Quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc từ năm 2018 đến năm 2023 và những vấn đề đặt ra
lượt xem 4
download
Bài viết "Quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc từ năm 2018 đến năm 2023 và những vấn đề đặt ra" tập trung phân tích sự cần thiết phải phát triển quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc và thực trạng quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc trong những năm qua; trên cơ sở đó chỉ ra những vấn đề cần giải quyết và những giải pháp cần thực hiện để mối quan hệ hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng đi vào ổn định, bền vững. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc từ năm 2018 đến năm 2023 và những vấn đề đặt ra
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2023 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2024 THÚC ĐẨY TỔNG CẦU ĐỂ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH MỚI 05. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2018 ĐẾN NĂM 2023 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ThS. Bùi Thu Huyền* Tóm tắt Trung Quốc là nước láng giềng của Việt Nam. Từ xa xưa, quan hệ ngoại giao, kinh tế, thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hình thành như một tất yếu khách quan. Những biến động về chính trị, xã hội trong lịch sử và ở hiện tại có thể ảnh hưởng tiêu cực nhưng chưa bao giờ làm triệt tiêu hoàn toàn mối quan hệ giữa hai nước. Trong chặng đường hơn 7 thập niên, kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao (năm 1950) đến nay, hợp tác luôn là dòng chảy chính trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Từ khóa: quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc, thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Quan hệ thương mại giữa các quốc gia là một quá trình tất yếu, có lịch sử phát triển lâu dài. Nguồn gốc của quan hệ thương mại xuất phát từ nhu cầu lao động và sự phát triển văn minh trong mối quan hệ giữa con người với con người. Bản chất của quan hệ thương mại là việc trao đổi hàng hóa giữa các nước, hoạt động này đã trở thành nhu cầu tất yếu nhằm phát triển hoạt động thương mại quốc tế nói chung và phát triển kinh tế của từng quốc gia nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế quốc tế hiện nay, quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc đã trở thành một trong những yếu tố không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế của hai quốc gia. Hoạt động này giúp cả hai quốc gia khai thác tối đa lợi thế riêng có của mình để sản xuất hàng hóa, đồng thời khai thác lợi thế sản xuất hàng hóa của các quốc gia khác để gia tăng hiệu quả kinh tế trong nền kinh tế thị * Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì 93
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA trường. Bài viết này tập trung phân tích sự cần thiết phải phát triển quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc và thực trạng quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc trong những năm qua; trên cơ sở đó chỉ ra những vấn đề cần giải quyết và những giải pháp cần thực hiện để mối quan hệ hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng đi vào ổn định, bền vững. 2. NỘI DUNG 2.1. Sự cần thiết phải phát triển quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc Thực tế đã chứng minh rằng, con người muốn tồn tại và phát triển phải có mối liên kết chặt chẽ với nhau. Trên phạm vi quốc tế, một quốc gia muốn phát triển phải liên kết với các quốc gia khác. Đối với các quốc gia có chung đường biên giới, việc củng cố và nâng cao hiệu quả quan hệ thương mại có ý nghĩa hơn rất nhiều. Thực tế cho thấy, việc thiết lập quan hệ thương mại với các nước có chung biên giới không chỉ giúp phát triển kinh tế của nước sở tại mà còn giúp ổn định chính trị và tạo lập mối quan hệ láng giềng hữu hảo. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, việc phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc, một nước lớn có chung đường biên giới là thuận với xu thế quốc tế, phù hợp với đường lối đối ngoại “muốn làm bạn với tất cả các nước” của Việt Nam nhằm tạo ra môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững an ninh, biên giới quốc gia. Đồng thời, góp phần củng cố mối quan hệ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” mà Tổng Bí thư của hai Đảng Cộng sản đã đề ra và phù hợp với chính sách đối ngoại của hai nước “hòa thuận với láng giềng, giàu có với láng giềng, an ninh với láng giềng”. Trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, quan hệ thương mại hàng hóa đã có từ rất lâu và chiếm tỷ trọng lớn, chi phối quy mô, mang lại giá trị kinh tế cao cho cả hai nước. Đối với Việt Nam, Trung Quốc là nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông”, có nền kinh tế quy mô lớn tăng trưởng mạnh. Sự phát triển kinh tế của Trung Quốc có ảnh hưởng rất lớn tới Việt Nam thông qua hoạt động thương mại hàng hóa. Trong lĩnh vực nông nghiệp, kể từ khi chính thức bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, nông nghiệp của Việt Nam đã phát triển và đạt một số thành tựu như: tăng cường trao đổi hàng hóa nông, lâm, hải sản với Trung Quốc hiệu quả, nhất là nguyên liệu cao su. Trung Quốc là thị trường khá dễ tính, không đòi hỏi chất lượng quá cao nên có vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam cũng nhập được nhiều thiết bị, vật tư, giống cây trồng, vật nuôi cần thiết cho nông nghiệp trong nước. Việc trao đổi này không đòi hỏi ngoại tệ mạnh, thời gian mua bán nhanh, thuận tiện cho việc đưa sản phẩm vào sử dụng. Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc rất nhiều sản phẩm như: máy móc, thiết bị, hóa chất, các phương tiện vận tải, công nghệ phục vụ cho một số lĩnh vực sản xuất công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng… Ngoài ra, còn có máy móc nông nghiệp và chế biến lâm sản, nông sản, thiết bị cho sản xuất xi măng lò đứng và cho máy móc ngành dệt, thiết bị, máy móc sản xuất phân bón và các loại máy phát điện cỡ nhỏ... Các thiết bị, 94
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2023 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2024 THÚC ĐẨY TỔNG CẦU ĐỂ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH MỚI máy móc của Trung Quốc dù công nghệ chưa phải là mới nhất và tiên tiến nhất nhưng có giá thành rẻ, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất của Việt Nam. Đây cũng là áp lực cạnh tranh đối với các ngành công nghiệp trong nước. Khi hàng hóa của Trung Quốc vào Việt Nam vừa chất lượng, vừa tốt, vừa rẻ, hợp lý với người tiêu dùng, trong khi đó, hàng hóa Việt Nam tính tổng lợi ích cũng chưa thể bằng hàng Trung Quốc. Vì vậy, để bán được hàng ngay trong nước mình thì buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải sản xuất hàng hóa có chất lượng cao hơn, giá rẻ hơn; hay nói cách khác, nó đã tạo áp lực cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh. Đối với Trung Quốc, Việt Nam không những là thị trường có hơn 100 triệu dân mà còn là cầu nối với cả thị trường Đông Nam Á về đường bộ cũng như đường biển. Trung Quốc hiện có chiến lược phát triển kinh tế vùng “Đại Tây Nam” và ý tưởng hợp tác kinh tế quanh vùng “Vịnh Bắc Bộ”. Do vậy, Việt Nam là một đối tác giao lưu hợp tác kinh tế không thể thiếu của Trung Quốc. Phát triển quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ thúc đẩy nhiều lĩnh vực khác của Trung Quốc phát triển như du lịch và các ngành bổ trợ cho lĩnh vực này, từ đó đem lại lợi ích kinh tế cao. Việc phát triển quan hệ thương mại hàng hóa với Việt Nam cũng góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động xã hội của Trung Quốc, tạo thêm những ngành nghề mới, góp phần giải quyết việc làm cho lao động của Trung Quốc. Tóm lại, do có lợi thế về vị trí địa lý nên việc giao thương hàng hóa giữa hai nước sẽ giảm bớt được chi phí trung gian, hạ giá thành sản phẩm, từ đó thúc đẩy nhu cầu trao đổi hàng hóa, mở đường cho thương mại hàng hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy tiềm năng phát triển kinh tế của hai quốc gia vì mục tiêu tăng trưởng bền vững và ổn định. Đây cũng là chủ trương lớn của lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế, ngoại giao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hai bên. 2.2. Thực trạng quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc từ năm 2018 đến năm 2023 2.2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều Việt Nam - Trung Quốc Từ năm 1991, Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết hiệp định bình thường hóa quan hệ thương mại giữa hai bên. Kể từ đó cho đến nay, quan hệ thương mại, nhất là thương mại hàng hóa giữa hai nước được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Những năm đầu của thế kỷ 21, Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục duy trì mối quan hệ song phương, là những đối tác thương mại quan trọng trong khối ASEAN. Trên bình diện quốc tế, Việt Nam luôn ủng hộ và giúp đỡ Trung Quốc một cách tích cực. Với tư cách là một quốc gia độc lập, Việt Nam ủng hộ quan điểm Đài Loan là một bộ phận lãnh thổ không thể chia cắt của Trung Quốc và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn Trung Quốc. Với tư cách là thành viên của ASEAN, Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trở thành nước đối ngoại đầy đủ của ASEAN, đồng thời tích cực thúc đẩy sự hợp tác giữa ASEAN với Trung Quốc. Hoạt động này của Việt Nam đã giúp quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục duy trì trên đà tăng trưởng. 95
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Năm 2018, Trung Quốc trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, đây cũng là năm Việt Nam chính thức là thành viên của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Điều đó tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài. Cũng trong năm 2018, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt mốc 480,16 tỷ USD (kim ngạch xuất khẩu là 243,48 tỷ USD; kim ngạch nhập khẩu là 236,68 tỷ USD) tăng gấp 1,13 lần so với năm 2017. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc đạt 106,69 tỷ USD, gấp 1,14 lần so với năm 20171. Tuy nhiên, cán cân thương mại vẫn ở mức âm. Hình 1. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 2018 - tháng 5/2023 Đơn vị tính: tỷ USD 400 300 200 100 0 -100 Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Trung Quốc Kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc về Việt Nam Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc Cán cân thương mại Việt Nam - Trung Quốc Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam Năm 2019, kim ngạch xuất nhập khẩu có tăng trưởng nhưng không đáng kể, đạt 517,26 tỷ USD (kim ngạch xuất khẩu là 264,19 tỷ USD, tăng 8,5% so với năm 2018; kim ngạch nhập khẩu là 253,07 tỷ USD, tăng 6,9% so với năm 2018). Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc đạt 111,86 tỷ USD, gấp 1,095 lần so với năm 2018, trong đó kim ngạch xuất khẩu là 41,41 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu là 84,19 tỷ USD. Năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 545,35 tỷ USD, tăng 5,4% so với năm 2019; trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 282,65 tỷ USD, tăng 7% so với năm 2019 và kim ngạch nhập khẩu đạt 262,7 tỷ USD, tăng 3,8%. Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước bị hạn chế, kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc chỉ đạt 48,91 tỷ USD, tăng 18,1% so với năm 2019; kim ngạch nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc là 84,19 tỷ USD, tăng 11,6% so với năm 2019. Cán cân thương mại vẫn ở mức âm. 1 https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/10-su-kien-tieu-bieu-nam-2018-cua-viet-nam-559463 96
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2023 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2024 THÚC ĐẨY TỔNG CẦU ĐỂ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH MỚI Bước sang năm 2021, mặc dù dịch bệnh Covid-19 bùng phát trở lại nhưng Việt Nam và Trung Quốc vẫn duy trì quan hệ song phương, vừa phòng chống dịch bệnh, vừa mở cửa trao đổi hàng hóa, nhờ đó kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng trưởng khá cao, đạt 669,15 tỷ USD (kim ngạch xuất khẩu là 336,31 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu là 332,84 tỷ USD), tăng 22,7% so với năm 2020. So sánh giữa Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam vẫn nhập từ Trung Quốc nhiều hơn là xuất, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 165,88 tỷ USD (kim ngạch xuất khẩu là 56,01 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu là 109,87 tỷ USD), tăng 24,62% so với năm 2020. Vấn đề mất cân bằng trong thương mại giữa hai nước ngày càng bộc lộ rõ nét. Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề nhập siêu trong thương mại với Trung Quốc và đã cố gắng tăng xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc để cân bằng cán cân thương mại, tuy nhiên, cơ cấu hàng xuất khẩu không có sự thay đổi lớn, chủ yếu là hàng nông sản vì hàng công nghiệp của Việt Nam vẫn chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, đến hết tháng 5/2023, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc đều giảm. Cụ thể: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 65,41 tỷ USD (trong đó, kim ngạch xuất khẩu là 23,32 tỷ USD, giảm 6,7% so với 5 tháng đầu năm 2022, kim ngạch nhập khẩu là 41,19 tỷ USD, giảm 17,5% so với 5 tháng đầu năm 2022).1 Việc xuất nhập khẩu giảm xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn do hậu quả của đại dịch, nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm, các hoạt động giao thương giảm, trên thế giới và khu vực nhiều công ty bị giải thể.2 2.2.2. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc Từ năm 2018 đến năm 2020, kết cấu thương mại hàng hóa giữa hai nước thay đổi không lớn, Việt Nam chủ yếu cung cấp nguyên liệu và nông sản thô cho Trung Quốc như: khoáng sản, cao su, xơ sợi… Mặt hàng này chiếm 51,5%; còn hàng tiêu dùng như: rau quả, thủy sản, gạo, sắn… chiếm 22,4%. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường Trung Quốc chiếm bình quân 28,16% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Năm 2020, Trung Quốc là đối tác thương mại, thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Cũng trong năm 2020, Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn thứ 6 của Trung Quốc, tăng 2 bậc so với năm 2019. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu đã có sự thay đổi. Trong quan hệ thương mại, Việt Nam chủ yếu đóng vai trò cung cấp nguyên liệu và nông sản thô cho Trung Quốc và nhập các sản phẩm công nghiệp như: máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; điện thoại các loại và phụ tùng; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; vải; sắt thép; xăng dầu... Những mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc về Việt Nam. Liên tục trong nhiều năm qua, Trung Quốc luôn ở vị trí dẫn đầu về cung cấp máy móc, thiết bị cho Việt Nam và cũng là thị trường lớn để Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm nông sản nhiệt đới, thủy sản, dệt may và các sản phẩm công nghiệp... 1 Tổng cục Hải quan (2023), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam 5 tháng đầu năm 2023. 2 https:// thesaigontimes.vn/vi-sao-xuat-nhap-khau-hang-hoa-viet-nam-giam-trong-thang-dau-nam 97
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Năm 2022, Việt Nam có 13 nhóm hàng xuất khẩu sang Trung Quốc đạt kim ngạch gần 1 tỷ USD, trong đó có hai nhóm hàng trên 10 tỷ USD. Riêng nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đạt 16,3 tỷ USD, tăng 7,37% so với năm 2021. Sau đó đến nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 11,9 tỷ USD, chiếm 7,31% so với năm 2021.1 Một số hàng hóa xuất khẩu khác như: máy ảnh, máy quay phim và linh kiện, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng, cao su, gỗ, sản phẩm từ gỗ, giầy dép các loại, thủy sản chiếm tỷ trọng cao. Tuy nhiên, một số các mặt hàng như xơ sợi dệt các loại, hàng rau quả, sắn, hàng dệt may và một số hàng hóa khác kim ngạch xuất khẩu lại giảm. Hình 2. Các mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc trong năm 2021 và năm 2022 Đơn vị tính: tỷ USD Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam Cũng trong năm 2022, Việt Nam có tới 14 nhóm hàng nhập khẩu từ Trung Quốc có kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó có 2 nhóm hàng đạt trên 20 tỷ USD. Nhóm hàng lớn nhất là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng có kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc là 24,3 tỷ USD, giảm hơn 2,5% so với năm 2021. Nhóm hàng lớn thứ hai là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện với 24,1 tỷ USD, nhóm hàng này lại tăng 10,2% so với năm 2021.2 Ngoài ra, một số hàng hóa như: vải, điện thoại và các linh kiện, các sản phẩm từ sắt thép, nguyên phụ liệu dệt, may, da, giầy, hóa chất, chất dẻo nguyên liệu, kim loại thường, dây điện, dây cáp điện và một số hàng hóa khác chúng ta cũng phải nhập từ Trung Quốc. Liên tục trong những năm qua, Trung Quốc luôn ở vị trí dẫn đầu về cung cấp máy móc, thiết bị cho Việt Nam. 1 https:// trungtamwto.vn/ file/22356/bao-cao-xuat-nhap-khau-viet-nam-nam-2022.pdf. 2 https:// trungtamwto.vn/ file/22356/bao-cao-xuat-nhap-khau-viet-nam-nam-2022.pdf. 98
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2023 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2024 THÚC ĐẨY TỔNG CẦU ĐỂ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH MỚI Hình 3. Các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc trong năm 2021 và năm 2022 Đơn vị tính: tỷ USD Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam 2.2.3. Thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng có nét tương đồng về kinh tế, văn hóa, xã hội. Từ khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ vào năm 1991 tới nay, quan hệ thương mại qua biên giới giữa hai nước đã không ngừng phát triển, góp phần tích cực vào phát triển quan hệ, hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực giữa hai nước. Đây cũng là đòi hỏi tất yếu trong quá trình mở rộng và phát triển kinh tế hai nước trong bối cảnh Việt Nam hội nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Trung Quốc đang trên đường trở thành một trong những quốc gia phát triển nhất thế giới. Đến nay, hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc diễn ra tại 7 tỉnh miền núi biên giới phía Bắc của Việt Nam, nơi có 7 cửa khẩu quốc tế, 6 cửa khẩu song phương, 21 cửa khẩu phụ, 37 lối mở biên giới được tiến hành chủ yếu theo các hình thức: chính ngạch, buôn bán qua biên giới, tạm nhập tái xuất, quá cảnh, chuyển khẩu, kho ngoại quan, trao đổi hàng hóa giữa cư dân biên giới hai nước. Các mặt hàng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc từ trước đến nay rất phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều chủng loại khác nhau, từ hàng nông, lâm, thủy, hải sản tươi sống đến các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp, từ hàng nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất đến các sản phẩm cao cấp như: máy móc, thiết bị điện tử. Chất lượng của các hàng hóa cũng rất khác nhau, có loại đạt tiêu chuẩn quốc gia và địa phương nhưng cũng có loại chưa được đánh giá về phẩm cấp, nhất là hàng hóa xuất nhập khẩu theo đường tiểu ngạch và trao đổi ở chợ biên giới. Nhìn chung, mặt hàng Việt Nam xuất qua biên giới chủ yếu vẫn là nông lâm sản như: cao su và các sản phẩm từ cao su, sắn lát và tinh bột sắn, thóc, gạo, đường, gừng, chuối xanh, khoai lang, thanh long, vải, dưa hấu, thủy sản, gỗ ván bóc…; hàng nhập khẩu chủ yếu gồm: máy móc, thiết bị, điện năng, phân bón các loại, than cốc, nguyên liệu lá thuốc lá, trái cây tươi... Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu mậu biên năm 2018 đạt 21,43 tỷ USD 99
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA (xuất khẩu đạt 8,82 tỷ USD và nhập khẩu đạt 12,61 tỷ USD), chiếm 20,1% kim ngạch xuất nhập khẩu Việt - Trung (xuất khẩu chiếm 21,4% và nhập khẩu chiếm 19,3%). Năm 2019, tổng giá trị xuất nhập khẩu đạt 24,85 tỷ USD, tăng 16,0% so với năm 2018, trong đó xuất khẩu đạt 9,2 tỷ USD, tăng 4,4%; nhập khẩu đạt 15,65 tỷ USD, tăng 24,1%. Năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 28,7 tỷ USD, tăng 15,5% so với năm 2019. Trong đó, xuất khẩu đạt 9,24 tỷ USD, tăng 0,34%; nhập khẩu đạt 19,46 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2019. Sự phát triển của thương mại biên giới đã góp phần gia tăng, thúc đẩy kênh giao lưu hàng hóa giữa hai nước. Bộ mặt thị trường miền núi, vùng cao, biên giới nhờ đó cũng khởi sắc. Thương mại hàng hóa phát triển góp phần tạo thêm nhiều công ăn việc làm, thu nhập và sức mua dân cư nhờ đó cũng được nâng lên. Cơ cấu kinh tế - xã hội các tỉnh vùng cao biên giới từng bước có nhiều chuyển dịch theo hướng tích cực, tạo sức hấp dẫn, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI). Đối với Việt Nam, quá trình thực hiện thương mại hàng hóa qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc đã tác động tới sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội khu vực phía Bắc, làm gia tăng ngân sách nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế, giảm bớt khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện cho các tỉnh vùng biên cải thiện tình hình kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự ra đời của một số trung tâm kinh tế quan trọng, đời sống Nhân dân các tỉnh miền núi biên giới phía Bắc được cải thiện rõ rệt, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho Nhân dân. Sự giao lưu về kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc đã góp phần thúc đẩy và tăng cường tình hữu nghị giữa Nhân dân hai nước, tạo điều kiện giữ gìn an ninh biên giới quốc gia. Đến nay, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp tăng, một số mặt hàng nông nghiệp và dầu thô giảm; Trung Quốc hiện vẫn là thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào thương mại song phương giữa hai nước. Xét một cách toàn diện, quan hệ thương mại biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm qua đã đạt được những thành tựu nhất định. Kim ngạch xuất khẩu hai nước tăng trưởng mạnh mẽ, ngân sách các tỉnh biên giới phía Bắc cũng tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là ở các tỉnh có cửa khẩu thì khối lượng buôn bán lớn như: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai. Việc mua bán và trao đổi hàng hóa giữa hai nước ở vùng biên giới đã tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch kinh tế ở một số vùng biên giới. Ở những vùng có cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu quốc gia, có hệ thống giao thông thuận lợi đã phát triển mạnh dịch vụ thương mại như: chở khách và vận chuyển hàng hóa bằng các phương tiện cơ giới và bằng sức người, góp phần làm tăng tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của các tỉnh biên giới. Một số vùng đã có sự chuyển đổi tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa, hình thành nguồn nguyên liệu tập trung như: vùng chè, cam, quýt… Chăn nuôi cũng có bước phát triển, nhiều vật nuôi mới được phát triển như: dê sữa, bò lai, giống lợn ngoại, gà công nghiệp…, bước đầu hình thành vùng chăn nuôi tập trung, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngành công nghiệp chế biến. Bên cạnh đó, một số ngành tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ như: sản xuất hàng mây tre đan xuất khẩu, đồ gốm sứ, đồ gỗ gia đình… cũng phát triển, đây là những ngành hàng đang khó khăn 100
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2023 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2024 THÚC ĐẨY TỔNG CẦU ĐỂ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH MỚI về thị trường tiêu thụ. Đồng thời, thông qua trao đổi hàng hóa giữa hai nước đã phát triển các loại hình dịch vụ như: tạm nhập tái xuất, quá cảnh, đổi tiền, du lịch…, góp phần cải thiện cơ cấu hàng hóa trao đổi giữa hai nước, tăng giá trị hàng công nghiệp chế biến, thúc đẩy kim ngạch trao đổi hàng hóa không ngừng phát triển, từng bước thu hẹp khoảng cách nhập siêu. Đối với Trung Quốc, thông qua hoạt động thương mại hàng hóa vùng biên với Việt Nam đã giúp Trung Quốc tiêu thụ được một khối lượng lớn hàng hóa; đồng thời, Trung Quốc cũng nhập khẩu được rất nhiều nguyên, nhiên liệu thô, sơ chế để phục vụ cho sản xuất trong nước. Lợi ích thu được từ hoạt động thương mại hàng hóa với Việt Nam đã làm cho đời sống tinh thần và vật chất của Nhân dân các tỉnh biên giới Trung Quốc được cải thiện nhanh chóng, tình trạng đói nghèo tại vùng núi, vùng sâu, vùng xa được đẩy lùi. Tóm lại, ở vị trí thuận lợi, giáp ranh với Trung Quốc, thị trường hơn một tỷ dân là một điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế mà Việt Nam phải tận dụng, nhưng đồng thời cũng là thách thức lớn khi Trung Quốc đang là công xưởng của thế giới vì họ có khả năng sản xuất ra hàng hóa với chi phí thấp, đa dạng về chủng loại và mẫu mã, có sức cạnh tranh cao thì hàng hóa của Việt Nam rất khó khăn để cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như khu vực và thế giới. 2.3. Một số giải pháp và những vấn đề đặt ra trong quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian tới Quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực. Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước luôn tăng qua các năm, nhưng cán cân thương mại lại không cân đối, Việt Nam luôn nhập siêu, cơ cấu mặt hàng trao đổi, buôn bán của Việt Nam sang Trung Quốc cũng có sự thay đổi qua từng thời điểm khác nhau theo xu hướng tăng lên về số lượng và tỷ trọng. Tuy nhiên, có những mặt hàng kiểm soát được khi đem trao đổi nhưng cũng có những mặt hàng khó hoặc không kiểm soát được, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động thương mại giữa hai quốc gia trong tương lai. Vì vậy, việc tìm ra các giải pháp hay xác định được những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết trong quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc là vô cùng quan trọng. 2.3.1. Một số giải pháp trong quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian tới Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chính sách thương mại cho phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước. Hiện nay, Trung Quốc là một nước lớn đang phát triển rất nhanh và có sức hút toàn cầu, đây là cơ hội lớn đối với Việt Nam trong việc tham gia xuất khẩu các mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế. Tuy nhiên, để hoạt động thương mại giữa hai nước diễn ra theo đúng thông lệ quốc tế thì cơ quan chức năng của hai nước phải bổ sung và sửa đổi các cơ chế, chính sách thương mại liên quan đến hoạt động trao đổi hàng hóa giữa hai nước cho phù hợp với quy định của WTO. Việt Nam cần phải thực hiện cải cách hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa với Trung Quốc, 101
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA đơn giản hóa các thủ tục quản lý xuất nhập khẩu, giảm thiểu các thủ tục không cần thiết, đặc biệt là các thủ tục thông quan nhằm tạo sự thông thoáng trong lưu thông hàng hóa, giảm ách tắc hàng hóa tại cửa khẩu. Trong thời đại công nghệ 4.0, hai nước cần áp dụng công nghệ thông tin vào bộ phận quản lý, điều hành hoạt động trao đổi hàng hóa để nắm bắt kịp thời những thông tin liên quan đến cung - cầu hàng hóa của mỗi nước, những thay đổi trong chính sách thương mại giữa hai nước, giúp các nhà quản lý và doanh nghiệp xuất nhập khẩu xử lý và điều chỉnh kịp thời hoạt động xuất nhập khẩu, giảm bớt rủi ro, tạo sự cân bằng trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Thứ hai, nâng cao năng lực tổ chức quản lý và điều hành hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc bằng cách phát huy vai trò của Hiệp hội ngành hàng để giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu trên thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý để tập hợp, liên kết các doanh nghiệp theo từng ngành hàng, hình thành các chuỗi ngành hàng mạnh để xuất khẩu sang Trung Quốc và các cơ quan chức năng phải hỗ trợ các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp trong ngành hàng giữa hai nước thiết lập các mối quan hệ buôn bán chặt chẽ. Thứ ba, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa giữa hai nước, từ đó thúc đẩy quan hệ thương mại hai nước phát triển. Muốn vậy, cả hai nước phải chú ý đến việc đầu tư nâng cấp hai tuyến đường sắt Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Việc cải tạo kỹ thuật đối với hai tuyến đường sắt phải được đặt trong khuôn khổ quy hoạch tổng thể hệ thống đường sắt toàn châu Á. Bên cạnh đó, cần nâng cấp mở rộng tuyến đường quốc lộ dẫn vào cửa khẩu chính, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh biên giới đến các trung tâm kinh tế tại thị trường nội địa như: Hà Nội, Hải Phòng, Côn Minh, Nam Ninh…, tạo điều kiện hơn nữa cho hàng quá cảnh tiếp cận nhanh chóng với hệ thống cảng biển Hải Phòng và Quảng Ninh. Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng thương mại tại các cửa khẩu và trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, đặc biệt là tại các cửa khẩu biên giới còn nhiều thiếu thốn và lạc hậu, chưa tương xứng với các cửa khẩu của Trung Quốc, không đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển thương mại hàng hóa với Trung Quốc. Tóm lại, phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc được coi là chính sách có tính chất lâu dài trong việc thực hiện chiến lược mở cửa với bên ngoài của mỗi nước. Quá trình trao đổi hàng hóa giữa hai nước đã thúc đẩy một số ngành phát triển, chuyển dịch cơ cấu ngành ở một số vùng biên giới, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng ở mỗi nước… Thông qua quan hệ thương mại, hai nước đã khai thác tối đa nguồn lực sẵn có trong nước và tận dụng các ưu đãi do quá trình mở cửa và hội nhập đưa lại, gắn chặt lợi ích kinh tế đầu tư với sự phát triển kinh tế, khiến thực lực kinh tế được tăng cường, từ đó nâng cao địa vị kinh tế của hai nước. Tuy nhiên, quan hệ thương mại giữa hai nước cũng gặp nhiều khó khăn như: vấn đề nhập siêu của Việt Nam đối với Trung Quốc, năng lực cạnh tranh hàng hóa chưa đồng đều, tình trạng buôn lậu, ô nhiễm môi trường tại khu vực cửa khẩu biên giới… có những khó khăn không thể tránh khỏi, nhưng cũng có những khó khăn có thể hạn chế được. Vì vậy, những giải pháp được đưa ra để phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước trong những năm tới là hết sức cần thiết. 102
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2023 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2024 THÚC ĐẨY TỔNG CẦU ĐỂ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH MỚI 2.3.2. Những vấn đề đặt ra trong quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian tới Hơn 70 năm qua, các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa và các mối quan hệ khác giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng phát triển toàn diện cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Đó là những hành lang pháp lý rất quan trọng, là cơ sở cho việc đẩy mạnh phát triển trong lĩnh vực kinh tế thương mại giữa hai nước và giữa các doanh nghiệp của hai quốc gia. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới và khu vực, trên cơ sở phân tích thực trạng quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian qua, đặc biệt là những giải pháp mang tính vĩ mô của Nhà nước, thì mối quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian tới còn có những vấn đề đặt ra mà Việt Nam sẽ phải lường trước để tránh những rủi ro và khó khăn mắc phải. Thứ nhất, Trung Quốc là một thị trường lớn, ổn định, có nhu cầu về nhiều mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế như: khoáng sản, nông sản và các nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất hàng tiêu dùng của Trung Quốc, do đó, Việt Nam phải tận dụng lợi thế này để chinh phục được thị trường với hơn một tỷ dân. Hơn nữa, giữa Việt Nam và Trung Quốc lại có lợi thế về vị trí địa lý, quan hệ hợp tác giữa hai bên đang ở vào thời kỳ đẩy mạnh, trong tương lai, Trung Quốc sẽ là nơi tập trung của các công ty hàng đầu thế giới về lĩnh vực điện tử, trí tuệ nhân tạo... Các yếu tố này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam với tư cách là nước láng giềng nhỏ hơn, trình độ phát triển thấp hơn có cơ hội để phát triển. Tuy nhiên, những điều kiện thuận lợi đó cũng là thách thức cạnh tranh rất lớn đối với Việt Nam, đòi hỏi Việt Nam phải tích cực đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu theo hướng xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng công nghệ và trí tuệ cao, xuất khẩu các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ hợp lý nhằm phát huy tối đa và có hiệu quả các lợi thế của đất nước. Tránh nguy cơ tụt hậu vì càng tụt hậu thì càng khó hợp tác, điều đó sẽ gây bất lợi cho Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển kinh tế đất nước. Thứ hai, Trung Quốc là một công xưởng lớn, là nơi tập trung các công ty và tập đoàn lớn của thế giới, là mạng lưới kết nối toàn cầu. Muốn hợp tác hiệu quả với Trung Quốc, Việt Nam phải tìm cách thâm nhập vào hệ thống kinh doanh toàn cầu, lựa chọn những ưu thế của mình để phát triển, tìm cách thâm nhập vào hệ thống kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia hoạt động trong lĩnh vực kinh tế của Trung Quốc, tham gia vào các chuỗi giá trị mang tính khu vực và toàn cầu. Việt Nam có thể tận dụng sự chuyển dịch sản xuất từ Trung Quốc và các nước trong khu vực về một số lĩnh vực như: dệt may, da giầy, điện tử, chế biến, nông sản... Tuy nhiên, yếu tố quyết định của sự tận dụng này là tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, cải thiện chất lượng lao động, tạo ra sự liên kết hiệu quả giữa các nhà sản xuất trong nước và đầu tư nước ngoài, cải cách hành chính, phát triển cơ sở hạ tầng. Thứ ba, Trung Quốc có tiềm lực kinh tế hùng mạnh, có năng lực cạnh tranh vượt trội so với Việt Nam, vì vậy, cần coi Trung Quốc là một thị trường hơn là một đối thủ cạnh tranh. Muốn vậy, Việt Nam phải nghiên cứu sự phát triển và đặc thù thị trường của Trung Quốc để làm khác với thị trường Trung Quốc, trên cơ sở đó mới có thể hợp tác kinh tế thương mại 103
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA hàng hóa với Trung Quốc (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông... đã thành công khi đi theo hướng này). Những lợi thế của Việt Nam về địa kinh tế và chính trị cần được tận dụng triệt để, hợp tác thay cho cạnh tranh, đối đầu và đối thủ. Thứ tư, hợp tác với Trung Quốc cần tính đến lợi ích thương mại với các đối tác khác, không xem lợi ích trước mắt với Trung Quốc mà bỏ mất cơ hội ở các thị trường khu vực và quốc tế. Muốn vậy, Việt Nam phải luôn quán triệt tinh thần thị trường Trung Quốc là một bộ phận của thị trường thế giới, phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc phải được xây dựng trên cơ sở thiết lập đối tác thương mại lâu dài và linh hoạt với các thị trường khác. Trong quan hệ thương mại hàng hóa với Trung Quốc, Việt Nam cần tính đến lợi ích tổng thể để có sự phối hợp hành động, nếu chỉ chạy theo lợi ích ngắn hạn cục bộ, Việt Nam sẽ rơi vào thế bị động, đánh mất cơ hội dài hạn, từ đó sẽ bị thiệt thòi với Trung Quốc. Thứ năm, phát triển quan hệ thương mại hàng hóa với Trung Quốc phải được thực hiện trên cơ sở đảm bảo an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ, xử lý tốt các vấn đề tranh chấp thương mại, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững vì hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là tài nguyên và sản phẩm có nguồn gốc đa dạng sinh học, nếu không quản lý tốt, chỉ chạy theo lợi ích trước mắt sẽ có nguy cơ suy thoái môi trường và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. 3. KẾT LUẬN Trung Quốc đang và tiếp tục là đối tác chiến lược thương mại quan trọng nhất của Việt Nam. Kim ngạch buôn bán song phương giữa hai nước không ngừng tăng kể từ khi Trung Quốc chính thức gia nhập WTO vào năm 2001. Đối với Việt Nam, quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng được củng cố và phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là từ khi hai bên cùng tham gia ký kết Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), hai nước ngày càng tăng cường hơn nữa sự hợp tác của mình với các chiến lược cụ thể như: “Một trục hai cánh”, “Hai hành lang một vành đai kinh tế”. Điều này giúp cho nền kinh tế của hai nước tăng trưởng nhanh hơn. Tuy nhiên, thông qua phân tích thực trạng quan hệ thương mại hàng hóa giữa hai nước từ năm 2018 đến nửa đầu năm 2023 có thể nhận thấy, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước đều tăng, cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng đa dạng, nhưng tình trạng nhập siêu của Việt Nam là quá lớn, Việt Nam đang bị phụ thuộc ngày càng nghiêm trọng vào thị trường Trung Quốc. Điều đó đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đối với nền kinh tế của Việt Nam. Muốn thoát khỏi tình trạng này, Việt Nam cần phải thực hiện tốt các giải pháp trong quan hệ thương mại hàng hóa với Trung Quốc như: hoàn thiện hệ thống chính sách thương mại cho phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc; phát huy vai trò của Hiệp hội ngành hàng giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao cạnh tranh, đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu lạc hậu và bất lợi cho Việt Nam, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam; đổi mới toàn diện và căn bản về cơ cấu kinh tế, từ đó chuyển đổi mô hình sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cấp cơ cấu xuất nhập khẩu hiện tại; tìm các giải pháp có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ở phân đoạn cao hơn, từ đó giảm nhập siêu với Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung, bắt kịp các nước phát triển khác trong khu vực và thế giới. 104
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2023 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2024 THÚC ĐẨY TỔNG CẦU ĐỂ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH MỚI TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo Quân đội nhân dân Việt Nam (2018), 10 sự kiện tiêu biểu năm 2018 của Việt Nam. Truy cập tại https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/10-su-kien-tieu-bieu-nam-2018-cua- viet-nam-559463 2. Bộ Công Thương (2022), Báo cáo xuất xuất nhập khẩu năm 2022. Truy cập tại https:// trungtamwto.vn/ file/22356/bao-cao-xuat-nhap-khau-viet-nam-nam-2022.pdf. 3. Đức Duy (2023), “Thương mại hai chiều Việt Nam - Trung Quốc vượt 11 tỷ USD tháng đầu năm”, Báo điện tử Vietnam+. 4. Dương Hưng (2023), “Gần 3 năm ‘siết’ biên giới, Việt Nam - Trung Quốc giao thương thế nào?”, Báo Tiền Phong điện tử. 5. Hà Yên (2022), Trung Quốc tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Truy cập tại https://thuongtruong.com.vn/news/trung-quoc-tiep-tuc-la-doi-tac-thuong-mai- lon-nhat-cua-viet-nam-75007.html 6. Mạnh Hùng (2022), Đưa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bước sang giai đoạn phát triển mới. Truy cập tại https://dangcongsan.vn/tieu-diem/dua-quan-he-viet-nam-trung-quoc- buoc-sang-giai-doan-phat-trien-moi-623044.html 7. Minh Quang (2023), Trung Quốc thặng dư thương mại 878 tỷ USD, Việt Nam đứng trong top 10 đối tác lớn nhất. Truy cập tại https://vietnambiz.vn/trung-quoc-thang-du-thuong- mai-878-ty-usd-viet-nam-dung-trong-top-10-doi-tac-lon-nhat-2023224144939944.htm 8. Ngọc Ánh (2023), Vì sao xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam giảm trong tháng đầu năm? Truy cập tại https:// thesaigontimes.vn/vi-sao-xuat-nhap-khau-hang-hoa-viet-nam-giam- trong-thang-dau-nam 9. Thái Bình (2023), “Xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc đạt hơn 175 tỷ USD”, Tạp chí Hải quan điện tử. 10. Tổng cục Hải quan (2023), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam 5 tháng đầu năm 2023. 11. Tổng cục Thống kê (2023), Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới quý II và cả năm 2023. Truy cập tại https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2023/06/tong- quan-du-bao-tinh-hinh-kinh-te-the-gioi-quy-ii-va-ca-nam-2023 12. Vũ Huy Hùng, Hoàng Vĩnh Thắng (2023), Quan hệ thương mại Việt - Trung: Một chặng đường nhìn lại. https://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh-sach/quan-he-thuong-mai-viet-- -trung--mot-chang-duong-nhin-lai--phan-1--5011.4050.html 105
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn