intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu mối quan hệ giữa một số chỉ tiên sinh trưởng của cây Quế (Cinamomum cassia. Blume) với một số tính chất lí, hoá học của đất làm cơ sở phân hạng đất trồng Quế tại huyện Văn Yên – Yên Bái

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:67

30
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Qua việc thu thập số liệu về sinh trưởng của cây Quế và tính chất của đất dưới rừng Quế, từ đó thiết lập mối quan hệ giữa các chỉ tiêu sinh trưởng với các tính chất của đất dưới rừng Quế. Làm cơ sở để đề xuất một số chỉ tiêu phục vụ cho công tác phân hạng đất. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu mối quan hệ giữa một số chỉ tiên sinh trưởng của cây Quế (Cinamomum cassia. Blume) với một số tính chất lí, hoá học của đất làm cơ sở phân hạng đất trồng Quế tại huyện Văn Yên – Yên Bái

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN HOÀNG HƯƠNG NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH TRƯỞNG CỦA QUẾ (Cinamomum cassia Nees ex Blume) VỚI MỘT SỐ TÍNH CHẤT LÍ, HOÁ HỌC CỦA ĐẤT LÀM CƠ SỞ PHÂN HẠNG ĐẤT TRỒNG QUẾ TẠI VĂN YÊN – YÊN BÁI. Chuyên ngành: Lâm học Mã ngành: 60 62 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC CÁN BỘ HƯỚNG DẪN: TS. HÀ QUANG KHẢI Hà Tây, năm 2008
  2. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN HOÀNG HƯƠNG NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH TRƯỞNG CỦA QUẾ (Cinamomum cassia Nees ex Blume) VỚI MỘT SỐ TÍNH CHẤT LÍ, HOÁ HỌC CỦA ĐẤT LÀM CƠ SỞ PHÂN HẠNG ĐẤT TRỒNG QUẾ TẠI VĂN YÊN – YÊN BÁI. LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC Hà Tây, năm 2008
  3. LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành tại trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam theo hình thức đào tạo không tập trung thuộc hệ đào tạo cao học Lâm nghiệp. Để hoàn thành luận văn thạc sĩ, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Hà Quang Khải, người đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt và giúp đỡ trong suốt quá trình triển khai nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn tới Bộ môn đất Lâm nghiệp, Trung tâm thực hành thí nghiệm Khoa Lâm học đã nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình xử lí, phân tích số liệu và đóng góp các ý kiến quý báu đối với các nội dung thực hiện trong đề tài. Xin gửi tới Hạt kiểm lâm huyện Văn Yên, Uỷ ban nhân dân xã Đại Sơn, Trung tâm khuyến nông, khuyến lâm huyện Văn Yên – Yên Bái lời cảm tạ sâu sắc vì đã tạo điều kiện giúp đỡ giúp tôi trong công tác thu thập số liệu ngoại nghiệp cũng như các tài liệu nghiên cứu cần thiết khác phục vụ quá trình viết luận văn. Xin ghi nhận những đóng góp nhiệt tình, quý báu của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong việc thu nhận và hoàn thiện những thông tin về đề tài. Xin trân trọng cảm ơn.
  4. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Quế (Cinamomum cassia) là loài cây đa tác dụng. Ở Việt Nam, Quế có phân bố tự nhiên trong rừng hoặc được nhân dân gây trồng trên nhiều tỉnh của nước ta. Trải qua nhiều thời điểm kinh doanh khác nhau, Việt Nam đã có những thành công nhất định trong công tác trồng rừng Quế tại các địa phương, diện tích trồng Quế không ngừng tăng lên, nguồn thu nhập mang lại từ cây Quế đã từng bước nâng thu nhập của đồng bào miền núi nói riêng và đóng góp vào thu nhập của nền kinh tế quốc dân nói chung. Trong các loài cây lâm sản ngoài gỗ của rừng nhiệt đới nước ta, cây Quế có thể tổ chức thành nguồn hàng hoá lớn, ổn định lâu dài và có giá trị, nhất là giá trị xuất khẩu. Giá trị lớn nhất của Quế tập trung ở bbộ phận vỏ, vỏ Quế có vị cay, có hương thơm và có rất nhiều công dụng. Ở các bộ phận khác nhau như thân, rễ, cành của Quế đều có thể lấy vỏ. Lá và các bộ phận khác có thể sử dụng để chưng cất tinh dầu. Gỗ Quế được sử dụng để làm gỗ trụ mỏ và các đồ gia dụng thông thường khác. Trong y học, Quế còn được coi là một biệt dược, là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra trong công nghiệp thực phẩm Quế còn được sử dụng làm hương liệu, chất thơm, làm hương liệu cho các ngành mĩ phẩm. Ngoµi lîi Ých vÒ mÆt kinh tÕ, c©y QuÕ cßn ®ãng gãp vµo b¶o vÖ m«i tr­êng sinh th¸i, lµm t¨ng ®é che phñ rõng, gi÷ ®Êt, gi÷ n­íc ë c¸c vïng ®Êt ®åi nói dèc, b¶o tån vµ ph¸t triÓn sù ®a d¹ng c¸c nguån gen quý. C©y QuÕ cßn ®ãng gãp vµo ®Þnh canh - ®inh c­, xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo t¹o thªm c«ng ¨n viÖc lµm cho n«ng d©n miÒn nói n­íc ta.Cây Quế là nguồn lợi kinh tế lớn và gắn liền với đời sống của nhân dân các dân tộc ít người như Dao (Yên Bái), Thái, Mường (Nghệ An, Thanh Hoá), Cà Tu, Cà Toong (Quảng Nam, Quảng Ngãi) và Thanh Y, Thanh Phán (Quảng Ninh). Theo các tài liệu nghiên cứu, Quế Việt Nam có nhiều loài, song chủ yếu loài Quế có tên khoa
  5. 2 học Cinamomum cassia. Blume, là một trong những loài có chất lượng tinh dầu hàng đầu trên thế giới. Cây Quế (Cinamomum cassia. Blume) đại diện cho loài Quế có vùng phân bố ở miền Bắc Việt Nam. Loài này còn có tên gọi khác là Quế đơn, Quế Trung Quốc, Quế bì, Quế nhục, đây là loài Quế được gây trồng chủ yếu ở Yên Bái, Thanh Hoá, Quảng Ninh, Ninh Bình…và một số địa phương khác trong cả nước. Đối với các tỉnh miền Bắc, Quế thường phân bố ở độ cao 200m, còn ở miền Nam là 800m. Quế thích hợp ở các vùng khí hậu ôn hoà, nhiệt độ từ 20 – 290C, trong đó khoảng nhiệt độ thích hợp nhất đối với sự phát triển của Quế từ 20 -250C. Quế có thể chịu được ở điều kiện nhiệt độ tối thấp đến 10C, hoặc có thể lên tới 37 – 380C ở miền Nam, độ ẩm không khí trên 85%, lượng mưa bình quân năm từ 2000- 4000mm. Đối với người dân miền núi Việt Nam, Quế là một trong các loài cây có giá trị đang được phát triển mạnh mẽ, rộng khắp và là đối tượng phục vụ làm giàu của nhiều hộ gia đình. Ở Văn Yên – Yên Bái, Quế được coi là cây trồng chính, phủ xanh đất trống, đồng thời lại có giá trị kinh tế cao, đây là tỉnh có diện tích trồng Quế được coi là lớn nhất trong cả nước. Theo số liệu của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Yên Bái, tổng diện tích Quế ở Yên bái tính đến năm 1998 là 20.837 ha, trong đó diện tích trồng Quế lớn nhất tËp trung ë c¸c huyÖn V¨n Yªn, V¨n ChÊn, V¨n Bµn vµ TrÊn Yªn. Vùng Quế Văn Yên tập trung ở một số xã như: §¹i S¬n, ViÔn S¬n, Ch©u QuÕ, Phong Dô, Xu©n TÇm, Mỏ Vàng,… cã diÖn tÝch trång QuÕ vµ s¶n l­îng vá QuÕ chiÕm kho¶ng 70% cña c¶ vïng. Riêng xã Đại Sơn hiện nay có khoảng 1500 ha Quế có độ tuổi khác nhau từ mới trồng tới hơn 20 tuổi. Sinh sèng trªn vïng QuÕ Yªn B¸i chñ yÕu lµ ®ång bµo Dao, họ cã nghÒ trång QuÕ tõ l©u ®êi. §Æc ®iÓm chung cña vïng quÕ Yªn B¸i lµ vïng rõng nói chia c¾t, hiÓm trë, n»m phÝa §«ng vµ §«ng Nam cña d·y nói Hoµng Liªn S¬n, cã ®é cao tuyÖt ®èi kho¶ng
  6. 3 300 – 700 m; nhiÖt ®é trung b×nh n¨m lµ 22,7o C, l­îng m­a b×nh qu©n n¨m trªn 2000 mm, cã n¬i nh­ Phong Dô l­îng m­a b×nh qu©n n¨m ®¹t ®Õn trªn 3000 mm; ®é Èm b×nh qu©n lµ 84%. §Êt ®ai ph¸t triÓn trªn ®¸ Sa th¹ch, PhiÕn th¹ch, cã tÇng ®Êt dµy, Èm, nhiÒu mïn vµ tho¸t n­íc. Theo các tài liệu nghiên cứu thì Quế là loài có thể sinh trưởng trên hầu hết các loai đất Feralit mùn trên núi phát triển trên đá Para gnai, Granit, đá phiến mica, đá vôi, một điều cơ bản là các loại đất đó phải còn tính chất đất rừng. Quế là loài cây được gây trồng thuần loài theo phương thức hộ gia đình hoặc đồi rừng do các trang trại hay cá nhân hộ nông dân quản lí. Mặc dù Quế được phát triển mạnh ở nhiều địa phương với diện tích trồng lớn, đồng thời được coi là loài cây đặc sản có giá trị về kinh tế cũng như các giá trị khác về môi trường sinh thái, song hiện nay, mức độ sinh trưởng và chất lượng sản phẩm từ Quế ở một số nơi còn chưa cao. Nguyên nhân có thể là do công tác giống chưa tốt, do việc gây trồng ồ ạt không theo quy hoạch tổng thể, vượt ra ngoài vùng phân bố tự nhiên của nó, do chưa có kĩ thuật trồng, hoặc do chưa nghiên cứu kĩ về tính chất đất thích hợp đối với việc gây trồng loài cây này. Với mong muốn đóng góp vào việc gây trồng loài cây đặc sản có giá trị kinh tế, bằng việc nghiên cứu đất trồng Quế, xác định mối quan hệ giữa tính chất đất với các chỉ tiêu sinh trưởng của loài cho từng cấp tuổi khác nhau, từ đó lựa chọn các chỉ tiêu thích hợp phục vụ cho công tác trồng rừng Quế tại Văn Yên – Yên Bái nói chung và xã Đại Sơn nói riêng, nhằm nâng cao hiệu quả trồng rừng Quế tại địa phương, tác giả mạnh dạn nghiên cứu luận văn với tên: “Nghiên cứu mối quan hệ giữa một số chỉ tiên sinh trưởng của cây Quế (Cinamomum cassia. Blume) với một số tính chất lí, hoá học của đất làm cơ sở phân hạng đất trồng Quế tại huyện Văn Yên – Yên Bái”.
  7. 4 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐẾ NGHIÊN CỨU VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1.1. Lịch sử về vấn đề nghiên cứu: 1.1.1. Trên thế giới: 1.1.1.1 Nghiên cứu về cây Quế: Năm 1928, J.Lan trong tác phẩm “Cây trồng phổ biến ở Đông Dương” đã đề cập đến cây Quế [20]. Theo ông, Quế được phân thành ba loài chủ yếu đó là: Cinnamomum zeylanicum (còn gọi là Quế Quan, Quế Xây Lan) Cinnamomum loureirii Ness (Quế Việt Nam) Cinnamomum cassia ( Quế Trung Hoa) Năm 1954, Sery.R. W trong tác phẩm “Cây cho người” cho biết: Cassia hay còn gọi là Quế Trung Quốc, là một loại dầu quý lấy từ thân cây Cinnamomum cassia ở châu Á thuộc họ Long não (Lauraceae). Khẳng định thêm một lần nữa về nguồn gốc cây Quế, năm 1969, Vulph. E.V và Maleva O.P khi nghiên cứu họ Long não (Lauraceae) cũng đã đề cập đến cây Quế Trung Quốc (Cinnamomum chinese Blume) phân bố ở vùng nhiệt đới Châu Á được sử dụng để làm thuốc và làm gia vị. Năm 1981, Nguyễn Hải Khoát đã giới thiệu khái quát về Quế trên thị trường quốc tế, tác giả cho biết ở phương Tây, Quế là một trong những gia vị được quen dùng từ lâu…Ở châu Á, Quế còn được sử dụng làm thuốc chữa bệnh và làm dầu xoa bóp. Các sản phẩm khác của Quế như tinh dầu, bột Quế được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp, thực phẩm, sử dụng làm bánh kẹo, đồ uống cao cấp. Sản lượng Quế (Cinnamomum Cassia Blume) đạt được trên 10.000 tấn/năm, tập trung ở một số quốc gia như: Inđônêxia,Việt
  8. 5 Nam,Trung Quốc. Quế (Cinnamomum Zeylanicum Nees) đạt khoảng 6000 tấn/năm, tập trung nhiều ở Xirilanca. Trên thị trường thương mại quốc tế (Cinnamomum cassia Blume) được ưa chuộng và tiêu thụ mạnh ở các nước phát triển như: Nhật Bản, Mĩ, Mêhicô, Cộng hoà liên bang Đức, Liên Xô, Hà Lan… 1.1.1.2. Những nghiên cứu về công tác đánh giá phân hạng đất: Đánh giá đất đai là công tác quan trọng trong việc xác định độ phì nhiêu của đất, là cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp phát triển, quy hoạch vùng trồng, cũng như các biện pháp duy trì, bảo vệ và cải tạo độ phì của đất. Có thể hiểu đánh giá đất là quá trình ước lượng tiềm năng của đất cho sự sử dụng hay một số sự sử dụng đã lựa chọn. Đánh giá đất là một nhánh trong phân hạng đất, ở đó cơ sở của sự phân hạng là mức độ thích hợp đối với việc sử dụng đất. Công tác đánh giá đất đai được coi như một khoa học đã được hình thành hàng trăm năm. Hiện nay, trên thế giới việc đánh giá đất đai có rất nhiều quan điểm và phương pháp khác nhau. Hệ thống đánh giá đất được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay là hệ thống phân loại đất theo tiềm năng của USDA ( theo Klingebiel and Montgomery, 1961). Mặc dù đây là hệ thống đánh giá đất xây dựng cho các bang của Mĩ nhưng nó vẫn thích hợp áp dụng đối với các nước chậm phát triển. Bản đồ theo hệ thống này lấy số La Mã để đánh số cho các lớp đất đai. Phương pháp đánh giá của hệ thống này là nhóm họp các đơn vị đất đai trên bản đồ lại. Trong đó các yếu tố được chú ý trong đánh giá đó là các yếu tố hạn chế của đất, những đặc tính xấu của đất ảnh hưởng đến việc sử dụng. Trong đó nhóm yếu tố hạn chế lâu dài thuộc về các yếu tố như: Độ dốc, độ dày tầng đất, khí hậu. Còn yếu tố hạn chế tạm thời như chế độ dinh dưỡng, nước. Đây là hệ
  9. 6 thống đánh giá có tính dễ hiểu đối với người sử dụng, có thể thay đối để phù hợp với từng quốc gia. Đánh giá đất theo mức độ thích hợp cũng là một dạng trong đánh giá đất. Một ví dụ về cách đánh giá đất theo mức độ thich hợp được đưa ra ở New Guinea bởi Haantjens ( 1965). Trong đó đưa ra mức độ đánh giá thích hợp cho 4 loại hình sử dụng đất: Cây hàng năm, cây gỗ, đồng cỏ và lúa nước. Nguồn gốc của phương pháp này nắm giữ phương pháp giới hạn và phương pháp số học gần đúng. Mỗi nhân tố trong 14 nhân tố của môi trường được đưa ra đánh giá theo mức độ phù hợp của nó với 4 loại hình sử dụng đất. Sự thích hợp tổng quát nhận biết từ sự biến đổi tổng quát của các nhân tố đơn lẻ thấp nhất hoặc một nhóm các giá trị đơn lẻ hơi thấp có thể ảnh hưởng giống nhau đến sự thích hợp chung. Theo số liệu dự trữ của TREE CD – ROM ( Cab, International for Asia) từ năm 1939 đến tháng 4 năm 1995, có 48 công trình đánh giá hiệu quả kinh tế trong lâm nghiệp. Trong đó có 19 công trình đánh giá hiệu quả kinh tế cho lâm nghiệp nhiệt đới, 9 công trình đánh giá hiệu quả kinh tế rừng trồng. Trong đó, tập trung vào đánh giá hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp kĩ thuật lâm sinh đưa lại như: - Đánh giá hiệu quả do quá trình cải thiện gen cây trồng loài cây Chirst – tree ở Donglas – Mĩ (1974). - Đánh giá hiệu quả biện pháp phòng chống cháy rừng ở Anh, Colombia (1968). - Đánh giá hiệu quả biện pháp bón phân cho rừng ở Đức (1963), Nhằm làm rõ hơn về vai trò của phân hạng đánh giá đất đai làm cơ sở cho việc quy hoạch sử dụng đất, tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) đã tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học đất và các chuyên gia đầu ngành về nông nghiệp của FAO và Hà Lan tổng hợp kinh nghiệm của nhiều quốc gia để xây
  10. 7 dựng lên cuốn tài liệu chung: “Đề cương đánh giá đất đai” [FAO -1976]. Tài liệu này đã được các nước trên thế giới vận dụng, thử nghiệm vào công tác đánh giá đất đai và được coi như một “cẩm nang” đánh giá đất cho riêng mình. Cho đến năm 1983, đề cương được bổ sung, chỉnh sửa cùng với hàng loạt các tài liệu hướng dẫn đánh giá về đất chi tiết hơn cho các vùng sản xuất khác nhau như: - Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp có tưới (Land Evaluation for Irrigated Agriculture [FAO - 1980]. - Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp nhờ mưa (Land Evaluation for Raifed Agriculture [FAO - 1983]. - Đánh giá đất đai cho trồng trọt thâm canh (Land Evaluation for Extensive grazing) [FAO - 1990]. - Đánh giá đất đai và phân tích hệ thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất (Land Evaluation and farming system analysis for land use planning) [FAO - 1992]. Các phương pháp đánh giá đất đai của FAO dựa trên cơ sở phân loại đất thích hợp (Land suitability Classification). Cơ sở của phương pháp này dựa trên sự so sánh giữa yêu cầu sử dụng đất với chất lượng của đất, gắn với các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường để lựa chọn phương án sử dụng đất tối ưu. Các phương pháp đánh giá đất đai đã được FAO đề cập khá đầy đủ và được ứng dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới, đây chính là cơ sở để đưa ra các quyết định cho việc quản lí và sử dụng hợp lí tài nguyên đất đai, một dạng tài nguyên mà tự nhiên không thể tái sinh được. 1.1.2. Ở Việt Nam 1.1.2.1. Nghiên cứu về cây Quế: - Những nghiên cứu về phân loại Quế:
  11. 8 Theo tác giả Đỗ Tất Lợi, Quế có ba loài chính như sau: + Quế Thanh Hoá, Quế Nghệ An (Cinnamomum loureirii Nees). + Quế Trung Quốc (Cinnamomum cassia Blume). + Quế quan (Cinnamomum zeylanicum Nees). Riêng loài Quế Thanh Hoá là loài mọc hoang và được gây trồng ở khắp vùng rừng núi Việt nam, trong đó vùng Quế chủ yếu phân bố ở dọc dãy Trường Sơn từ bắc Thanh Hoá - Nghệ An tới Nam Quảng Nam - Quảng Ngãi. Theo kết quả nghiên cứu về cây Quế miền Bắc Việt Nam của tác giả Trần Hợp khi đo đếm hơn 100 tiêu bản Quế của Yên Bái, Thanh Hoá, Quảng Ninh cho thấy: Các mẫu tiêu bản Quế miền Bắc Việt Nam xếp vào một liên loài là Cinnamomum cassia Blume [34]. Kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh thái và tăng trưởng của cây Quế Thanh Hoá của các tác giả Thạch Bích và Hoàng Minh Tuấn cũng đã khẳng định tên khoa học của cây Quế được trồng tại Thanh Hoá hiện nay phù hợp với tài liệu của LiouHo trong “Phân loại và phân bố địa lí của họ Re ở Trung Quốc và Đông Dương”. Như vậy, loài Quế Thanh Hoá đang trồng hiện nay cùng loài với Quế bì ở Trung Quốc là loài Cinnamomum cassia Blume. Ngoài ra, cây Quế còn được phân loại theo trồng trọt và kinh nghiệm của nhân dân có: Quế lá to, Quế lá nhỏ, Quế đắng, Quế ngọt, trong đó thì Quế lá nhỏ là loài có nhiều tinh dầu nhất. Các tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy chi lớn nhất trong họ Lauraceae là chi Cinnamomum với 14 loài [12]. Riêng loài Cinnamomum cassia Blume được trồng rộng rãi nhất ở các địa phương và là một trong các loài có trữ lượng tinh dầu cao [31]. - Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học và sinh thái học của loài Quế:
  12. 9 Đặc điểm sinh thái học và sinh học của loài Quế đã được nghiên cứu trong một số công trình sau: Theo nghiên cứu của Viện Điều tra quy hoạch rừng và các tác giả Trần Nguyên Hữu, Lâm Công Định, Khanh Xuân, Lê Khả Kế, cây Quế đã được nghiên cứu ở các mặt như: Đặc điểm hình thái, phân bố địa lí, giá trị kinh tế và kĩ thuật gieo trồng [34]. Tác giả Trần Hợp (1992) đã nghiên cứu và tìm hiểu đặc tính sinh vật học và khả năng gây trồng cây Quế nhằm làm cơ sở cho việc nhân rộng phạm vi gây trồng cây Quế [36]. Khi nghiên cứu về khả năng giữ nước và bảo vệ đất của các phương thức canh tác trong kinh tế hộ gia đình tại Hàm Yên – Tuyên Quang, TS. Vương Văn Quỳnh và TS. Phùng Ngọc Lan (1994), cho rằng: Trong các phương thức canh tác thì mô hình canh tác cây Quế có tác dụng phòng chống xói mòn và bảo vệ đất rất tốt. Từ đó, các tác giả đưa ra nhiều phương pháp và công thức xác định lượng xói mòn đất cho vùng nghiên cứu [26]. Nguyễn Thanh Phương (1994) đã nghiên cứu đề tài: “Di thực cây Quế từ Trà Bồng – Quảng Ngãi về vùng An lão”. Tác giả nghiên cứu khả năng di thực của cây Quế ở Trà Bồng và hàm lượng tinh dầu trong vỏ thay đổi khi di thực cây Quế từ vùng này sang vùng khác. Đề tài đã giúp cho các nhà đầu tư, sản xuất, quản lí làm cơ sở cho việc mở rộng vùng trồng Quế tại các khu vực khác nhau [24]. - Những nghiên cứu về sản lượng và tinh dầu Quế: Năm 1977, TS. Uhlig (Đức) tiến hành nghiên cứu đối với loài Quế Cinnamomum cassia Blume ở miền Bắc Việt Nam. Ông tiến hành nghiên cứu Quế về các nội dung như: + Nghiên cứu mối tương quan giữa độ dày của vỏ với đường kính D1.3 của cây.
  13. 10 + Nghiên cứu mối tương quan giữa sản lượng vỏ với đường kính trung bình D1.3. + Nghiên cứu mối quan hệ giữa sản lượng vỏ bình quân một cây với đường kính D1.3. + Nghiên cứu hàm lượng tinh dầu trong vỏ với độ dày của vỏ. Ngoài các nội dung trên, tác giả còn nghiên cứu về kĩ thuật gây trồng, phạm vi phân bố và công dụng của cây Quế. Đây là một công trình nghiên cứu khá đầy đủ về cây Quế ở miền Bắc Việt Nam và được đánh giá cao [36]. TS. Nguyễn Mê Linh, Phùng Cẩm Thạch và Ngô Duy Bình đã tiến hành khảo sát hàm lượng tinh dầu Quế ở Việt Nam giai đoạn 1976 – 1980 [22]. Các nội dung thể hiện như sau: + Xác định hàm lượng tinh dầu ở vỏ Quế. + Xã định hàm lượng tinh dầu vỏ Quế lấy ở các độ cao khác nhau trên thân cây. + Xác định hàm lượng tinh dầu trong một số bộ phận của cây: Vỏ, lá, quả, thân, cành, rễ. + Xác định hàm lượng tinh dầu qua nguyên liệu ở trạng thái tươi và khô. Từ các nội dung trên, các tác giả đã đưa ra một số kết luận như sau: + Quế Yên Bái, Quảng Ninh từ 7 - 8 tuổi đã có hàm lượng tinh dầu đạt tiêu chuẩn Quế gia vị, làm thuốc và chưng cất tinh dầu. + Hàm lượng tinh dầu Quế có xu hướng tăng dần tứ gốc lên ngọn. + Hàm lượng tinh dầu Quế tăng lên theo tuổi. Đây là một trong các công trình nghiên cứu được đánh giá tương đối đầy đủ về nghiên cứu hàm lượng tinh dầu, có thể sử dụng làm cơ sở khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo.
  14. 11 Tác giả Phạm Xuân Hoàn năm 1994 – 1995 đã tiến hành xây dựng biểu cấp đất, biểu dự đoán sản lượng vỏ Quế theo các cấp đất và theo các độ tuổi cho lâm phần Quế thâm canh thuần loài ở Văn Yên– Yên Bái [16]. Phạm Xuân Hoàn, Hoàng Xuân Y (1999) đã nghiên cứu ứng dụng phương trình đường sinh thân cây để lập biểu sản lượng sản phẩm vỏ Quế trồng ở Yên Bái [16]. Kết quả đề tài đã lập được biểu thể tích vỏ Quế và biểu khối lượng vỏ Quế khô theo chiều cao vút ngọn (Hvn) và đường kính ngang ngực (D1.3) làm cơ sở cho việc xác định sản lượng và phân loại vỏ Quế trong sản xuất kinh doanh. GS.TS. Vũ Tiến Hinh, TS. Phạm Ngọc Giao, PGS.TS. Ngô Kim Khôi và PGS.TS. Phạm Xuân Hoàn đã nghiên cứu đề tài: “Lập biểu sản lượng rừng Quế tại văn Yên – Yên Bái”. Công trình được đánh giá là một trong các nghiên cứu về sản lượng Quế khá hoàn chỉnh ở Việt Nam. Rừng Quế được nghiên cứu có tuổi từ 5 – 15 và sản lượng vỏ được phân thành 3 loại chính là: Loại 1, Loại 2, Loại 3 [15]. - Những nghiên cứu về chính sách, kinh tế: Năm 1980, Phạm Anh Tuấn đã cho xuất bản cuốn sách: “Phát triển nghề trồng Quế ở Việt Nam”. Tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu và đúc rút kinh nghiệm của nhân dân trong quá trình gây trồng và phất triển cây Quế. Đồng thời nêu lên vị trí của sản phẩm Quế Việt Nam trên thị trường quốc tế [29]. Năm 1981, nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành tiêu chuẩn nhà nước về: “Quế xuất khẩu – Yêu cầu kĩ thuật” (TCVN 3230 – 79). Quy định chất lượng vỏ Quế được gia công để xuất khẩu [22]. Năm 1990, Bộ Lâm nghiệp ban hành Quy phạm tạm thời về trồng cây Quế. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên, quy định các chỉ tiêu kĩ thuật về gây trồng Quế [1].
  15. 12 Ngày 25/1/2000, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ra Quyết định số 05/2000/QĐ- BNN/ KHCN, ban hành tiêu chuẩn ngành 04 TCN – 23 – 2000. Quy phạm kĩ thuật gây trồng Quế. Đây là quy phạm chính thức cho việc gây trồng Quế Cinnamomum cassia Blume ở Việt Nam. Quy phạm kĩ thuật đã quy định điều kiện gây trồng, thu hái và bảo quản hạt giống, tạo cây con, trồng chăm sóc và bảo vệ rừng [2]. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu từ trước tới nay mới chỉ tập trung vào việc nghiên cứu các biện pháp kĩ thuật lâm sinh để đề xuất các biện pháp gây trồng loài Quế có giá trị. Song bên cạnh đó vấn dề nghiên cứu về đất trồng Quế, đánh giá khả năng sản xuất của đất đối với quá trình sinh trưởng và phát triển của loài còn ít. Đây cũng chính là một trong các lí do mà tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu. 1.1.2.2. Những nghiên cứu về đánh giá phân hạng đất đai và quan hệ giữa thực vật với đất rừng: Đất lâm nghiệp được hiểu, gồm đất có rừng che phủ và đất không có rừng. Việc nghiên cứu đất rừng luôn được xem xét và đặt trong mối quan hệ với loại hình rừng và với thực vật rừng. Vấn đề nghiên cứu đất rừng luôn được đặt nằm trong mối quan hệ: Ảnh hưởng của đất rừng tới rừng và ảnh hưởng ngược lại của rừng tới đất. Thành tựu nghiên cứu đất rừng theo phương pháp luận kể trên phải đề cập đến những đóng góp đầu tiên của tác giả Nguyễn Ngọc Bình (1986, 1970, 1979). Tác giả đã tổng quát hoá những đặc điểm của đất dưới các đai rừng và chuỗi diễn thế rừng ở miền Bắc. Về vấn đề phát sinh đất đã đề cập tới đất vàng allit potzon hoá và đất vàng nhiệt đới [4]. Các kết quả nghiên cứu về chất hữu cơ dưới rừng (Fritland, 1964; Nguyễn Ngọc Bình, 1970; Nguyễn Tử Siêm, 1976; Ngô Văn Phụ, 1979; Đỗ Đình Sâm 1985, 1990,…) đã chứng minh rõ vai trò của chất hữu cơ trong quá
  16. 13 trình hình thành đất và phát triển độ phì ở nước ta. Trên thực tiễn, nhân tố mùn trở thành một trong những nhân tố quan trọng trong việc đánh giá độ phì của đất, chọn đất trồng rừng. Kết quả nghiên cứu đầu tiên về vòng tuần hoàn sinh học dưới rừng Bồ Đề của nhóm tác giả Hoàng Xuân Tí, Nguyễn Đức Minh (1978) đã phát hiện thấy sự “mở” chu trình chuyển hoá mùn, đạm do phương thức gây trồng Bồ Đề không hợp lí. Tiếp theo đó là các nghiên cứu đối với rừng trồng Thông ba lá ở Lâm Đồng của các tác giả Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế (1990) đã chỉ rõ chu trình chuyển hoá vật chất trong rừng có thể hoàn toàn đảm bảo kinh doanh rừng trồng Thông lâu dài và ổn định. Vấn đề quan hệ giữa đặc tính đất và sinh trưởng của cây trồng đã được nghiên cứu bởi nhiều nhà khoa học trên thế giới. Nhiều quan điểm cho rằng: Ở vùng ôn đới, phản ứng của đất (pH), hàm lượng CaCO3 và các chất bazơ khác, thành phần cấp hạt và điện thế OXH – K ( Eh) của đất ( Richard, 1984) là những yếu tố quan trọng nhất. Điều đó có nghĩa là yếu tố hoá học quan trọng hơn yếu tố vật lí. Còn ở những vùng nhiệt đới thì khả năng giữ nước, độ sâu của đất, độ thông khí của đất lại là các yếu tố quan trọng, có nghĩa là các yếu tố vật lí quan trọng hơn các yếu tố hoá học ( Harry 1936, Bead 1946, Richard 1948). Về nghiên cứu đất lâm nghiệp, kết quả nghiên cứu về khoáng sét cũng đóng góp những giá trị to lớn về mặt lí luận và thực tiễn (Ngô Nhật Tiến, 1979). Tác giả đã đề cập tới vai trò của các tầng BC, C ở đất trống đồi núi trọc, đất phát triển yếu…có nhiều khoáng nguyên sinh là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng tốt cho cây trồng. Những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của rừng trồng tới đất như rừng Bạch Đàn (Đỗ Đình Sâm, 1968, 1990; Hoàng Xuân Tý, 1975), Rừng Thông nhựa (Ngô Đình Quế, 1978), Thông ba lá (Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình
  17. 14 Quế, 1983,1990), Tre Luồng (Nguyễn Ngọc Bình, 1978)… đã có những ý nghĩa thực tiễn rất to lớn trong việc xác định vùng trồng, phân hạng đất trồng rừng và góp phần xây dựng các biện pháp kĩ thuật thích hợp. Về mối quan hệ giữa đất và rừng phải đề cập tới một khuynh hướng lớn trong nghiên cứu và ứng dụng là xác định các cấp lập địa rừng. Việt Nam đã vận dụng khoa học lập địa của Đức áp dụng ở Quảng Ninh và Lâm Đồng, được xây dựng và hoàn thiện bởi Viện Điều tra quy hoạch rừng (Nguyễn Ngọc Phụ, Võ Văn Du, 1971; Nguyễn Khánh, 1991). Những năm gần đây, việc vận dụng phân loại lập địa ở Liên Xô vào Việt Nam (Che-rôtop, 1978 – 1992) và được hoàn thiện về tiêu chuẩn cho phù hợp với điều kiện ở nước ta (Đỗ Đình Sâm, 1990). Đó là việc đề cập tới yếu tố sinh khí hậu và nhân tố sinh thái rất quan trọng đó là chế độ nước, thể hiện ở mức độ khô hạn trong mùa khô là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành rừng cũng như năng suất rừng. Trong thời gian gần đây, gắn liền với đòi hỏi thực tiễn sản xuất, việc nghiên cứu đất rừng đã đi theo hướng sử dụng đất đai (Land use). Trước hết, đó là sự đánh giá phân hạng đất đai cho một loại rừng trồng, như Rừng Bồ Đề (Hoàng Xuân Tý, 1978), rừng Thông ba lá (Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế, 1983,1990), rừng Thông nhựa (Ngô Đình Quế, 1985), Tre luồng ( Nguyễn Ngọc Bình, Đàm Danh Liêm, 1975-1980), rừng Bồ Đề (Nguyễn Ngọc Bình, 1968; Hoàng Xuân Tý, Nguyễn Đức Minh, 1980), rừng Hồi (Nguyễn Ngọc Bình, 1980). Một vấn để mới trong công tác đánh giá đất đai là ứng dụng các phần mềm tin học như GIS, Mapinfor, Microstation trên máy vi tính để xây dựng các bản đồ đánh giá tiềm năng sử dụng đất trong lâm nghiệp của tác giả Đỗ Đình Sâm và các cộng sự (1995). Phương pháp này cho phép lợi dụng các thông tin sẵn có và có ý nghĩa thực tiễn là mang tính chiến lược và dự báo.
  18. 15 Năm 1997, Ngô Đăng Duyên trong luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp tiến hành phân hạng đất trồng Tếch ở ĐakLak, tác giả đã đề xuất sử dụng các chỉ tiêu là pHKCl và độ no bazơ làm các chỉ tiêu chính trong phân hạng. Đây là các yếu tố chi phối nhiều đến sinh trưởng của loài cây này [10]. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Hà Quang Khải (1999) cho thấy tính chất đất ở xung quanh vùng rễ ở vị trí gần gốc và xa gốc của Keo Tai Tượng và Thông Mã Vĩ là khác nhau. Những chỉ tiêu sinh trưởng Hvn, D1.3 của hai đối tượng nghiên cứu có tương quan với các chỉ tiêu của đất trong khu vực nghiên cứu một cách tổng hợp chứ không phải riêng lẻ từng chỉ tiêu, trong đó sinh trưởng về đường kính ngang ngực D1.3 của cả Keo và Thông đều thể hiện tương quan với các tính chất của đất và mức độ tương quan chặt hơn so với sinh trưởng về chiều cao vút ngọn [18]. Năm 1998 – 2000, trong khuôn khổ đề tài cấp nhà nước “Nghiên cứu các vấn đề kĩ thuật lâm sinh nhằm thực hiện có hiệu quả dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và hướng tới đóng cửa rừng tự nhiên”, Ngô Đình Quế, Đỗ Đình Sâm và các cộng sự đã nghiên cứu xác định tiêu chuẩn phân chia lập địa (cấp vi mô) cho rừng trồng công nghiệp tại một số vùng sinh thái Việt Nam. Tác giả đã lựa chọn các yếu tố chủ đạo cho mỗi vùng cụ thể. Tuy nhiên việc ứng dụng phương pháp điều tra lập địa phải phụ thuộc vào điều kiện đặc thù của từng vùng, từng loài cây và yêu cầu của từng dự án. Năm 2001,Trần Hữu Dào trong luận văn tiến sĩ nông nghiệp cấp nhà nước đã tiến hành đánh giá hiệu quả đất trồng Quế thuần loài tại Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp kinh tế - kĩ thuật để phát triển nghề trồng Quế. Tác giả cho thấy các lâm phần Quế trồng thuần loài, chuyên canh đã có ảnh hưởng lớn và tác động tốt đối với môi trường sinh thái. Việc kinh doanh rừng Quế trồng thuần loài không làm cho đất xấu đi so với nơi trống , mà còn
  19. 16 ảnh hưởng tốt tới khả năng tăng độ phì cho đất, hàm lượng mùn, NPK dễ tiêu tương đối lớn [9]. Năm 2001, Vũ Tấn Phương khi nghiên cứu mối quan hệ giữa Keo lai với một số tính chất của đất cho thấy: Độ phì nhiêu của đất dưới rừng Keo lai tuổi 2 – 6 có sự cải thiện rõ rệt so với đối chứng, độ phì nhiêu của đất tăng khi tuổi rừng tăng. Hai tính chất vật lí đất là dung trọng và độ ẩm đất thay đổi theo hướng tích cực khi tuổi rừng tăng và càng rõ nét so với đối chứng, đặc biệt ở tầng đất từ 0 – 20cm. Tính chất hoá tính của đất chưa có sự thay đổi rõ nét khi tuổi rừng tăng, giữa nơi có rừng và nơi không có rừng, trừ hai yếu tố là hàm lượng mùn và đạm tổng số. Tuy nhiên, hàm lượng mùn tổng số lại có sự biến động mạnh hơn so với hàm lượng đạm tổng số và tỷ lệ thuận với tuổi rừng. Tác giả cũng chứng minh được mối quan hệ giữa hai đại lượng là mùn và đạm [25]. 1.1.3. Thảo luận: Qua việc tham khảo và nhìn nhận một số công trình nghiên cứu về Quế ở trong và ngoài nước cho thấy: có thể sử dụng nguồn là các công trình khác nhau về đối tượng nghiên cứu. Hiện nay, ở Việt Nam, Quế vẫn đang là một trong các loài cây đặc sản có giá trị kinh tế và giá trị xuất khẩu cao, đặc biệt là được nhân dân các tỉnh miền núi ưa chuộng trong cơ cấu cây trồng của mình. Chính vì thế, việc nghiên cứu về đất trồng Quế, mức độ thích ứng của Quế với các trạng thái đất khác nhau, từ đó đề xuất hướng sử dụng đất có hiệu quả đối với loài Quế là vấn đề cần thiết. 1.2. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 1.2.1. Đặc điểm hình thái: Quế là cây gỗ trung bình hay gỗ lớn, có thể cao từ 35 – 40m, đường kính thân có thể từ 60 - 80cm. Khi tuổi non vỏ thường nhẵn, khi già vỏ có màu nâu đến nâu sẫm, dày từ 0,4 – 0,6cm, cũng có thể bề dày đạt tới 1,5cm.
  20. 17 Lá mọc cách hoặc mọc đối, có 3 gân song song cả hai mặt, chạy từ đầu đến cuống lá. Phiến lá đơn nguyên hình bầu dục, trung bình dài từ 12– 15cm, rộng 5 - 7cm, mặt trên màu xanh đậm, nhẵn bóng, mặt dưới có lông. Hoa tự chuỳ ở nách lá hoặc gần ngọn màu trắng hay vàng nhạt. Quả hạch hình trứng đính trong chén thuỳ hoặc không, dài từ 1- 1,5cm, quả Quế là dạng quả thịt, quả chưa chín có màu xanh lục, khi chín chuyển sang tím sẫm, có vị ngọt, rụng để lại dấu trên cây. 1.2.2. Đặc điểm sinh thái và vật hậu: 1.2.2.1. Yêu cầu về khí hậu, đất đai: Ở Việt Nam, Quế được trồng rộng rãi từ miền núi dọc biên giới phía Bắc đến các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên. Phân bố ở độ cao từ 200m ở phía Bắc đến 800m ở phía Nam, thích hợp ở những vùng có khí hậu ôn hoà, nhiệt độ từ 20 – 200C, ẩm độ không khí trên 85%, lượng mưa bình quân năm từ 2000 – 4000mm. Quế là cây trung tính, lúc nhỏ cần che bóng, từ năm thứ 3, thứ 4 trở đi thì ưa sang hoàn toàn. Quế là loài có thể sống theo phương thức thuần loài hoặc hỗn loài, sinh trưởng tốt trên các loại đất Feralit, đất đá vôi. 1.2.2.2. Đặc điểm vật hậu: Sau khi trồng từ 7 – 8 năm Quế mới ra hoa, kết quả. Năm có thời tiết nắng nhiều, tổng lượng nhiệt cao thì quả chín sớm hơn và ngược lại. Ở miền Bắc, Quế thường ra hoa vào tháng 2 đến tháng 3, kết quả vào tháng 4 - 5, quả chín từ tháng 12 âm lịch đến tháng 2 năm sau. Hạt Quế có dầu. Sản phẩm chính của cây Quế là vỏ. Một năm có hai mùa thu vỏ vào tháng 3 và tháng 8, trong đó vụ chính vào tháng 3. 1.2.3. Phân bố: Nước ta cây Quế mọc hỗn giao trong các khu rừng tự nhiên nhiệt đới ẩm, có phân bố từ Bắc vào Nam. Tuy nhiên, cho đến nay Quế tự nhiên hầu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2