Bản chất mối quan hệ phân phối và hình thức mối quan hệ phân phối ở nước ta
lượt xem 9
download
Tham khảo luận văn - đề án 'bản chất mối quan hệ phân phối và hình thức mối quan hệ phân phối ở nước ta', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bản chất mối quan hệ phân phối và hình thức mối quan hệ phân phối ở nước ta
- LỜI MỞ ĐẦU Quá trình tái sản xuất là s ự kết hợp hai hoà giữa các khâu: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong đó phân phối là một khâu quan trọng và không thể thiếu được c ủa quá trình này. Nó nối liền sản xuất với trao đổi, tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩ y sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Không những thế, quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất trọng yếu c ủa quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích c ủa mỗi thành viên và lợi ích c ủa toàn xã hội. Trong thời gian đầ u c ủa thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, do nền kinh tế còn nhiều thành phần kinh tế nên c ũng còn có nhiều hình thức lợi ích kinh tế khác nhau và tất yếu là còn xuất hiện nhiều mâu thuẫn giữa các hình thức lợi ích kinh tế đó. Một trong những yêu cầu của nền kinh tế là kịp thời phát hiện ra mâu thuẫn giữa các lợi ích và tìm cách giải quyết các mâu thuẫn đó. Việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế được thể hiện thông qua quan hệ phân phối. Từ vai trò quan trọng c ủa phân phối trong quá trình phát triển kinh tế thì việc nghiên c ứu quan hệ phân phối là hết sức cần thiết, đặc biệt là đối với nền kinh tế nước ta hiện naycòn đang trong quá trình phát triển. Muốn phát triển nền kinh tế thị trườ ng nước ta theo định hướ ng XHCN thì việc giả i quyết các quan hệ phân phối là hết sức cần thiết để góp phần thúc đẩ y tăng trưở ng kinh tế, phát triển xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội. Nghiên cứu phân phối là một phần trong quá trình ngiên cứu kinh tế ở tầm vĩ mô, đó là một vấn đề lớn lao. Do trình độ, khả năng và thời gian còn hạn chế nên trong bài viết này em không thể nghiên c ứu được hết. Phạm vi nghiên cứu c ủa bài viết này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các vấn đề cơ
- 2 bản nhất về phân phối, các hình thức phân phối. C ụ thể là nghiên cứu các hình thức phân phối ở nước ta, đặc biệt là phân phối theo lao động và các hình thức thu nhập hay phân phối thu nhập. Trong quá trình nghiên cứu, chủ yếu nghiên c ứu quan hệ phân phối ở Việt Nam từ những năm 1985 cho đế n nay. Đó là thời kỳ nền kinh tế đất nước ta bắt đầ u chuyển sang nền kinh tế thị trườ ng định hướ ng XHCN. Nền kinh tế thị trườ ng là môi trườ ng tốt cho quan hệ phân phối được thể hiện rõ nét, đặc biệt là khi nền kinh tế nước ta còn đang trong quá trình quá độ và gặp nhiều khó khăn. Đề tài này được bố cục gồm 2 chương chính : Chương I : Lý luận chung về phân phối trong nền kinh tế thị trườ ng Trong phần này sẽ trình bày những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất về phân phối: bản chất, vai trò c ủa quan hệ phân phối và nội dung chủ yếu c ủa quan hệ phân phối, đặc biệt phần này còn có kinh nghiệm c ủa một số nước về phân phối Chương II : Thực trạng c ủa quá trình phân phối và các giải pháp để nâng cao, hoàn thiện quan hệ phân phối ở Việt Nam trong thời gian tới Từ những vấn đề cơ bản về phân phối, ở chương này sẽ nghiên c ứu c ụ thể quá trình phân phối ở Việt Nam, các hình thức phân phối đặc biệt là phân phối thu nhập. Thông qua đó nêu ra các giải pháp nhằm thực hiện quan hệ phân phối để đạt mục tiêu công bằng xã hội. Em xin trân thành cả m ơn s ự hướ ng dẫn và quan tâm c ủa thầy đã giúp em hoàn thành đề án này. Trong bài viết còn nhiều sai sót mong thầy chỉ bảo để em rút kinh nghiệm lần sau sửa chữa. Em cám ơn thầy.
- 3 CHƯƠNG 1 BẢN CHẤT MỐI QUAN HỆ PHÂN PHỐI VÀ CÁC HÌNH THỨC PHÂN PHỐI Ở NƯ ỚC TA HIỆN NAY 1.1. BẢN CHẤT CỦA QUAN HỆ PHÂN PHỐI. Phân phối là một khâu không thể thiếu được c ủa quá trình tái sản xuất. Nó nối liền sản xuất và tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩ y sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Mặt khác, quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất trọng yếu của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích c ủa mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội. 1.1.1. Mối quan hệ chung giữa sản xuất và phân phối, trao đ ổi, tiêu dùng. Trong qúa trình sản xuất, phân phối xác định tỷ lệ theo đó mỗi cá nhân tham dự vào sản phẩ m đã sản xuất ra ; trao đổi đem lại cho cá nhâ n những sản phẩ m nhất định mà anh ta muốn dung phần nhận được do phân phối để trao đổi lấy ; cuối cùng, trong tiêu dùng, các sản phẩm trở thành những vật phẩm tiêu dùng và đối tượ ng c ủa việc chiế m hữu cá nhân. sản xuất tạo ra những vật phẩm thích hợp với các nhu cầu ; phân phối, phân chia các vật đó theo những quy luật xã hội ; trao đổi lại, phân phối lại cái đã được phân phối, theo những nhu cầu cá biệt ; cuối cùng, trong tiêu dùng, sản phẩ m thoát ra khỏi sự vận động xã hội đó trực tiếp trở thành đối tượ ng và kẻ phục vụ cho một nhu cầu cá biệt, và thoả mãn nhu cầu đó trong qúa trình tiêu dùng. Như vậy, sản xuất thể hiện ra là điể m xuất phát, tiêu dùng là điể m cuối cùng, phân phối và trao đổi là điể m trung gian, điểm trung gian này lại có hai yếu tố, vì phân phối được quy định là yếu tố xuất phát từ xã hội, còn trao đổi là yếu tố xuất phát từ cá nhân. Nhưng phân phối không phải là một lĩnh vực độc lập, đứng bên cạnh sản xuất và bên ngoài sản xuất. Phân phối thuộc phạm trù quan hệ sản xuất là kết quả của s ự phân phối những công c ụ sản xuất.
- 4 Phân phối xác định tỷ lệ (số lượ ng) sản phẩm dành cho cá nhân ; trao đổi xác định những sản phẩm trong đó cá nhân đòi hỏi cái phần do phân phối dành cho mình. Như vậy sản xuất, phân phối, tiêu dùng hình thành một tam đoạn luận đúng cách: Sản xuất là cái chung, phân phối và trao đổi là cái đặc thù, tiêu dùng là cái đơn nhất khép kín tổng thể. Đương nhiên, cái đó đúng là một mối liên hệ, nhưng là mối liên hệ hời hợt bề ngoài. Sản xuất hình như là do các quy luật phổ biến c ủa tự nhiên quy định ; phân phối do sự ngẫu nhiên của xã hội quyết định, vì vậy nó có thể ảnh hưở ng ít nhiều thuận lợi đế n sản xuất ; trao đổi nằ m giữa hai khâu đó, như là một sự vận động xã hội có tính chất hình thức, còn hành vi cuối cùng – tiêu dùng – không được coi là điểm kết thúc, mà còn là mục đích cuối cùng, nói thực ra là nằm bên ngoài kinh tế, trừ trườ ng hợp nó tác động trở lại điểm xuất phát và làm cho toàn bộ qúa trình bắt đầ u lại. 1.1.2 Cơ sở kinh tế của sự phân phối Cơ sở kinh tế c ủa sự phân phối, ở đây bao hàm ý nghĩa nói đế n việc phân phối vật phẩ m tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội. Nhưng vì phân phối bao giờ c ũng gồm cả phân phối cho sản xuất xem là yếu tố của sản xuất và phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả c ủa qúa trình sản xuất, cho nên không phải là toàn bộ sản phẩm xã hội tạo ra đều được phân phối cho tiêu dùng cá nhân. Trước hết, xã hội cần phải trích ra một phần để : Bù đắp những tư liệu sản xuất đã hao phí ; mở rộng sản xuất; lập quỹ dự trữ để phòng khi tai hoạ bất ngờ. Phần trích này là một điều tất yếu về kinh tế, vì nếu không khôi phục và mở rộng sản xuất thì không thể đáp ứng được nhu cấu ngày càng tăng c ủa xã hội. Phần còn lại c ủa tổng sản phẩ m xã hội thì để tiêu dùng. Nhưng trước khi tiến hành phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân, còn phải trích một phần để :
- 5 Chi phí về quản lý hành chính và tổ chức, bảo vệ tổ quốc. Mở rộng các sự nghiệp phúc lợi công cộng và cứu tế xã hội . Sau đó, phần vật phẩm tiêu dùng còn lại mới được trực tiếp phân phối cho tiêu dùng cá nhân c ủa những ngườ i làm việc trong nền sản xuất xã hội phù hợp với số lượ ng và chất lượ ng c ủa lao động c ũng như số lượ ng vốn và tài sản mà họ đóng góp vào qúa trình sản xuất. Như vậy, tổng sản phẩ m xã hội vừa được phân phối để tiêu dùng cho sản xuất, vừa được phân phối để tiêu dùng cá nhân. 1.1.3. Vai trò của quan hệ phân phối trong nền sản xuất xã hội. Bàn về vai trò c ủa phân phối trong nền sản xuất xã hội, F.Ănghen cho rằng “sự phân phối chừng nào mà còn bị những nhân tố lý do thuần tuý kinh tế chi phối, thì nó sẽ được điều tiết bởi lợi ích c ủa sản xuất, rằng sản xuất sẽ được thuận lợi trên hết trong mọi phương thức phân phối mà mọi thành viên trong xã hội có thể phát triển, duy trì và thực hành những năng khiếu c ủa họ một cách hoàn thiện nhất ”. Phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu c ực c ủa sản xuất và trao đổi ; nó c ũng tác động lại mạnh như thế đế n cả sản xuất lẫn trao đổi. Bất cứ phương thức sản xuất mới nào và bất cứ hình thức trao đổi mới nào, lúc đầ u không những đề u bị những hình thức c ũ và những thiết chế chính trị tương ứng ngăn trở, mà còn bị cả phương thức phân phối cũ ngăn trở. Những phương thức sản xuất mới và những hình thức trao đổi mới ấy, trước hết đề u phải trải qua một cuộc đấ u tranh lâu dài mới dành được sự phân phối thích ứng với chúng. Nhưng một phương thức trao đổi và sản xuất nhất định càng linh hoạt bao nhiêu, càng dễ phát triển và tiến triển bao nhiêu thì sự phân phối càng chóng đạt tới trình độ thoát khỏi chính ngay những điều kiện đã đẻ ra nó và càng chóng trở nên xung đột với phương thức sản xuất và trao đổi cũ bay nhiêu. 1.2.CÁC HÌNH THỨC PHÂN PHỐI CHỦ YẾU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.2.1 .Phân phối theo lao đ ộng: Là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho các cá nhân trong xã hội căn cứ vào số lượ ng, chất lượ ng lao động
- 6 hay hiệu quả lao động mà họ đã cống hiến cho xã hội không phân biệt màu da, tôn giáo, đảng phái, nam nữ. 1.2.2 .Phân phối theo vốn và tài sản : Là nguyên tắc phân phối vật phẩ m tiêu dùng cho cá nhân căn c ứ vào vốn và tài sản mà họ có để phân phối. 1.2.3.Phân phối ngoài thù lao lao đ ộng thông qua các quỹ phúc lợi khác: Là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân nhằ m đả m bảo những nhu cầu chung c ủa xã hội và đả m bảo cuộc sống cho một số ngườ i không có khả năng lao động. Trong các hình thức cơ bản đó, phân phối theo lao động là cách chủ yếu, nhưng phân phối ngoài thù lao lao động qua các quỹ phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng trong qúa trình phát triển c ủa xã hội. Đây là cách phân phối vật phẩ m tiêu dùng luôn luôn kết hợp với nhau và tác động cùng một lúc trong thực tiễn. Hai cách phân phối này dựa vào nhau và bổ sung cho nhau để góp phần giải quyết những yêu cầu chung c ủa xã hội. Đồng thời, phân phối theo tài sản , vốn và những đóng góp khác ngày nay cũng trở thành một tất yếu, hợp quy luật. 1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ PHÂN PHỐI 1.3.1.Sự vận dụng nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô Trong thời gian đầ u sau chiến tranh, nền kinh tế Liên Xô gặp nhiều khó khăn do hậu quả c ủa chiến tranh. Hơn nữa, trong xã hội Liên Xô lúc đó tồn tại nhiều giai cấp: những địa chủ còn sót của xã hội phong kiến, những nhà tư bản non trẻ mới xuất hiện ở Liên Xô và giai cấp công nhân tầng lớp chính và chiếm vai trò chủ đạo trong việc điều hành đất nước sau chiến tranh. Một yêu cầu đặt ra là phải điều tiết việc tiêu dùng trong xã hội. Đầ u tiên là việc dùng phiếu bánh mì - kiểu điều tiết tiêu dùng cổ điển c ủa những tư bản lúc bấy giờ, nhằm thực hiện một nhiệm vụ: phân phôi bánh mì hiện có,
- 7 làm sao cho ai nấy đề u có bánh ăn. Nhưng việc thực hiện đó gặp nhiều khó khăn do sự phá hoại c ủa thế lực thù địch vì vậy chính phủ đã dề ra một chính sách mới: trước hết chính sách đó phải thêm vào chế độ phiếu bánh mì việc c ưỡ ng bức tập hợp toàn thể nhân dân thành những hội tiêu dùng vì đó là phương phấp duy nhất để thực hiện dượ c việc kiể m soát tiêu dùng ; hai là bắt bọn nnhà giáu phải làm nghĩa vụ lao động, chúng phải đả m nhiệm những chức vụ không công trong các hội tiêu dùng ; ba là phân đề u cho nhân dân tổng số thực tế của sản phẩm trong xã hội để đả m bảo công bằng. Chính quyền Xô viết lúc đó kiên quyết tiếp tục thay thế việc buôn bán bằng chế độ phân phối sản phẩm một cách có kế hoạch và có tổ chức trên quy mô toàn quốc. Mục đích là tổ chức toàn thể nhân dân vào các công xã sản xuất và tiêu dùng có khả năng phân phối tất cả những sản phẩm cần thiết một cách nhanh chóng nhất, có kế hoạch nhất và tiết kiệ m nhất, tốn ít nhân công nhất, bằng cách tập trung chặt chẽ bộ máy phân phối. Và hợp tác xã là một phương tiện quá độ để thực hiện mục đích đó. Việc sử dụng hợp tác xã là một vấn đề giống như việc sử dụng chuyên gia tư sản vì đứng đầ u bộ máy hợp tác xã do CNTB để lại là những ngườ i có thói quen suy nghĩ và quản lý kinh tế của tư sản. Đảng Cộng sản Nga buộc tất cả các đảng viên phải là m việc trong hợp tác xã, lãnh đạo các hợp tác xã đó phải theo tinh thần cộng sản, làm cho tổng thể nhân dân đề u vào hợp tác xã và biến các hợp tác xã đó từ trên xuống dướ i thành một hợp tác xã thống nhất cả nước. Đặc biệt là việc chuyển đổi từ chế đọ trưng thu lương thực trong chính sách cộng sản thời chiến sang thuế lương thực cho phù hợp với nhân dân và thực hiện mục tiêu công bằng. Mặt khác, Đảng cộng sản Nga còn s ử dụng biện pháp quản lý sự phân phối thông qua sự kiêm kê và kiểm soát c ủa toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm. 1.3.2. Vấn đ ề phân phối trong quá trình phát triển kinh tế Trung Quốc thời kỳ cải cách
- 8 Chúng ta sẽ nghiên cứu vai trò c ủa phân phối đặc biệt là phân phối thu nhập trong quá trình phất triển kinh tế c ủa Trung Quốc.Trung Quốc là một đất nước có dân số đông, kinh tế - văn hoá lạc hậu, nhưng 20 năm qua nhờ thực hiện cải cách mở cửa mà bộ mặt kinh tế - xã hội c ủa nước này đã thay đổi rõ rệt. Từ thực tiễn đó, các nhà khoa học Trung Quốc đã rút ra nhận xét cho răng: “Phân phối thu nhập không chỉ biểu hiện một kết quả c ủa tăng trưở ng kinh tế, đồng thời nó lại ảnh hưở ng, thậ m chí là một đạ i lượ ng biến đổi quan trọng quyết định kinh tế tăng trưở ng” Trong thời gian đầ u khoảng 20 năm trước cải cách (1956-1976), trung Quốc là một xã hội có trình độ bình quân hoá rất cao nhưng cung lại là một xã hội vẫn tồn tại một số nhân tố bất bình đẳng. Xã hội Trung Quốc như vậ y là do: Chế độ XHCN ở Trung Quốc là chế độ lấy công hữu về tư liệu sản xuất nên sau khi từng bước thực hiện công hữu hoá về tư liệu sản xuất, ngườ i dân trừ một số ít thu nhập từ lãi suất tiêt kiệm ra còn hầu như không có thu nhập tài sản khác; và ình hình đấ t nước trong thời kỳ đấ u cần tăng tích luỹ, giảm tiêu dùng, nên thu nhập lao động c ũng được bình quân ở mức thấp. Nhưng s ự chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân và các khu vực là khá lớn. Về phương thức phân phối hàng tiêu dùng, Trung Quốc đã nhấn mạnh phương thức phân phối hiện vật, tức là thực hiện chế độ cung cấp, bài xích phương thức phân phối theo thị trườ ng (thông qua tiền tệ mua bán). Sau khi cải cách mở c ửa đế n nay quá trình phân phối thu nhập ở Trung Quốc có nhiều đột phá về lý luận: Đã đột phá vào quan niệm bình quân chủ nghĩa, xây dựng lý luạn cho phếp một số vùng một số ngườ i giàu lên trước, khuyến khích ngườ i giàu trước giúp đỡ ngườ i giàu sau, cuối cùng thực hiện cùng giàu có; Thực hiện chính sá “ưu tiên hiệu quả, chiếu cố công bằng” tức là tiến hành phân phối theo số lượ ng, chất lượ ng, hiệu suất lao động và bảo hộ thu nhập hợp pháp, thôn tính thu nhập phi pháp...; Đã đột phá vào quan điể m truyền thống cho rằng:phân phối theo lao động là đặc diể m c ủa
- 9 CNXH, phân phối theo vốn là đặc điể m c ủa CNTB, xây dựng lý luận kiên trì phân phối theo lao động là chính, cho phép yếu tố sản xuất tham gia vào phân phối; Xây dựng và kiện toàn hệ thống bảo hiểm xã hội thích ứng với nền kinh tế thị trườ ng XHCN. Nhờ những chính sách và đổi mới đó nền kinh tế Trung Quốc đã đạt được một số thành tựu đáng kể: Nền kinh tế tăng trưở ng với tốc độ cao, tăng trưở ng GDP bình quân hàng năm 1979-1997 đạt 9,8%, trở thành cườ ng quốc đứng thứ 7 thế giới về kinh tế; Hàng hoá từ chỗ trước đây thiếu đã trở nên phong phú đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu; M ức thu nhập và tiêu dùng c ủa ngườ i dân được cải thiện và nâng cao, tăng trưở ng GDP bình quân đầu ngườ i đã từ 379 NDT(1978) tăng lên 6079 NDT(1997); Mức tiêu dùng của dân cư cả nước từ 184 NDT (1979) lên đến 2036 NDT(1997).
- 10 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHÂN PHỐI VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HOÀN THIỆN QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯ ỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI. 2.1 THỰC TRẠNG CỦA QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA Trong giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa trước đổi mới, chúng ta chủ trương thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và trên cơ sở đó thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động máy móc c ủa Mác dướ i CNXH vào hoàn cảnh chra chín muồi trong nền kinh tế tập trung ở nước ta. Dẫn tới hành động c ủa chúng ta là nhanh chóng chóng cải tạo các thành phần kinh tế bằng mọi giá, để tạo lập hai hình thức sở hữu nhà nước và tập thể, và tưở ng thế là chúng ta đã có được cơ sở kinh tế c ủa CNXH làm cơ sở cho phân phối theo lao động. Mặt khác, trong lĩnh vực trao đổi, chúng ta lại thực hành phân phối bằng hiện vật một cách rộng khắp, từ sản xuất, đế n tiêu dùng. Khiến quan hệ hàng tiền bị thủ tiêu, thước đo lao động bằng giá trị bị phủ định. Kết quả là trong phân phối ta không thực hiện được phân phối đúng cho lao động, đả m bảo công bằng xã hội mà lại đưa đế n sự “quân bình xã hội”. Điều đó đã tạo ra kẻ hở, làm triệt tiêu những nhân tố tích c ực, dá m hy sinh vì nghĩa lớn, biết quên mình trong lao động. Đồng thời tạo ra chỗ dựa cho thói lườ i nhác, ỷ lại, dựa dẫm, ăn bám ở khắp mọi nơi mọi ngườ i. Đây c ũng là một trong các nguyên nhân đẩy xã hội ta vào tình trạng trì trệ, nghèo nàn, chậ m phát triển. Tất cả những khó khăn đó đã dẫn tới tổng sản phẩ m xã hội từ năm 1976 - 1980 bình quân hàng năm chỉ tăng 1%, thu nhập quốc dân sản xuất bình quân hàng năm tăng 0,2 %, trong khi dân số tăng bình quân hàng năm là 2,25%. Điều này đã là m cho chỉ tiêu tổng hợp tính bình quân đầ u ngườ i giảm xuống: thu nhập quốc dân sản xuất theo đầ u ngườ i bình quân hàng nă m từ nă m 1976 - 1980 giả m 1,37%; thu nhập quốc dân s ử dụng bình quân đầ u ngườ i giả m 5,15%. Quỹ tiêu dùng cá nhân c ủa dân cư liên tục giảm: năm 1976 là 100% thì năm 1977 còn
- 11 95,5%;1978:92,8%;1980:88,6%. Các chỉ tiêu khác do Đả ng đề ra chỉ đạt ở mức thấp. Nhận rõ dược các sai lầm thiếu sót, từ năm 1986 đế n nay, Đả ng và Nhà nước ta đã chuyển hướ ng nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trườ ng định hướ ng XHCN có sự điều tiết c ủa Nhà nước, đa dạng hoá các thành phần kinh tế lấy kinh tế quốc doanh làm nòng cốt, kinh tế tập thể không ngừng được mở rộng theo nguyên tắc hiệu quả, tự nguyện... Đồng thời thực hiện nguyên tắc phân phối vừa theo kết quả lao đ ộng và hiệu quả kinh tế, vừa theo mức đóng góp vốn (trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu). Về nguyên tắc phân phối mới này, Văn kiện Đại hội đạ i biểu toàn quốc lần thứ IX c ủa Đảng ta đã khẳng định: “Kinh tế thị trườ ng định hướ ng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội ” Nguyên tắc phân phối “vừa theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, vừa theo mức đống góp vốn” mà chúng ta thực hiện từ khi tiến hành s ự nghiệp đổi mới so với nguyên tắc phân phối theo lao động mà chúng ta đã thực hiện trong thời gian trước có hai điể m khác nhau cơ bản : Điểm khác nhau thứ nhất liên quan đế n cách xác định sự cống hiến bằng sức lao động c ủa mỗi ngườ i cho xã hội. Sự cống hiến c ủa mỗi ngườ i trong xã hội dù được thể hiện dướ i nhiều hình thức khác nhau, song vẫn có thể quy về hai loại cơ bản: cống hiến bằng sức lao động và cống hiến bằng s ự góp vốn. Nguyên tắc phân phối theo lao động, như chúng ta đã biết, là nguyên tắc phân phối căn cứ vào cống hiến bằng sức lao động. Nếu chỉ thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động thì giá trị c ủa tổng sản phẩ m xã hội sẽ được chia thành hai phần: một phần được dành để tái sản xuất, để giả i quyết các vấn đề xã hội chung ; phần còn lại sẽ được phân phối cho các cá nhân theo s ự cống hiến bằng s ức lao động c ủa họ trong xã hội. Phân phối
- 12 cho các cá nhân theo mức cống hiến bằng sức lao động có nghĩa là: ai làm nhiều hưở ng nhiều, ai là m ít hưở ng ít, ai không làm thì không hưở ng. Còn trong thời kỳ đổi mới, chúng ta xá định s ự cống hiến bằng sức lao động c ủa mỗi ngườ i trong xã hội căn cứ vào “kết quả lao động và hiệu quả kinh tế”, nói gọn là căn cứ vào hiệu quả lao động Điểm khác nhau cơ bản thứ hai là, trong thời kỳ trước đổi mới, chúng ta chủ trương chỉ thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, còn trong thời kỳ đổi mới, chúng ta chu trương thực hiện đồng thời cả nguyên tắc phân phối theo lao động và phân phối theo mức đóng góp, trong đó nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ yếu. Khi thực hiện đồng thời cả hai nguyên tắc thì giá trị tổng sản phẩm xã hội sẽ đựoc chia thành ba phần: một phần dành để tái sản xuất, phần thứ hai được phân phối cho ngườ i lao động theo mức cống hiến bằng sức lao động cho xã hội, phần thứ ba được phân phối cho ngườ i có vốn đóng góp (ai góp nhiều hưở ng nhiều, ai góp ít hưở ng ít, ai không góp không hưở ng). Ngườ i nào vừa có vốn đóng góp, vừa có cống hiến bằng sức lao động sẽ được hưở ng cả trong phần thứ hai và trong phần thứ ba. Trên thực tế, mỗi ngườ i do đề u có quyền sở hữu một phần giá trị như nhau trong tổng số giá trị c ủa tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân nên đề u có quyền thu nhập như nhau từ vốn góp c ủa mình, thu nhập này được được biểu hiện dướ i nhiều hình thức khác nhau trong đó có cả phúc lợi xã hội. Nhưng ngoài số thu nhập như nhau ấy, một số ngườ i có vốn đóng góp thêm còn có thêm thu nhập hợp páhp khác dù không trực hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tức là dù không có cống hiến bằng sức lao động. Giá trị gia tăng c ủa tiền cho vay mà ngườ i cho vay được hưở ng là hình thức dễ nhìn thấy của thu nhập hợp pháp không phải do cống hiến bằng sức lao động mà do cống hiến bằng sự góp vốn. Chủ trương thực hiện nguyên tắc phân phối vừa theo lao động, vừa theo mức đóng góp vốn là s ự đổi mới quan trọng trong quan điểm quan trọng c ủa Đảng ta về phân phối nói riêng, về con đường đi lên CNXH nói chung. Đay
- 13 sẽ là chủ trương lâu dài, tương ứng với độ dài c ủa thời kỳ quá độ lên CNXH. Bởivì, chỉ khi nào giá trị tư liệu sản xuất của Nhà nước ta nhiều đế n mức không cần thu hút sự đóng góp c ủa các cá nhân để phát triển sản xuất thì lúc đó chúng ta mới chấm dứt việc thực hiện nguyên tắc phân phối vừa theo lao động vừa theo mức đóng góp vốn để chuyển sang thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Và c ũng chỉ khi đó, thời kỳ quá độ lên CNXH mới kết thúc và CNXH mới được hình thành. Theo quan niệm mới về công bằng xã hội, sự góp vốn cũng được coi là cống hiến và thu nhập ở mức độ hợp lý có được do sự đóng góp vốn c ũng là công bằng. Nên với việc thực hiện nguyên tắc phân phối đó trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được mục tiêu công bằng xã hội, khái niệm “ông bằng xã hội” đã mang nội dung mới. Đó là nguyên nhân cơ bản làm cho tình hình kinh tế-xã hội c ủa nước ta có nhiều chuyển biến tích cực: lực lượ ng sản xuất bước đầu phát triển, đời sống của đa số nhân dân tiép tục được cải thiện, xã hội cơ bản ổn định... 2.1.1 Ưu điểm Quan hệ phân phối thúc đẩ y tăng trưở ng kinh tế đất nước. Quan hệ phân phối tạo động lực cho ngườ i lao động sản xuất c ũng như làm việc ngày càng nhiều vì lợi ích c ủa bản thân, của doanh nghiệp cũng như c ủa toàn xã hội, qua đó thúc đẩ y tăng trưở ng kinh tế trong nước từng bước nâng cao thu nhập của các tầng lớp dân cư. Cụ thể là Trong 5 năm 1991-1995 nền kinh tế đã khắc phục được tình trạng trì trệ suy thoái ; đạt mức tăng trưở ng khá cao, liên tục và tương đối toàn diện; thực hiện vượt mức hầu hêt các chỉ tiêu đề ra trong thời gian đó: tổng sản phẩ m trong nước(GDP) tăng bình quân hằng năm là 8,2%; lạm phát bị đẩ y lùi từ 774,7 nă m 1986 xuống còn 67,1 năm 1991và 12,7 năm 1995. Đầ u tư toàn xã hội bằng vốn trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15,8,n
- 14 năm 1995 là 27,4. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được mỗi nă m khoảng 2 triệu tấn. Còn trong 5 năm 1996-2000 nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu: kinh tế tăng trưở ng khá, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hằng năm 7%, trong đó GDP năm 2000 gấp đôi GDP nă m 1990. Tổng quỹ tiêu dùng tăng bình quân hàng năm hơn 5%, tiêu dùng bình quân đầu ngườ i tăng hàng năm gần 3,5%; tỷ lệ tích luỹ trong tổng tích luỹ tiêu dùng bình quân 5 năm là 26,8%; riêng nă m 2000 khoảng 28,7%; tỷ lệ tiêu dùng tương ứng khoảng 71,3%. Đờ i sống vật chất c ủa nhân dân được cải thiện : mỗi năm thê m hơn 1,2 triệu việc làm mới; tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn nước ta) từ trên 30% giảm xuống 10%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm từ 2,3 % giảm xuống 1,4%. Tuổi thọ trung bình tưng từ 65,2 tuổi lên 68,3 tuổi và nhiều những thành tựu khác nữa. Nó thực hiện công bằng xã hội, góp phần phân phối lại lực lượ ng lao động c ủa toàn bộ xã hội. Nguyên tắc phân phối c ủa nước ta hiện nay là:phân phối vừa theo lao động vừa theo mức đóng góp vốn. Việc phân chia công bằng tỷ lệ giữa phân phối theo lao động và phân phối theo mức đóng góp vốn để cả hai bên (ngườ i chủ sở hữu vốn và ngườ i lao động) đề u hài lòng sẽ phụ thuộc vào tình hình c ụ thể trong từng đơn vị và từng thời điểm; tỷ lệ ấy phải do thực tiễn cuộc sống quy định. Qua việc xác định các tỷ lệ đó mà thực hiện được sự phân phối đầ y đủ cho các cá nhân trong toàn xã hội và thực hiện được công bẵng xã hội. Trước đay, chúng ta quan niệm rằng “không làm thì không hưở ng” mới là công bằng, còn “không làm mà có hưở ng” là bất công bằng. Quan niệm ấy là một nguyên nhân về nhận thức dẫn chúng ta tới chủ trương chỉ thực hiện nguyên tăcs phân phối theo lao động mà không thực hiện nguyên tắc phân phối vừa theo lao động, vừa theo mức đóng góp vốn. Nếu theo quan niệ m cũ về công bằng xã hội thì hiện nay, chúng ta chưa thể thực hiện được mục tiêu công bằng xã hội. Bởi vì, Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi mà mọi ngườ i đề u có bình đẳ ng trong
- 15 việc sở hữu tư liệu sản xuất, mà sự bình đẳng c ủa tất cả mọi ngườ i trong việc sở hữu tư liệu sản xuất lại chỉ tất yếu xuất hiện khi giá trị c ủa tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân đã nhiều đén mức xã hội không cần sự góp vốn c ủa các cá nhân. Theo quan niệm mới về “công bằng xã hội”, sự góp vốn c ũng được coi là sự cống hiến và thu nhập ở mức độ hợp lý có được do sự đóng góp vốn c ũng là công bằng. Với quan niệm mới này, chúng ta có thể đạt được mục tiêu công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay. 2.1.2 Nhược điểm và tồn tại của quan hệ phân phối ở nước ta + Sự chênh lệch, bất hợp lý giữa các bộ phận, các ngành nghề, các vùng khác nhau. + Tình trạng tham ô còn diễn ra. + Nhiều cán bộ chủ chốt bị tha hóa về đạo đức, nhân phẩm 2.2. GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, quan hệ phân phối có vai trò rất quan trọng nhưng bên cạch đó vẫn còn xuất hiện những nhược điể m như trên chúng ta vừa xét. Đứng trước tình hình đó thì Đả ng và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách nhằm phát huy vai trò, động lực c ủa phân phối đối với nền kinh tế đất nước. 2.2.1. Giải quyết sự mâu thuẫn giữa kinh tế quốc doanh-tập thể và kinh tế tư nhân Hiện nay vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu nào, ngoài giải pháp để cho các thành phần kinh tế quốc doanh tự đứng vững, tự phát triển trong cạnh tranh c ủa cơ chế thị trườ ng để giúp giải quyết s ự yếu kém c ủa thành phần kinh tế tập thể. Trong thời gian qua Đả ng và Nhà nước ta đã ban hành luật cổ phần hoá rộng rãi các xí nghiệp quốc doanh, đồng thời công bố luật phá sản đối với các xí nghiệp làm ăn thua lỗ. Điều đó sẽ là m cho các xí nghiệp, công ty trong thành phần kinh tế tập thể – quốc doanh phải tự vươn lên đẻ chiến thắng các áp lực trong cạch tranh, phát triển đủ s ức chi phối các thành
- 16 phần kinh tế khác, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướ ng XHCN. Chúng ta cần thành phần kinh tế quốc doanh mạnh làm cơ sở kinh tế – xã hội để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Nhà nước ta cần can thiệp bằng thiệp bằng luật lao động vào tiền lương tạo ra phân phối công bằng. Đổi mới và tăng c ườ ng hoạt động c ủa kinh tế tập thể trong lĩnh vực phân phối, lưu thông. Phát huy vai trò trung tâm kinh tế, khoa học - công nghệ, văn hoá - xã hội c ủa doanh ngiệp nhà nước trong nông, ngư nghiệp, nhất là ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít ngườ i. Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để huy động thê m vốn, tạo thêm động lực thúc đẩ y doanh nghiệp là m ăn có hiệu quả, là m cho tài sản nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những doanh ngiệp 100% vốn nhà nước sẽ có nhiều doanh nghiệp nắm đa số hay nắ m tỷ lệ cổ phần chi phối. Gọi thê m cổ phần hoặc bán cổ phần cho ngườ i lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ từng trườ ng hợp c ụ thể; vốn huy động được phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Thành phần kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm; khuyến khích hợp tác liên doanh với nhau và với doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ phần. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp tư nhân; tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cườ ng quản lý, hướ ng dẫn là m ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh. 2.2.2. Nâng cao vai trò điều tiết của Nhà nước đ ối với phân phối Hơn lúc nào hết, trong cơ chế thị trườ ng, Nhà nước được xem là nhân tố hàng đầ u, thông qua Đả ng lãnh đạo. Nhà nước là cơ quan quản lý xã hội, hành pháp và tư pháp, có nghĩa vụ tập hợp toàn bộ nguồn lực trong và ngoài nước nhằm phát triển toàn diện kinh tế, xã hội đất nước. Và vai trò c ủa s ự
- 17 quản lý c ủa Nhà nước đối với phân phối là hết sức quan trọng: tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội để thực hiện phân phối và mở rộng phân phối theo lao động trong xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã hội. Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan c ủa thị trườ ng, tạo điều kiện phát huy mặt tích c ực, đồng thời khắc phục, hạn chế những tiêu cực c ủa thị trườ ng. Nhà nước tập trung là m tốt chức năng hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướ ng phát triển, thực hiện những dự án trọng điểm bằng nguồn lực tập trung; đổi mới thể chế quản lý, cải thiện môi trườ ng đầ u tư, kinh doanh; điều tiết thu nhập hợp lý. Xây dựng pháp luật và kiê mt tra giám sát việc thực hiện; giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp bằng biện pháp hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Dơn giản hoá các thủ tục hành chính, công khai hoá và thực hiện đúng trách nhiệ m và quyền hạn c ủa các cơ quan nhà nước trong quan hệ với các doanh nghiệp và nhân dân; kiên quyết xoá bỏ những quy định và thủ tục mang nặng tính hành chính, quan liêu, bao cấp, kìm hãm sự phát triển c ủa lực lượ ng sản xuất, gây phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp và nhân dân. Phải đặc biệt chú ý tới vai trò cuă nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước và những con ngườ i được tuyển dụng đả m trách công việc Nhà nước. Cần phải đổi mới tận gốc quan niệm và phương pháp công tác cán bộ từ khâu đánh giá, tuyển chọn, sử dụng, bố trí cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt. Đời sống mới đòi hỏi phải tập trung trong bộ máy Nhà nước những con ngườ i có taid đức, nhìn xa thấy rộng, dám làm, dám chịu trách nhiệ m; tính toán hiệu quả, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Đánh giá lựa chọn cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn cơ bản. Ngườ i có bản lĩnh chính trị, kiên định với mục tiêu lý tưở ng c ủa Đả ng, có phẩm chất đạ o đức cách mạng trong sáng, lối sống lành mạnh, thực sự cần kiệm liê m chính trí công vô tư, gần gũi quần chúng, có năng lực và phẩm chất ngang tầm nhiệ m vụ. đào tạo phải gắn với nguồn chức danh, yêu cầu sử dụng. Không đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo theo quy trình thuận nghịch.
- 18 Nhà nước định hướ ng sự phát triển, trực tiếp đầ u tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nỗ lực phát triển theo định hướng XHCN; thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trườ ng ổn định và thuận lợi cho các doanh nghiệp làm ăn phát đạt. Phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân; quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước.
- 19 2.2.3. Các giải pháp chống chủ nghĩa bình quân Sự phân phối bình quân là không công bằng, đó là một nguyên nhân kìm hãm sự phát triển c ủa sản xuất, vì ngườ i làm nhiều mà hưở ng ít sẽ không cố gắng làm nhiều hơn, ngườ i làm ít mà hưở ng nhiều sẽ dựa dẫm vào ngườ i khác và c ũng không cố gắng làm nhiều hơn. Để khắc phục tình trạng phân phối bình quân, từ khi đổi mới đế n nay chúng ta chủ trương xác định sự cống hiến bàng sức lao động c ủa mỗi ngườ i trong xã hội căn cứ vào “kết quả lao động và hiệu quả kinh tế”. Hiệu quả lao động phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, chứ không phải chỉ phụ thuộc vào các yếu tố như trình độ và khả năng c ủa ngườ i lao động, cườ ng độ và thời gian lao động mà nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau trong xã hội. Việc lấy hiệu quả lao động làm căn cứ để xác định sự cống hiến bằng s ức lao động c ủa từng ngườ i sẽ giả m bớt được sai lầm chủ quan có thể có c ủa ngườ i tính toán khi thực hiện nguyên tắc theo lao động. Muốn phân phối được thực hiện công bằng thì việc xác định hiệu quả lao động là rất quan trọng và cần thiết, chúng ta cần xác định hiệu quả lao động c ủa mỗi lao động dựa vào sự cống hiến c ủa họ cho công việc ấy. Việc hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương c ũng góp phần chống chủ nghĩa bình quân. 2.2.4. Phát triển lực lượng sản xuất, khuy ến khích làm giàu Phương thức phân phối, ngoài tính chất của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất còn do số lượ ng sản phẩm có thể phân phối quyết định. Do vậy, muốn thực hiện được ngày càng đầ y đủ sự công bằng xã hội trong phân phối thì cần phải sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩ m. Thực hiện sự phân phối bình đẳ ng trong điều kiện c ủa cải vật chất quá nghèo nàn chỉ là chia đề u sự nghèo khổ. Để tiến lên sự bình đẳ ng trong phân phối, điều kiện kiên quyết đối với nước ta là phải phát huy mọi tiêmg năng vật chất và tinh thần c ủa đáat nước. Ra sức phát triển lực lượ ng sản xuất, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đạ i hoá đất nước.
- 20 Chúng ta cần phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướ ng công nghiệp hoá, hiện đạ i hoá để góp phần thực hiện nguyên tắc phân phối vừa theo hiệu quả lao động, vừa theo vốn và tài sản để đạt mục tiêu công bằng xã hội. Mọi hoạt động kinh tế được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi trườ ng, quốc phòng và an ninh. Trước mắt, tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh c ủa các doanh nghiệp, nhất là doanh ngiệp Nhà nước, hiệu quả đầ u tư, hiệu quả sử dụng vốn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh c ủa đấ t nước, tăng s ức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trườ ng trong và ngoài nước, nhu cầu đờ i sống nhân dân và quốc phòng, an ninh. Tạo thê m sức mua c ủa thị trườ ng trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩ y mạnh xuất khẩu. Mục tiêu phấn đấ u c ủa nhân dân ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Dân có giàu thì nước mới có thể mạnh, nứoc mạnh mới có khả năng thực hiện sự công bằng xã hội và có cuộc sống văn minh. Nhà nước không những khuyến khích mọi ngườ i là m giàu một cách hợp pháp mà còn tạo điều kiện và giúp đỡ ngườ i nghèo. Để có thu nhập, trước hết mỗi ngườ i phải được lao động, phải có việc làm. Muốn vậy, cần nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật cho người lao động để họ có thể tiếp thu công nghệ hiện đạ i làm việc trong điều kiện thuân lợi để tao thêm việc làm cho ngườ i dân; bên cạch đó cần đẩ y mạnh xuất khẩu lao động để tăng thêm thu nhập cho ngườ i lao động c ũng như cho nền kinh tế đất nước. Mặt khác, cần thực hiện xoá đói giảm nghèo, đề n ơn đáp nghĩa, bảo hiể m xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện để từng bước đạt tới sự công bằng xã hội. Muốn vây, cần xây dựng và phát triển quỹ xoá đói giả m nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, quản lý chặt chẽ việc sử dụng quỹ này đúng đối tượ ng và có hiệu quả; tổ chức tốt việc thi hành pháp lệnh về ngườ i có công với đất nước; thực hiện và hoàn thiện chế độ bảo hiể m xã hội, đả m bảo
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: “Phân tích mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng cấp theo pháp luật hiện hành”.
13 p | 1737 | 402
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chất lượng mối quan hệ giữa nhà cung cấp dịch vụ và khách hàng: Nghiên cứu trường hợp khách hàng công nghiệp ngành Dịch vụ viễn thông
268 p | 315 | 75
-
Tiểu luận Triết học số 46 - Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vận dụng vào việc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
14 p | 218 | 65
-
Luận văn: Phân tích mối quan hệ hữu cơ giữa các đối tượng của quản lý doanh nghiệp . Tại sao nói quản lý về thực chất và trước hết là quản lý con người
12 p | 246 | 45
-
Đề tài: Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
65 p | 222 | 37
-
Bài tập lớn môn Triết học Mác - Lênin: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới đất nước
32 p | 57 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nâng cao chất lượng quản lý mối quan hệ với các nhà cung ứng của Tổng công ty Dung dịch khoan và Hóa phẩm Dầu khí – CTCP
97 p | 101 | 15
-
Tiểu luận kết thúc học phần Chính trị học đại cương: Quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế trong công cuộc đổi mới hiện nay
18 p | 137 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ: Nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ hành chính công và sự hài lòng của người dân tại UBND thành phố Nha Trang
108 p | 46 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao chất lượng mối quan hệ của nhà bán lẻ FPT Shop với khách hàng
124 p | 46 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố đến sự hài lòng trong công việc của nhân viên quan hệ khách hàng bán lẻ Vietinbank trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
174 p | 21 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích mối quan hệ chất lượng dịch vụ hành chính công và sự hài lòng của công dân: Tiếp cận dịch vụ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại tỉnh Bình Định
99 p | 22 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan hệ giữa bản tính tự nhiên và bản chất xã hội của con người, ý nghĩa đối với giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay
106 p | 12 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu mối quan hệ giữa một số chỉ tiên sinh trưởng của cây Quế (Cinamomum cassia. Blume) với một số tính chất lí, hoá học của đất làm cơ sở phân hạng đất trồng Quế tại huyện Văn Yên – Yên Bái
67 p | 29 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quốc tế học: Quan hệ Việt Nam - Czech (1993-2014)
128 p | 25 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa lòng trung thành với thương hiệu và các thành phần khác của tài sản thương hiệu - trường hợp thương hiệu PNJSIL
142 p | 14 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Giá trị khách hàng và chất lượng sống người tiêu dùng: Nghiên cứu trường hợp ngành siêu thị bán lẻ tại Việt Nam
29 p | 50 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn