PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI NGÔN NGỮ DÂN TỘC CỦA<br />
TRẦN NHÂN TÔNG<br />
NCS. Hoàng Thị Tuyết Mai *,<br />
Giảng viên Trường ĐH Khoa học,<br />
Đại học Thái Nguyên<br />
Tóm tắt:<br />
Thế kỷ XIII được coi là mốc quan trọng của nền văn hoá Việt và cũng là mốc phát triển của riêng chữ<br />
Nôm. Trong giai đoạn mới hình thành thứ chữ riêng có của dân tộc này, các chính thể hành chính quan<br />
phương có những nỗ lực khác nhau trong việc khích lệ sự hưng thịnh và hoàn thiện của chữ Nôm1. Đóng<br />
vai trò quan trọng trong nền văn hóa đặc thù giai đoạn đầu độc lập, vua Trần Nhân Tông có cách ứng xử<br />
hết sức đặc biệt với chữ Nôm. Đấng minh quân sáng suốt của nhà Trần đã đặc biệt hóa vị thế của chữ Nôm<br />
như là cách để định vị mình giữa chúng sinh và thần dân.<br />
Từ khóa: Phương thức ứng xử, chữ Nôm, Văn học Nôm, thơ Nôm Trần Nhân Tông, văn học Lý Trần<br />
Summary:<br />
KING TRAN NHAN TONG AND NOM SCRIPT: A FEUDAL ATTITUDE AND POLICIES<br />
TOWARDS THE NATIONAL LANGUAGE<br />
Hoang Thi Tuyet Mai,<br />
School of Sciences, Thainguyen University<br />
The thirteenth century is considered as the milestone of Vietnamese culture and of the Nom scripts as<br />
well. In the early stage of this new-born national script, the feudal reigns made different efforts to<br />
encourage and develop it. Playing an essential role in the cultural foundation in the early stage of<br />
independence, KingTran Nhan Tong of Tran dynastyplaces an importance onNom script. He supports and<br />
developsNom script as a significant way to self-actualize to his people.<br />
Key words: Feudal attitudes and policies, Nom Script, Nom Literature, Nom Poetry of Tran Nhan Tong,<br />
literature in the Ly Tran dynasties<br />
1. Nơi “gác ngọc lầu vàng” dụng chữ Nôm để củng cố vƣơng quyền<br />
1.1.Vinh danh ngƣời đuổi cá sấu bằng Văn Nôm<br />
Sách Đại Việt sử kí toàn thư quyển V, Kỉ nhà Trần viết: “Bấy giờ (năm 1282) Có cá sấu đến sông Lô.<br />
Vua sai thượng thư Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống sông, con cá sấu tự đi mất. Vua cho<br />
việc này giống như việc của Hàn Dũ, cho đổi họ là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc âm.<br />
Nước ta thơ phú dùng nhiều quốc âm, thực bắt đầu từ đấy”. [3]. Và chú thích: Hàn Dũ – Danh sĩ đời<br />
Đường ở Trung Quốc, làm quan ở Triều Châu, ở đấy có nhiều cá sấu, Hàn Dũ làm bài văn vứt xuông nước,<br />
cá sấu bỏ đi.<br />
<br />
*) Hoàng Thị Tuyết Mai, nghiên cứu sinh Khoa Văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học<br />
quốc gia Hà Nội. Hiện công tác tại Khoa Văn – xã hội, ĐH Khoa học, ĐH Thái Nguyên. ĐT: 0986222413,<br />
email: Tuyetmaidhkh@gmail.com<br />
1<br />
Xem luận văn thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai, Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý Trần,<br />
bảo vệ tại trường ĐH KHXH & NV Hà Nội, tháng 7 năm 2011<br />
<br />
Đóng vai trò như một bề trên sáng suốt, Trần Nhân Tông có thái độ đặc biệt với sự kiện chính trị - xã<br />
hội và văn hóa nêu trên. Sự kiện có màu sắc huyền thoại về thi sĩ họ Hàn được nhắc tới như những ý kiến<br />
được đưa ra bởi một tầm hiểu biết hạn hẹp đã bị lấn át bởi tầm hiểu biết có phần rộng hơn là niềm tin vào<br />
khả năng sáng tạo gần như vô hạn của trí tưởng tượng con người. Tám thế kỉ đã qua, sự kiện cũ chỉ được<br />
ghi lại vài dòng lạnh lùng trên trang giấy, nhưng kí ức tiềm ẩn của các bậc thức giả vẫn thao thức, trở trăn<br />
cho những gì thuộc về bản ngã văn hóa dân tộc. Câu chuyện về thi sĩ họ Hàn đuổi “ngặc ngư” bằng văn<br />
Nôm được Trần Nhân Tông phủ màn sương huyền thoại có giá trị như những nỗ lực tạo dựng bản sắc văn<br />
hóa và tinh thần quốc gia dân tộc bởi “Huyền thoại là một trong những thành tố chính yếu trong việc tạo<br />
dựng tinh thần quốc gia, nhất là tinh thần quốc gia tôn giáo (religions nationalism)”2. Các thế hệ sau luôn<br />
nhắc tới sự kiện này với những lăng kính và cách lí giải khác nhau.<br />
Vua Tự Đức từng làm thơ ca ngợi:<br />
Quốc ngữ văn chương thùy nhiễm hàn<br />
Bất vong đôn bán bị nham khan<br />
Lư giang di ngạc hà thần tốc<br />
Bác đắc quân vương tứ tính Hàn<br />
Dịch:<br />
Quốc ngữ văn chương mới nhúng tay<br />
Chẳng quên tiếng mẹ khá khen thay<br />
Sông Lư đuổi sấu in Hàn Dũ<br />
Nên được nhà vua đổi họ ngay. [4]<br />
Sử gia nước ngoài A.B Pôliacốp cũng ghi nhận: “Trên cơ sở chữ tượng hình Trung Quốc, hệ thống chữ<br />
viết dân tộc – “chữ Nôm” được phổ biến rộng rãi. Một trong những nhà thơ chữ Nôm tiêu biểu nhất thời<br />
gian này là Nguyễn Thuyên” [2]<br />
Bàn luận về đoạn sử trên Nguyễn Khắc Thuần viết: “Về sự chuẩn xác của đoạn văn này thì chúng ta có<br />
thể ngờ vực, nhưng, việc Nguyễn Thuyên được Trần Nhân Tông ban cho họ Hàn là điều có thật và thơ chữ<br />
Nôm kể từ đó được gọi là thơ Hàn luật cũng là điều hoàn toàn có thật”. [5]<br />
Trần Ngọc Vương cho rằng:“Bằng hàng loạt những hoạt động đối nội, hoàng đế Trần Nhân Tông rất<br />
nhanh chóng chứng tỏ khả năng cố kết nhân tâm, kiên nhẫn “đãi cát tìm vàng” để tận dụng nhân tài, trước<br />
hết phục vụ cho sự nghiệp chống ngoại xâm mà chỉ tiên liệu sơ sài cũng biết sẽ vô cùng gian nan ấy. Điển<br />
hình cho loại hoạt động này là các sự kiện : sai Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chiêu dụ trịnh Giác Mật<br />
thổ tù ở đạo Đà Giang (1280), bày tỏ “thần uy” bằng cách sai Nguyễn Thuyên làm “văn đuổi cá sấu” ở<br />
sông Hồng (1282)…”[6]<br />
Đóng vai trò như người định hướng sáng suốt, vua Trần Nhân Tông đã khuyến khích thứ ngôn ngữ dân<br />
tộc bằng cách của người cai trị thiên hạ tinh tế và có tầm nhìn chiến lược. Đọc kĩ năm dòng sử ngắn ngủi<br />
chúng ta thấy có hai lần xuất hiện bóng dáng của chính thể quan phương mà Trần Nhân Tông là người tạo<br />
tác. Lần thứ nhất “Vua sai thượng thư Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống sông…”, nghĩa là<br />
việc sáng tác thơ và làm thơ là do ý chí của đấng chí tôn, là chủ ý của chính thể hành chính. Việc sử dụng<br />
chữ Nôm và sáng tác thơ Nôm lúc này hẳn là phổ biến lắm và có tác dụng lớn lắm đối với vương quyền và<br />
2<br />
<br />
Dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn, Văn học trung đại Việt Nam – Quan niệm con người và tiến trình phát triển, NXB<br />
Khoa học xã hội, 2005, tr.121<br />
<br />
thần quyền nên những sự kiện lớn và gây lo lắng cho nhiều người phải viện đến thơ Nôm (chứ không phải<br />
thơ chữ Hán). Hơn nữa, màu sắc huyền bí của sự kiện cùng với sự linh diệu của thứ văn “độc” này dường<br />
như có sự trợ giúp của đấng siêu nhiên. Với mục đích chính trị, bản thân vua Trần Nhân Tông không chỉ<br />
coi trọng và đề cao chữ Nôm mà còn “cấp” cho thứ chữ này những thuộc tính và quyền năng siêu phàm có<br />
màu sắc tâm linh nhằm củng cố vương quyền và khẳng định vị thế của người dụng chữ Nôm sáng tác. Hơn<br />
thế, chữ Nôm được ngầm định như là một phần linh diệu, bí hiểm của hình sông, dáng núi, của vang vọng<br />
thẳm sâu tinh anh và thần thái núi sông. Tại thời điểm này, chữ Nôm là cái gì thiết thân, gần gũi nhưng<br />
cũng đầy huyễn hoặc của phần sâu xa tiềm thức mà chỉ học giả Nguyễn Thuyên mới đủ tài để “đối thoại”<br />
với các đấng bậc siêu nhiên linh ứng.<br />
Khi cá sấu bỏ đi, lần thứ hai vua lại bày tỏ uy thế bằng cách ban cho thi nhân họ Hàn – họ của một<br />
danh sĩ đời Đường ở Trung Quốc. Vinh danh người sáng tác bằng chữ Nôm là một cách khuyến khích thứ<br />
chữ dân tộc một cách khéo léo và rõ ràng nhất. Đó cũng là cách ban thưởng của một nước có văn hiến, hiểu<br />
Thi Thư, biết Lễ Nhạc giống như trong sử chính thống của thiên triều (Trung Quốc). Vả chăng, sự kiện này<br />
có tính “công thức” giống như trong điển chế, nó rất phù hợp với tư duy hồi cổ của các nước nằm trong khu<br />
vực đồng văn, luôn lấy quá khứ làm qui chuẩn cho mọi hành xử trong thiên hạ. Màu sắc cổ kính và chất<br />
Đông phương của sự kiện có giá trị văn hóa khu vực rõ nét. Nó như một minh họa về cách tư duy kiểu<br />
phương Đông: tất thảy các sao đều phải chầu về ngôi sao tử vi đế tọa - bậc chí tôn (Trung Quốc). Với sự<br />
kiện này, sợi dây liên hệ giữa nước phiên thuộc và thiên triều truyền thống vẫn được kết nối bởi những qui<br />
chuẩn văn hóa phổ quát, song nước Nam đã là nước Nam – một mảnh riêng biệt về lãnh thổ và văn hiến.<br />
Khát vọng khẳng định dân tộc với những ưu thế của riêng mình như nguồn mạch xuyên suốt, thẩm thấu các<br />
lĩnh vực của đời sống xã hội thời Lý - Trần. Với chữ Nôm, ông vua cai trị thời Trần đã khéo léo tạo nên<br />
một “kênh” thông tin đặc biệt, tạo những dư âm có lợi cho nước Nam trong mối quan hệ với nước láng<br />
giềng Trung Quốc.<br />
Hơn nữa, cách hành xử này cũng rất hợp lý nếu soi chiếu dưới góc độ Nho giáo.Việc nhà vua sai bề tôi<br />
đuổi “ngặc ngư” bằng thứ văn “độc” chứng tỏ quyền uy tối thượng của đấng chí tôn. Nó là cách khẳng định<br />
ngầm rằng dưới bầu trời Nam lúc này ông vua đã có quyền tối cao. Sức mạnh của người cai trị ngai vàng là<br />
phép cộng của cả vương quyền và thần quyền. Cho nên, sự kiện này có ý nghĩa như một phức thể văn hóa.<br />
Với Trần Nhân Tông chữ Nôm không những được coi trọng mà nó vừa là sản phẩm sáng tạo riêng có<br />
của nước Nam, là sản phẩm tuyệt vời của trí tuệ dân tộc nằm trong “mạch” chung của ngôn ngữ Đông<br />
phương mà Trung Quốc luôn là cái nôi kiến tạo. Với nước ta ngày đầu độc lập, việc bảo vệ chính quyền tự<br />
chủ là bất di bất dịch, song giữ mối quan hệ hòa hảo, uyển chuyển, linh hoạt, với Trung Quốc là vô cùng<br />
cần thiết. Là người đứng đầu đất nước, một đất nước đã và đang và luôn phải tìm những bằng chứng rõ<br />
ràng cho sự độc lập của mình bên cạnh Trung Quốc, Trần Nhân Tông đã vinh danh nền văn hóa của đất<br />
nước mình bằng phương tiện rất đỗi dân tộc một cách khôn khéo.<br />
1.2. Khuyến khích lệ “giảng cả âm nghĩa” chữ Hán nhƣ là một biện pháp thúc đẩy sự hƣng thịnh<br />
của chữ Nôm<br />
ĐVSKTT viết:<br />
(Khoảng năm Mậu Tí, năm thứ 4, 1288)<br />
<br />
“Vua bảo ty Hành khiển giao hảo với Viện Hàn lâm. Lệ cũ, phàm có tuyên ra lời nói của vua thì viện Hàn<br />
lâm đưa trước bản thảo tờ chiếu cho ty Hành khiển để học tập trước, đến khi tuyên đọc thì giảng cả âm<br />
nghĩa cho dân thường dễ hiểu, ….” [3]<br />
Đời Trần chữ Hán tồn tại nơi triều chính nhưng nó vẫn thiếu cội rễ để tồn tại trong đời sống dân<br />
chúng một cách thiết thân. Nhu cầu về một thứ chữ dân tộc đã và đang hiển hiện xung quanh một đất nước<br />
nhỏ bé nhưng bắt đầu có vị thế và ngày càng khẳng định mãnh liệt sự tồn tại của mình. Đó đây, nơi đám<br />
dân đen khắp nẻo kia, chữ Hán chẳng may may đụng chạm đến ngõ ngách của những rung cảm sâu thẳm<br />
nhất và đời thường nhất. Trần Nhân Tông hiểu được những chống chếnh của ngôn ngữ chữ Hán và sự diệu<br />
vợi của những qui tắc trong ngôn ngữ vay mượn nên duy trì việc diễn Nôm những văn bản mang tính chất<br />
nhà nước. Lê Mạnh Thát cho rằng: “…việc đọc những chiếu chỉ triều đình không chỉ bằng tiếng Hán mà cả<br />
bằng tiếng Việt, tiếng nói hàng ngày của người Đại Việt thời bấy giờ, nhằm cho mọi tầng lớp người dân<br />
thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau có thể hiểu được nội dung những chính sách liên hệ đến số phận<br />
của họ”3. Hơn thế, chính nhà vua lúc ngâm vịnh nhàn tản cũng dùng chữ Nôm để giãi bày những rung cảm<br />
sâu kín của lòng mình4. Khía cạnh này khiến cho ông vua thiên tử này gần gũi với dân chúng hơn và cũng<br />
thúc đẩy chữ Nôm phát triển phong phú hơn.<br />
Cách ứng xử ấy (việc diễn Nôm những văn bản nhà nước) tồn tại chính thức như bao thứ nghi lễ cung<br />
đình khác chứng tỏ nó vô cùng cần thiết. Hơn nữa ứng xử bằng lệ 5nghĩa là thói quen đó đã có những kiểm<br />
chứng lịch sử và kinh nghiệm đủ để kiêu hãnh cho sự tồn tại của mình. Nó là bằng chứng chính đáng cho<br />
hiện tượng song ngữ trong đời sống và sáng tác văn chương của Việt Nam thời trung đại. Đây cũng là một<br />
biểu hiện tất yếu của ý thức yêu chuộng quốc âm, ý thức dân chủ, nhu cầu dùng tiếng Việt để biểu hiện tình<br />
cảm thực của mình “dù học tập văn từ của Trung Hoa, mà vẫn nói năng, ca vịnh không rời với tiếng nói<br />
của mình” (Phạm Đình Toái)6.<br />
Có một mâu thuẫn tồn tại trong thời Lý Trần, đó là khát vọng độc lập và nỗ lực không mệt mỏi để<br />
khẳng định nền tự chủ nhưng không dễ dàng thoát khỏi sự bủa vây của những yếu tố ngoại lai mà ngôn ngữ<br />
là biểu hiện rõ ràng nhất. Bản thân vua Trần Nhân Tông cũng cùng lúc duy trì khoa cử (dùng chữ Hán) và<br />
dùng lệ giảng âm nghĩa chữ Nôm như giải pháp tình thế để ngày một ngày hai chữ Nôm có cơ hội để<br />
trưởng thành. Hơn ai hết Trần Nhân Tông đã khuyến khích chữ Nôm phát triển không chỉ ở chốn dân gian<br />
mà ngay tại nơi bệ rồng thăm thẳm. Triều đình của nhà Trần vốn gần gũi với rặng tre của dân chúng7 và<br />
<br />
3<br />
<br />
Xem http://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=191:mt-s-vn-t-tng-trn-nhantong&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224<br />
4<br />
Trường hợp Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca đề cập bên dưới.<br />
5<br />
Xem Hoàng Thị Tuyết Mai, Phương thức ứng xử với ngôn ngữ và văn hóa thời Lý Trần, Tạp chí Văn hóa Nghệ<br />
thuật, số 325 (2011) 20.<br />
6<br />
<br />
Phạm Đình Toái (1817 - 1901) quê Nghệ An, đỗ Cử nhân 1842, làm quan đến án sát Sơn Tây, bị thăng giáng<br />
nhiều lần. Ngoài “Quỳnh Lưu tiết phụ truyện” bằng chữ Hán, ông chủ yếu dùng thơ lục bát điêu luyện để diễn<br />
Nôm một số thiên trong Kinh truyện nho gia, nhiều thơ cổ điển Trung Quốc. Nổi tiếng vì có công nhuận<br />
sắc “Đại Nam quốc sử diễn ca”, đã uốn nắn, rút gọn từ 1.887 câu còn 1.027 câu lục bát, làm cho tác phẩm trở<br />
thành cô đọng, cổ kính mà lưu loát, hấp dẫn<br />
7<br />
<br />
Tinh thần khai phóng, khoan hòa của nhà Trần là một mạch chảy thông suốt. Chẳng hạn, sự kiện vua Trần<br />
Thánh Tông từng bảo người tôn thất rằng: “Thiên hạ là thiên hạ của Tổ tông, người nối nghiệp Tổ tông nên cùng<br />
với anh em trong họ cùng hưởng phú quý... ; sự kiện rước linh cữu Trần Nhân Tông năm Canh Tuất (1310) dân<br />
tình xem đông đến mức phải tể tướng dẹp người, hữu ty dùng kế mới đi được... ; sự kiện vua cảm tình sự hộ<br />
tùng của những người hầu hạ trong lúc loạn ly mà răn bảo các vệ sĩ không được la đuổi gia đồng của các vương<br />
hầu...<br />
<br />
cách hành xử hào phóng, khai mở ấy chúng ta cũng tìm thấy ở lĩnh vực sử dụng ngôn ngữ. Với đời vua<br />
Trần Nhân Tông, Chữ Nôm có vị thế và cơ hội để phát triển không kém thua chữ Hán.<br />
3. Chốn “dật sĩ tiêu dao” dụng chữ Nôm để kí thác tâm tƣ.<br />
Chữ Nôm đã được chọn như điểm về của cảm hứng thẩm mĩ Phật giáo – thứ cảm hứng quan trọng bậc<br />
nhất của văn học Lý Trần bởi ông vua – thi sĩ – phật hoàng Trần Nhân Tông. Với Cư trần lạc đạo phú và<br />
Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca, Trần Nhân Tông đã tôn vinh chữ Nôm như phương tiện đắc dụng để kí<br />
thác tư tưởng của mình.<br />
Trần Nhân Tông có sáng tác chữ Hán, song ông chỉ ghi dấu ấn bản thể mình như một thi nhân lỗi lạc<br />
bởi những sáng tác bằng chữ Nôm. Triết lí sâu xa của lẽ sống con người được kí thác bằng văn Nôm – thứ<br />
văn chương ở góc độ nào đó là của riêng người Việt. Nó cũng là thứ ngôn ngữ khu biệt với chữ Hán bởi<br />
những qui ước rất Việt Nam trên dòng chảy chung của nguyên tắc tạo chữ của người Hán. Trên cái nền<br />
chung về văn hóa và ngôn ngữ của nền văn minh Trung Hoa, người Việt Nam sau khi có tiếng nói riêng về<br />
chính trị đã kịp tạo cho mình tiếng nói riêng về văn hóa, văn học. Chính việc coi trọng chữ Nôm và dùng<br />
nó diễn đạt khu vực riêng của cảm thức người Việt đã giúp cho người Trung Quốc hiểu rằng hơn nghìn<br />
năm đồng hóa vẫn không thể biến đất nước bé nhỏ Việt Nam thành một phần lệ thuộc vào mình. Việt Nam<br />
vẫn là Việt Nam, bất luận quá khứ đau thương và vết hằn lịch sử in đậm hàng ngàn năm lịch sử. Ý thức<br />
quyết liệt ấy được minh chứng bằng ngôn ngữ văn chương và bằng cảm hứng “cư trần” vốn là sản phẩm<br />
của thuyết lí Phật giáo từ Ấn Độ qua phương Bắc đưa vào nhưng màu sắc của nó đã biến đổi theo cương<br />
vực và lãnh thổ của người Nam.<br />
Trước đó dù thư tịch Phật giáo có một số văn bia: Vân Bản tự chung minh (chùa Vân Bản), Chúc thánh<br />
Báo Ân tự bi (Chùa Báo Ân)….Nhưng chỉ đến Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca<br />
chúng ta mới có những sáng tác bằng văn chương đúng nghĩa và tương đối qui mô bằng ngôn ngữ dân tộc.<br />
Hai tác phẩm này có đề cập đến những vấn đề cốt lõi của Thiền Tông có ý nghĩa như đuốc tuệ soi đường<br />
cho nhiều thế hệ người Việt giai đoạn Lý Trần. Con đường đạt đạo mà Cư trần lạc đạo phú chỉ ra có ý<br />
nghĩa quan trọng và chi phối đời sống của hàng triệu người Việt trong những thế kỉ bản lề của dân tộc. Vị<br />
trí của văn học Nôm trong sáng tác của Trần Nhân Tông có ý nghĩa như là mốc đầu tiên cho sự kết tinh của<br />
ngôn ngữ và tinh thần dân tộc.<br />
Với Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca chữ Nôm đã đủ sức chuyển tải những nội<br />
dung tư tưởng khác nhau và mang vẻ đẹp của riêng nó. Chữ Nôm được lựa chọn để phát biểu những tư<br />
tưởng trìu tượng và khó nắm bắt một cách giản dị và dễ hiểu. Chữ Nôm là ngôn ngữ sáng tác, tức là nó đã<br />
được chuyên nghiệp hóa và đáp ứng được những đòi hỏi về kĩ xảo nhất định trong đời sống và nhất là trong<br />
nghệ thuật. Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca xét trong lịch sử văn học dân tộc là những<br />
tác phẩm khởi đầu cho dòng văn học Nôm. Giá trị của nó ngoài việc biểu đạt những vấn đề thuộc về tôn<br />
giáo còn có ý nghĩa như là sự khẳng định tinh thần tự cường của một dân tộc và tầm nhìn xa trông rộng của<br />
một ông vua đem chính ngôn ngữ dân tộc để truyền tải những vấn đề rất cao siêu.<br />
<br />