin, và b ng ti n sı̃ năm 1927 với luân án v dao đông kı́ tia cathode t c độ cao. ̣ ̣ ng làm viêc tại Siemens & Halske, phát tri n các ng phóng điên khı́. ̣ ̣ Có môt không khı́ nghiên cứu r t sôi n i ở Berlin trong những năm tháng ̣ này, với những chủ đe nóng bao g m kı́nh hi n vi điên tử của các nhà tiên phong ̣ Knoll và Ruska – Ernest Ruska nhân giải Nobel vât lı́ năm 1986 – và kı̃ thuât điên ̣ ̣ ̣ ̣ ảnh, những lı̃nh vực mà nhi u năm sau này, Gabor trở lại có đóng góp lớn. Khi Hitler lên n m quy n, Gabor rời Berlin và cu i cùng sang làm viêc ở Anh ̣ năm 1934 với công ti Anh Thomson-Houston. ng ti p tục phát tri n ng phóng điên khı́. Sau chi n tranh, ông còn nghiên cứu v lı́ thuy t truy n thông, kı̃ thuât ̣ ̣ điên ảnh lâp th , và môt ý tưởng mới , dựng lại măt sóng mà ông xem là cách giải ̣ ̣ ̣ ̣ cho bài toán s c sai trong kı́nh hi n vi điên tử. Từ năm 1949, Gabor gia nhâp ̣ ̣ trường Khoa học và Công nghệ Imperial College ở London, ở đó ông trở thành giáo sư vât lı́ điên tử ứng dụng. ̣ ̣ “Dựng lại măt sóng” là môt trong nhi u ý tưởng của Dennis Gabor, người có ̣ ̣ tı́nh ch t sau cùng phải chờ lời giải của những bài toán, cùng tài năng và thành tı́ch của những nhà nghiên cứu khác. Đo ng hành trong cuôc s ng ̣ Lippmann và Gabor có n n tảng trı́ tuệ như nhau, và trưởng thành và làm viêc trong môi trường đa văn hóa. ̣ Trong sự nghiêp của họ, họ không nghiên cứu v môt câu hỏi lớn t n tại ̣ ̣ trong cuôc s ng mà v nhi u dự án khác nhau, trong đó có vài dự án r t thành ̣ công. Ngoài nghiên cứu cơ bản trong khoa học, bộ phân quan trọng trong những ̣
- n lực của họ là phát minh và hệ th ng hóa công nghê.̣ Cả hai đeu l y nhi u b ng phát minh. Viêc thực thi đay đủ những ý tưởng của họ đòi hỏi những giải pháp mới , nh t ̣ là các ch t ghi ảnh và ngu n sáng: Trong những năm tháng nghiên cứu v t vả, Lippmann đã trau chu t quá trı̀nh chụp ảnh riêng của ông, “kı́nh ảnh Lippmann” có độ phân giải cực kı̀ cao, v n được sản su t ngày nay. Ngoài ra, nhi p ảnh màu, t t nhiên, yêu c u các t m phim toàn s c; đe mở rông độ nhạy trên toàn vùng ph khả ̣ ki n, Lippmann hợp tác với anh em Lumière, lúc đó dân đau các nhà sản su t kı́nh ảnh ở châu u. Đoi với phát minh của Gabor, viêc ghi măt sóng c n bức xạ có mức ̣ ̣ độ k t hợp cao không có s n trong tự nhiên. May thay trong th hệ các nhà nghiên cứu ti p theo, nguyên lı́ laser đã mang lại môt ánh sáng như th , và thuât chụp ảnh ̣ ̣ giao thoa ba chi u đôt ngôt gây ti ng vang. Đoi với đi u kiên tiên quy t khác, đó là ̣ ̣ ̣ kı́nh ảnh có độ phân giải cực kı̀ cao, Lippmann đã tạo ra chúng trước năm 1900. Nhi u nhà nghiên cứu nh t định sẽ, với sự hi u bi t, đọc th y ti ng thở dài của Lippmann ở cu i bài thuy t trı̀nh Nobel của ông: “Cuộc s ng thı̀ ng n ngủi và ti n bộ thı̀ châm chạp”. ̣ Cái gı̀ xu t hiên trong cuôc đua trường kı̀ ? ̣ ̣ Kı̃ thuât nhi p ảnh Lippmann không th nào tránh khỏi sự b t lợi của những ̣ t m phim độ phân giải cao yêu c u thời gian phơi sáng từ hàng phút đen hàng giờ. Tuy nhiên, luân chứng của Lippmann và tı́nh khả thi của viêc chụp ảnh màu tự ̣ ̣ nhiên đã kı́ch thı́ch lòng khát khao vươn tới những công nghệ như th . Anh em nhà Lumière đã phát tri n, song song với công viêc họ thực hiên cho Lippmann, một ̣ ̣ quá trı̀nh của riêng họ, dựa trên những bộ lọc trong su t ở ba màu (trong c u trúc tương tự như màn hı̀nh ti vi ngày nay). Phương pháp “kı́nh ảnh màu” của họ chi m ưu th trong thâp niên 1930, r i bị thay th bởi công nghệ nhi p ảnh màu hiên ̣ ̣ nay, phát ra kh i thu c nhuôm trong ba lớp phim trong khi phát tri n. Tuy nhiên, ̣ kı̃ thuât nhi p ảnh Lippmann v n giữ được sự quan tâm cao độ trong khoa học và ̣ giảng dạy; không h có cách nào khác ghi ảnh ph môt cách chı́nh xác. ̣
- Năm 1962, người Nga Y.N. Denisyuk đã nhân ra m i quan hệ của các nguyên ̣ lı́ trong phương pháp ghi ảnh của Lippmann và của Gabor. ng đe xu t môt k t ̣ hợp sử dụng kı́nh ảnh Lippmann dùng cho tạo ảnh ba chi u trong sự phản xạ. Với sự xu t hiên của kı̃ thuât chụp ảnh giao thoa laser, phát minh của Denisyuk trở ̣ ̣ thành thực ti n là “kı̃ thuât chụp ảnh giao thoa ba chi u ánh sáng tr ng” hay “kı̃ ̣ thuât chụp ảnh giao thoa ba chi u Lippmann”. ̣ Cơ c u dựng lại măt sóng của Gabor là môt nguyên lı́ mới trong quang học. ̣ ̣ Tuy nhiên, viêc áp dụng cho th u kı́nh kı́nh hi n vi điên tử đã không được nhân ra, ̣ ̣ ̣ và ý tưởng đó chı̉ giới hạn trong các sách giáo khoa tiên ti n v quang học. Tı̀nh hu ng thay đo i theo môt ki u b t ngờ khi Leith và Uptanieks vào năm 1963, đư a ra ̣ những t m hı̀nh ba chi u thât sự, gây xôn xao dư luân thực hiên b ng kı̃ thuât ghi ̣ ̣ ̣ ̣ ảnh giao thoa laser. Sự trông đợi lớn mọi bức ảnh trở thành ba chi u được khu y đông qua kı̃ thuât chụp ảnh giao thoa. Công nghệ đó đạt tới đı̉nh cao ở bức chân ̣ ̣ dung ba chi u chụp Dennis Gabor vào đau năm 1971. Tuy nhiên, hı̀nh ảnh ba chi u không làm phát sinh nhu c u thương mại. Thay vı̀ vây, chúng có những ứng dụng ̣ b t ngờ khác: với thuât chụp ảnh giao thoa, măt sóng thuôc b t kı̀ loại nào đeu có ̣ ̣ ̣ th so sánh b ng sự giao thoa, không chı̉ b ng th u kı́nh và gương. K từ cu i thâp ̣ niên 1970, kı̃ thuât giao thoa ba chi u là môt công nghệ đo lường tiêu chu n cho ̣ ̣ viêc phân tı́ch bi n dạng và dao đông, ngày nay chúng được cải ti n thêm qua thuât ̣ ̣ ̣ chụp ảnh kı̃ thuât s trực tuy n và máy tı́nh nhanh. Thât thú vị, laser và máy tı́nh ̣ ̣ đã mang thuât nhi p ảnh giao thoa trở lại g n với áp dụng ban đau của Gabor, ̣ mang lại các bộ phân quang nói chung, các cách tử giao thoa ba chi u, th u kı́nh tia ̣ X giao thoa ba chi u, quang học nhi u xạ lai, nhân dạng m u quang, và vân vân. ̣ Nhi p ảnh ba chi u do máy tı́nh tạo ra có th định cỡ các b măt quang hay cơ kı̀ lạ ̣ cho đen môt măt sóng chı̉ được công nhân trên toán học, hay tạo ra các bộ phân ̣ ̣ ̣ ̣ quang kı̀ lạ, vı́ dụ như máy hát CD, màn hı̀nh hôi tụ hay dụng cụ tự tiêu cho camera. ̣ Ngày nay, có nhu c u thương mại thât sự v nhi p ảnh giao thoa dát mỏng trên các ̣ loại thẻ, gi y tờ tùy thân, gi y bạc, và xác minh loại hàng hóa. Những hı̀nh ảnh ba chi u này được dâp n i trên b măt nhưng cũng chạm sâu vào như nhi p ảnh ̣ ̣ Lippmann. Hi ên nay, các nhà mơ tới những kh i tinh th nhỏ khi nhi p ảnh giao ̣ thoa cho bộ nhớ dữ liêu có dung lượng cực cao và thông lượng song song. Ngoài ̣
- những ứng dụng hoàn toàn mới, nhi p ảnh của Gabor đã có sự đóng góp lớn cho viêc tı̀m hi u quang học; h u như mọi học sinh ở trường ph thông đeu bi t tạo ̣ ảnh giao thoa ba chi u như môt bài thực hành trong phòng thı́ nghiêm. ̣ ̣
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn