intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quan hệ phân phối và kinh nghiệm của các nước Asean -2

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

82
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

người lao động nhận được một khoản thu nhập gắn với kết quả lao động của họ. Về nguyên tắc khoản thu nhập đó phải tương xứng với số lượng và chất lượng lao động mà mỗi người đã cống hiến. Số thu nhập theo lao động đó gọi là tiền lương. Hay nói cách khác tiền lương chính là hình thức thu nhập theo lao động. Với tư cách là một phạm trù kinh tế, tiền lương là sự biểu hiện của bộ phận cơ bánp cần thiết được tạo ra trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quan hệ phân phối và kinh nghiệm của các nước Asean -2

  1. người lao động nhận được một khoản thu nhập gắn với kết quả lao động của họ. Về nguyên tắc khoản thu nhập đó phải tương xứng với số lượng và chất lượng lao động mà mỗi người đã cống hiến. Số thu nhập theo lao động đó gọi là tiền lương. Hay nói cách khác tiền lương chính là hình thức thu nhập theo lao động. Với tư cách là một phạm trù kinh tế, tiền lương là sự biểu hiện của bộ phận cơ bánp cần thiết được tạo ra trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế quốc doanh để đi vào tiêu dùng cá nhân của người lao động, tương ứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã hao phí trong quá trình sản xuất kinh doanh. Về cơ cấu tiền lương bao gồm hai phần: phần tiền lương cơ bản và phần tiền lương bổ sung (tiền thưởng). Trong đó phần tiền lương cơ bản phụ thuộc vào thang lương, bậc lương của mỗi người, phần tiền thưởng phụ thuộc vào kết quả hoạt động của đơn vị. Việc xác định hợp lý và chính xác bậc lương, ngạch lương theo từng ngành và theo từng khu vực có tính đ ến trình độ chuyên môn và điều kiện lao động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Điều đó thúc đẩy những ngư ời lao động quan tâm hơn nữa tới việc hoàn thành các công việc được giao. Khi đó họ hoàn toàn phấn khởi vì đã h iểu ra rằng trước hết, họ làm việc cho chính mình và tiếp đến là làm việc cho xã hội. Việc cải cách tiền lương diễn raliên tục bắt đầu từ khi ban hành nghị định 235/HDBT tháng 9 năm 1985 đến đầu năm 1993, Nhà nước đã phải điều chỉnh tiền lương 21 lần.Về cơ chế của chính sách tiền lương .Nhà nước trực tiếp định mức lao động ,đ ịnh mức tiền lương duyệt quỹ lương ,bảng lương bậc ,bậc lương cụ thể chocác đơn vị sản suất kinh doanh phải thực hiện .Chuyển sangmột cơ chế mới ,trong đó
  2. tiền lương đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ còn là thông số để tính toán ,Nhà nước khống chế lương tối thiểu, khống chế thu nhập tối đa . Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nứơc ,có lĩnh vực chuyển nhanh như xác định tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, có lĩnh vực chưa chuyển lập như cơ chế kiểm soát và điều tiết tiền lương ,thu nhập của nhà nước khi các đ ơn vị kinh tế chuyển sang kinh doanh ,vv… Chính sách tiền lương theo Nghị định 235/HĐBT chỉ giữ được thời gian ngắn ,sau đó tiền lương thực tế bắt đ ầu giảm mạnh và giảm liên tục .Trên thực tế diễn ra tình hình tốc độ tăng lương danh nghĩa chậm hơn tốc độ tăng giá . Trước tình hình biến động của giá làm cho tiền lương thực tế ,đời sống của dân cư nói chung ngày càng sa sút ,đã gây ra sự phản ứng của các đối tượng trong xã hội.Cụ thể là : * ở bộ máy nhà nước các cấp:mặc dù nhà nước trung ương đã có biện pháp che chắn kiểm soát liên tục ,nhưng một số địa phưong tựđịnh lại mức lương tối thiểu vidụ, Long an nâng lên hai lần ….không theo chính sách chung . * ở các đơn vị sản xúât –kinh doanh :dựa vào quyền tự chủ kinh doanh và những sơ hở của cơ chế quản lý đang trong bứơc giao thời , đều tìn mọi cách tăng thu nhập cho mình .Nhìn xí nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng thu nhập của họ vẫn cao * ở các đơn vị hành chính sự nghiệp :phải thực hiện theo nghị định 235/HĐBT.Nhưng lại được nhà nứơc cho phép mở ra các hoạt động dịch vụ đời sống đủ loại để tăng thu nhập .To àn bộ những thực tế này đã tạo nên sự chênh lệch
  3. về thu nhập rất lớn ,mà phần lớn không phải sự chênh lệch đó là do tài năng lao động của họtạo ra . * ở ngoài xã hội trong khi mức lương tối thiểu do nhà nước quy định là 22.500đ/tháng ,thì ngoài xã hội tiền công lao động trả cho người lao động binh thường là từ 3000-5000đ/công .Trong khi nhà nước quy định lương tối đa bằng 3,5 lần lương tối thiểu ,thì ngoài xã hội đang thực hiện băng 7-8 lần . Đặc biệt ở khu vực này tiền công đã được tiền tệ hoá hoàn toàn và đ ã tính đén quan hệ cung cầu về lao động . Nhưng đến Tháng 4-1993 nước ta thực hiện cải cách chính sách tiền lương, ban hành nghị định 25/CP và 26/CP về chế độ tiền lương cho công nhân viên chức khu vực khu vực hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh. Từ đó đến nay mặc dù các thang bảng lương và cơ chế quản ly chưa thay đổi, nhưng mức lương tối thiểu cũng thường xuyên thay đổi từ 1/4/1993 là 120.000 đ; 1/10/1997 là 144.000 đ; 1/1/2000 là 180.000đ đến 1/1/2001 là 210.000 đ; đến 1/1/2003 là 290.000 đ. Qua thời gian áp dụng chính sách lương mới vào cuộc sống thì việc phân phối đã công bằng hơn, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả công tác. Qua những số liệu ở trên cho ta thấy thực trạng về vấn đề tiền lương ở nước ta trong th ời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đ ang hoạt động trong một thị trường thống nhất .Tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị –lao động ,chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động không ngừng ,chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của ngưòi lao động làm công ăn lương
  4. Tiền lương vừa mang tính chấ bình quân ,vừa mang tính chất bao cấp .Mặc dù từ giữa cuối năm 1993 chúng ta đang triển khai thí điểm chinh sách tiền lương mới nhưng trong đó vẫn còn chứa đựng nhiều ván đề bất hợp lí. Thứ nhất, Tính đến tháng 12/1999, tổng các đối tượng là 6.2 triệu người chiếm 8% dân số, trong đó 66.9% thuộc 2 nhóm cuối- hưu trí và các chính sách xã hội. Trên thế giới không một quốc gia nào có tỷ lệ như vậy. Số cán bộ công chức đang làm việc thực tế chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ: khối quản lý hành chính Nhà nước chiếm 3.4% tổng số, khối sự nghiệp chiếm 18.4% tổng số, cán bộ cấp phường xã chiếm 6.2% tổng số. Hai là mức tiền lương tối thiểu là quá thấp cho đến trước 1/1/2003. Đối với đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước (mức lương được xây dựng trên mức lương tối thiểu) thì tiền lương chỉ chiếm từ 20-30% thu nhập dẫn đến hiện tượng tiền lương chỉ còn là danh nghĩa và chủ yếu dùng làm căn cứ đóng bảo hiểm. Người lao động không quan tâm đến công việc chính của mình, dành nhiều thời gian, sức lực và trí tuệ làm các công việc khác đ ể tăng thu nhập. Trong khi đối với lao động tại các doanh nghiệp, khi thu nhập chủ yếu là từ tiền lương, thì mức lương tối thiểu đã là 210.000(VND) đến 360.000(VND) đối với doanh nghiệp Nhà nước, 410.000(VND) đến 620.000(VND) đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nư ớc ngoài. Như vậy là mức lương tối thiểu (thực chất là mức lương cơ bản) cho đội ngũ công chức là không còn phù hợp nữa. Ba là mặc dù lương tối thiểu và tối đa đã chênh lệch hơn 10 lần, tưởng chừng khắc phục được tình trạng bình quân trong phân phối, nhưng do sự chi tiết đến thái quá làm cho tiền lương rơi vào tình trạng bình quân chủ nghĩa. Khoảng cách giữa các bậc lương quá ngắn, thấp nhất là 0.09 và cao nhất là 0.43. bên cạnh đó lại có quá nhiều ngạch lương gây nên sự phức tạp không cần thiết. Đơn cử khu vực hành chính sự
  5. nghiệp hiện có 21 bảng lương và 196 thang lương tương ứng với 196 ngạch công chức. Hiện tượng không bao giờ đạt đến hệ số lương cao nhất là phổ biến. Cơ chế quản lý tiền lương hiện nay còn bộc lộ hàng loạt những yếu đ iểm quan trọng. Trước hết tiền lương chưa gắn với trách nhiệm và kết quả lao động. Chúng ta vẫn chủ yếu trả lương theo thâm niên, theo bậc chứ chưa trả lương theo chức vụ và gắn liền với nó là trách nhiệm, kết quả lao động hầu như không có tác động gì đến mức lương của người lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp. Mô hình quản lý hành chính yếu kém dẫn đến việc các khoản chi là rất lãng phí, các nguồn thu thì không được công khai. Phần lớn các khoản thu chi bất hợp pháp này được hợp pháp hoá và chuyển thành các khoản thu nhập ngo ài lương. đây là một trong những khâu yếu nhất của chính sách tiền lương Việt Nam. Bốn là sự bất cập lương đối với nhu cầu của cuộc sống đang đẻ ra nhiều nghịch lý. Mọi người đều biết rằng mức lương hiện nay là không đảm bảo được cuộc sống bình thường. Chênh lệch về thu nhập giữa các ngành, các cơ quan, đơn vị là rất lớn. Hiện nay có khoảng 40% số các đơn vị hành chính sự nghiệp cả nước là hoạt động sự nghiệp. Đó là chư a kể sự chênh lệch đến quá lớn giữa lao động trong biên chế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác. những chênh lệch và những nghịch lý ấy đang là lý do cả về vật chất lẫn ý thức làm cho người lao động coi tiền lương là một khoản thu nhập phụ, không ai sống bằng lương, Nhà nước không quản lý được thu nhập... và chúng đang gây ra những hậu quả tiêu cực như: h ạch toán sai, báo cáo không đầy đủ, giấu nguồn thu, trốn thuế thu nhập, sử dụng thu nhập mập mờ, tuỳ tiện, cản trở kiểm tra kiểm soát... Điều tệ hại là không đo đếm và tạo ra tâm lý lạm dụng của công, nạn tham nhũng tập thể, dùng tiền công để “của người phúc ta”, kéo b è kéo cánh.
  6. cùng cánh thì được “ăn chia”, n ếu không cùng cánh thì lương "ba cọc một đồng” ,tìm cách hạ bệ nhau,bôi nhọ danh dự của nhau gây mất dân chủ và mất đoàn kết trong không ít các cơ quan tổ chức. .Trong nhiều năm chính sách tiền lương và các chính sách kinh tế xã hội khác như nhà ở phân phối điện ,nước sinh hoạt …có liên quan mật thiết với nhau .Song trong qúa trình giải quyết vấn đề tiền lương chư a tính toán cân đối với từng chính sách một cụ thể ,do đó nó phát sinh nhiều hiện tượng mâu thuẫn khó giải quyết gây ra sự bất bình đẳng lớn trong xã hội Nhà nước chưa thực sự hoàn toàn làm chủ trong việc kiểm soát và quản lý tiền lương và thu nhập nói chung của người lao động . 2.1.2/ Thực trạng về vấn đề lợi nhuận Từ năm 1989 đến nay th ì nên kinh tế việt nam có bước chuyểnbiến quan trọng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước .Xét tình hình lợi nhuận ở nước ta,thì do chính sách cơ ch ế hình thành và phân phối thu nhập, lợi nhuận ở nước ta còn nhiều hạn chế, bất hợp lý nên đang tạo nên sự phân hoá và bất b ình đẳng lớn trong xã hội. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất tạo ra tình trạng “lãi giả lỗ thật”. Cũng từ đây nảy sinh ra một hiện tượng phổ biến khác là có nhiều doanh nghiệp thường tìm cách tăng chi phí để giảm lợi nhuận và giảm phần lợi nhuận trích nộp vào ngân sách Nhà nước. Nhà nước chưa quản lý được thu nhập của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vì vậy m à chưa có một căn cứ chính xác để tính thuế. Hơn nữa trong công tác quản lý còn tồn tại tình trạng trốn lậu thuế, buôn bán lậu qua biên giới và trong nước, làm hàng giả, núp bóng dưới doanh nghiệp quốc doanh đ ể trốn thuế... khá phổ biến đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư nhân. Điều này đã n ảy sinh sự bất bình đẳng lớn trong xã hội. Và nếu Nhà nước
  7. không có chính sách quản lý phù hợp thì khó có thể thực hiện tốt các mục tiêu xã hội đã đặt ra. Như vậy, ở nước ta đòn b ẩy kinh tế của lợi nhuận chưa được phát huy đúng sức mạnh vốn có của nó. Sở dĩ như vậy là vì cơ chế hình thành lợi nhuận không hợp lý đồng thời cơ ch ế phân phối lợi nhuận chưa đủ tạo ra động lực kích thích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước nói chung. Về vấn đề lợi tức và lợi tức cổ phần thì chưa thu hút được phần lớn nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, cho nên một khối lượng vốn lớn còn chưa đi vào chu chuyển tạo ra sự l•ng phí. Tuy số lư ợng các công ty cổ phần là khá lớn nhưng hoạt động thực sự hiệu quả thì chư a nhiều, hoạt động mua bán cổ phiếu công ty vẫn còn rất mới mẻ. Một vấn đề nữa còn tồn tại hiện nay ở nước ta đó là thu nhập từ các quĩ phúc lợi xã hội còn thấp. Các khoản tiền trợ cấp, tiền bảo hiểm xã hội và các khoản chi trả khác như học hành, chữa bệnh, thưởng thức văn hoá, ngh ệ thuật...còn rất hạn chế. Nguyên nhân gây ra tình trạng này là do thu nhập chính của người dân về cơ bản còn thấp, đ a số chỉ đảm bảo được cuộc sống vừa đủ. Trước những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề phân phối ở nước ta hiện nay, để đảm bảo cho phân phối được công bằng thì cần có những giải pháp để khắc phục những hạn chế đó. 2.1.3/Những nhận xét khi rút ra khi nghiên cứu thực trạng của quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay 2.1.3.1/ Ưu điểm: ở nước ta trong những năm qua đã có nhiều cố gắng để giải quyết vấn đ ề phân phối thu nhập . Đặc biệt rõ nét nhất là từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế
  8. th ị trường đến nay ,h àng loạt các chính sách kinh tế được áp dụng để giải quyết vấn đề tiền lương , lợi nhuận , lợi tức địa tô ,bảo hiểm ,trợ cấp xẫ hội ….nhằm tháo gỡ những khó khăn trong phân phối lưu thông để "cởi trói " cho lĩnh vực sản xuất . Qua th ời gian áp dụng chính sách lương mới vào cuộc sống thì việc phân phối đã công bằng hơn, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả công tác 2.1.3.2/Nhược điểm: Tuy nhà nước ta đ ã cố gắng giải quyết những vấn đề phân phối thu nhập nhưng tuy nhiên vấn đề phân phối theo thu nhập vẫn còn nhiều khuyết tật đã kìm hãm sự phát triển của nước ta ví dụ như bộ máy quản lý cồng kềnh , chưa thực sự kiểm soát và làm chủ trong quản lý tiền lương,chế độ tiền lương , phụ cấp vẫn còn mang bất hợp lí mang nặng tính bao cấp, cơ chế hình thành và phân phối thu nhập, lợi nhuận ở nước ta còn nhiều hạn chế, bất hợp lý nên đang tạo nên sự phân hoá và bất bình đẳng lớn trong xã hội. 2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang từ thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,có sự đan xen của nhiều hình thức sỏ hữu kinh tế cũng như các hình thức phân phối khác nhau.Đảng và nhà nước ta đã nhấn mạnh vai trò của phân phối,nhấn mạnh vai trò của việc hoàn thiện các hình thức phân phối nhàm nâng cao đòi sóng của nhân dân về mọi mặt:vật chất,văn hoá…Phải thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội nói chung và của đảng nhà nước ta nói riêng, phải thể hiện được vai trò dẫn đường của đảng .Để đạt được kết quả như vậy chúng ta phải thưc hiện một số giải pháp sau:
  9. Thứ nhất cần phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, thực hiện nguyên tắc phân phối theo cống hiến.Về thực chất chính là nguyên tắc phân phối vừa theo lao động vừa theo mức đóng góp vốn vì xét cho cùng thì cống hiến của các cá nhân cho xã hội chỉ có hai loại là cống hiến bằng sức lao động và cống hiến bằng sự góp vốn. Việc thực hiện phân phối theo lao động và theo mức đóng góp vốn phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Để thực hiện được nguyên tắc phân phối này thì ph ải xác định đúng giá trị cống hiến bằng sức lao động của từng người và tỷ lệ giữa giá trị cống hiến bằng sức lao động và gía trị cống hiến bằng sự góp vốn. Trong đó phải đảm bảo phân phối theo lao động là chủ yếu như vậy sự phân phối mới đ ảm bảo tính công bằng, Xã hội dân chủ văn minh. Thứ hai là thực hiện phân phối công bằng trong thu nhập,điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sư chênh lệch về mức thu nhập.Nhà nước phải hạn chế sự chênh lệch thu nhập quá đáng để không khiến xã hội bị phân hoá thành hai cực cấp. mà trước hết đối với người làm công ăn lương thì tiền lương phải thực sự trở thành nguồn thu nhập chính để nuôi sống họ, từ đó họ có thể hoàn toàn yên tâm và say mê với nghề nghiệp. Để cho tiền lương thực sự trở th ành một đòn bẩy thúc đẩy người lao động làm việc với sức sáng tạo, trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục hoàn thành chính sách tiền lương. Trong việc xác định tiền lương cần quán triệt những nguyên tắc sau: Trước tiên là cần cải cách chính sách tiền lương. Cải cách tiền lương phải mang tính triệt để và căn bản, tạo ra một luồng sinh khí mới đối với các tầng lớp hưởng lương từ nguồn ngân sách . Chính sách tiền lương mới phải phải thật sự là động lực để xây dựng một nền hành chính quốc gia trong sạch với một bộ máy công quyền mạnh mẽ, công minh.
  10. Cải cách tiền lương phải được tiến hành đồng bộ với h àng lo ạt các biện pháp khác, đặc biệt là cải cách hành chính và cải tiến cơ chế quản lý kinh tế đòng bộ, có hiệu quả..Cần xác định đúng đối tượng trả lương và cơ chế trả lương thích hợp. Giảm một cách đáng kể đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước với những bước đi thích hợp. Phải sử dụng mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn thuế thu nhập cá nhân như một phương tiện chủ yếu để điều tiết lợi ích giữa các tầng lớp trong xã hội. Tiến tới nâng tỷ trọng nâng thuế thu nhập cá nhân trong ngân sách Nhà nước.Tiền lương phải đủ để đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động, nó phải thực sự là bộ phận thu nhập chủ yếu của người lao động . Tiền tệ hoá tiền lương một cách triệt để, xoá bỏ tận gốc các khoản bao cấp trong phân phối. Mức lương phải gắn với trình độ phát triển kinh tế xã hội, hiệu quả sản xuất kinh doanh, quan hệ cung cầu lao động, mức cống hiến của từng cá nhân, sự biến động của giá cả và lạm phát.Xây dựng cơ chế quản lý tiền lương mới phải đảm bảo vừa tăng cường vai trò quản lý, đ iều tiết vĩ mô của Nhà nước, vừa mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị cơ sở. Phải tiến hội nhập hành công cuộc tổ chức và phân công lại lao động xã hội trên phạm vi toàn xã hội, tinh giảm biên chế trong khu vực Nhà nước. Chỉ có như vậy thì bộ máy Nhà nước hoạt động mới có hiệu quả.Thay đổi cơ cấu thu chi ngân sách tạo nguồn cho cải cách tiền lương. Cần giảm bớt chi đầu tư phát triển dưới dạng đầu tư vào cơ các công trình sản xuất kinh doanh, nguồn ngân sách sẽ có đủ nguồn đảm bảo cải cách căn bản tiền lương. Thứ ba là phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, đảm bảo sự hài hoà về lợi ích giữa các thành phần trong đó lấy th ành phần kinh tế Nh à nước làm chủ đạo. bên cạnh
  11. đó nâng cao vai trò của thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể để làm cơ sở cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ tư là tăng cường đầu tư cho các quĩ phúc lợi xã hội để góp phần bổ sung một phần đáng kể vào tổng thu nhập của người dân nhằm nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân và tạo ra sự phân phối công bằng trong xã hội. Thứ năm xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống luật trong lĩnh vực phân phối thu nhập phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam . Tiếp tục nghiên cứu , xây dựng hoàn thiện các nguyên tắc , nội dung phân phối thu nhập cho phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt nam. Thứ sáu cần phải hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý của hoạt động tài chính ngân hàng để có thể nắm được vàđiều tiết mọi vận động của của cải và tiền tệ ra vào các doanh nghiệp cũng như hộ dân cư.ngoài ra nhà nước phải đóng vai trò tích cực trong việc phân bổ tài nguyên , đất đai , có chương trình đào tạo giáo dục ….. Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo sự phân phối công bằng trong xã hội, tạo cơ sở cho sự phát triển và ổn định xã hội trong thời gian tới, tiến tới kiện toàn nền kinh tế, phát triển nền kinh tế thụ trư ờng theo đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa ,đảm bảo xã hội công bằng dân chủ văn minh Kết luận Trong bất kỳ một xã hội n ào thì phân phối luôn chiếm một vị trí quan trọng, nó phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hình thức phân phối thể hiện bản chất của chế độ xã hội. Phân phối tác động trực tiếp đến mọi ngành, mọi đơn vị kinh doanh, mọi mặt đời sống và mọi người trong xã hội. Do đó trong thời kỳ quá độ, nhà
  12. nước phải biết sử dụng quan hệ phân phối như một công cụ đắc lực để tác động đến sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bằng chính sách huy động, phân phối vốn đúng đắn, chính sách về tiền lương, tiền thưởng năng suất chất lượng... Nhà nước có thể hướng dẫn, kích thích các đơn vị kinh doanh tích cực áp dụng thành tựu cách mạng khoa học kỹ thuật, từ đó tác động có hiệu quả vào cơ cấu kinh tế mới. Mặc dù trình độ sản xuất còn thấp, mức sống chưa cao, nhưng n ếu nhà nước biết khéo léo sử dụng công cụ phân phối vẫn có thể thể hiện tính ưu việt của chế độ mới. Một khác , nhà nước có thể tận dụng được khả năng của xã hội để phân phối hợp lý, không để lãng phí, không để rơi vào tay kẻ bất lương. Nhà nước còn có thể thông qua các biện pháp phân phối và phân phối lại thu nhập để đ ảm bảo công bằng hơn trong xã hội, đảm bảo cho sự phát huy, phát triển bình đẳng năng lực của mọi thành viên trong xã hội. Trong giai đoạn đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay, do sự tồn tại của nhiều giai cấp, tầng lớp với lợi ích còn chưa thống nhất nên lao động chưa thể là quyền lợi m à còn là nghĩa vụ, là "phương kế sinh nhai" của mọi người. Do đó, trong xã hội còn có sự khác biệt về mức sống, vị trí giữa các thành viên dựa trên cơ sở mức đóng góp của mỗi người vào xa hội. Mặc dù vậy, ta chấp nhận hình thức phân phối này vì nó phù hợp với quan hệ sản xuất của nước ta. Thực hiện nó có tác dụng thúc đẩy sự phát triển nhanh của xã hội đến một giai đoạn cao hơn, văn minh hơn đó là Tiến lên chủ nghĩa cộng sản, trong đó quyền bình đẳng thực sự trong xã hội, tức là nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu", mọi người đều có cơm ăn áo mặc.
  13. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế chính trị, (Nxb Chính trị quốc gia) 2. Đổi mới cơ ch ế và chính sách quản lí lao động trong nền kinh tề thị trường ở Việt Nam (PGS. TS. Tống Văn Đường) 3. Tạp chí kinh tế & phát triển. 4. Tìm hiểu chế độ tiền lương mới. 5. Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường - (PTS. Mai Ngọc Cường - PTS. Đỗ Đức Bình)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2