QUÁ TRÌNH XÁC LẬP NHỮNG THƯƠNG ĐIẾM ĐẦU TIÊN CỦA BỒ ĐÀO NHA TẠI ẤN<br />
ĐỘ (1500 - 1510)<br />
Nguyễn Thị Vĩnh Linh1<br />
<br />
Tóm tắt: Là quốc gia tiên phong trong kỷ nguyên khám phá (Discovery Age), Bồ Đào<br />
Nha đã góp phần khai mở trang sử đầu tiên của chủ nghĩa thực dân phương Tây khi kiến tạo<br />
thành công đế quốc mậu dịch hàng hải thời cận đại - Estado da India2. Những cứ điểm ven<br />
biển Ấn Độ không chỉ đóng vai trò nền tảng cho sự thành lập Estado mà còn là minh chứng<br />
cho sự phát triển chiến lược thương mại biển của nhà nước thuộc địa này. Chính vì thế, bài<br />
viết tập trung phân tích cách thức xác lập và vị trí của các thương điếm duyên hải Ấn Độ trong<br />
hoạt động của Bồ Đào Nha từ 1500 đến 1510.<br />
Từ khóa: Ấn Độ, Bồ Đào Nha, Goa.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Từ cuối thế kỷ XV, các cuộc phát kiến địa lý đã tạo điều kiện cho thương mại biển trên<br />
toàn thế giới có những bước tiến vượt bậc. Đặc biệt việc thực hiện thành công chuyến hải<br />
hành đến Ấn Độ của Vasco da Gama có tác dụng quan trọng trong việc kết nối giao thương<br />
giữa các trung tâm thương mại lớn của thế giới thời bấy giờ và góp phần thay đổi căn bản vị<br />
thế của các tiểu quốc ven biển Ấn Độ trong tuyến thương mại nội Á cũng như xuyên Á.<br />
<br />
2. Nội dung<br />
2.1 . Vai trò của Ấn Độ trong tuyến thương mại biển nội Á trước 1500<br />
Trước khi Vasco da Gama thực hiện chuyến viễn chinh đến Ấn Độ vào cuối thế kỷ XV,<br />
xã hội châu Âu đang dần có những bước chuyển mình mạnh mẽ (nhất là trong thương mại<br />
biển). Nếu đầu thế kỷ XV, châu Âu vẫn còn những hiểu biết khá hạn chế về thế giới bên ngoài<br />
Đại Tây Dương, thì đến những năm 1480, họ đã khám phá thành công toàn bộ bờ biển Đại<br />
Tây Dương châu Phi và tìm được hầu khắp các đảo quan trọng. Trong thời kỳ này, khi mối<br />
quan hệ giao thương giữa châu Á và châu Âu được duy trì chủ yếu thông qua hoạt động của<br />
các thương nhân Hồi giáo và Venice thì tuyến thương mại nội Á lại ghi dấu ấn đậm nét của<br />
thương nhân Ấn Độ.<br />
Chúng ta biết rằng đến khoảng thế kỷ IX, một mạng lưới thương mại biển tinh vi và<br />
rộng lớn đã hình thành ở châu Á. “Mạng lưới này liên kết các hải cảng ở phía Tây Ấn Độ<br />
Dương đến vịnh Bengal và thông qua eo Malacca đến Biển Đông. Sự kết nối giữa Trung Đông,<br />
<br />
1<br />
<br />
. TS, Khoa Kinh tế - Du lịch, trường Đại học Quảng Nam<br />
<br />
. Thuật ngữ Estado da India - Liên bang Ấn Độ được dùng để chỉ tất cả các thành phố, pháo đài<br />
và các vùng lãnh thổ mà người Bồ Đào Nha đã kiểm soát được ở châu Á và Đông Phi. Tuy nhiên,<br />
đôi khi thuật ngữ Estado còn được sử dụng với ý nghĩa rộng hơn nhiều, bao gồm tất cả các vùng<br />
ven biển và các đảo thuộc phía Đông mũi Hảo Vọng giới hạn từ cực đông nam châu Phi đến<br />
vùng đất thấp ở cửa sông Dương Tử. Trong thực tế, cũng có một số khu vực không nằm trong<br />
phạm vi quản lý của cơ quan này (ví dụ như Macao - Trung Quốc).<br />
2<br />
<br />
1<br />
<br />
NGUYỄN THỊ VĨNH LINH<br />
<br />
Đông Phi, Ấn Độ, Đông Nam Á và Trung Quốc góp phần tạo nên một khu vực thương mại đầy<br />
sôi động. Ấn Độ đóng vai trò trung tâm của mạng lưới này cả về phương diện địa lý lẫn giá trị<br />
kinh tế”[2; 175]. Dưới sự trị vì của vương triều Hồi giáo Dehli từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVI,<br />
giao thương bằng đường biển của thương nhân Ấn Độ có nhiều biến chuyển mới. Biển Arab,<br />
vịnh Bengal và Biển Đông trở thành ba khu vực nổi bật nhất nằm trong mạng lưới thương mại<br />
Ấn Độ Dương. Đặc trưng của mạng lưới thương mại này là hoạt động theo cơ chế gió mùa:<br />
“Sự hình thành dải khí áp thấp và cao mở rộng từ đường Xích đạo đến dãy Himalaya cùng<br />
với sự chuyển dịch thường xuyên của điều kiện thời tiết từ tốt đến mưa nặng hạt, từ gió nhẹ<br />
đến gió mạnh đã góp phần hình thành nền mậu dịch biển phụ thuộc rất lớn vào kinh nghiệm<br />
của thủy thủ. Gió mùa là thành phần của vòng tuần hoàn trong tự nhiên, năm dương lịch là<br />
giai đoạn của chu kỳ đơn lẻ mà trong đó hai điểm xuân phân, thu phân vào tháng 3 và tháng<br />
9 đã góp phần tạo ra sự biệt lập giữa vùng có áp suất thấp với vùng áp suất cao kéo dài” [1;<br />
23]. Vai trò quan trọng của mạng lưới hải cảng Ấn Độ đối với thương mại châu Á được lý giải<br />
một phần bởi vị trí nằm ở trung điểm trong tuyến đường biển đi từ Tây Á đến Đông - Đông<br />
Nam Á. Nhưng quan trọng hơn là khả năng cung ứng của tiểu lục địa (Ấn Độ) cho thị trường<br />
nguồn tơ lụa với nhiều chủng loại như vải muslin Dhaka và lụa ren của Gujarat, sợi bông thô<br />
Coromandel và Gujarat. Nhu cầu của thị trường đối với hàng hóa trên là cực kỳ cao cả ở phía<br />
Đông Indonesia, Malaysia, Thailand và Myanmar (Miến Điện), cũng như tại Biển Đỏ, vịnh Ba<br />
Tư và Đông Phi. Ấn Độ được xem như “trung tâm tơ lụa” kết nối giao thương với cả Tây Á và<br />
Đông Nam Á. Không những thế, gạo, đường, dầu, ngũ cốc cũng là mặt hàng xuất khẩu quan<br />
trọng của tiểu lục địa. Do điều kiện thời tiết, đất đai và tự nhiên, Ấn Độ cần những mặt hàng<br />
như: đinh hương, hạt và vỏ nhục đậu khấu từ Indonesia, ngựa và nước hoa hồng từ Tây Á,<br />
hồng ngọc và đá quý từ Miến Điện cũng như kim loại quý hiếm hoặc kim loại phổ biến. Sự<br />
trao đổi qua lại các mặt hàng xuất và nhập khẩu tạo nên bức tranh sinh động, nhộn nhịp cho<br />
giao thương ven bờ Ấn Độ Dương.<br />
Bên cạnh đó, vai trò chìa khóa của Ấn Độ trong thương mại nội Á còn được thể hiện<br />
qua hoạt động của các nhóm thương nhân người Ấn như Chetty, Chulia, tầng lớp tư thương<br />
định cư ở duyên hải Coromandel, Oriya và Bengali. Nhưng, trong đó “Gujarat mới là nhóm<br />
thương nhân quan trọng nhất trong tuyến thương mại liên hải cảng. Họ không chỉ buôn bán<br />
vải sợi, cây chàm, thuốc phiện mà cả những chủng loại hàng hóa khác đặc biệt là tơ lụa”[8;<br />
10]. Đến thế kỷ XV, khi các đối thủ cạnh tranh có những toan tính riêng 1, thì thương nhân Ấn<br />
Độ chính thức trở thành thế lực thống trị Ấn Độ Dương với hai khu vực chính là Tây Ấn Độ<br />
và vịnh Bengal2. Thương mại Ấn Độ Dương thời kỳ này có những đặc điểm nổi bật sau:<br />
Thứ nhất, thương mại của khu vực còn mang tính chất tự nhiên, tuy có sử dụng tiền tệ<br />
nhưng chưa phổ biến. Phần lớn các thị xã ven biển (bao gồm cả Đông Phi) vẫn sử dụng tiền<br />
mệnh giá thấp (tạm gọi như vậy) như tiền vỏ ốc cho các cuộc giao dịch nhỏ. Vàng và bạc nén<br />
cũng được giao thương nhưng chỉ đóng vai trò là hàng hóa xa xỉ phẩm phục vụ cho giới quý<br />
tộc hơn là phương tiện giao dịch.<br />
<br />
. Thương nhân Trung Quốc quan tâm đến tuyến thương mại Trung Quốc - Malacca, thương<br />
nhân Indonesia và Malaysia không muốn mạo hiểm buôn bán ngoài khu vực quần đảo Indo và<br />
Malay.<br />
1<br />
<br />
. Phía Tây, liên kết thông qua Biển Đỏ và vịnh Ba Tư, theo đường bộ đến bờ biển phía Nam của<br />
Địa Trung Hải. Vịnh Bengal thì mở rộng thông qua eo Malacca đến phía Nam Trung Quốc và sau<br />
đó lên đến Nhật Bản.<br />
2<br />
<br />
2<br />
<br />
NGUYỄN THỊ VĨNH LINH<br />
<br />
Thứ hai, tính liên kết trong thương mại ở khu vực này còn chưa rõ nét mặc dù mức độ<br />
tập trung hàng hóa của từng chủng loại đã hình thành. Đến đầu thế kỷ XVI, người Bồ Đào<br />
Nha khám phá một thực tế, tại Ấn Độ Dương, chất lượng từng nhóm mặt hàng phải gắn liền<br />
với một vùng đất hoặc một dân tộc nhất định. Ví dụ, quế chỉ có ở Sri Lanka, ngựa đến từ<br />
Arabia và vàng đến từ Sofala ở Đông Phi. Đinh hương thì phát triển chủ yếu ở những hòn<br />
đảo nhỏ của Moluccas và đặc biệt hạt tiêu tập trung ở Malabar hoặc Sumatra. Đồ sứ thì không<br />
nơi đâu đạt được chất lượng tuyệt hảo như Trung Quốc hoặc ở khu vực có người Trung Quốc<br />
sinh sống. Thậm chí vải sợi thì phải được xuất phát từ Gujarat ở tây bắc Ấn Độ hoặc<br />
Coromandel. Nguyên nhân dẫn đến sự tập trung hóa ở mức độ cao này có lẽ đến từ điều kiện<br />
thời tiết và các nhân tố thuộc về địa lý. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế khu vực cũng<br />
là nguyên nhân quan trọng. Việc tập trung hóa ở mức độ cao sẽ cho ra sản phẩm có chất<br />
lượng, bán được giá và dễ dàng được chấp nhận trên thị trường thế giới.<br />
Thứ ba, tầng lớp thương nhân tham gia thương mại Ấn Độ Dương là thành viên của<br />
những cộng đồng mang tính chất tương đối biệt lập được kết nối với nhau thông qua quan hệ<br />
họ hàng, nguồn gốc xuất thân và đôi khi là tôn giáo. Tại hầu hết hải cảng ở phương Đông,<br />
cộng đồng Ấn Độ giáo, Jains, Do Thái giáo, Armenia, Hồi giáo thường sống ở những khu vực<br />
cách biệt nhau và tự chọn người lãnh đạo. Mặc dù, họ phải đóng nhiều loại thuế cho người<br />
cai trị ở các hải cảng nhưng được tự do chọn lựa cách thức quản lý. Tính chất đóng kín của<br />
các cộng đồng thương mại này khiến cho người bên ngoài rất khó để xâm nhập vào.<br />
Cuối cùng là sự tồn tại một cách tương đối độc lập của các tiểu quốc, thành phố thương<br />
mại (city-state, thị quốc) vùng duyên hải Ấn Độ Dương trong mối quan hệ với lực lượng thống<br />
trị nội địa. Điều đó khiến cho quá trình phát triển của nó ít nhiều thiếu ổn định (khác với các<br />
cộng đồng thương nhân phía trên).<br />
Bối cảnh trên đây có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xâm nhập của Bồ Đào Nha<br />
vào mạng lưới giao thương Ấn Độ Dương như Jan Glete nhận xét: “Thương mại tại Ấn Độ<br />
Dương rộng mở cho tất cả mọi người, những người có khả năng dùng tiền tệ để thu mua hàng<br />
hóa, kết hợp với các thủ đoạn ngoại giao và nguồn tư bản (một phần đến từ các nhà đầu tư<br />
Genoe và Florence). Đặc tính của nền thương mại này cũng cho thấy nếu Bồ Đào Nha biết<br />
kiềm chế những hành động chống lại thương nhân Hồi giáo thì họ có thể tạo ra một nền thương<br />
mại biển hòa bình” [5; 77]. Vậy trong thực tế, cách thức mà Bồ Đào Nha chọn lựa để xác lập<br />
quyền lực của mình tại khu vực này vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XVI là gì?<br />
2.2 . Những thương điếm đầu tiên của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ (1500-1510)<br />
Sau chuyến viễn chinh của Vasco da Gama (1460-1524), Hoàng gia Bồ Đào Nha đẩy<br />
mạnh hơn nữa quá trình khám phá Ấn Độ Dương. Vào tháng 3/1500, một hạm đội được phái<br />
đến Ấn Độ dưới sự chỉ huy của quý tộc triều đình Bồ Đào Nha - Pedro Alvares Cabral (14681520)1. Sau khi khám phá Land of the True Cross (Brazil sau này), ghé qua Madagascar,<br />
<br />
. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ông là người châu Âu đầu tiên đặt chân đến Brazil. Tuy nhiên,<br />
đây là một sự nhầm lẫn của lịch sử, Vicente Yáñez Pinzón, một trong những thủ thủy đồng hàng<br />
với Columbus đã đến được duyên hải Brazil (giữa Recife và Fortaleza) vào tháng 1 năm 1500.<br />
1<br />
<br />
3<br />
<br />
NGUYỄN THỊ VĨNH LINH<br />
<br />
Sofala1 và Kilwa2 - trung tâm thương mại vàng ở Đông Phi, cuối cùng hạm đội cập bến Calicut<br />
vào tháng 9/1500.Toàn bộ chuyến đi mất gần 6 tháng, một khoảng thời gian ngắn hơn rất<br />
nhiều so với chuyến khám phá 12 tháng của Vasco da Gama. Ban đầu, Raja3 Samudri cho<br />
phép Cabral xây dựng đại lý thương mại trên vùng đất của ông ấy. Tuy nhiên, sau đó, do<br />
những hiểu lầm từ hai phía, Cabral đã tiến hành pháo kích Calicut trước khi cho thuyền đến<br />
Cochin và Cannanur. Cochin là tiểu quốc đầu tiên của người Ấn đồng ý để Bồ Đào Nha thiết<br />
lập pháo đài cùng lực lượng đồn trú khoảng 30 người và 4 linh mục.<br />
Chuyến hải hành của Cabral tuy không thu được lợi ích rõ ràng về thương mại nhưng<br />
đã khiến Hoàng gia Bồ Đào Nha phải tự nhìn nhận lại chiến lược ở Ấn Độ Dương. Nếu muốn<br />
thực hiện mục tiêu độc chiếm tuyến phân phối hương liệu trên toàn thế giới thì việc duy trì lực<br />
lượng hải quân đồn trú và đánh bại các địch thủ thương mại là tối cần thiết. Vì vậy, từ việc chỉ<br />
cử các hạm đội với quy mô nhỏ (trước 1501) thì đến giai đoạn 1502 - 1505, số lượng tàu<br />
trong mỗi chuyến hải hành không ngừng tăng lên, trong đó bên cạnh một số thương thuyền<br />
thì các tàu chiến cũng được bổ sung và đóng vai trò ngày càng quan trọng. Như vậy, lúc này<br />
thương mại biển không chỉ đơn giản là mua bán và trao đổi mà quan trọng hơn là xâm chiếm<br />
và thiết lập sự hiện diện thường xuyên của Bồ Đào Nha tại các trọng điểm ven biển Ấn Độ.<br />
Vị trí đầu tiên mà Bồ Đào Nha quyết tâm xâm chiếm đó là Calicut (3/1502): “Một điều<br />
chắc chắn rằng Bồ Đào Nha đến Ấn Độ lần này với nhiều mục đích khác nhau. Đầu tiên là để<br />
trả thù chiếm mạng lưới buôn bán gia vị ở duyên hải Malabar vào tay Hoàng gia Bồ Đào Nha”<br />
[4; 223]. Ngay khi đến Calicut, Vasco da Gama đích thân chỉ huy 10 chiếc thuyền lớn tổ chức<br />
thành bộ phận chủ lực đánh thẳng vào cảng biển. Bằng chiến thuật hải quân linh hoạt và kỹ<br />
thuật pháo binh tiên tiến, ngày 30/10/1502, hạm đội Bồ Đào Nha giành quyền kiểm soát thành<br />
phố. Calicut trở thành thương điếm đầu tiên của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ. Xuôi theo duyên hải<br />
phía Tây Ấn Độ, Vasco da Gama cho thuyền đến Cochin và Cannanur để củng cố mối quan<br />
hệ với các Raja địa phương. Vasco da Gama trở về Lisbon trên chiếc tàu “nặng trĩu gia vị và<br />
hàng hóa cướp bóc. Ông để lại 5 tàu chiến cạnh Cannanur với mục đích tấn công các chuyến<br />
tàu của người Hồi giáo. Lực lượng đồn trú nhỏ này không chỉ mở đầu cho sự hiện diện lâu dài<br />
của hải quân châu Âu tại Ấn Độ Dương mà còn đánh dấu sự xâm nhập của chủ nghĩa thực<br />
dân phương Tây trên toàn châu Á”[7; 25]. Từ năm 1502 đến năm 1505, hạm đội này phải<br />
chống lại các cuộc tấn công liên tục của tiểu vương (Zamorin) Calicut. Cuối cùng, sau chiến<br />
thắng quyết định trước lực lượng Calicut, Bồ Đào Nha quyết định xây dựng pháo đài bằng đá<br />
với lực lượng quân đội đồn trú được bổ sung hàng năm.<br />
Từ hai cứ điểm duyên hải Tây Ấn Độ, Bồ Đào Nha đẩy mạnh quá trình xâm nhập Ấn<br />
Độ Dương theo hai hướng. Tại vịnh Bengal, năm 1505, Dom Lourenço de Almeida (14801508) chỉ huy một hạm đội bất ngờ đến bờ biển của một hòn đảo gần Galle (thuộc Ceylon),<br />
<br />
. Hiện nay thuộc tỉnh Sofala ở Mozambique. Vương quốc Sofala được ra đời vào khoảng năm<br />
700. Người Arab và Ba Tư bắt đầu đến đây giao thương vào thế kỷ X. Pêro da Covilhã là nhà thám<br />
hiểm Bồ Đào Nha đầu tiên đặt chân đến vùng đất này vào năm 1489. Trong chuyến viễn chinh đến<br />
Ấn Độ, Da Gama đã cho tàu cập bến và tìm hiểu thông tin về địa điểm này.<br />
1<br />
<br />
. Là một hòn đảo thuộc duyên hải Đông Phi, ngày nay là Tanzania. Vào thế kỷ XII, dưới thời trị<br />
vì của vương triều Abu'-Mawahib, Kilwa đã trở thành thế lực hùng mạnh nhất vùng ven biển Đông<br />
Phi<br />
2<br />
<br />
. Một thuật ngữ lịch sử xuất hiện trong kinh Vệ Đà (Rigveda) của Ấn Độ dùng để gọi người đứng<br />
đầu một gia tộc. Trước kia, các học giả thường gọi là “vua” nhưng hiện nay được dịch là “trưởng<br />
tộc”.<br />
3<br />
<br />
4<br />
<br />
NGUYỄN THỊ VĨNH LINH<br />
<br />
xây dựng nhà nguyện và đại lý thương mại ở Colombo. Trong khi đó, tại Biển Đỏ, sự bành<br />
trướng gặp khá nhiều khó khăn và thất bại do phản ứng mạnh mẽ của Hồi vương Ormuz. Vì<br />
thế, sau khi đảm nhận chức vụ Phó vương Estado da India, Dom Afonso de Albuquerque<br />
(1453-1515) quyết định đánh chiếm Diu và Goa - hai vị trí chiến lược trên tuyến thương mại<br />
biển mới. Hành động này nằm trong kế hoạch của Albuquerque nhằm xây dựng đế chế<br />
thương mại hàng hải của Bồ Đào Nha. Sự khác biệt trong quan điểm chiến lược giữa hai vị<br />
phó vương thể hiện khá rõ nét: mục đích của Francisco de Almeida (1450-1510)1 là giành<br />
quyền làm chủ nền thương mại tại bờ biển Malabar với quan điểm “nếu không có quyền làm<br />
chủ trên biển cả thì những pháo đài trong đất liền chỉ là hư danh”[7; 26]. Trong khi đó, Phó<br />
vương Dom Afonso de Albuquerque (1453 - 1515) lại cho rằng: “để giành được ưu thế về<br />
thương mại ở Ấn Độ Dương thì điều nhất thiết là phải chiếm và kiểm soát được các vị trí chiến<br />
lược chủ yếu và thúc đẩy hoạt động buôn bán có thể cung cấp thu nhập đủ để duy trì sức<br />
mạnh không gì cưỡng lại được” [6; 377]. Những hành động mạnh mẽ và quyết liệt của Bồ Đào<br />
Nha đã vấp phải sự kháng cự của nhiều thế lực đối địch, trong đó nổi bật là thương nhân<br />
Venice, Gujarat và vua Hồi Mamluk. Trận chiến tại Diu (1509) với thắng lợi cuối cùng của<br />
người Bồ Đào Nha trước liên minh Gujarat-Mamluk-Kozhikode, không chỉ chứng minh ưu thế<br />
về quân sự của lực lượng đến từ châu Âu mà còn đóng vai trò nền tảng để Afonso de<br />
Albuquerque tiếp tục thực hiện chiến lược của mình - tiến chiến Goa (1510) - một cảng biển<br />
đương thời dưới sự quản lý của Yasuf Adil Shah, đồng thời là một trung tâm quan trọng về<br />
nhập khẩu nhựa sang Deccan.<br />
Vào ngày 28 tháng 02 năm 1510, Alfonso de Albuquerque, tổng đốc người Bồ Đào Nha<br />
tại Ấn Độ, cùng với lực lượng thủy quân hùng hậu đã vào neo đậu tại bến cảng của Goa. Sau<br />
khoảng 9 tháng bao vây và tấn công thành phố, đến ngày 25/11/1510, binh lính Bồ Đào Nha<br />
nắm quyền kiểm soát Goa. Sau khi chiếm được Goa, Bồ Đào Nha thiết lập các thương điếm<br />
ven bờ biển tây nam Ấn Độ, đẩy mạnh các hoạt động buôn bán với phương Đông, nhất là<br />
việc buôn bán các loại gia vị và hương liệu giữa Goa với các nước Đông Nam Á, cũng như<br />
hàng hóa từ Ấn Độ về Bồ Đào Nha ngày càng trở nên nhộn nhịp, sầm uất, mang lại sự thịnh<br />
vượng và phát triển cho đế quốc Bồ Đào Nha nói chung. Theo tính toán của các nhà Sử học<br />
đương thời, trong năm 1580, số hoa lợi mà Bồ Đào Nha thu được từ tuyến thương mại Goa<br />
- Macao/Nagasaki là khoảng 35.000 cruzado 2 (tiền Bồ Đào Nha), Goa - Moluccas (bắc<br />
Indonesia) là khoảng 9.500 cruzado [9; 140].<br />
Như vậy, đến đầu thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha đã xác lập được 2 thương điếm quan trọng<br />
nhất (Diu và Goa) trong số 4 mục tiêu chiến lược tại Ấn Độ và vịnh Ba Tư như vua Manuel<br />
(1469-1521) từng kỳ vọng “phải chiếm Aden để giành quyền thống trị tại eo Mecca trước khi<br />
Hồi vương kịp ngăn cản, chiếm lấy Hormuz để kiểm soát hoàn toàn eo Bacora, chiếm đóng<br />
Goa và Diu làm căn cứ để bành trướng đến các vùng đất khác ở Ấn Độ” [3; 24]. Đây là cơ sở<br />
quan trọng dẫn đến sự ra đời của Estado da India, nhà nước thuộc địa đầu tiên của Bồ Đào<br />
Nha tại phương Đông.<br />
<br />
. Francisco de Almeida làm người phụ trách chung, tổng trấn, Phó vương đầu tiên của tổ chức<br />
này, Ông được vinh danh trong lịch sử là người Bồ Đào Nha đầu tiên nắm trong tay cả chính quyền<br />
dân sự và quân sự ở thuộc địa của đế quốc Bồ Đào Nha.<br />
2 . Là một loại tiền xu bằng vàng của người Bồ Đào Nha có khắc hình chữ thập chính giữa. Đồng<br />
xu vàng này được sử dụng bởi Afonso V (1438-1481) khi tổ chức một cuộc viễn chinh chữ thập<br />
chống lại việc xâm chiếm Constantinople của người Thổ vào năm 1453. Nó có giá trị khoảng 400<br />
reis. Ý nghĩa của chữ cruzado trong tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là chữ thập - thập tự giá của vị<br />
thánh bảo trợ cho Bồ Đào Nha, St George.<br />
1<br />
<br />
5<br />
<br />