ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH

QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM – HOA KỲ THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SỸ

Ngƣời hƣớng dẫn: GS.TS. Nguyễn Thiết Sơn

Hà nội - 2005

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1 .................................................................................................. 7

TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM .............................................................................................................. 7

1.1. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ, SỰ TẤT YẾU TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP CỦA NƢỚC TA ... 7

1.1.1. Xu hƣớng cơ bản của nền kinh tế, thƣơng mại thế giới ............. 7

1.1.2. Định hƣớng phát triển thƣơng mại quốc tế vủa Việt Nam trong quá trình hội nhập ................................................................................... 11

1.1.3. Hoa Kỳ và vị thế của Hoa Kỳ trong nền kinh tế, thƣơng mại thế giới......................................................................................................... 14

1.1.4. Lợi ích của quan hệ thƣơng mại với Hoa Kỳ trong quá trình hội nhập của Việt Nam ............................................................................... 22

1.2. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC VỀ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG CỦA VIỆT NAM ..................................................................................... 24

1.2.1. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong khu vực có quan hệ thƣơng mại với Hoa Kỳ........................................................................ 24

1.2.2. Khả năng vận dụng của Việt Nam. ............................................ 30

CHƢƠNG 2 ................................................................................................ 32

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ ..................................................................................................... 32

2.1. THỰC TRẠNG THƢƠNG MẠI HAI CHIỀU TỪ KHI HOA KỲ BỎ CẤM VẬN ĐẾN TRƢỚC HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ (1994 - 2001) ............................................................... 32

2.1.1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá thời kỳ 1994 - 2001 ................ 33

2.1.2. Thực trạng nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 1994 -2001 ................ 37

123

2.2. HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI SONG PHƢƠNG VIỆT NAM - HOA KỲ VÀ QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ SAU KHI CÓ HIỆP ĐỊNH .............................................................................. 40

2.2.1. Tổng quan về Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ ........ 40

2.2.2. Ý nghĩa sự ra đời Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ 44

2.2.3. Tình hình quan hệ thƣơng mại hai chiều sau Hiệp định thƣơng mại......................................................................................................... 47

2.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ TRONG THỜI GIAN QUA .............................................................................................. 55

2.3.1. Những đổi mới trong chính sách thƣơng mại quốc tế của Việt Nam ....................................................................................................... 55

2.3.2. Những nhân tố thúc đẩy từ phía Hoa Kỳ .................................. 59

2.4. VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ ......................................... 61

CHƢƠNG 3 ................................................................................................ 67

TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ ..................................................................... 67

3.1. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM -HOA KỲ ....................................................................................... 67

3.1.1. Những cơ hội thuận lợi để phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam- Hoa Kỳ ........................................................................................ 68

3.1.2. Những khó khăn và thách thức trong phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ. .......................................................... 70

3.2. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CHUNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ. ........................................................................................................... 76

3.2.1. Phấn đấu gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trƣờng Hoa Kỳ. ............................................................................................................... 76

3.2.2. Nỗ lực giải quyết những hạn chế nhập khẩu đối với hàng hoá của Hoa Kỳ ........................................................................................... 79

124

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MAỊ VIỆT NAM - HOA KỲ. ................................................................................................. 82

3.3.1. Những quan điểm cơ bản về phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ ............................................................................... 82

3.3.2. Một số kiến nghị và giải pháp .................................................... 83

KẾT LUẬN ............................................................................................... 104

PHỤ LỤC 1 ............................................................................................... 106

Tài liệu trong nƣớc ................................................................................... 117

Tài liệu nƣớc ngoài, tài liệu điện tử ......................................................... 121

125

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài luận văn

Toàn cầu hoá kinh tế là một sự phát triển tất yếu khách quan, một xu

hướng bao trùm của sự vận động kinh tế thế giới ngày nay. Do tác động của

viễn thông, công nghệ và vốn, các hoạt động kinh tế và thương mại của mỗi

nước đã gia tăng mạnh mẽ, vượt ra khỏi biên giới quốc gia, liên kết trên một

chỉnh thể thị trường toàn cầu. Đồng thời với quá trình đó là sự hình thành và

hoàn thiện các định chế tổ chức kinh tế quốc tế tương thích nhằm quản lý và

điều hành các hoạt động kinh tế đã ngày càng lệ thuộc chặt chẽ giữa các quốc

gia và khu vực.

Với quan điểm chủ đạo của Đảng và Nhà nước ta là “đa phương hóa và

đa dạng hóa trên cơ sở công bằng lợi ích giữa các đối tác,... tận dụng mọi

khả năng để tăng mức xuất khẩu trên tất cả các thị trường đã có, song song

với việc đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện

còn chiếm tỷ trọng thấp, mở ra các thị trường mới và tích cực tăng cường tiếp

cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn” [10, P.III, M.II,C], thì Hoa Kỳ

đã trở thành một trong những trọng điểm quan trọng trong chiến lược phát

triển thương mại quốc tế của Việt Nam. Việc tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa

quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là nhu cầu bức thiết nhằm đa

dạng hóa thị trường, thúc đẩy xuất khẩu hướng tới một thị trường có tính ổn

định cao, và tiếp cận nhập khẩu "công nghệ nguồn". Hơn nữa, Hoa Kỳ còn là

một trong những nhà đàm phán lớn cho việc Việt Nam gia nhập WTO.

Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là Hoa Kỳ và Việt Nam có quá nhiều

điểm khác biệt không chỉ về chế độ chính trị, mà cả kinh tế, ngoại giao, chính

sách thương mại... Xét ở khía cạnh khác, trải qua 30 năm liên tục bị Hoa Kỳ

cấm vận đã làm cho thị trường Hoa Kỳ tuy hấp dẫn nhưng đầy mới mẻ, xa lạ

1

với Việt Nam. Hàng loạt chính sách, luật lệ phức tạp chưa được chúng ta

tìm hiểu, nắm bắt và cập nhật đầy đủ vì vậy các hoạt động kinh tế hai chiều

hàm chứa nhiều rủi ro.

Mặc dù vậy, vẫn phải khẳng định rằng kể từ khi bình thường hoá quan

hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ, quan hệ kinh tế, thương mại đã có bước

phát triển rất lớn, đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại song phương giữa

hai nước được ký kết vào cuối năm 2001. Hoa Kỳ cũng đã có những khoản

viện trợ cho Việt Nam, tuy không nhiều và phần lớn là phi Chính phủ.

Nói chung, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, quan hệ

kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ còn nhiều tồn tại, thách thức,

chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn của cả hai bên. Điều này cho

thấy việc nghiên cứu phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là rất

cần thiết. Đó cũng là lý do chúng tôi chọn đề tài: “Quan hệ thương mại Việt

Nam - Hoa Kỳ, Thực trạng và giải pháp” làm chủ đề nghiên cứu của luận

văn.

Đề tài được thực hiện nhằm luận giải cơ sở thực tiễn của việc phát triển

quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, trên cơ sở đó có những giải pháp

thích ứng để đẩy mạnh việc khai thác hiệu quả tiềm năng của cả hai bên, góp

phần làm căn cứ cho việc điều chỉnh các quan hệ buôn bán quốc tế cũng như

các chính sách thương mại của Việt Nam. Trong bối cảnh và xu hướng quốc

tế hoá hiện nay, việc nghiên cứu có hệ thống các vấn đề trên là rất cần thiết,

góp phần đáp ứng được những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, đưa Việt Nam hội nhập nhanh và hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và

khu vực.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong và ngoài nƣớc

Trong xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang phát triển như vũ bão

hiện nay, hợp tác kinh tế, thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế đang là

những vấn đề thực tiễn nóng bỏng, sôi động, được cả giới khoa học và chính

2

khách quan tâm. Do vậy quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại quốc tế của

Việt Nam với các nước, các khu vực nói chung và với Hoa Kỳ nói riêng

không phải là một chủ đề hoàn toàn mới. Việc nghiên cứu các vấn đề hợp tác

kinh tế, thương mại với Hoa Kỳ được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới,

song liên quan tới Việt Nam thì cho đến nay, chúng tôi chưa tiếp cận được đề

tài nghiên cứu nào được công bố - thực hiện ở nước ngoài, loại trừ một số

bài viết, tham luận ngắn dành cho các hội thảo, đăng trên các tạp chí, các kỷ

yếu, hoặc trong các báo cáo của một số tổ chức như STAR, USAID, WB,

IMF.... Ở trong nước, cũng đã có các công trình nghiên cứu vấn đề này,

nhưng chủ yếu nghiên cứu quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ nói chung,

những sự chuẩn bị để đi đến ký kết Hiệp định thương mại song phương hoặc

đề cập một cách tổng quát về chính sách và thị trường Hoa Kỳ. Một số công

trình có đề cập tới quan hệ mậu dịch hàng hoá hai nước song phần lớn được

xem như là một yêu tố cấu thành trong nghiên cứu tổng thể quan hệ kinh tế.

Có thể nêu một số công trình như: "Hợp tác và đấu tranh trong quan hệ giữa

Việt Nam và Hoa Kỳ hiện nay"- Viện quan hệ quốc tế- Học viện chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, 1998, "Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ"- TS Đỗ

Đức Định- NXB Thế giới 2000, "Tiếp cận thị trường Hoa Kỳ" - Bộ Thương

mại"- 2003. Đề tài cấp Bộ, "Việt nam - Hoa Kỳ, Quan hệ thương mại và đầu

tư" - Nguyễn Thiết Sơn - NXB KHXH, 2004..v.v..

Cho đến nay, chưa có nhiều công trình nhấn mạnh đến thực trạng quan

hệ thương mại hàng hoá giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sau khi Việt Nam và Hoa

Kỳ ký kết Hiệp định thương mại song phương và các giải pháp để phát triển

quan hệ này trong giai đoạn Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đặc

biệt từ cách tiếp cận của chuyên ngành kinh tế chính trị.

3

3. Mục đích nghiên cứu của luận văn

Luận văn hướng tới hai mục đích cơ bản sau:

- Thứ nhất, làm rõ tầm quan trọng của việc phát triển quan hệ thương

mại quốc tế nói chung và thương mại với Hoa Kỳ nói riêng trong bối cảnh

toàn cầu hoá và khu vực hoá trên cơ sở những điều kiện thực tế khách quan và

định hướng cơ bản của Đảng và Nhà nước ta.

- Thứ hai, nghiên cứu thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa

Kỳ dựa trên những động thái chính trị, kinh tế để từ đó đánh giá được thực

trạng, tìm ra các nguyên nhân cơ bản nhằm cải thiện quan hệ tương xứng với

khả năng và mong muốn của cả hai quốc gia. Từ đó đề xuất một số kiến nghị

về chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại Việt

Nam - Hoa Kỳ trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ thương mại giữa Việt

Nam và Hoa Kỳ trên cơ sở các động thái chủ quan và khách quan chi phối các

mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội; là các giải pháp nhằm thúc đẩy, phát

triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ trong xu hướng toàn cầu hóa và

khu vực hóa.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại của Việt Nam - Hoa Kỳ bao gồm

rất nhiều các hình thức phong phú, linh hoạt, đa dạng. Luận văn chỉ tập trung

nghiên cứu một lĩnh vực, được coi là một trong những động lực tăng trưởng

mạnh nhất của nền kinh tế Việt Nam hiện nay là thương mại hàng hóa.

4

Ngoài những nghiên cứu về vai trò và thực trạng của mối quan hệ, chủ đề

nghiên cứu bao gồm sự tăng trưởng kim ngạch xuất - nhập khẩu, vấn đề về thị

trường, hàng rào thương mại, cán cân thương mại...

Sự khảo cứu của luận văn được giới hạn trong khoảng thời gian từ năm

1995 đến nay và dự báo triển vọng tới năm 2010.

Những tư liệu thống kê, phân tích hoặc các so sánh ngoài đối tượng và

phạm vi nghiên cứu trên chỉ là những đối chứng cần thiết nhằm đảo bảo tính

logíc của luận văn.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử , kết hợp với quan điểm lý thuyết hệ thống hiện đại.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp,

thống kê, so sánh, phân loại và dự báo...

6. Những đóng góp của luận văn

- Luận văn làm rõ tầm quan trọng của sự phát triển quan hệ thương mại

giữa Việt Nam với Hoa Kỳ; phát hiện những nhân tố, những động lực thúc

đẩy, gắn kết nền kinh tế, thương mại Việt Nam hội nhập và phát triển cùng

với các nền kinh tế, thương mại trong khu vực và toàn thế giới.

- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng quan hệ thương

mại Việt Nam - Hoa Kỳ, triển vọng của mối quan hệ này qua những cơ hội,

những tồn tại và thách thức.

- Trên cơ sở đó, cùng với những kinh nghiệm tham khảo từ một số

nước trong khu vực có phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, xác định

những phương hướng và đưa ra những kiến nghị thích hợp nhằm phát triển

5

quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong xu hướng toàn cầu

hóa và khu vực hóa.

7. Kết cấu của luận văn

Tên luận văn: Quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Thực trạng

và Giải pháp

Bố cục luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo; nội dung

luận văn gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Tầm quan trọng của quan hệ thƣơng mại với Hoa Kỳ

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Chƣơng 2: Thực trạng phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam -

Hoa Kỳ.

Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển quan hệ thƣơng

mại Việt Nam - Hoa Kỳ

6

CHƯƠNG 1

TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI HOA KỲ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

1.1. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ, SỰ TẤT

YẾU TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP CỦA NƢỚC TA

1.1.1. Xu hƣớng cơ bản của nền kinh tế, thƣơng mại thế giới

a. Như một xu thế khách quan, toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế đang

diễn ra ngày một sôi động. Toàn cầu hoá là giai đoạn phát triển cao của quá

trình quốc tế hoá đời sống kinh tế. Theo UNCTAD, bản chất của toàn cầu hoá

là sự tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau

của tất cả các nước, các khu vực [62, tr. 23]. Toàn cầu hoá chỉ có thể được

giải quyết ở quy mô toàn cầu trên cơ sở hợp tác của các quốc gia, không phân

biệt trình độ phát triển, trình độ chính trị, xã hội. Do đó, có thể nói toàn cầu

hoá là một xu thế tích cực, phát triển như một thực tế khách quan của văn

minh nhân loại.

Do có vị trí đặc biệt trong nền kinh tế thế giới, chính sách của các trung

tâm kinh tế lớn đương nhiên có ảnh hưởng nhiều đến chiều hướng và nội

dung của quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát

triển, những mục tiêu và toan tính ban đầu của các cường quốc này dần trở

thành động lực khách quan, thúc đẩy sự tự do cạnh tranh trên quy mô rộng

lớn. Toàn cầu hoá kinh tế một mặt đưa đến sự hình thành một thị trường thế

giới tự do, một hệ thống tài chính, tín dụng toàn cầu, sự phát triển phân công

lao động quốc tế và mở rộng giao lưu kinh tế, khoa học công nghệ giữa các

quốc gia trên phạm vi toàn thế giới. Mặt khác, toàn cầu hoá làm gia tăng tính

tuỳ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế, có nhiều vấn đề trở thành vấn đề

chung của nhân loại, nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mang tính quốc tế...

7

Tất cả những đặc trưng đó của thế giới hiện đại đã nảy sinh nhu cầu hợp

tác đa dạng nhiều chiều, ổn định và bền vững đối với mọi quốc gia trên thế

giới. Nền kinh tế của mỗi dân tộc được đặt trong mối quan hệ ràng buộc, phụ

thuộc với nền kinh tế khu vực và thế giới.

Hội nhập kinh tế quốc tế có nghĩa là tham gia vào quá trình toàn cầu hoá

và khu vực hoá, tham gia vào hệ thống thương mại và tài chính quốc tế, hệ

thống phân công lao động quốc tế để phát huy tối đa lợi thế cá biệt; đồng thời

có cơ hội tận dụng các lợi thế khu vực, lợi thế từ bên ngoài. Mặt khác, chính

sự phân công lao động toàn cầu lại tạo ra một khuynh hướng cạnh tranh ngày

càng mạnh mẽ và khốc liệt. Sự cạnh tranh diễn ra trong mọi lĩnh vực, và đặc

biệt là trong các hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều đó buộc mọi quốc gia dù

thuộc mô hình và trình độ phát triển nào, cũng phải cải cách và chuyển đổi

tích cực để trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thế giới đang được

hình thành như một thể thống nhất. Thực tế đã cho thấy dù là một mô hình

kinh tế thị trường tự do với điển hình là Hoa Kỳ, hay mô hình thị trường xã

hội của các nước thành viên EU, hoặc mô hình thị trường hỗn hợp như Nhật

Bản thì cũng đang đều phải cải tổ lại một cách sâu sắc. Đồng thời, đây cũng là

thách thức lớn, buộc các nước đang phát triển phải có những đối sách thật phù

hợp, để không bị tuột dốc trong cuộc chiến kinh tế toàn cầu.

b. Khi đi sâu nghiên cứu về phân công lao động trong quá trình quốc tế

hoá đời sống kinh tế, chúng ta thấy sự phân công lao động quốc tế đang ngày

càng đi vào chiều sâu. Điều này là do có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học

công nghệ và hệ thống các công ty đa quốc gia. Quá trình phân công theo

ngành và theo sản phẩm đang được chuyển dần sang phân công theo chi tiết

và từng công đoạn của quy trình công nghệ. Khác biệt về điều kiện tự nhiên

không còn đóng vai trò quyết định trong phân công lao động quốc tế nữa, mà

8

khả năng về kỹ thuật và công nghệ đang dần dần trở thành yếu tố quan

trọng trong sự phân công lao động mới.

Cơ cấu ngành và cơ cấu địa lý của phân công lao động quốc tế cũng có sự thay đổi. Trước đây các nước khối Nam 1 thường tập trung vào những

ngành có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao trong khi các nước khối Bắc

phát triển những ngành thiên về hàm lượng vốn và công nghệ. Sự phân công

như vậy đã tạo tiền đề cho thương mại hàng hoá giữa Bắc và Nam. Tuy nhiên,

với triển vọng phát triển kinh tế "mềm", các nước khối Bắc sẽ đi dần vào các

sản phẩm có hàm lượng chất xám cao và các dịch vụ có nền móng là công

nghệ thông tin trong khi các nước khối Nam tiếp nhận vai trò cung ứng các

sản phẩm có hàm lượng công nghệ trung bình. Tỷ trọng của trục Bắc-Nam

trong thương mại hàng hoá quốc tế có thể sẽ giảm dần trước sự lớn mạnh của

trục Nam - Nam.

Trước diễn biến của sự phân công lao động quốc tế theo cả chiều rộng

lẫn chiều sâu, đòi hỏi mỗi quốc gia phải xác định vị trí của mình, xác định có

thể đảm nhiệm được khâu nào trong quá trình này, nhằm giành thế tích cực và

chủ động khi tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế.

c. Vừa là nguyên nhân lại vừa là kết quả của những xu hướng đang chi

phối đời sống thế giới nêu trên, thương mại quốc tế ngày càng có vai trò to

lớn đối với sự tăng trưởng kinh tế, chiếm một tỷ lệ đáng kể trong GDP của

các quốc gia. Một mặt, thương mại quốc tế là phương tiện để cung cấp các

yếu tố đầu vào cho nền sản xuất, quyết định khả năng và trình độ sản xuất của

một nước. Mặt khác, thương mại quốc tế là đòn bẩy của tăng trưởng kinh tế

theo nghĩa là phương thức để một ngành sản xuất có thể mở rộng quy mô của

mình tới mức tối ưu, để một quốc gia có khả năng và cơ hội khai thác tối đa

1 Các nước Nam: các nước đang phát triển, Các nước Bắc: các nước công nghiệp phát triển

lợi thế so sánh của mình.

9

Xét về sự phát triển cơ cấu ngành hàng, các ngành giàu hàm lượng

chất xám sẽ phát triển mạnh. Chu kỳ đổi mới công nghệ và sản phẩm được rút

ngắn, lợi thế so sánh của các quốc gia luôn thay đổi dẫn đến sự chuyển dịch

thường xuyên hơn về cơ cấu kinh tế. Đối tượng thương mại được mở rộng,

không chỉ bao gồm các sản phẩm hữu hình của nền sản xuất truyền thống mà

cả các sản phẩm vô hình như các sản phẩm dịch vụ, vốn và công nghệ; và các

sản phẩm của tri thức như quyền sở hữu trí tuệ và các sản phẩm khác.

Một đặc điểm đáng chú ý nữa trong quan hệ thương mại toàn cầu là sự

gia tăng mạnh của thương mại dịch vụ (vận tải, viễn thông, bảo hiểm, ngân

hàng...) so với thương mại hàng hoá. Điều này phản ánh sự thay đổi trong cơ

cấu tiêu dùng do ảnh hưởng của sự phát triển khoa học - công nghệ. Khái

niệm thương mại quốc tế hiện nay bao gồm sản phẩm "cứng", các Hiệp định

dịch vụ đi kèm và cả các sản phẩm trí tuệ hay còn gọi là các sản phẩm

"mềm".

e. Mặt khác, sự phát triển của khoa học và công nghệ sẽ còn tạo ra

những thay đổi căn bản về phương thức tiến hành thương mại trên phạm vi

toàn cầu. Mức độ phổ cập của mạng internet sẽ khiến tỷ trọng của thương mại

điện tử tăng rất nhanh và thông qua đó thay đổi một cách sâu sắc trong tư duy

kinh doanh, chiến lược tiếp thị cũng như phương thức kinh doanh của mọi

doanh nghiệp. Cùng với việc đem lại các cơ hội thị trường mới, thương mại

điện tử cũng sẽ làm cho quá trình cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Sự phát

triển đó đã, đang và sẽ làm suy giảm các lợi thế so sánh cổ điển như lợi thế tự

nhiên và giá lao động thấp mà lợi thế này hiện đang là một ưu thế quan trọng

của các nước đang phát triển. Thay vào đó là ưu thế so sánh của các nền kinh

tế dựa vào công nghệ tiên tiến và các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.

Chính vì vậy, thị trường thế giới vừa có thể là động lực, là môi trường

cho sự phát triển kinh tế lại vừa là thách thức đối với các nền kinh tế. Hơn ai

10

hết các quốc gia đang phát triển, đang trên con đường công nghiệp hoá

chịu sự ảnh hưởng rất nhiều của thương mại quốc tế trong định hướng phát

triển của mình.

f. Trong trật tự kinh tế thế giới hiện nay, Hoa Kỳ với thực lực kinh tế,

sức mạnh quân sự vẫn đang là một quốc gia chiếm ưu thế lớn nhất thế giới.

Bên cạnh đó, các nước EU, Nhật bản, Nga, Trung Quốc và nhiều nước khác

đang có những bước phát triển kinh tế mạnh mẽ sẽ là những đối tác có nhiều

tiềm năng.

Xét về sự năng động của quá trình tăng trưởng, theo dự báo của nhiều

chuyên gia nghiên cứu kinh tế có uy tín, có nhiều khả năng thế kỷ 21 là thế kỷ

của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Khu vực này hiện chiếm 24% sản

xuất của cả thế giới, đến năm 2010 có khả năng chiếm tới 35%. Trong thập kỷ

tới, khu vực này vẫn là khu vực năng động nhất về phát triển kinh tế, là khu

vực thu hút sự quan tâm chú ý của thế giới và là đối tượng tranh giành ảnh

hưởng của ba trung tâm kinh tế là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản.

Trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, các nước Đông Nam Á lại

đang trỗi lên nhanh chóng, trở thành tâm điểm cạnh tranh của các công ty

xuyên quốc gia. Tỷ trọng của các nước này trong GDP thế giới đã tăng từ

2,4% năm 1970 lên 5% năm 1995 và 5,7% vào năm 2000. Đến năm 2010

nhiều dự báo cho rằng các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam tiếp tục

đạt mức tăng trưởng kinh tế khá cao từ 7-9%/ năm.

1.1.2. Định hƣớng phát triển thƣơng mại quốc tế vủa Việt Nam

trong quá trình hội nhập

Đáp ứng những điều kiện khách quan của đời sống kinh tế thế giới hiện

đại, kể từ Đại hội VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương phát

triển một nền kinh tế mở theo nguyên tắc chung của thị trường thế giới. Đồng

11

thời nhấn mạnh chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, coi xuất

khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm trong kinh tế đối ngoại; khuyến khích

hoạt động hội nhập vào các tổ chức và diễn đàn khu vực, quốc tế với bước đi

thích hợp; khẳng định chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài

với các hình thức thích hợp... [21, tr. 90,94]

Cụ thể hoá tư tưởng trên, Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa VIII đã

đề ra những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể cho hoạt động kinh tế đối ngoại theo

hướng: “Tích cực, chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường thế giới”

[23,tr.3] thông qua các hoạt động:

1) Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho xuất khẩu, từ chính

sách tự do xuất khẩu đến hỗ trợ tài chính, thành lập các khu mậu dịch tự do,

khu chế xuất...;

2) Thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên

ngoài thông qua các hoạt động mở cửa thị trường trong nước, chính sách

khuyến khích tài chính và cải thiện môi trường đầu tư...;

3) Chủ động hội nhập vào các tổ chức khu vực và quốc tế thông qua

công tác chuẩn bị về tiềm lực cạnh tranh, về thể chế pháp lý và con người...

Tư tưởng chủ đạo này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng IX.

Theo tinh thần đó ngày 27/11/2001, Tổng bí thư đã ký ban hành Nghị

quyết số 07-NQ/TW của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó,

Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh

thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa....

Trong vấn đề phát triển thương mại với các nước trên thế giới, Đảng và

Nhà nước chỉ đạo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào

công việc nội bộ của nhau. Đổi mới và phát triển thương mại quốc tế trước

12

hết là phải xuất phát từ lợi ích của quốc gia dân tộc bao gồm cả lợi ích

chính trị, kinh tế. Mục tiêu của thương mại quốc tế là [10, P.II, M.II]:

+ Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh

CNH-HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; đảm bảo nhu cầu về hàng hoá

cho sản xuất và tiêu dùng thông qua các hình thức xuất nhập khẩu hàng hoá,

dịch vụ và sự giúp đỡ của quốc tế.

+ Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia

tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công

nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ;

+ Về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất,

nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến

tới cân bằng kim ngạch xuất - nhập khẩu;

+ Tăng cường phương thức kinh doanh theo hướng văn minh, hiện đại.

Tiếp cận những phương thức kinh doanh tiên tiến, nhất là thương mại điện tử,

hoàn thiện cơ chế thương mại phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định

hướng XHCN và quá trình hội nhập.

+ Mở rộng và đa dạng hóa thị trường. Hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu

vực và thế giới.

Để thực hiện các mục tiêu chiến lược trên đây, cần phải tiến hành đồng

bộ nhiều hoạt động, mà một trong những hoạt động đó là chiến lược phát triển

thị trường. Theo dự báo của Bộ thương mại Việt Nam, tỷ trọng của các thị

trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới (2010) như sau:

Châu Á : 46 - 50%

Nhật bản: 17 - 18%

ASEAN: 15 - 16%

Trung Quốc, Đài Loan, Hồng kông: 14 - 16%

Châu Âu: 27 - 30%

13

EU: 25 - 27%

SNG và Đông Âu: 3 - 5%

Bắc Mỹ (chủ yếu là Hoa Kỳ): 15 - 20%

Australia và New Zealand: 5%

Trước mắt, định hướng phát triển thị trường của Việt Nam tập trung vào

những thị trường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch thương mại thế

giới- những thị trường chắc chắn ảnh hưởng đến quy mô và nhịp độ xuất nhập

khẩu của nước ta như: Hoa Kỳ, EU và một số nước Châu Á.

1.1.3. Hoa Kỳ và vị thế của Hoa Kỳ trong nền kinh tế, thƣơng mại thế

giới

1.1.3.1. Tiềm lực của Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là một quốc gia hùng mạnh cả về kinh tế, chính trị, quân sự,

khoa học công nghệ và tài chính...Về tiềm lực kinh tế, kể từ 1991 cho đến

nay, liên tục GDP của Hoa Kỳ chiếm khoảng 30,0% GDP toàn cầu, với con

số tuyệt đối năm 2000 là 10.000 tỷ USD (GDP năm 2000 cả thế giới là 33.110

tỷ USD). Trong danh sách 500 công ty đa quốc gia lớn nhất hành tinh thì có

hơn 300 công ty mang quốc tịch Hoa Kỳ. Các chuyên gia kinh tế dự báo đến

năm 2020, Hoa Kỳ vẫn là siêu cường duy nhất trên thế giới. [51, tr.240, 385]

Bảng 1: Vị trí cuả Hoa Kỳ trong nền kinh tế thế giới (% trong GDP thế giới)

1971-1980

1981-1990

1991-2000

2000

Hoa Kỳ

16,8

19,4

28,4

30,6

EU

17,4

18,4

30,3

28,0

Nhật bản

5,8

9,0

15,9

14,0

Nguồn: Kinh tế tài chính thế giới, NXB Tài chính, 2/2000

Hiện tại, nền kinh tế Hoa Kỳ đã phát triển ở mức rất cao. Trong nhiều

ngành quan trọng, các nhà sản xuất Hoa Kỳ có khả năng cạnh tranh hơn bất

14

kỳ đối thủ nào khác. Hoa Kỳ đã theo đuổi chính sách tự do hoá thương

mại và đầu tư toàn cầu kể từ nhiều thập kỷ trước đây. Hoa Kỳ cũng là một thị

trường lớn có sức hấp dẫn các nước và các nhà đầu tư nước ngoài hơn bất kỳ

nơi nào khác trên thế giới.

Trong lĩnh vực thương mại, Hoa Kỳ có nền ngoại thương rất phát triển.

Tuy bị EU và Nhật Bản cạnh tranh mạnh mẽ, nhưng kể từ thập kỷ 90 của thế

kỷ XX, Hoa Kỳ đã thành công trong việc mở cửa thị trường, đẩy nhanh xuất

khẩu của mình lên vị trí hàng đầu thế giới. Kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ

chiếm 12.5% và kim ngạch xuất khẩu chiếm 15% tổng kim ngạch toàn cầu.

Thị trường nhập khẩu của Hoa Kỳ có dung lượng lớn, phong phú và đa dạng.

Có thể nói, đây là một thị trường có sức hấp dẫn các nước và các nhà đầu tư

nước ngoài, một thị trường chủ yếu của các nước đang phát triển, về quy mô

chỉ đứng thứ 2 sau EU. Hơn thế nữa nếu chỉ xét về kim ngạch các mặt hàng

xuất khẩu của các nước trong phạm vi Châu Á, Hoa Kỳ còn lớn hơn EU. Phần

lớn hàng nhập khẩu từ Châu Á của Hoa Kỳ là hàng công nghiệp chế tạo, kim

ngạch hơn 400 tỷ USD năm 2001, cao hơn 60% so với kim ngạch tương ứng

của EU, về các mặt hàng sử dụng nhiều lao động như may mặc, chế biến, tiêu

dùng, Hoa Kỳ nhập từ Châu Á cao hơn EU 70 - 80%.

Bảng 2: Thị phần của Hoa Kỳ trong mậu dịch thế giới

Đơn vị: %

1970

1980

1985

1990

2000

Xuất khẩu

Hoa Kỳ

15,2

11,8

11,6

11,8

9,8

EU

40,3

35,9

36,5

41,0

44,9

Châu Á- TBD

12,0

21,2

14,5

22,2

31,9

Nhập khẩu

Hoa Kỳ

14,5

19,1

13,2

15,0

10,3

EU

40,7

35,1

39,7

41,0

49,2

15

Châu Á- TBD

12,8

8,0

11,6

13,7

35,1

Nguồn: WB, World Developement Report, 2000

Là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế tài chính quốc tế cũng như các

tổ chức thuộc Liên hợp quốc, Hoa Kỳ có vị trí quan trọng và ở nhiều nơi, có

tiếng nói quyết định. Ngay từ sau Thế chiến thứ II, Hoa Kỳ đã thiết kế hệ

thống tài chính tiền tệ quốc tế nhằm phục vụ cho mục đích bành trướng kinh

tế, quân sự và chính trị của Hoa Kỳ như IMF, WB. Đồng thời Hoa Kỳ cũng là

nước chủ xướng ra hệ thống thương mại toàn cầu nhờ vào tổ chức GATT

trước đây và WTO ngày nay. Hiện tại, Hoa Kỳ là một trong 22 nước giàu nhất

nắm giữ 2/3 số phiếu trong Quỹ tiền tệ quốc tế, số phiếu của Hoa Kỳ gấp 4

lần số phiếu của 47 nước Châu Phi cộng lại. Đồng thời Hoa Kỳ cũng có vai

trò rất lớn trong APEC, NAFTA...

Hoa Kỳ còn là nước có tiềm năng phát triển khoa học công nghệ rất cao

và là nước đầu tư lớn nhất cho khoa học và công nghệ. Ngày nay Hoa Kỳ

chiếm ưu thế nổi trội về khoa học, công nghệ cao và có đội ngũ hùng hậu các

nhà khoa học, mạnh cả về khoa học cơ bản cũng như khoa học ứng dụng.

Người Hoa Kỳ luôn luôn tự hào về năng lực kỹ thuật của mình, họ quan niệm

"chỉ với kỹ thuật... sẽ làm cho Hoa Kỳ có thể làm được tất cả những gì trên

thế giới mà họ mong muốn và đảm bảo được lợi ích toàn cầu của Hoa Kỳ"

[53, tr.135]

Hiện tại, Hoa Kỳ đang tỏ ra tích cực trong việc đẩy mạnh quan hệ kinh

tế với các nước Châu Á. Hoa Kỳ không ngừng tăng cường ảnh hưởng ở các

nước Đông Dương, giành giật với các nước phát triển khác về thị trường đầu

tư tại những “mảnh đất hoang cuối cùng ở Châu Á”, hình thành một chiến

lược khai thác thị trường Châu Á cả bề rộng lẫn bề sâu và trên mọi hướng.

Hiện tại tỷ trọng buôn bán với các nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

chiếm 40% tổng giao dịch ngoại thương của Hoa Kỳ và tạo ra 2,5 triệu công

16

ăn việc làm cho người dân của những nước này. Quan hệ mậu dịch của

Trung Quốc với Hoa Kỳ tăng theo cấp số nhân, buôn bán Hoa Kỳ - Nhật Bản

vẫn đứng đầu thế giới. Các nước ASEAN hiện là thị trường lớn thứ tư của

cường quốc này. Đã từ lâu Hoa Kỳ coi các nước ASEAN là một bên đối thoại

đồng thời là những bạn hàng quan trọng, một số nước đang là "đồng minh

chiến lược" trong khu vực của Hoa Kỳ.

Có thể nói, cho đến thời điểm hiện nay, việc thúc đẩy hợp tác kinh tế

với các nước Châu Á - Thái Bình Dương, giữ vững và không ngừng mở rộng

lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ trong khu vực, từng bước xây dựng “cộng đồng

Châu Á - Thái Bình Dương” là mục tiêu của chiến lược kinh tế Châu Á - Thái

Bình Dương mới của Hoa Kỳ. Trên thực tế, từ nhiều năm nay buôn bán của

Châu Á với Hoa Kỳ đã lớn hơn là buôn bán của EU với Hoa Kỳ. Trước đây

chỉ có mình Nhật bản nay đã có thêm các nền kinh tế NICs, ASEAN và Trung

Quốc đang vươn lên nhanh chóng, dần dần trở thành những nước có vị trí

hàng đầu trong thương mại quốc tế. APEC đang là một xu hướng chiến lược

quan trọng trong thập kỷ tới của Hoa Kỳ.

1.1.3.2. Chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ

Điểm nổi bật trong điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ những năm đầu

thế kỷ XXI là nhấn mạnh đến việc chấn hưng nền kinh tế trên cơ sở coi trọng

kinh tế đối ngoại nhằm củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo, "định hướng toàn cầu" 2 của Hoa Kỳ đối với nền kinh tế thế giới. Đứng trước những

khuynh huớng mới của nền kinh tế thế giới, kể từ năm 2000, chiến lược về

kinh tế, của Hoa Kỳ đã được sửa đổi, bổ sung với những hướng chính như sau

2 Thông điệp Liên bang của Tổng thống Bill Clinton đọc trước Quốc hội Hoa kỳ ngày 27.1.1998

[7, tr. 5]:

17

+ Xây dựng nền kinh tế Hoa Kỳ vững mạnh, duy trì vị trí lãnh đạo

của Hoa Kỳ trong nền kinh tế thế giới, coi đây là ưu tiên số một của chiến

lược toàn cầu mới của Hoa Kỳ;

+ Thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài, phát huy ưu thế về chính trị cuả Hoa

Kỳ trên thế giới nhằm thiết lập trật tự thế giới do Hoa Kỳ điều khiển.

Đối với lĩnh vực thương mại quốc tế Hoa Kỳ nhằm vào 3 mục tiêu cơ

bản [14,29, tr. 26]:

+ Khuyếch trương tự do hoá kinh tế, thúc đẩy thị trường mậu dịch tự do.

Hoa Kỳ luôn chú tâm thực hiện tự do công bằng nhằm hạn chế những rào cản

thương mại, chống lại sự không công bằng trong giới hạn nhập khẩu của các

bạn hàng của mình;

+ Thúc đẩy xuất khẩu bằng nhiều biện pháp khác nhau;

+ Ổn định đồng đôla, tăng cường sức mạnh của nó trên thị trường thế

giới.

Xét riêng trong khía cạnh nhập khẩu, mục đích của các chính sách của

Hoa Kỳ là phục vụ người tiêu dùng, phát triển các ngành kỹ thuật cao, từ đó

tối ưu hoá cơ cấu nền kinh tế. Cụ thể là đa dạng hoá nền kinh tế, làm tăng tính

năng động cho các ngành sản xuất, các doanh nghiệp của Hoa Kỳ, tăng cường

cơ hội cũng như phạm vi lựa chọn cho người tiêu dùng Hoa Kỳ; tăng sự cạnh

tranh giữa doanh nghiệp Hoa Kỳ với nước ngoài nhằm cải thiện công nghệ

quản lý và kỹ thuật, giảm giá bán cho người tiêu dùng; tạo đối trọng gây sức

ép để các nước mở cửa thị trường cho sản phẩm của Hoa Kỳ; đồng thời đây

cũng chính là công cụ gây áp lực trong quan hệ đối ngoại mà điển hình là biểu

hiện của sự trừng phạt hay trợ giúp kinh tế.

Trong quan hệ thương mại với các nước đang phát triển, Hoa Kỳ đã có

chính sách riêng với từng nhóm nước. Sự phân biệt đối xử của Hoa Kỳ đối

18

với các nhóm nước này thể hiện chủ yếu trong Danh bạ thuế quan HTS 3

hai cột của Hoa Kỳ (tương ứng với quan hệ bình thường hoặc chưa bình

thường của các nước với Hoa Kỳ). Theo cách nhìn nhận riêng của mình, Hoa

Kỳ chia các nước thành các nhóm ví dụ như: Nhóm T (kinh tế thị trường),

nhóm X (các nước XHCN cũ), nhóm Z (các nước bị Hoa Kỳ cấm vận).....[7,

tr.6; 29, tr.65]

* Nhóm thứ 1- các nước đang phát triển là thành viên của WTO

Trong các ứng xử thương mại với các nước này, Hoa Kỳ thường dựa trên

cơ sở đạo luật thực hiện những cam kết của Vòng đàm phán thương mại đa

biên Uruguay. Ở đó quy định tất cả các nước là thành viên WTO có quan hệ

thương mại với Hoa Kỳ đều được hưởng Quy chế tối huệ quốc (MFN) hay

Quy chế thương mại bình thường (NTR). Mức thuế dành cho hàng hoá từ tất

cả các nước này đều như nhau và chỉ khoảng 0-3%. Đây là một mức thuế thấp

hơn đáng kể so với mức thuế không được hưởng tối huệ quốc trung bình là 3-

40%. Có trường hợp Hoa Kỳ thay đổi hoặc bỏ mức thuế đối với một hàng hoá

cho một quốc gia nào đó, ngay lập tức sự thay đổi này sẽ được áp dụng cho

toàn bộ hệ thống quốc gia thành viên WTO. Ngoài ra, trong thương mại với

các nước này, Hoa Kỳ còn chấp nhận Hiệp định Định giá hải quan của WTO

làm cơ sở cho Luật định giá tính thuế hải quan của Hoa Kỳ.

* Nhóm thứ 2- các nước chưa là thành viên của WTO nhưng đã có Hiệp

định thương mại song phương với Hoa Kỳ

Trong đối sách của Hoa Kỳ, nhóm này bao gồm những nước có Hiệp

định thương mại hay thoả thuận song biên, quan hệ đang ở mức tiếp cận thị

trường lẫn nhau. Việt Nam hiện đang thuộc nhóm nước này. Những nguyên

tắc ứng xử của Hoa Kỳ đối với nhóm nước này trước đây cũng đã áp dụng đối

với Trung Quốc khi Trung Quốc còn chưa là thành viên WTO. Một số trong 3 HTS: Harmonized Taiff Schedule of the United State: Biểu thuế quan hài hoà của Hợp chủng quốc Hoa kỳ

19

các nước thuộc nhóm này hàng năm vẫn phải được gia hạn miễn từ điều khoản Jackson - Vanik 4 bởi Tổng thống Hoa Kỳ (trường hợp Trung Quốc

việc miễn trừ được thực hiện vào ngày 7/3 hàng năm, Việt Nam vào ngày 3/6

hàng năm). Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng ngay cả việc gia hạn này cũng chỉ

được thực hiện đối với một số nước và ngay cả những nước đã được gia hạn

cũng có thể không được gia hạn nữa tuỳ theo những nhận định chủ quan từ

phiá Hoa Kỳ. Có thể lấy một ví dụ rất gần là liên tục từ 1989 đến 1996, Quốc

hội Hoa Kỳ đưa ra điều luật không tán thành miễn trừ của Tổng thống, thực

chất là để ép Trung Quốc phải đáp ứng những điều kiện về nhân quyền, ngoài

vấn đề tự do di cư. Nói chung, chế độ đối xử này có thể coi là một chế độ

thương mại bình thường có điều kiện, là những bước đi tuần tự tiến đến tư

cách là thành viên đầy đủ của WTO.

* Nhóm thứ 3 - những nước không được hưởng MFN

Đối với các nước thuộc nhóm này, nếu muốn được hưởng MFN của Hoa

Kỳ phải tuân thủ hai quy định cơ bản:

Thứ nhất, phải tuân thủ Điều khoản Jackson - Vanik yêu cầu các nước

không được từ chối hay hạn chế quyền, cơ hội di cư của công dân nước họ.

Thứ hai, phải ký kết Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ

Hiện tại các nước Cuba, Lào, Bắc Triều tiên, Afganistan, Serbia

Mongtenego là các nước thuộc nhóm này trong đối sách của Hoa Kỳ

Libia, Iran, Irac là những nước đã được hưởng MFN song vẫn bị Hoa Kỳ

cấm vận trong quan hệ thương mại bằng các đạo luật khác.

4 Jackson - Vanik: - Điều luật sửa đổi Đạo luật Thương mại 1974 của Hoa kỳ - điều luật này từ chối dành đãi ngộ tối huệ quốc đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường nếu các nước này (a) từ chối quyền di cư đối với công dân nước họ, (b) đánh thuế di cư cao hơn mức thuế danh nghĩa và (c) áp dụng mức thu cao hơn mức danh nghĩa đối với công dân của họ muốn di cư. Tổng thống có thể miễn trừ điều khoản này nếu xác định được điều khoản đã thúc đẩy đáng kể các quy định về di cư tự do, và nếu Tổng thống được đảm bảo rằng các thông lệ về di cư của một nước sẽ dẫn đến mục tiêu đó. Điều luật này do thượng nghị sỹ Henry Jackson và hạ nghị sỹ Charles Vanik đề xuất, ban đầu nhằm vào thực hiện với Liên xô cũ.

* Nhóm thứ tư - những nước được hưởng ưu đãi đặc biệt của Hoa Kỳ

20

Một số nước mà Hoa Kỳ nhận thấy có tiềm năng được đối xử mức

thuế quan ưu đãi trên cơ sở đơn phương không yêu cầu có đi có lại. Tất nhiên

đối sách này được áp dụng cho các đối tượng nhất định trong một thời gian

nhất định (thường là xem xét lại hàng năm) và có các đạo luật cụ thể. Có thể

nêu ra một số ví dụ như: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) miễn thuế

quan với hơn 4400 sản phẩm của 150 quốc gia và vũng lãnh thổ đang phát

triển; sáng kiến Vịnh Caribbean (CBI) miễn hoặc giảm thuế quan cho các sản

phẩm của các nước tham gia khu vực chung Hoa Kỳ - Caribbean; Đạo luật ưu

đãi thương mại Andean (ATAP) ưu đãi thuế quan cho một số sản phẩm từ

Colombia, Bolivia, Peru, Ecuado... Ngoài ra Hoa Kỳ còn ký một số Hiệp định

thương mại tự do với một số nước như Israel, NAFTA, và Singapore.

Về phương diện xuất khẩu, các chính sách của Hoa Kỳ luôn thể hiện

chủ trương tạo ra một sân chơi bình đẳng với việc tự do hoá thương mại thế

giới. Chiến lược lâu dài này nhằm vào mục tiêu duy trì vị thế siêu cường của

Hoa Kỳ trong đó lợi ích kinh tế vừa là đích ngắm vừa là bệ đỡ cho vị trí số 1

về chính trị và quân sự. Trước đây, do có khả năng cạnh tranh cao về sản

phẩm, công nghệ, vốn cũng như kỹ năng quản lý, chưa bao giờ Hoa Kỳ phải

đặt ra những chương trình và chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu ra các thị

trường nước ngoài. Song những năm gần đây, cán cân thương mại của Hoa

Kỳ bị thâm hụt rất lớn, một năm lên tới hàng trăm tỷ USD. Cho nên từ cuối

đời Tổng thống Bush "cha" cho tới thời Bush đương nhiệm, ngoài những luật

lệ khuyến khích xuất khẩu, Hoa Kỳ còn nỗ lực giảm thâm hụt cán cân thương

mại bằng Chiến lược xuất khẩu quốc gia với một loạt chính sách và chương

trình hỗ trợ xuất khẩu. Thực tế, chiến lược này đã đem lại kết quả tích cực

cho Hoa Kỳ. Đến 2001, Hoa Kỳ đã giảm được tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ nghèo

đói xuống mức thấp nhất trong suốt 30 năm qua.

21

Nói tóm lại, chính sách trong thương mại quốc tế của Hoa Kỳ phản

ánh đường lối chính trị và ngoại giao của nước này đối với từng nhóm nước.

Bản thân nó luôn chứa đựng cả những mục đích phi kinh tế nhằm khẳng định

tầm vóc, khả năng chi phối thế giới của Hoa Kỳ, đồng thời ép buộc các quốc

gia muốn cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ phải tuân thủ các nguyên tắc do Hoa

Kỳ đặt ra, dù trực tiếp hay gián tiếp.

1.1.4. Lợi ích của quan hệ thƣơng mại với Hoa Kỳ trong quá trình hội

nhập của Việt Nam

Phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước trên thế giới nói

chung và với Hoa Kỳ nói riêng là yêu cầu khách quan của nước ta xuất phát

từ những cơ sở lợi ích thực tiễn sau đây:

Thứ nhất, Việt Nam chủ trương "tích cực thâm nhập thị trường quốc tế,

chú trọng các trung tâm kinh tế...tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới"

[21,tr.99,200] là hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Với vai trò, vị thế của mình

trong nền kinh tế, thương mại thế giới, Hoa Kỳ đã trở thành một thị trường rất

quan trọng để Việt Nam hướng tới, trong hoàn cảnh từng bước thực hiện công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thêm vào đó, thế giới ngày nay đã phát

triển tới mức không một quốc gia nào, dù theo thể chế chính trị nào, phát triển

hay đang phát triển có thể tồn tại cách biệt với thế giới bên ngoài, mỗi nước

đều là thành viên, là một bộ phận không thể tách rời của phân công lao động

quốc tế. Việt Nam chủ động, tích cực gia nhập ASEAN, ASEM, APEC, xúc

tiến gia nhập WTO và ký kết Hiệp định thương mại, phát triển quan hệ

thương mại với Hoa Kỳ là phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại.

Thứ hai, Hoa Kỳ ngày nay là cường quốc số một thế giới, chiếm ưu thế

vượt trội trong nhiều lĩnh vực, chi phối nhiều mặt đời sống toàn cầu. Nếu phát

triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ có hiệu quả thực sự, Việt Nam có thể

tận dụng quan hệ đó để phát triển quan hệ kinh tế, thương mại với các nước,

22

các khối kinh tế và các khu vực. Đồng thời, đây là cũng là bước chuyển

tiếp quan trọng trên con đường gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO,

tham gia sâu rộng hơn vào tiến trình hội nhập và phát triển cùng các nền kinh

tế trên thế giới.

Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế là quy luật khách quan cũng là cơ hội

được tận dụng để phát triển kinh tế nội địa. Việt Nam hoàn toàn có thể phát

huy được tiềm năng của mình trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, việc

tăng cường mậu dịch với Hoa Kỳ sẽ góp phần giúp cho Việt Nam có cơ hội

phát huy lợi thế trong cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu của mình một cách tối

đa.

Thư tư, Hoa Kỳ có thu nhập bình quân đầu người rất cao, mức sống và

chất lượng cuộc sống phát triển, nhu cầu tiêu dùng lớn. Thúc đẩy mậu dịch

với Hoa Kỳ, Việt Nam có cơ hội tiêu thụ nhiều chủng loại sản phẩm xuất

khẩu. Hoa Kỳ còn là một thị trường khó tính, nếu hàng hoá của Việt Nam vào

được thị trường này thì đây chính là dấu hiệu quan trọng cho thấy hàng hoá

của Việt Nam có thể vươn ra các thị trường khác trên thế giới. Ngược lại, thị

trường Việt Nam có thể có cơ hội tiếp cận với các mặt hàng công nghệ cao và

rất cao.

Thứ năm, có thể học hỏi những thành tựu khoa học nhất là khoa học ứng

dụng, thu hút công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại của Hoa Kỳ, tiếp thu và

vận dụng kinh nghiệm quản lý hiện đại, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là

những lĩnh vực mũi nhọn của Hoa Kỳ.

Thứ sáu, có cơ hội thu hút vốn đầu tư của Hoa Kỳ để xây dựng hạ tầng

cơ sở và các công trình có quy mô lớn trong một số ngành công nghiệp cơ

bản.

23

Thứ bảy, phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ chính là

góp phần thực hiện đường lối ngoại giao của Đảng ta, thể hiện tinh thần muốn

làm bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn

đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.

1.2. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC VỀ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ TH-

ƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG CỦA VIỆT NAM

1.2.1. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong khu vực có quan hệ thƣơng

mại với Hoa Kỳ

Đối với rất nhiều quốc gia thực hiện chiến lược công nghiệp hoá theo

hướng xuất khẩu, Hoa Kỳ là một thị trường quan trọng. Tất cả những nước và

lãnh thổ phát triển nhất ở Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng

Kông (trong những thập niên 1960 và 1970), và Singapore, Thái Lan,

Malaixia (trong những thập niên 1970, 1980) đều đã dựa vào việc xuất khẩu

sang thị trường Hoa Kỳ để xây dựng nền tảng phát triển lâu dài. Xuất khẩu

vào Hoa Kỳ của những nước này trong thời kỳ "đang phát triển" chiếm 20-

50% tổng kim ngạch xuất khẩu của họ. Đây cũng là cơ hội cho những công ty

nhỏ và vừa ở các nước này phát triển, đóng góp một phần quan trọng vào sự

nghiệp công nghiệp hoá đất nước của các quốc gia này.

Qua số liệu thống kê về phát triển thị trường Hoa Kỳ trong thời kỳ từ

năm 1991-1998, ta thấy xuất khẩu của một số nước vào thị trường Hoa Kỳ

tăng như sau [48, tr.206]:

Các nước ASEAN: Malaixia: từ 6 lên 21 tỷ USD, tăng hơn 3 lần; Thái

Lan: từ 6 lên 14 tỷ USD, tăng hơn 2 lần; Philippines: từ 3 tỷ lên 12 tỷ USD,

tăng 4 lần; Indonexia: từ 3 tỷ lên 9.5 tỷ USD, tăng hơn 3 lần; Singapore: từ

10 tỷ lên 20 tỷ USD, tăng 2 lần;

24

Các nước khác: Trung Quốc: từ 19 tỷ lên 71 tỷ USD, tăng trên 3

lần; Hàn Quốc: từ 17 tỷ lên 24 tỷ USD, tăng 1,4 lần.

Bảng 3: Tỷ trọng của Hoa Kỳ trong thương mại, đầu tư các nền kinh tế Đông,

Đông Nam Á trong quá trình CNH, phát triển kinh tế trước khủng hoảng 1997

Thương mại

Đầu tư

1975

1985

1995

1975

1985

1995

Nhật

24,8

37,1

27,3

16,9

20,0

22,4

NIEs

Singapore

13,9

21,2

19,8

15,7

15,2

13,8

Hồng kông

26,4

30,8

21,8

11,8

9,5

7,7

Đài Loan

34,3

48,1

23,6

27,8

23,6

20,1

Hàn Quốc

28,7

35,6

19,2

25,2

21,1

22,3

ASEAN 4

Malaixia

16,1

12,8

20,7

10,7

15,3

16,2

Thai Lan

11,1

19,7

18,0

14,8

11,4

10,9

Phillipin

29,2

35,9

35,9

22,1

25,1

18,1

Indonexia

25,8

21,7

16,8

14,0

16,7

9,5

Nguồn: ADB: Key Indicators, 1993; 1996, Economic Statistics Anual

Để đạt được những con số trên, ngay từ những năm 60 - 80 thế kỷ XX,

trong chiến lược phát triển kinh tế thương mại của mình, các nước trên đều

tìm mọi biện pháp để tận dụng tối đa sự trợ giúp về nhiều mặt trong mối quan

hệ với Hoa Kỳ. Bởi vì các nước này đã xác định rằng Hoa Kỳ là cường quốc

thương mại, đầu tư, công nghệ, đào tạo kỹ thuật, là một thị trường khổng lồ

thu hút hàng hóa của họ, đồng thời cung ứng được những công nghệ cao mà

các nước này đang thiếu.

Hơn thế nữa, ngoài việc đóng vai trò rất lớn trong tăng trưởng kinh tế,

Hoa Kỳ còn có ảnh hưởng nhiều đến đời sống chính trị, xã hội của các quốc

gia Châu Á này. Tự xác định là những nước đi sau, các nước ASEAN cần

phải có môi trường an ninh để phát triển. Bản thân các nước này không có lực

25

lượng quân sự hùng mạnh để tự bảo vệ, nội lực nền kinh tế còn yếu, thiếu

vốn, thiếu công nghệ hiện đại, thiếu chất xám, tay nghề...Nhưng không thể

vừa chạy đua kinh tế vừa chạy đua vũ trang được. Giải pháp là phải tận dụng

nhiều nhất các quan hệ quốc tế có lợi cho mình, ưu tiên số 1 không ai khác là

Hoa Kỳ.

Xét về sự gắn kết chặt chẽ trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ để

phát triển, một ví dụ đầu tiên là Singapore. Singapore là quốc gia nghèo về tài

nguyên khoáng sản, chỉ có một ít than, chì, nham thạch và đất sét, không có

đến cả nước ngọt. Do vậy quốc gia này đã sớm tìm con đường vươn ra bên

ngoài với chiến lược mở cửa. Chiến lược này đã giúp cho Singapore "cất

cánh". Nhu cầu ngoài nước chính là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng kinh

tế của Singapore.

Đối với Hoa Kỳ, Singapore thi hành chính sách hợp tác toàn diện và

xem đây là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Trong thời kỳ chiến

tranh thế giới thứ 2, chính sách thân Hoa Kỳ đã giúp nước này nhận được các

khoản đầu tư khổng lồ. Năm 1980, có 1307 chi nhánh của các công ty xuyên

quốc gia của các nước phát triển hoạt động tại Singapore, trong đó Hoa Kỳ có

557 công ty. Suốt một thời gian dài Hoa Kỳ luôn chiếm trên 50% tổng kim

ngạch xuất khẩu của Singapore và mức thặng dư mậu dịch được tạo ra từ thị

trường Hoa Kỳ rất lớn.

Ngoài ra, nhằm thu hút các dòng đầu tư từ Hoa Kỳ và các đối tác phát

triển khác, Singapore đã sớm thiết lập thị trường tài chính. Năm 1968 thiết lập

thị trường ngoại hối, năm 1969 thiết lập thị trường vàng bạc, 1971 thiết lập thị

trường chứng khoán và trở thành một trong những trung tâm tài chính quan

trọng nhất ở Châu Á.

26

Đặc biệt trong những hoàn cảnh thay đổi gây khó khăn cho kinh tế

xã hội và chính trị, Singapore chủ trương tiếp tục duy trì và củng cố quan hệ

hợp tác toàn diện với nước đồng minh và bạn hàng truyền thống Hoa Kỳ.

Tương tự, đối với trường hợp Inđônêxia, thời kỳ 1965-1997 là giai đoạn

thực hiện cơ chế thị trường có điều tiết. Thời kỳ trật tự mới chuyển sang nền

kinh tế thị trường, phát triển chủ nghĩa tư bản Nhà nước, trả lại các cơ sở kinh

tế đã quốc hữu hoá cho chủ cũ, tích cực thu hút đầu tư nước ngoài.

Trong thương mại quốc tế, với chủ trương đẩy mạnh ngoại thương, làm

động lực cho phát triển kinh tế, Chính phủ đã tích cực cải tiến các cơ sở tự do

thương mại, hướng về xuất khẩu, khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng

cường tập trung buôn bán với các nước tư bản phát triển mà một đối tác đặc

biệt quan trọng là Hoa Kỳ, khuyến khích các công ty trong nước và nước

ngoài đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu.

Với chính sách đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, trong thời gian này,

Inđonexia đã không ngừng mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia và đặc biệt là

sự phụ thuộc sâu sắc vào Hoa Kỳ. Nhờ vậy, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của

Inđônexia sang Hoa Kỳ luôn chiếm khoảng 13- 20% trong suốt thời kỳ 1976 -

1990. Các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu từ Hoa Kỳ là trang thiết bị máy móc,

dây chuyền sản xuất...

Nhìn chung, trong các thập kỷ từ 60-80 thế kỷ 20, các nước ASEAN

phát triển nhất như Singapore, Inđonexia, Thái Lan, Malaixia đều đã phụ

thuộc rất nhiều vào Hoa Kỳ. Bước sang những năm 1990, do những điều

chỉnh chính sách của Hoa Kỳ đối với ASEAN, quan hệ giữa Hoa Kỳ và

ASEAN không chỉ là quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ với từng nước thành

viên của ASEAN hoặc giữa Hoa Kỳ với tổ chức ASEAN, mà quan hệ giữa họ

đã được mở rộng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Trong thời kỳ này,

Hoa Kỳ không còn thực hiện việc can thiệp trực tiếp vào các vấn đề tranh

27

chấp ở khu vực này, hơn nữa các nước ASEAN cũng đã vươn lên tự giải

quyết các vấn đề của mình, nhờ đó, ASEAN có thể giảm bớt sự phụ thuộc

một chiều vào Hoa Kỳ.

Dưới tác động của Hoa Kỳ và theo xu hướng chung của thời đại, quá

trình tự do hoá thương mại và đầu tư của các nước ASEAN đã được thúc đẩy

nhanh. Ví dụ, năm 1996, Malaixia đã giảm thuế nhập khẩu đối với khoảng

700 mặt hàng. Philippin trong 4 năm gần đây đã áp dụng các biện pháp khắc

phục tình trạng đóng cửa hầu như hoàn toàn thị trường dịch vụ tài chính, thậm

chí đã cho các ngân hàng nước ngoài có khả năng bình đẳng trên thị trường

Philippin. Năm 1997, Inđônêxia đã hạ thuế quan 1700 loại sản phẩm trung

bình giảm từ 11,9% đến 13% trong đó mức thưế từ 0% đến 10% chiếm tới

50% biểu thuế quan.

Hoa Kỳ cũng đánh giá cao sáng kiến đẩy nhanh sự ra đời của khu vực

buôn bán tự do ASEAN tại cuộc họp cấp cao ASEAN ở Hà Nội tháng

12/1998, xem đây là một dấu hiệu rất quan trọng đối với thế giới ngay cả

trong bối cảnh khủng hoảng tài chính Châu Á. Phương hướng chính trong

hoạt động của Hoa Kỳ ở đây trong những năm tới là thực hiện chính sách tự

do hoá các luồng vốn trong nội bộ các nước thành viên của ASEAN.

Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho các nước ASEAN

tận dụng có hiệu quả thị trường Hoa Kỳ là việc được hưởng quy chế Tối huệ

quốc. Đây là yếu tố thuận lợi, có hiệu quả lớn trong quan hệ thương mại giữa

các nước ASEAN với Hoa Kỳ. Nhờ được hưởng quy chế tối huệ quốc mà

hàng hóa của ASEAN thâm nhập và cạnh tranh được với các hàng hóa nhập

từ các nước khác kể cả một số hàng hóa nội địa do Hoa Kỳ sản xuất. Với Hoa

Kỳ, khi họ dùng công cụ này, lợi nhuận thu được cho ngân sách từ thuế nhập

khẩu có giảm đi phần nào, nhưng họ cũng có lợi trong quan hệ kinh tế với các

bạn hàng. Cho đến nay, các nước thành viên ASEAN vẫn và sẽ tiếp tục nhận

28

được chế độ Tối huệ quốc của Hoa Kỳ, trừ Singapo. Từ tháng 7/1989

Singapo được coi là một trong năm con rồng ở châu Á, có sức mạnh kinh tế

sánh ngang với các quốc gia công nghiệp phát triển, nên Hoa Kỳ xoá bỏ chế

độ tối huệ quốc.

Nhìn chung, trong định hướng phát triển quan hệ thương mại quốc tế

nói chung và với Hoa Kỳ nói riêng, các nước đã thành công trong khu vực

thường tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:

* Cải thiện tình trạng xuất khẩu với chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh

tế theo hướng hình thành những ngành xuất khẩu mũi nhọn, tăng tỷ trọng mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng sơ chế5. Trong giai đoạn phát triển đầu

tiên, các nước đều hướng một cơ cấu kinh tế lấy các ngành khai thác lợi thế tự

nhiên của đất nước làm chủ đạo; Giai đoạn thứ hai, vị trí chủ đạo chuyển

sang các nghành công nghiệp chế biến tận dụng lợi thế nhân công rẻ; Giai

đoạn thứ ba là phát triển các nghành công nghiệp có hàm lượng công nghệ

cao.

* Về cơ bản các nước đều có những bước cải cách tích cực hệ thống

chính sách thương mại, chính sách thuế và các thủ tục mang tính chất hành

chính với mục tiêu tạo sự cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế và

khuyến khích tăng trưởng xuất khẩu ở một số ngành đồng thời góp phần bảo

hộ thị trường nội địa,

* Xác định những mặt hàng chủ lực, có ảnh hưởng đáng kể trên thị

trường thế giới và Hoa Kỳ. Có thể nêu một vài thí dụ: trong những năm 70-

80, tuy vẫn còn là một nước xuất khẩu nông sản nhưng Malaixia đã chiếm tới

5 Theo số liệu tại ASia Monitor 11/2001 và tư liệu về các thành viên ASEAN: Cơ cấu hàng xuất khẩu của các nước ASEAN-5 có những chuyển biến rõ rệt trong giai đoạn từ 1970-2000, tỷ trọng xuất khẩu hàng chưa qua chế biến của các nước này những năm 1970 luôn từ 70-98%, đến những năm 1990 chỉ còn khoảng 20-30% (trừ Inđonexia: 53%), những năm 2000 còn 6-20% (Inđonexia: 27%). Tương ứng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến ngày một tăng.

60% lượng xuất khẩu dầu cọ của toàn thế giới: Năm 1994, Trung Quốc chỉ

29

xuất khẩu một mặt hàng bán dẫn cũng thu được 5,46 tỷ USD gấp 3 lần

kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Hồng Kông chỉ cần xuất khẩu đồ chơi

cũng có được 3,8 tỷ USD bằng 2 lần tổng xuất khẩu của Việt Nam vv...

Hỗ trợ, tháo gỡ những vướng mắc cho doanh nghiệp trong quá trình

thực hiện xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Hoa Kỳ. Bao gồm cả lĩnh vực

tài chính lẫn kỹ thuật.

Khuyến khích, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện

xúc tiến thương mại và thực hiện chuyên môn hoá trong xuất khẩu sản phẩm

hàng hoá sang thị trường Hoa Kỳ.

1.2.2. Khả năng vận dụng của Việt Nam.

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực đã thành

công trong việc phát triển quan hệ thương mại quốc tế nói chung và với Hoa

Kỳ nói riêng, có thể thấy: những thành tích đạt được thực chất chủ yếu là nhờ

sự nỗ lực của bản thân các nước là chính, đồng thời có vận dụng sáng tạo các

kinh nghiệm cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Đối chiếu với tình hình thực

tế của Việt Nam, chúng tôi thấy cần:

Thứ nhất, kiên trì đường lối phát triển kinh tế theo hướng mở cửa, hội

nhập kinh tế khu vực và thế giới, bên cạnh chủ trương đa dạng hoá, đa

phương hoá các quan hệ quốc tế, cần có những chính sách cụ thể, thích hợp

với từng quốc gia và khu vực riêng biệt.

Thứ hai, xác định chiến lược phát triển dài hạn và có trọng điểm, khẩn

trương xây dựng chiến lược về phát triển quan hệ thương mại quốc tế nói

chung trong đó có chiến lược quan hệ với Hoa Kỳ nói riêng, làm cơ sở cho

các hoạt động phát triển quan hệ thương mại cụ thể.

Thứ ba, tận dụng một cách triệt để những lợi thế trong quan hệ thương

mại giữa các nước trong khu vực với Hoa Kỳ.

30

Thứ tư, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường để thiết lập quan

hệ xuất nhập khẩu các mặt hàng được ổn định, cụ thể theo từng khách hàng cụ

thể, tăng cường sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân, có chính sách hỗ trợ

về tài chính một cách hiệu quả.

Thứ năm, có thể kết hợp hài hoà giữa xuất khẩu và nhập khẩu nhằm tiếp

cận với "công nghệ nguồn" thông qua các hình thức phong phú đa dạng như

liên doanh liên kết, cho thuê hoặc xây dựng cơ sở 100% vốn của Hoa Kỳ tại

Việt Nam.

Thứ sáu, việc thành lập các tập đoàn kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ tạo

điều kiện vừa phát triển đa ngành trong tập đoàn, vừa thực hiện sự phân công

chuyên môn hoá ở từng đơn vị thành viên, giúp các đơn vị thành viên kết

thành sức mạnh tổng hợp hỗ trợ lẫn nhau, loại trừ tình trạng manh mún trong

quản lý sử dụng vốn, tạo khả năng huy động vốn đầu tư, nâng cao khả năng

cạnh tranh của các đơn vị thành viên, để có thể cạnh tranh với thị trường Hoa

Kỳ. Bên cạnh đó, cần phải coi trọng hiệu quả trong mối quan hệ hợp tác với

nước ngoài nói chung và Hoa Kỳ nói riêng, nhằm phát huy nội lực của đất

nước về lao động, tài nguyên, đất đai...

Thứ bảy, đổi mới và hoàn thiện công tác tổ chức, quản lý hoạt động xuất

nhập khẩu, hình thành và phát triển hơn nữa chính sách thuế và phi thuế trong

hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần phát triển ngoại thương với Hoa Kỳ.

Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá đã trở thành những xu

hướng phát triển chủ yếu của thời đại, việc nắm bắt các cơ hội để chuẩn bị,

vận dụng và điều chỉnh là hết sức cần thiết. Điều này vẫn đúng trong trường

hợp đặc biệt là Hoa Kỳ. Qua việc tìm hiểu kinh nghiệm của các nước trong

khu vực nhằm phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, càng khẳng định

hơn rằng lợi ích của quan hệ nay sẽ đóng góp một phần quan trọng trong tiến

31

trình hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước thực hiện công nghiệp hoá hiện

đại hoá của Việt Nam.

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ

2.1. THỰC TRẠNG THƢƠNG MẠI HAI CHIỀU TỪ KHI HOA KỲ BỎ CẤM VẬN

ĐẾN TRƢỚC HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ (1994 - 2001)

Ngày 3-2- 1994, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã chính thức tuyên

bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Hoa Kỳ chuyển Việt Nam từ nhóm

Z sang nhóm Y ít hạn chế về thương mại hơn, miễn trừ hoàn toàn lệnh cấm

tàu biển và máy bay Hoa Kỳ vận chuyển hàng hoá vào Việt Nam, cho phép

tàu mang cờ Việt Nam vào cảng địa phận Hoa Kỳ.

Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton chính thức

tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Trong đó, ông

nhấn mạnh “việc bình thường hoá các quan hệ của chúng ta với Việt Nam

chưa phải là đã kết thúc sự nỗ lực của chúng ta”. Trong lĩnh vực kinh tế,

thương mại, Tổng thống Hoa Kỳ chủ trương: “sẽ bắt đầu bình thường hoá các

quan hệ thương mại của chúng ta với Việt Nam, nền kinh tế của họ hiện nay

đang tự do hoá và liên kết với nền kinh tế khu vực Châu Á - Thái Bình

Dương. Chính sách của chúng ta là sẽ thực hiện các chương trình thích hợp

của chính phủ Hoa Kỳ để phát triển quan hệ thương mại vói Việt Nam phù

hợp với luật pháp Hoa Kỳ” [15. tr 1]. Với chính sách này của Hoa Kỳ, quan

hệ Việt Nam và Hoa Kỳ đã được mở sang một trang mới với nhiều nỗ lực

mang tính xây dựng nhằm phát triển các mối quan hệ hợp tác và cùng có lợi

giữa hai quốc gia .

Ngay sau khi quan hệ ngoại giao được bình thường hoá, quan hệ thương

mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã có nhiều dấu hiệu khả quan (Xem thêm Phụ lục 1).

32

Kể từ năm 1998, hàng năm Tổng thống Hoa Kỳ ký miễn trừ không phải

áp dụng Điều khoản Jackson - Vanik đối với Việt Nam, một điều kiện cần để

chúng ta có thể tiếp cận với các đảm bảo về đầu tư và tín dụng xuất khẩu do

Chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ. Thương mại hai chiều giữa hai quốc gia cũng tăng

nhanh và đều cả trong xuất khẩu và nhập khẩu, hàng hoá trao đổi ngày càng

đa dạng và gia tăng giá trị. Theo số liệu của Bộ thương mại Hoa Kỳ, kim

ngạch mậu dịch Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1994 đã đạt 222,2 triệu USD so với

62 triệu năm 1993 (tăng hơn 30 lần). Năm 1995 kim ngạch 2 chiều đã tăng

lên 445,7 triệu USD (gấp 2 lần năm 1994). Năm 1998, Việt Nam đứng thứ 75

trong danh sách đối tác thương mại của Hoa Kỳ.

Bảng 4. Thương mại hai chiều Việt Nam - Hoa Kỳ trước Hiệp định thương mại

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

Xuất khẩu

50,2

193,9

319,0

388,2

553,4

609,0

821,7

1052,6

Nhập khẩu

172,0

252,8

616,0

277,8

274,2

290,7

367,7

460,9

-121,8

-58,9

-297,0

110,4

297,2

318,3

453,9

591,7

Cán cân TM 2 chiều

-

-

4,4

4,2

5,9

5,3

5,7

7,0

% Tổng XK của VN

-

-

5,5

2,4

2,4

2,5

2,4

2,9

% Tổng NK của VN

Đơn vị: Triệu USD

Nguồn: VER, Stanley Foudation 2/2002

2.1.1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá thời kỳ 1994 - 2001

Chỉ 5 năm sau khi bình thường hoá quan hệ, kim ngạch xuất khẩu của

Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng tăng lên 10 lần, từ 50 triệu USD năm 1994 lên

tới 500 triệu USD năm 1998. Năm 2000, xuất khẩu từ Việt Nam tiếp tục tăng,

đạt 827,4 triệu USD so với 601,9 triệu USD năm 1999 với mức tăng trưởng là

37,63%. Đây là một mức tăng cao đáng kể. Trung bình xuất khẩu của thế giới

33

vào thị trường Hoa Kỳ chỉ tăng trưởng ở mức 19,73% và toàn khu vực

ASEAN tăng 13,56%. Tất nhiên, mức tăng của chúng ta ở trên là được tính

trên cơ sở kim ngạch khởi đầu không cao, song đây cũng là một dấu hiệu tốt,

cho thấy những phản ứng tích cực từ phía thị trường Hoa Kỳ đối với các sản

phẩm xuất khẩu của Việt Nam và từ phía các doanh nghiệp Việt Nam trong

mối quan hệ thương mại của hai nước.

Nhìn tổng quan, từ 1996-2001, xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ

tăng tưởng bình quân khoảng 27% một năm, so với mức tăng 20% của tổng

kim ngạch xuất khẩu, rõ ràng là đã có những dấu hiệu đáng mừng. Mặc dù

vậy, cho tới năm 2001, nghĩa là trước thời điểm Hiệp định thương mại Việt

Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, một thị trường đầy tiềm năng như Hoa Kỳ chỉ

chiếm khoảng 7% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời, với

kim ngạch khoảng 1 tỷ USD năm 2001, hàng hoá từ Việt Nam chỉ chiếm

0,2% tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ từ các nước đang phát triển.

Xét về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ

trong thời kỳ 1994-2001 chủ yếu thuộc nhóm nông, lâm, thuỷ hải sản. Đặc

điểm nổi bật của nhóm hàng hoá này là thuế tối huệ quốc và phi tối huệ quốc

có mức chênh lệch không đáng kể. Trong nhóm này cà phê chiếm phần lớn

với kim ngạch 30 triệu USD năm 1994, 145 triệu năm 1995, 1996, 147 triệu

năm 1998. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và thủ công mỹ nghệ đã bắt đầu xâm

nhập và tăng trưởng nhanh tuy chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở mức giới thiệu sản

phẩm. Kim ngạch của nhóm hàng này năm 1995 đạt 20 triệu USD, trong đó

hàng dệt may chiếm chủ yếu, gần 17 triệu USD, con số này tăng lên mức 28

triệu năm 1998. Từ năm 1996, những mặt hàng giày dép đã nổi lên như một

điểm sáng với kim ngạch vượt nhóm hàng dệt may và đến năm 1997, kim

ngạch đạt 97 triệu, 1998 đạt 115 triệu. Nhóm hàng công nghiệp nặng và

nguyên liệu khoáng sản cũng đạt con số xuất khẩu lớn hơn kể từ năm 1996.

34

Hai năm 1994 - 1995 nhóm hàng này chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chủ yếu là xuất

khẩu thiếc, đến năm 1996, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu dầu thô sang Hoa

Kỳ đạt 81 triệu USD tuy nhiên năm 1999 lại có xu hướng giảm mạnh.

Bảng 5. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hoa Kỳ trước HĐTM

1996

1997

1998

1999

2000

2001

Đơn vị: Triệu USD

Hàng sơ chế

247,1

251,7

390,4

399,3

592,7

819,8

Hải sản

56,8

94,3

139,5

300,9

478,2

34,1

Rau quả

18,8

26,4

28,8

52,9

50,1

10,0

Cà phê

109,4

104,6

142,5

100,2

113,0

76,1

Cao su thô

2,1

1,7

2,5

5,3

2,8

0,4

Xăng dầu

34,6

107,3

100,6

88,4

182,7

80,6

Sơ chế khác

34,6

17,9

27,5

32,0

29,6

12,4

Hàng chế tạo

136,4

162,9

209,6

228,6

232,8

71,9

Khoáng sản phi thép

1,6

3,3

4,8

6,6

9,1

0,9

Chế tạo thép

0,2

0,7

3,1

3,2

3,5

0,1

Thiết bị điện

0,2

0,3

0,6

0,6

1,3

0,1

Hàng gia dụng

0,4

1,1

3,6

9,1

13,4

0,3

Phục vụ du lịch

0,5

0,6

1,2

1,6

0,8

0,4

May mặc

26,0

28,4

36,1

47,2

48,1

23,7

Giày dép

97,6

114,9

145,7

124,8

132,1

39,1

1,1

Hàng chế tạo khác

1,7

0,9

1,5

14,5

2,9

Tổng Kim ngạch

319,0

388,2

553,4

608,9

821,6

1052,6

Nguồn: www.ustic.gov

Những thống kê về cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ

từ 1994 - 2001 cho thấy một trình độ phát triển kinh tế thấp của Việt Nam với

sự tập trung vào một số rất ít các mặt hàng, phần lớn là nông sản và nguyên

liệu thô, chưa chế biến hoặc có nguồn gốc từ tự nhiên. Điều đáng chú ý về cơ

35

cấu xuất khẩu này đó là một sự phân chia tỷ lệ rất khác so với cơ cấu xuất

khẩu của nhiều nước đang phát triển sang thị trường Hoa Kỳ, đặc biệt là các

nước Chấu Á. Nếu như các nước này chủ yếu xuất khẩu vào Hoa Kỳ những

mặt hàng công nghiệp chế tạo, thì đối với trường hợp Việt Nam hàng công

nghiệp chế tạo chỉ chiếm dưới 1/4 tổng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ.

Song xét ở góc độ khác, đặc điểm xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ thời

kỳ này có thể còn bị chi phối nhiều bởi mối quan hệ song phương căng thẳng

giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhiều mặt hàng công nghiệp chế tạo xuất sang

Hoa Kỳ của Việt Nam chịu mức thuế suất gấp 5-10 lần so với mức thuế quan

Hoa Kỳ dành cho các nước khác. Trong khi đó, đối với các sản phẩm hàng

hoá từ Việt Nam sang thị trường Châu Âu, cơ cấu mặt hàng đã tập trung

nhiều vào các sản phẩm công nghiệp chế tạo có sử dụng nhiều sức lao động, bởi tại đây Quy chế tối huệ quốc đã được áp dụng cho Việt Nam từ 1990 6.

Bảng 6: Chênh lệch các mức thuế suất của Hoa Kỳ cho một số mặt hàng dệt may

Loại hàng

Phi MFN

Chênh lệch

MFN

Quần áo bằng vải bông

90,0

80,0

10,0

90,0

61,2

28,8

Áo khoác làm từ sợi nhân tạo không dệt kim, đan móc lọai khác

Áo khoác làm từ sợi nhân tạo có dệt kim

72,0

42,7

29,3

Áo sơ mi cotton cho nam

67,5

52,6

14,9

58,5

38,0

20,5

Áo khoác từ sợi nhân tạo, không dệt kim, đan móc, trên 36% len

54,5

38,5

16,

Bộ quần áo có đan móc, bằng len hoặc lông động vật

45,0

41,0

4,0

Áo khoác đan móc với trên 70% khối lượng là tơ tằm

45,0

39,1

5,9

Áo khoác đan móc với 70% khối lượng là tơ tằm

Đơn vị: %

6 Trong năm 2001, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang EU đạt 512 triệu USD so với con số 52 triệu USD sang Hoa kỳ, gấp 10 lần, trong khi Hoa kỳ là nước nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới

Nguồn: Bộ thương mại Việt Nam

36

Nhìn chung, kể từ sau khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận đối với Việt Nam,

thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn gặp nhiều trở ngại, chủ yếu là

do hai nước chưa ký được Hiệp định thương mại song phương và Hoa Kỳ

chưa dành Quy chế tối huệ quốc (MFN) và Quy chế về quan hệ buôn bán

bình thường (NTR) cho Việt Nam. Hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào thị

trường Hoa Kỳ vẫn phải chiụ mức thuế rất cao. Theo tính toán của các chuyên

gia Ngân hàng thế giới “tổng mức thuế đánh vào hàng hoá Việt Nam xuất

khẩu sang thị trường Hoa Kỳ sẽ giảm từ 35,0% xuống 4,9% nếu được hưởng

Quy chế tối huệ quốc, trong đó một số mặt hàng Việt Nam có khả năng xuất

khẩu nhiều như may mặc có thể giảm từ 68,9% xuống còn 13,4%, hàng dệt

may từ 55,1% còn 10,3%. Có thể một phần bởi các rào cản thương mại này

mà kim ngạch xuất khẩu của ta sang Hoa Kỳ còn rất nhỏ bé, thua kém rất

nhiều các nước trong khu vực, thậm chí là cả Campuchia. Số liệu năm 2000

cho thấy xuất khẩu của Thái Lan sang Hoa Kỳ đạt 16,4 tỷ USD, Philippin đạt

14 tỷ USD. Tỷ trọng của việc trao đổi hàng hoá giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ

chiếm 1% trong tổng giá trị buôn bán giữa ASEAN với Hoa Kỳ. Thị phần của

Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ là một con số hết sức

nhỏ bé, chỉ ở mức 0,04% những năm cuối thế kỷ XX. Thực chất cho tới năm

2001, thị trường Hoa Kỳ vẫn là một thị trường đóng đối với các sản phẩm

xuất khẩu từ Việt Nam.

2.1.2. Thực trạng nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 1994 -2001

Nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Hoa Kỳ là máy móc, thiết bị và

phân bón. Điều này phù hợp với nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam cũng như

đặc điểm cơ cấu xuất khẩu của Hoa Kỳ. Năm 1999 tổng kim ngạch nhập khẩu

hàng của Hoa Kỳ vào Việt Nam là 277,3 triệu USD, năm 2000 đạt 330,5 triệu

USD, mức tăng trưởng là 19,1%. Mức tăng trưởng này cao hơn cả mức tăng

trưởng trung bình xuất khẩu cuả Hoa Kỳ ra thế giới và cả vào khu vực

37

ASEAN. Điều này cho thấy được tiềm năng của thị trường Việt Nam đối

với các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ

Tính đến năm 2000, số lượng mặt hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt

Nam đã lên tới 96 mặt hàng, có thể chia thành 3 nhóm lớn theo kim ngạch

nhập khẩu của Việt Nam.

Bảng 7: Các mặt hàng nhập khẩu chính từ Hoa Kỳ vào Việt Nam

2000

2001

1999

1998

Thực phẩm

37,3

49,3

27,3

15,9

Sợi dệt

16,0

30,2

4,9

4,4

Phân bón

29,4

19,4

47,2

42,2

Các sản phẩm nhựa

16,4

19,8

10,2

4,7

Các sản phẩm giấy

7,6

17,6

8,4

5,5

Máy móc

141,7

126,9

92,0

102,6

Thiết bị vận tải

7,6

60,4

2,8

9,9

Các bộ phận giày dép

27,4

19,2

29,5

17,3

Thiết bị khoa học

10,7

16,0

8,9

12,0

Đơn vị: Triệu USD

Tổng Kim ngạch

274,2

290,6

367,7

460,8

Nguồn: Vụ Âu Mỹ, Bộ thương mại Việt Nam, 2001

Nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao nhất trong kim ngạch (trên 20 triệu

USD) là lò phản ứng hạt nhân và các dụng cụ, nhiên liệu liên quan, phụ tùng

máy móc, cơ khí... với 23,7% tổng giá trị nhập khẩu. Năm 2000, nhóm hàng

này tăng khá mạnh 28,4% so với mức 61 triệu USD năm 1999, đóng góp

phần đáng kể trong tăng trưởng xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Việt Nam.

Nhóm thứ hai (kim ngạch từ 1 đến 20 triệu USD) là máy và các dụng cụ

điện với tỷ trọng 9,2% tương ứng với 30,3 triệu USD. Nhóm hàng này tăng

mạnh nhất trong năm 2000 với mức tăng 50%. Có thể xem nhóm hàng này là

mũi nhọn trong chiến lược xuất khẩu hàng hoá của Hoa Kỳ sang Việt Nam.

38

Nhóm thứ ba (kim ngạch nhỏ hơn 1 triệu USD) có tỷ trọng 8,6%.

Nhóm này sụt giảm mạnh vào năm 2001.

Qua số liệu thực tế về tỷ trọng của các nhóm hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ

căn cứ vào sự phân nhóm đã được trình bày ở trên, có thể thấy hàng hoá nhập

khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt Nam chủ yếu là các hàng hoá mà Việt Nam không

có khả năng sản xuất hoặc sản xuất kém cạnh tranh và phần lớn là phục vụ

chủ trương và định hướng phát triển kinh tế của Việt Nam, cơ cấu của các

nhóm hàng trong kim ngạch nhập khẩu là hợp lý. Song cũng từ các số liệu

thực tế lại cho thấy một điều đáng lo ngại là tỷ trọng và sự tăng trưởng của

các mặt hàng trong từng nhóm đang có xu hướng tăng nhiều hơn về các hàng

hoá tiêu dùng và nguyên liệu phục vụ sản xuất xuất khẩu.

Xét về phương diện quy tắc đối xử của Việt Nam dành cho Hoa Kỳ có

thể nói là rất thuận lợi. Từ năm 1999, hàng từ Hoa Kỳ xuất khẩu vào Việt

Nam được hưởng thuế tối huệ quốc và được hưởng các điều kiện cân bằng

với hàng hoá xuất khẩu từ các nước khác vào Việt Nam.

Nhìn chung, có thể nhận định rằng: Việt Nam là nước có tiềm năng sản

xuất ra những sản phảm được người tiêu dùng Hoa Kỳ ưa thích, số lượng tiêu

thụ nhiều. Đồng thời Việt Nam cũng có nhu cầu lớn về các sản phẩm công

nghệ cao của Hoa Kỳ. Song trên thực tế kết quả mậu dịch hai chiều của 2

nước từ 1994 đến 2001 vẫn còn chưa tưng xứng với tiềm năng. Điều này

được hy vọng cải thiện sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức ký kết Hiệp

định thương mại song phương.

2.2. HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI SONG PHƢƠNG VIỆT NAM - HOA KỲ VÀ

QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ SAU KHI CÓ HIỆP ĐỊNH

2.2.1. Tổng quan về Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ

39

Ngay từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào tháng 8 năm 1995, cả

hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ đã có một nhận thức chung là cần thiết phải

bình thường hoá quan hệ kinh tế, thương mại. Theo hướng đó, từ năm 1996

hai bên bắt đầu đàm phán về Hiệp định Thương mại song phương. Qua 11

vòng đàm phán, ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ

được ký kết sau khi được sự phê chuẩn của Quốc hội hai nước (Hạ viện Hoa

Kỳ ngày 6/9/2001, thượng viện Hoa Kỳ ngày 4/10/2001 và Quốc hội Nước

CHXHCN Việt Nam ngày 28/11/2001). Hiệp định thương mại Việt Nam -

Hoa Kỳ đã chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 10/12/2001.

Hiệp định bao gồm 7 chương. Các bộ phận cấu thành khác của Hiệp

định gồm có các Phụ lục A, B (B1, B2, B3, B4), C (C1, C2), D (D1, D2), E,

F, G, H, I và Thư trao đổi của Đại diện Thương mại hai nước.

Tiếp cận một cách tổng quát, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa

Kỳ đã được đàm phán và ký kết theo những nguyên tắc sau:

+ Tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công

việc nội bộ của nhau, hợp tác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi;

+ Việt Nam là nước đang phát triển có trình độ phát triển thấp, đang

trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, do đó được hưởng sự hỗ trợ của Hoa

Kỳ; những nội dung mà Hoa Kỳ không đặt ra với các nước khác thì không

được đòi hỏi Việt Nam phải đáp ứng.

+ Quy chế đãi ngộ tối huệ quốc hai bên dành cho nhau không phải chỉ

đem lại lợi ích cho phía Việt Nam mà còn cho cả phía Hoa Kỳ, cho các công

ty Hoa Kỳ;

+ Việt Nam tôn trọng các luật lệ và tập quán quốc tế, sẽ từng bước điều

chỉnh, bổ sung các luật lệ, cơ chế của mình theo hướng đó, phù hợp với mức

độ phát triển của nền kinh tế, hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam;

+ Việt Nam chấp nhận, tuân thủ các quy định của Hiệp định chung về

Thương mại và Thuế quan và các Hiệp định có tính áp dụng chung của Tổ

chức Thương mại thế giới (GATT/WTO) nhưng sẽ thực hiện từng bước phù

40

hợp với sự phát triển của nền kinh tế có vận dụng những ngoại lệ dành

cho một nước đang phát triển có trình độ phát triển thấp;

Nhìn chung, Đây là một Hiệp định thương mại có tính tổng thể, bao

gồm cả thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, phát triển quan hệ đầu tư,

và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và các định chế liên quan khác. Trong phạm vi

nghiên cứu của Luận văn, chúng tôi xin chỉ đề cập tới các nội dung chủ yếu

trong lĩnh vực thương mại hàng hoá [26. 2-10, 56-57, 61-66, Pl.A,B,C,D,E]:

a. Về quy chế Tối huệ quốc và không phân biệt đối xử trong thương

mại hàng hoá:

Quy chế tối huệ quốc (quan hệ thương mại bình thường) được hai nước

thoả thuận "dành cho nhau ngay lập tức và vô điều kiện". Tuy nhiên, để hàng

hoá Việt Nam hưởng quy chế Tối huệ quốc, theo pháp luật Hoa Kỳ, hàng năm

Quốc hội Hoa Kỳ vẫn sẽ xem xét gia hạn miễn trừ điều luật bổ sung Jackson-

Vanik đối với Việt Nam cho tới khi Việt Nam gia nhập WTO. Việt Nam chỉ

được hưởng quy chế Tối huệ quốc vĩnh viễn khi đã là thành viên của WTO.

Trong Hiệp định, điều này được hàm ý tại Điều 8, Chương VII rằng: "Nếu

một trong hai Bên không có thẩm quyền pháp lý trong nước để thực hiện

nghĩa vụ của mình theo Hiệp định này, thì một trong hai Bên có thể đình chỉ

việc áp dụng Hiệp định này, hoặc bất kỳ bộ phận nào của Hiệp định, kể cả

quy chế tối huệ quốc, với sự thoả thuận của Bên kia. Trong trường hợp đó,

các bên sẽ tìm cách ở mức độ tối đa, có thể theo pháp luật trong nước, để

giảm đến mức tối thiểu những tác động bất lợi đối với quan hệ thương mại

sẵn có giữa hai Bên" [26, tr 66]. Đồng thời, vấn đề này cũng được phía Hoa

Kỳ đề cập cụ thể trong Thư trao đổi của Đại diện thương mại Hoa Kỳ gửi cho

Bộ trưởng Bộ Thương mại Việt Nam về Điều khoản Jackson-Vanik ngày

13/7/2000 [26].

b. Về thuế nhập khẩu hàng hoá:

41

- Thuế suất nhập khẩu tối huệ quốc (mức thuế trung bình khoảng

3%) sẽ được Hoa Kỳ áp dụng cho hàng hoá của Việt Nam, thuế suất này thấp

hơn nhiều so với mức thuế mà hàng hoá của Việt Nam đã phải chịu trước đây

(khoảng 40 - 50%).

- Đồng thời, trong quá trình thực thi Hiệp định, nếu Hoa Kỳ giảm thuế

do đàm phán trong khuôn khổ WTO cho các nước thứ 3 nào khác thì cũng

dành cho Việt Nam ưu tiên như vậy, dù vào thời điểm đó Việt Nam có thể

chưa là thành viên của WTO.

- Việt Nam cho hàng hoá nhập khẩu từ Hoa Kỳ hưởng mức thuế tối huệ

quốc. Thực tế, Hoa Kỳ đã được hưởng mức thuế này từ năm 1999.

- Ngoài ra, Việt Nam còn cam kết, sau khi Hiệp định có hiệu lực, từ 3

đến 6 năm tuỳ theo mặt hàng, Việt Nam sẽ giảm thuế đối với 224 mặt hàng và

giữ nguyên mức thuế hiện hành của 20 mặt hàng. Các mặt hàng còn lại Việt

Nam chưa cam kết.

Căn cứ vào những thoả thuận trong Hiệp định và thư trao đổi của Đại

diện Thương mại Hoa Kỳ thì ngay lập tức hàng dệt may của Việt Nam xuất

khẩu sang Hoa Kỳ cũng được hưởng mức thuế tối huệ quốc sau khi Hiệp định

có hiệu lực. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn áp dụng chế độ hạn ngạch hàng dệt may

đối với Việt Nam vì Việt Nam chưa phải là thành viên WTO. Hai bên còn phải đàm phán để ký một Hiệp định riêng về hàng dệt may 7.

c. Về Quy chế đối xử quốc gia trong thương mại hàng hoá:

Hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ đồng ý dành quy chế đối xử quốc gia

7 Theo Hiệp định về hàng dệt và hàng may mặc của WTO, từ 1.1.2005, mọi thành viên WTO sẽ được dỡ bỏ toàn bộ các loại hạn ngạch dệt may. Trong khi đó, hạn ngạch nhập khẩu của Hoa kỳ đối với hàng may mặc Việt Nam sẽ vẫn được duy trì theo BTA nếu Việt Nam chưa gia nhập được WTO. Vì vậy Việt nam phải xúc tiến để gia nhập WTO theo đúng kế hoạch, hoặc phải thông qua đàm phán song phương với Hoa kỳ để sửa đổi các điều khoản về hạn ngạch này.

cho hàng hoá nhập khẩu của nhau. Nói cách khác, hai Bên cam kết sẽ dành

42

cho hàng hoá của Bên còn lại sự đối xử tương tự như dành cho hàng hoá

của nước mình. Nghĩa vụ này bao gồm những cam kết cụ thể sau:

Các loại thuế và phí nội địa: Hai nước sẽ không được đánh vào sản

phẩm nhập khẩu từ Bên kia cao hơn mức đánh vào hàng hoá tương tự trong

nước.

Pháp luật trong nước: Sản phẩm nhập khẩu từ Bên kia được hưởng sự

đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho sản phẩm tương tự trong

nước theo quy định tại pháp luật trong nước liên quan đến việc bán, mua, vận

tải, phân phối, lưu kho hoặc sử dụng những hàng hoá đó.

Quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật: Các Bên không được dùng những quy

định và tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm cản trở thương mại hoặc bảo hộ sản xuất

trong nước. Các quy định và tiêu chuẩn này phải được áp dụng theo cách để

hàng nhập khẩu nhận được sự đối xử không kém thuận lợi hơn các sản phẩm

trong nước.

Mọi biện pháp vệ sinh hoặc vệ sinh thực vật chỉ được sử dụng khi cần

thiết nhằm bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ con người, động vật và thực vật, và

phải dựa trên cơ sở các nguyên lý khoa học.

d. Về quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu.

Về phía Hoa Kỳ, ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, Hoa Kỳ sẽ cho

phép mọi pháp nhân và thể nhân Việt Nam được kinh doanh xuất nhập khẩu

tại Hoa Kỳ mà không có bảo lưu gì.

Phía Việt Nam sẽ thực hiện từng bước theo lộ trình sau :

- Ngay sau thời gian hiệu lực của Hiệp định, các doanh nghiệp có vốn

đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ được phép nhập khẩu tại Việt Nam các hàng hoá

để sử dụng và/hoặc có liên quan đến hoạt động sản xuất, xuất khẩu (trừ các

hạn chế quy định tại Phụ lục B và C).

- Ba năm sau ngày Hiệp định có hiệu lực, các doanh nghiệp có vốn đầu

tư trực tiếp của Hoa Kỳ có các hoạt động kinh doanh lớn trong lĩnh vực sản

43

xuất và chế tạo được phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu tại Việt Nam

(trừ các hạn chế quy định tại Phụ lục B, C và D),

- Ba năm sau khi Hiệp định có hiệu lực, các công dân và doanh nghiệp

Hoa Kỳ được phép tham gia liên doanh với các đối tác Việt Nam để tiến hành

kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu tại Việt Nam tất cả các mặt hàng (trừ các

hạn chế quy định tại Phụ lục B, C và D). Phần vốn góp của các công ty Hoa

Kỳ trong kinh doanh không vượt quá 49% vốn pháp định. Ba năm sau đó mức

góp vốn của Hoa Kỳ là 51%.

- Bảy năm sau khi Hiệp định có hiệu lực, các công ty Hoa Kỳ được

phép thành lập công ty 100% vốn để kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng

hoá, trừ các hạn chế qui định tại Phụ lục B, C và D;

e. Về hàng rào phi thuế quan:

Cả Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ loại bỏ tất cả hàng rào phi quan thuế, bao

gồm những hạn chế về xuất nhập khẩu, hạn ngạch, yêu cầu cấp phép. Tuy

nhiên phía Việt Nam cam kết thực hiện nghĩa vụ đó trong thời hạn từ 2 đến 7

năm tuỳ từng mặt hàng hoá ghi trong phụ lục B1, B2.

2.2.2. Ý nghĩa sự ra đời Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ

Việc ra đời Hiệp định thương mại song phương gia hai quốc gia đã đánh

dấu một thời kỳ phát triển mới trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, đưa việc

bình thường hoá quan hệ đối ngoại lên một tầm cao hơn: bình thường hoá

kinh tế, thương mại.

Các cam kết trong Hiệp định không chỉ tạo thuận lợi cho quan hệ kinh

tế, thương mại song phương, cải thiện khả năng tiếp cận thị trường của nhau,

mà chúng còn đặt ra những yêu cầu về cải tiến hệ thống chính sách, luật pháp

của Việt Nam. Muốn thực hiện tốt Hiệp định, việc hoàn thiện một khuôn khổ

pháp luật, một hệ thống toà án có khả năng giải quyết các tranh chấp kinh tế

thương mại phù hợp tiêu chuẩn quốc tế là cần thiết. Do đó, đây chính là động

44

lực, là chất xúc tác để chúng ta tiến hành công cuộc cải cách mạnh mẽ hệ

thống pháp luật, thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.

Xét ở khía cạnh khác, thực hiện Hiệp định nghĩa là Việt Nam mở cửa thị

trường cho thế giới vào cùng khai thác tiềm năng kinh tế của Việt Nam. Cũng

có nghĩa là Việt Nam được phép, được quyền trên cơ sở không phân biệt đối

xử đi khai thác thị trường thế giới, khai thác nền kinh tế thế giới như thu hút

đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút công nghệ, kiến thức quản

lý.v.v...

Các vấn đề

Lộ trình đã cam kết trong HĐTM

Thực hiện mục tiêu gia nhập WTO năm 2005

Định giá hải quan Áp dụng Hiệp định WTO về định

giá hải quan ngày 10.12. 2003

Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về định giá hải quan vào năm 2005

Thương mại nhà nước

Quy định những nghĩa vụ cơ bản tương tự như GATT điều XVII

Việt Nam đáp ứng được yêu cầu cơ bản của GATT vào năm 2005

Quyền sở hữu trí tuệ / TRIPS8

Thực hiện từng bước đối với hầu hết các nghĩa vụ TRIPS, kết thúc vào tháng 6/2004

Việt Nam đáp ứng được hầu hết các yêu cầu cơ bản của WTO về TRIPS vào năm 2005

Việt Nam đáp ứng được hầu hết các yêu cầu cơ bản về dịch vụ vào năm 2005

Quy dịnh hầu hết các nghĩa vụ theo GATS, 3 Phụ lục của GATS và Văn bản tham chiếu về viễn thông (Chương III, Phụ lục F)

Phụ lục của GATS9. GATS và văn bản tham chiếu về viễn thông

TRIMS 10

Việt Nam phải loại bỏ biện pháp TRIMS về cán cân thương mại

Việt Nam đáp ứng được hầu hết các yêu cầu cơ bản về TRIMS vào

8 TRIPS: Các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại: thương hiệu, chỉ dấu địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sơ đồ mạch tích hợp và việc bảo vệ bí mật thương mại. 9 GATS: Hiệp định chung về thương mại trong dịch vụ: đây là 1 kết quả của vòng Uruguay, có hiệu lực từ 1995. 10 TRIMS: Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại: Bao gồm cả mục tiêu xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, quy định mua nội địa hay quy định tỷ lệ nội địa hoá, các yêu cầu về nghiên cứu và phát triển và các điều kiện tương tự mà một doanh nghiệp phải tuân theo để được phép đầu tư vào nước khác

Bảng 8: Những yêu cầu cho việc gia nhập WTO đã được đáp ứng từ BTA

45

năm 2005

và ngoại hối vào tháng 12 năm 2001 và các biện pháp TRIMS khác vào tháng 12 năm 2006 hoặc vào thời điểm gia nhập WTO

Nguồn: www.usvtc.gov (trang web của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)

Hơn thế nữa, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết

trên nguyên tắc tuân thủ các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới WTO

áp dụng cho nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp. Theo Thứ Trưởng

Bộ thương mại Lương Văn tự thì ngay từ quỏ trỡnh đàm phán tiến tới ký kết

Hiệp định đã "tạo điều kiện cho các cơ quan hoạch định chính sách của ta

hiểu sâu hơn về bản chất của toàn cầu hoá và hội nhập, các nguyên tắc của WTO"11. Vì vậy, Hiệp định chính là một bước quan trọng để hội nhập sâu hơn

của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Thông qua Hiệp định Việt

Nam đã cam kết thực hiện nhiều điều kiện để tiến tới gia nhập Tổ chức

Thương mại thế giới. Bảng dưới đây sẽ cho thấy những hỗ trợ tích cực của

việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ đối với mục tiêu gia

nhập WTO

Tuy nhiên, không phải tất cả các cam kết trong Hiệp định thương mại

Việt Nam - Hoa Kỳ đều thoả mãn các điều kiện của WTO. Một số nghĩa vụ

trong Hiệp định chỉ áp dụng một phần hoặc là cơ sở để đàm phán với các

thành viên WTO (Xem Phụ lục 2). Vì vậy để thực thi Hiệp định cũng như đẩy

nhanh tiến trình gia nhập WTO, đòi hỏi Việt Nam chúng ta phải nỗ lực thật

sự, phải cố gắng không ngừng. Thực hiện mở cửa nền kinh tế cũng là đặt nền

kinh tế của ta vào đường ray cạnh tranh chung trên toàn thế giới. Cuộc cạnh

tranh này rất khốc liệt. Muốn thắng trong cuộc cạnh tranh này, phải có một

nền kinh tế có sức cạnh tranh, phải có những hàng hoá có chất lượng cạnh 11 Phỏng vấn Thứ trưởng Lương Văn Tự về tác động của BTA, nhân kỷ niệm 10 năm quan hệ Việt Nam - Hoa kỳ, www.dei.gov.vn, cập nhật 13.6.2005

46

tranh và giá cả cạnh tranh, phải có những doanh nghiệp giỏi. Nếu chúng

ta làm được, chắc chắn chúng ta sẽ có những bước phát triển tốt.

2.2.3. Tình hình quan hệ thƣơng mại hai chiều sau Hiệp định thƣơng mại

Ngay sau khi Hiệp định thương mại giữa hai nước được ký kết, đã có

nhiều dấu hiệu khả quan trong cán cân thương mại. Giá trị của tự do mậu dịch

trong một năm đầu tiên thực hiện Hiệp định đã được khẳng định. Cả hai phía

đều có lợi.

Năm 2001, năm tiền đề của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,

thương mại hai nước đều tăng trưởng khá mặc dù trong hoàn cảnh kinh tế,

thương mại toàn cầu đang chững lại. Việt Nam tăng 5 bậc từ 70 năm 2000

đến 66 năm 2001 trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ

Bảng 9: Thương mại hai chiều sau Hiệp định thương mại

2001

2002

2003

2005 (dự tính)

2004

Xuất khẩu

1053

2395

4555

5276

6100

Nhập khẩu

461

580

1324

2200

2804

3231

1815

592

3076

3296

Cán cân TM Nguồn: www.dataweb/usitc.gov , STAR Viet Nam. 12

Đơn vị: Triệu USD

Năm 2002, kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng 504%,

trong đó hàng may mặc tăng gần 1800%. Thực tế là khoảng 90% gia tăng của

tổng kim ngạch xuất khẩu là do tăng trưởng kim ngạch sang Hoa Kỳ. Đến

tháng 12/2003, Hoa Kỳ trở thành thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt

Nam, chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu và đầu tư của Hoa Kỳ vào

Việt Nam (vượt qua con số chỉ tiêu mà các nhà hoạch định chiến lược của

12 Do các nguồn số liệu khác nhau có chênh lệch, nên tạm thời các cột năm 2002 và 2003 trong Bảng 6 chúng tôi sử dụng số liệu của STAR, các cột khác là thống kê của USITC.

Việt Nam đưa ra là 15-20% vào năm 2010), so với chỉ 5% năm 2002. Những

47

con số này là bằng chứng thuyết phục về tác động to lớn của Hiệp định

thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ. Theo số liệu của Tổng cục Hải

quan Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong năm

2003 tăng 63%, tăng nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ tăng 14% trong năm

2003 của tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra các nước khác trên thế

giới.

Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng mức tăng trưởng nhanh đột biến của

năm 2002 là dựa trên một mức xuất phát thấp của năm 2001, vì vậy có thể

chắc chắn rằng việc duy trì mức độ tăng trưởng này trong các năm từ 2003 là

khó có thể đạt được. Có thể nêu một số nguyên nhân chủ yếu như sau:

+ Số lượng doanh nghiệp Việt Nam sản xuất xuất khẩu sang thị trường

Hoa Kỳ hiện nay hầu như đã tận dụng hết năng suất của họ

+ Giá hàng hoá Việt Nam tại Hoa Kỳ đã ở mức bão hoà, đã được giảm

đến mức không có lợi để sản xuất thêm

+ Sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường Hoa Kỳ đã gây ra một số bất lợi

đối với hàng hoá Việt Nam

+ Các rào cản thương mại chưa được gỡ bỏ vẫn đang là cản trở rất lớn

cho hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ.

+ Việt Nam chỉ không phải áp dụng hạn ngạch cho nhóm hàng hàng

may mặc (nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh trong năm 2002) cho đến

ngày 1-5-2003.

Thực tế cho thấy trong năm 2003, hàng Việt Nam xuất vào Hoa Kỳ chỉ

tăng 63%, (mặc dù vẫn tăng nhanh hơn rất nhiều nếu so với tốc độ tăng 14%

năm 2003 của tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam ra các nước khác trên

thế giới). Sự suy giảm này có nguyên nhân từ sự giảm sút nghiêm trọng trong

xuất khẩu hàng may mặc kể từ khi Hiệp định Dệt may Việt Nam – Hoa Kỳ có

hiệu lực, áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với phần lớn hàng may mặc xuất

48

khẩu sang Hoa Kỳ. Nếu như trong năm 2002 tốc độ tăng trưởng xuất

khẩu hàng dệt may đạt mức 1800% thì năm 2003 chỉ tăng 162.7%. Năm

2004, giá trị hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt con số 5276 triệu

USD, tăng 127.0% so với 2003, phần của thị trường này chiếm 19.2% tổng

kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra các nước trên thế giới. Dự kiến năm

2005, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khoảng 120.0%, với tổng giá trị gần 6 tỷ

USD. Trong ba thỏng đầu năm 2005, kim ngạch 2 chiều đạt mức 1,7 tỷ USD,

trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ 1,5 tỷ USD, tăng 36,5% so với

cùng kỳ năm 2004.

Về cơ cấu hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, ngay sau khi Hiệp

định thương mại song phương có hiệu lực, các sản phẩm chế tạo đã chiếm

một tỷ lệ đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu, cơ cấu mặt hàng được cải

thiện tốt. Nếu như trước Hiệp định thương mại, các sản phẩm sơ chế luôn

chiếm từ 60-80% giá trị xuất khẩu thì từ 2002 con số này chỉ là 40%, đến năm

2003 còn 30%. Tương ứng, tỷ trọng của các mặt hàng chế tạo đã tăng lên.

Bảng 10: Sự thay đổi trong cơ cấu hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ sau

Trước Hiệp định TM

Sau Hiệp định TM

2000

2001

2002

2003

Giá trị* %

Giá trị*

Giá trị*

% Giá trị* %

%

Tổng KN XK

821.6

100

1052.6

100

2394.7

100

4554.8

100

Các SP sơ chế

592.7

819.8

994.2

1274.9

HĐTM

70

40

30

80

Các SP chế tạo

228.9

232.8

1400.5

3290.9

30

60

70

20

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ trang web www.ustic.gov. (*) Đơn vị: Triệu

USD

Hiện tại, có thể khẳng định các hàng may mặc và da giày vẫn là các

mặt hàng chủ lực. Năm 2002 giá trị hàng may mặc chiếm 40% tổng giá trị

49

xuất khẩu, con số tương ứng năm 2003 là 50%. Điều này cho thấy Việt

Nam đang có nhiều lợi thế trong xuất khẩu các sản phẩm chế tạo sử dụng

nhiều lao động này. Riêng đối với các sản phẩm dệt may, Uỷ ban Thương mại

Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) nhận định Việt Nam là một trong những nước hàng

đầu ở châu Á có khả năng cạnh tranh được với Trung Quốc. Hiệp hội nhập

khẩu dệt may Hoa kỳ cũng cho biết Việt Nam là sự lựa chọn thứ hai của họ

sau Trung Quốc khi tỡm kiếm nguồn cung cấp hàng từ chõu Á. Tuy nhiờn

trong năm 2005 hàng dệt may Việt Nam đang phải chịu sức ép rất lớn về hạn

ngạch, trong khi các đối thủ cạnh tranh thuộc WTO, đặc biệt là Trung Quốc,

đó được phép xuất khẩu không hạn chế vào thị trường Hoa kỳ. .

Chiếm vị trớ thứ hai trong danh sỏch cỏc mặt hàng xuất khẩu chủ lực

của Việt Nam vào Hoa kỳ là thuỷ hải sản, chiếm 25% kim ngạch nhập khẩu

năm 2002 và 16% năm 2003. Dù vậy, trong năm 2004 riêng sản lượng tôm

đông lạnh xuất khẩu đó giảm hơn 40% và tiếp tục giảm trong những tháng

đầu năm 2005, tương tự với các loại cá da trơn do tác động của vụ kiện bán

phá giá.

Về nhập khẩu, lượng hàng hoỏ Việt Nam nhập khẩu từ Hoa Kỳ cũng đó

tăng nhanh sau khi Hiệp định thương mại được thực hiện. Chúng ta đó ngay

lập tức trở thành một trong số thị trường phát triển nếu không nói là nhanh

chóng nhất cho hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ. Kim ngạch tăng gần ba lần từ

461 triệu USD năm 2001 lên 1.324 triệu USD năm 2003. Tỷ trọng tăng gấp

đôi trong năm 2003 từ mức 2,3% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2002 lên

4,5% năm 2003. Tuy nhiên do tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu,

tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ này cũng chỉ chiếm 12% của tổng tăng trưởng

kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Nhìn từ góc độ khác, số liệu thống kê

cho thấy cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ đã được cải

thiện. Trước Hiệp định thương mại cơ cấu nhập khẩu phản ánh một trình độ

50

phát triển công nghiệp thấp. Tỷ trọng nhập khẩu các nhiên liệu và nguyên

liệu luôn chiếm xấp xỉ 60% từ 1995 đến 2001. Sau 2001, con số lớn này đã

thuộc về các hàng máy móc thiết bị với tỷ lệ 70% giá trị nhập khẩu. Một dấu

hiệu tốt nữa là kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng không tăng sau

Hiệp định, do vậy chiếm phần nhỏ trong cơ cấu , chỉ khoảng 3-4% giá trị

nhập khẩu.

Thặng dư thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2004 đã đạt mức 4.1 tỷ

USD và trước đó là 3.2 tỷ USD năm 2003 đã góp phần giảm đáng kể thâm

hụt thương mại của Việt Nam với các nước khác trên thế giới (7,8 tỷ USD

năm 2003). Tổng thâm hụt thương mại của Việt Nam trong năm 2003 chỉ còn

5,1 tỷ USD. Mặc dù con số thặng dư và thâm hụt thương mại không có tác

động lớn về kinh tế, nhưng việc mở rộng thương mại song phương giữa Việt

Nam và Hoa Kỳ từ khi có Hiệp định thương mại đã phần nào cải thiện cán

cân tài khoản vãng lai của Việt Nam. Theo nhận định của các chuyên gia kinh

tế của Dự án STAR Việt nam thì thặng dư trong mậu dịch song phương của

Việt Nam và Hoa Kỳ còn có thể tăng lên trong tương lai do những cơ hội mở

rộng xuất khẩu hàng Việt Nam sang Hoa Kỳ lớn hơn nhiều so với cơ hôi tăng

xuất khẩu của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Giáo sư James Riedel - cố vấn kinh tế

cao cấp của Dự án STAR cho rằng xu hướng này 2 có nguyên nhân:

+ Thứ nhất, sự ra đời của Hiệp định dẫn đến giảm hàng rào thương mại

đối với hàng Việt Nam nhiều hơn là giảm hàng rào thương mại đối với hàng

Hoa Kỳ vào thị trường Việt Nam

+ Thứ hai, sự chênh lệch rất lớn về quy mô giữa hai nền kinh tế, GDP

Việt Nam chỉ tương đương 0.5% GDP của Hoa Kỳ

Tuy nhiên chắc chắn hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ vào Việt Nam cũng sẽ

tăng dần khi những cam kết từ phía Việt Nam được thực hiện dần trong

những năm tới.

51

Bảng 11. Thương mại với Hoa Kỳ so với tổng thương mại của Việt

% thay đổi

2002 (triệu $)

2003 (triệu $)

Nam

Xuất khẩu

Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ.

2.395

4.555

63%

Việt Nam xuất khẩu sang các nước khác

14.253

16.237

14%

Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam

16.674

20.176

21%

Tỷ trọng xuất khẩu sang Hoa Kỳ (%)

14,5%

19,5%

43%

Nhập khẩu

Việt Nam nhập khẩu từ Hoa Kỳ.

580

1.324

150%

Việt Nam nhập khẩu từ các nước khác

19.098

24.083

26%

Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam

19.556

25.227

29%

Tỷ trọng nhập khẩu từ Hoa Kỳ (%)

2,3%

4,5%

12%

Cán cân thƣơng mại

70%

Tổng cán cân thương mại của Việt Nam

(2.971)

(5.051)

42%

Thặng dư thương mại với Hoa Kỳ .

1.964

2.794

62%

Thâm hụt thương mại với các nước khác

(4.845)

(7.845)

Nguồn: Báo cáo thường niên của Dự án STAR, 2003

Nhìn chung, sau một thời gian ngắn thực hiện Hiệp định thương mại

Việt Nam - Hoa Kỳ, kết quả thực tế cũng phần nào hạn chế bớt những nghi

ngại, định kiến ban đầu đối với doanh nghiệp Việt Nam về khả năng thâm

nhập và tăng trưởng xuất khẩu tại một thị trường mới, lớn, phức tạp như thị

trường Hoa Kỳ. Ở một mức độ nhất định, các doanh nghiệp Việt Nam đã ít

nhiều thể hiện được tính năng động, tận dụng tốt cơ hội tại thị trường Hoa Kỳ.

Nhiều người xem đây như là một kết quả ngoạn mục nằm ngoài những dự

đoán lạc quan nhất.

Trên cơ sở những diễn biến thực tế và số liệu thống kê về tình hình

ngoại thương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ từ năm 2001 đến 2004, Bộ thương

52

mại Việt Nam dự báo các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu Việt Nam -

Hoa Kỳ trong tổng giao dịch thương mại thế giới năm 2010, nghiã là thời

điểm mà có thể Việt Nam đã hoàn tất việc gia nhập WTO như trong Bảng 12.

Loại hàng

Kim ngạch với

Hoa Kỳ

Tổng kim ngạch với các nước trên TG (nghìn USD)

(nghìn USD)

KN với Hoa Kỳ trong tổng KN với TG ( % )

Bảng 12. Dự báo kim ngạch các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam với Hoa Kỳ và thế giới năm 2010

Xuất khẩu

58.100

7.048

12,1

+ Dầu thô

9.000

760

8,4

+ Cà phê

950

154

16,2

+ Đồ gỗ

1572

72

4,5

Nhập khẩu

50.000

5.590

11,1

+ Phân bón

1.020

3,2

0,3

+ Sắt thép

2.600

5,2

0,2

500

21,5

4,3

+ Máy móc, thiết bị

12,0

Tổng kim ngạch

108.000

13.037

Nguồn: Bộ thương mại Việt Nam, 2004

Còn với Hoa Kỳ thì sao?. Mặc dù có nhiều nhận định cho rằng Hiệp

định thương mại đã đem lại cho Việt Nam nhiều hơn vì cán cân thương mại

hai chiều nghiêng về phía Việt Nam. Song trên thực tế, hàng xuất khẩu Việt

Nam sang Hoa Kỳ cũng làm lợi cho kinh tế Hoa Kỳ nhiều, đặc biệt là người

tiêu dùng Hoa Kỳ, vì họ đã mua được sản phẩm với giá thấp hơn giá nhập

khẩu từ những thị trường khác (đây cũng là nguyên nhân chính khiến người

tiêu dùng Hoa Kỳ sử dụng hàng hoá của Việt Nam).

Để suy nghĩ thêm cho điều này, chúng ta có thể tham khảo quan điểm

của Hội đồng thương mại Hoa Kỳ - Việt Nam (US-Vietnam Trade Council)

trong một tổng kết được thực hiện vào 10/2002, về những kết quả mà Hiệp

53

định thương mại song phương đem lại cho từng nước. USVTC đã nhận

định như sau [63, tr.1]:

Hộp 1: Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, mỗi nước nhận được gì?

Hoa Kỳ nhận đƣợc Việt Nam nhận đƣợc

Thâm nhập thị trường các hàng hoá Hoa Kỳ đối xử thương mại

bình thường giống như hơn

công nghiệp và hàng hoá nông nghiệp Giảm được đáng kể thuế quan cho 130 quốc gia khác đã được

nhiều loại hàng hoá công nghiệp và Hoa Kỳ chấp nhận

nông nghiệp (khoảng 30-50%)

Dần dần gỡ bỏ các rào cản phi thuế của Việt Nam. Các doanh nghiệp Hoa

Kỳ được hưởng đầy đủ quyền lợi

thương mại

Được bảo đảm ở cấp WTO cho các sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ sau 18 tháng

kể từ khi HĐ có hiệu lực o Thâm nhập thị trường dịch vụ o Các doanh nghiệp Hoa Kỳ có thể tham gia thị trường tài chính, viễn

thông, phân phối, nghe nhìn, luật

pháp, kế toán, máy móc, máy tính,

nghiên cứu thị trường, xây dựng,

giáo dục, y tế, và dịch vụ du lịch.

Thực hiện từng bước sau 5 năm

54

Hoa Kỳ nhận đƣợc

Bảo đảm cho các dòng vốn đầu tư của Hoa Kỳ, không phân biệt đối xử. Các

nội dung mang tính địa phương, các

yêu cầu về thủ tục xuất khẩu được hạn

chế, nhiều giấy phép đầu tư được gỡ

bỏ

Tăng tính minh bạch của các luật, các văn bản pháp luật và các quy định đã

được Việt Nam ban hành và đang

soạn thảo

2.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUAN HỆ

THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ TRONG THỜI GIAN QUA

2.3.1. Những đổi mới trong chính sách thƣơng mại quốc tế của Việt Nam

Để thấy rõ sự phát triển và những tác động của quan hệ thương mại

Việt Nam - Hoa Kỳ, cần phải phân tích sự đổi mới chính sách kinh tế của Việt

Nam nói chung và những đổi mới chính sách thương mại quốc tế nói riêng

trên con đường chủ động hội nhập vào khu vực và thế giới.

Kể từ năm 1994, trước tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế

có sự thay đổi, Nghị định 33/CP, ngày 19/4/1994 về quản lý Nhà nước về

hoạt động xuất nhập khẩu đã được Chính phủ ban hành nhằm bổ sung, sửa

đổi một số nội dung của Nghị định 114/HĐBT cho phù hợp với tinh hình mới.

Sau đó là Luật thương mại, Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi

hành. Năm 2000, Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu

thời kỳ 2001-2010. Nội dung các văn bản trên quy định:

Nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với thương mại quốc tế: [11, C.I, Đ.3]

- Tuân thủ pháp luật và các chính sách có liên quan của Nhà nước về sản

xuất, lưu thông, xuất nhập khẩu và quản lý thị trường.

55

- Tôn trọng các cam kết đã ký với nước ngoài và tập quán thương

mại quốc tế.

- Bảo đảm quyền tự chủ của các doanh nghiệp và bảo đảm sự quản lý

của Nhà Nước

Kiên trì thực hiện tự do hóa thương mại quốc tế thể hiện qua chính sách

mặt hàng và đối tượng kinh doanh: [11, C.I, Đ.4]

- Tất cả các mặt hàng đều được xuất, nhập khẩu, trừ danh mục các hàng

hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu được công bố trong từng thời kỳ.

- Giảm dần số lượng mặt hàng xuất nhập khẩu theo hạn ngạch, dần tiến

tới xóa bỏ.

- Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được phép kinh doanh

xuất nhập khẩu.

Thực hiện chính sách khuyến khích, hỗ trợ đối với các doanh nghiệp để

nhằm đẩy mạnh xuất khẩu: [11, C.V]

- Thưởng xuất khẩu các mặt hàng mới, thị trường mới.

- Ưu đãi thuế xuất nhập khẩu theo hướng tăng cường xuất khẩu.

- Hỗ trợ về vốn thu mua, dự trữ, vốn đầu tư nâng cao chất lượng các mặt

hàng xuất khẩu.

Hoàn thiện các cơ chế chính sách, công cụ quản lý, tổ chức và điều hành

xuất nhập khẩu: [10, P.III]

- Điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa được rõ,

trước hết là Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài và Luật

Khuyến khích Đầu tư trong nước. Về Luật Thương mại, cần mở

rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO.

- Ban hành các văn bản luật mới để điều chỉnh các quan hệ kinh tế

mới phát sinh trên phương diện quốc tế và quốc gia

- Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hoá - dịch vụ xuất khẩu cho

phù hợp với đòi hỏi của thị trường

- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại

56

Nhìn chung, có thể nói từ những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam

đã có những cải thiện đáng kể nhằm phát triển ngoại thương và thu hút đầu tư

nước ngoài. Đặc biệt sau năm 2000, Chính phủ đã thực sự cải cách mạnh mẽ

và dứt khoát. Đến năm 2001, tất cả các loại hình doanh nghiệp đều được

phép xuất khẩu hầu hết các loại hàng hoá hợp pháp mà không cần giấy phép.

Hơn thế nữa, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá còn được mở cho tất

cả các thương nhân (không chỉ dừng ở các doanh nghiệp). Phạm vi kinh

doanh xuất khẩu cũng không còn phụ thuộc vào ngành hàng ghi trong giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh. Kể từ tháng 1/2002 các doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài cũng được xuất khẩu hàng hoá gần như thương nhân Việt

Nam

Thêm vào đó, Chính phủ Việt Nam cũng đã từng bước cải thiện và tăng

cường hiệu quả các biện pháp khuyến khích xuất khẩu. Từ 2001, Chính phủ

thực hiện chế độ thưởng theo kim ngạch xuất khẩu với diện mặt hàng ngày

càng mở rộng. Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu được ban hành vào quý IV

năm 2001. Để hạ giá thành và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu,

nhiều loại chi phí đã được xem xét miễn giảm. Ngày 26/7/2001, Chính Phủ ra

Quyết định số 908/QĐ-TTg về chế độ áp dụng thuế cho một số doanh nghiệp

vệ tinh cung ứng đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là bước đi quan

trọng nhằm thúc đẩy sự hình thành mối liên kết dọc giữa các doanh nghiệp

tham gia sản xuất hàng xuất khẩu .

Đồng thời công tác thị trường và xúc tiến thương mại cũng đã được Việt

Nam quan tâm đặc biệt. Đối với thị trường Hoa Kỳ, năm 2001, Chính phủ chỉ

đạo tổ chức các đoàn liên ngành đi khảo sát và quyết định thành chương trình

trọng điểm của Nhà nước. Chính phủ cũng cho phép thành lập Trung tâm giới

thiệu sản phẩm của Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Trong lĩnh vực nhập khẩu, nếu như trước đây hạn ngạch là một công cụ

bảo hộ quan trọng của Việt Nam, thì từ 2000 - 2002, số hàng hoá sử dụng rào

57

cản nhập khẩu bằng hạn ngạch đã giảm đi đáng kể. Đến ngày 31/12/2002,

Việt Nam chỉ còn sử dụng biện pháp hạn chế số lượng cho dầu mỏ và đường.

Nhờ có những cải cách mạnh mẽ trong chính sách, một nền kinh tế mở,

hướng ra bên ngoài đã thực sự được hình thành ở Việt Nam. Đặc biệt trong

những năm gần đây, hoạt động thương mại quốc tế ở Việt Nam đã được mở

rộng đáng kể. Cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu đều chiếm một tỷ trọng cao trong

GDP, từ năm 1997-2002, xuất khẩu luôn chiếm từ 35-47% GDP, nhập khẩu chiếm từ 45-50% GDP13. Các con số này cho thấy ngoại thương đã trở thành

một thành tố năng động nhất của nền kinh tế Việt Nam. Với tỷ trọng nhập

khẩu trên GDP trung bình hàng năm đạt gần 50% đã chứng minh ràng Việt

Nam là "một trong những nền kinh tế mở nhất trên thế giới" [20, 2003, tr 14].

Bàn riêng về những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong cải cách luật

pháp và năng lực thể thế, nhằm cải thiện quan hệ thương mại sau khi Hiệp

định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, phải kể đến

một loạt Luật, pháp lệnh và Nghị định đã được Chính phủ ban hành hoặc trình

Quốc hội thông qua trong một thời gian ngắn như: Luật cạnh tranh, Luật

doanh nghiệp nước ngoài, Luật tài chính quốc tế, Luật sửa đổi bổ sung Luật

ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Hải quan, Pháp lệnh chống bán

phá giá, Pháp lệnh bưu chính viễn thông, Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và

đối xử quốc gia... Đặc biệt trong kế hoạch năm 2005, Quốc hội Việt Nam sẽ

thông qua 27 Luật, đây là một trong những dấu hiệu thể hiện mạnh mẽ sự

quyết tâm cải tổ của Nhà nước Việt Nam để hội nhập quốc tế và phát triển nội

lực.

Tất cả những cố gắng, nỗ lực trên đây có thể xem là những thiện chí,

13 Nếu tính cả buôn lậu, con số thể hiện độ mở của của Việt Nam còn lớn hơn nhiều so với các số liệu thống kê chính thức

chủ động từ phía Chính phủ Việt Nam đối với những thoả thuận trong Hiệp

58

định thương mại. Song đây cũng là những động thái có tính bắt buộc khi

chũng ta đã chấp nhận tham gia vào cuộc chơi với Hoa Kỳ nói riêng và cuộc

chiến toàn cầu nói chung. Vấn đề của chúng ta vừa mang trong mình những

lợi ích chủ quan và cả những đòi hỏi khách quan của một xu thế phát triển tất

yếu.

2.3.2. Những nhân tố thúc đẩy từ phía Hoa Kỳ

Kể từ đầu thập kỉ 90, nhận thấy sự phát triển kinh tế và ổn định chính

trị - xã hội ở Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới,

cùng với bối cảnh mới trong khu vực, cũng như toàn cầu, chính quyền Hoa

Kỳ đã thực hiện việc điều chỉnh chính sách thương mại với Việt Nam.

Ngày 3/2/1994 Tổng thống Hoa Kỳ B.Clinton tuyên bố huỷ bỏ cấm vận

thương mại với Việt Nam. Tháng 10/1995 Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam và

Đại diện thương mại Hoa Kỳ thoả thuận hai bên tập trung thúc đẩy quan hệ

kinh tế - thương mại và chuẩn bị đàm phán Hiệp định Thương mại song

phương.

Vào ngày 13/7/2000, Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký một Hiệp định thương

mại song phương mang tính lịch sử, trong đó là cả quá trình thương thuyết

kéo dài 4 năm nhằm bình thường hoá quan hệ thương mại.

Sau khi lên cầm quyền, trên cơ sở thực tiễn quan hệ hai nước từ khi

bình thường hoá đến nay, chính sách của chính quyền W.Bush hầu như không

thay đổi so với trước. Song cũng như các nước ASEAN khác, Việt Nam được

coi trọng hơn về mặt chiến lược vì chính quyền Bush nhấn mạnh tính chất

“cạnh tranh” trong quan hệ với Trung Quốc. Mặc dù vậy, với sự thận trọng,

Hoa Kỳ tránh không làm cho quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng

khu vực xấu đi. Chính quyền Đảng Cộng hoà của Bush đang tiếp tục những

nỗ lực hợp tác kinh tế, thương mại từ chính quyền đảng Dân chủ của Clinton.

59

Tổng thống Bush ủng hộ quan điểm cho rằng mở rộng quan hệ trao đổi

thương mại sẽ góp phần thúc đẩy “cải cách kinh tế và chính trị” tại Việt Nam,

như Tổng thống Bush đã từng nêu: “Để cải thiện thành tích dân chủ, nhân

quyền cũng như điều kiện sống và làm việc, Hoa Kỳ không nên áp dụng các

lệnh cấm vận thương mại đơn phương, mà thay vì đó, thông qua các hiệp định

hợp tác đa phương”. Tháng 6/2001, Tổng thống Bush đã ký bản công bố 7749

và chuyển Hiệp định cho Quốc hội phê chuẩn. Trong bản công bố này Tổng

thống yêu cầu Cơ quan đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) cần quan tâm

đến ngày hiệu lực của Hiệp định. Trong tháng 10 và tháng 12/2001, Hoa Kỳ

và Việt Nam đã phê chuẩn và trao đổi thư về việc chấp nhận và áp dụng Hiệp

định.

Mặc dù Việt Nam chưa phải là đối tượng hàng đầu trong chính sách châu

Á - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, song một nước Việt Nam đổi mới, mở

cửa, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, hội nhập vào các nước khu vực Đông

Nam Á là không trái với tính toán chiến lược của Hoa Kỳ ở khu vực này. Việt

Nam không nằm ngoài mục tiêu mở rộng thị trường sang châu Á của Hoa Kỳ.

Hơn nữa, Việt Nam cùng các nước ASEAN khác đã nằm trong danh sách các nước BEM14, các thị trường xuất khẩu lớn của Hoa Kỳ. Việc bình thường hoá

quan hệ kinh tế thương mại với Việt Nam, Hoa Kỳ cũng có lợi ích cả về kinh

tế lẫn chính trị trong các vấn đề an ninh khu vực và phát triển quan hệ kinh tế

thương mại giữa hai nước. Hoa Kỳ có nhu cầu buôn bán với Việt Nam và đã

có những bước chuẩn bị với mục tiêu duy trì và mở rộng ảnh hưởng của mình

trong khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Tháng 4/ 2004, vị

tân đại sứ của Hoa kỳ tại Việt Nam M.Marine khi phát biểu trước Uỷ ban

14 BEM: Big Emerging Markets: các thị trường lớn đang nổi lên: đây là một sự phân loại được các cơ quan của Chính phủ Hoa kỳ áp dụng đối với các thị trường mà theo quan điểm của Bộ thương mại Hoa kỳ là có thể tương đương nhau về tỷ lệ tăng trưởng GDP, tăng trưởng nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ...

Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ đã nhận định rằng: "Rừ ràng, một Việt Nam

60

phồn vinh và năng động, có vai trũ lónh đạo đóng góp vào ổn định khu vực là hết sức phù hợp với lợi ích của đất nước và nhân dân Hoa Kỳ". [16,

tr.1]

2.4. VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ

THƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ

Chỉ sau khi Hiệp định thương mại song phương chính thức có hiệu lực

một thời gian rất ngắn, vụ tranh chấp cá da trơn đã gây ảnh hưởng xấu, làm

xáo trộn nhiều lĩnh vực sản xuất của Việt Nam. Với sự kiện này, một nhà

nghiên cứu kinh tế người nước ngoài đã bàn luận như sau: "Nước Hoa Kỳ đã

cho thấy rõ một điều: tự do thương mại của kẻ mạnh có nghĩa là sự tự do sử

dụng mọi thủ đoạn từ phía sau nhằm đảm bảo rằng thương mại được bảo hộ

tuỳ vào mệnh lệnh của lợi ích dành cho chính bản thân họ" [58, tr.1].

Thực ra, bản chất của các quy định pháp luật tinh vi sử dụng trong

thương mại quốc tế của Hoa Kỳ trước đây cũng đã bị nhiều nước như Nhật

Bản, EU kiện lên WTO, song vẫn chưa làm thay đổi được gì. Còn đối với

người Việt Nam, tuy đây không phải là lần đầu tiên phải đối mặt với một hiện

tượng tranh chấp thương mại. Theo nghiên cứu của chúng tôi thì từ 1990 đến

hết năm 2004, chúng ta đã gặp phải 9 vụ kiện và điều tra chống bán phá giá.

(Xem Phụ lục 3). Nhưng đối với các vụ kiện liên quan tới Hoa Kỳ gần đây,

15 Theo Đạo luật thương mại Hoa Kỳ năm 1998, có 6 tiêu chí để Bộ Thương mại Hoa kỳ xác định nền kinh tế một nước là nền kinh tế thị trường/ phi thị trường: (1) Mức độ tự do chuyển đổi của đồng tiền nước đó sang ngoại tệ khác; (2) Mức độ tự do khi đàm phán về mức lương giữa người lao động và Ban giám đốc; (3) Mức độ các liên doanh hoặc các hình thức đầu tư khác của Công ty nước ngoài được nước đó cho phép; (4) Mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của Chính phủ đối với các phương tiện sản xuất; (5) Mức độ kiểm soát của Chính phủ đối với sự phân bố các nguồn lực, kiểm soát giá và quyết định về giá/ sản lượng của doanh nghiệp; (6) Những yếu tố thích hợp khác. Theo chúng tôi những tiêu chí này khá mơ hồ, không rõ ràng, mang rất nhiều tính chủ quan.

quan điểm chính trị và thái độ mang tính áp đặt có chủ ý về một "nền kinh tế phi thị trường" 15 đã làm ảnh hưởng, gây bất lợi rất nhiều với chúng ta trong

61

quá trình điều tra 16. Có thể nói, chính sách thương mại quốc tế nói chung

hay việc giải quyết các tranh chấp thương mại nói riêng thường chịu ảnh

hưởng lớn bởi quan hệ chính trị của các nước đối tác. Điều này chắc chắn còn

là vấn đề đối với Việt Nam khi mà giữa Hoa Kỳ và chúng ta vẫn còn một

khoảng cách khá lớn về nhiều khía cạnh.

Đứng ở góc độ quản lý vĩ mô, đó là khoảng cách về chính sách phát

triển giữa một nền kinh tế thị trường phát triển nhất thế giới với một nền kinh

tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, có xuất phát

điểm thấp và đang trong thời kỳ đầu của tiến trình công nghiệp hoá. Là sự

cách biệt giữa một nền kinh tế giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt tiến trình tự do hoá

toàn cầu với một nền kinh tế đang bắt đầu tiếp cận với xu thế này. Thêm vào

đó là sự không đồng thuận trong các quan điểm chính trị và những ấn tượng

quá khứ - mặc dù đã được giải toả về cơ bản nhưng vẫn còn ảnh hưởng đáng

kể đến tiến trình phát triển quan hệ giữa hai nước.

Cụ thể hơn, trong các quan hệ kinh tế, thương mại, giữa Hoa Kỳ và

Việt Nam đang tồn tại những khác biệt sâu sắc trong quan niệm về “sự công

bằng”. Việt Nam hầu như không có quy chế quan hệ thương mại bình thường

(NTR) (hay còn gọi là quy chế tối huệ quốc - MFN), thực hiện chính sách

thương mại bình đẳng đối với các bạn hàng theo nguyên tắc không phân biệt

đối xử. Trái lại, Hoa Kỳ đặc biệt coi trọng việc sử dụng quy chế NTR để gây

áp lực đòi “công bằng” về mức độ mở cửa thị trường. Ngay cả khi Việt Nam

đã được hưởng NTR, điều đó cũng không đồng nghĩa với việc hàng hoá Việt

Nam sẽ hoàn toàn thuận lợi khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Ý chí và mục đích bảo

16 Hiệp định Chống bán phá giá của WTO quy định: nước nhập khẩu sẽ đánh thuế chống bán phá giá với hàng hoá của nước xuất khẩu nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa nước này. Khi nước xuất khẩu bị xác định là một "nền kinh tế phi thị trường" nước nhập khẩu sẽ lấy mức giá của nước thứ ba để so sánh nhằm xác định việc đánh thuế chống bán phá giá. Rõ ràng cách áp dụng như vậy là không công bằng, rất nhiều khả năng hàng hoá của Việt Nam bị coi là bán phá giá nếu Việt nam có lợi thế tuyệt đối / tương đối.

hộ thị trường nội địa của Hoa Kỳ đã và luôn thể hiện một cách tinh vi trong

62

các đạo luật, ví dụ điển hình là Đạo luật chống bán phá giá, Đạo luật

chống trợ cấp...

Một khác biệt quan trọng nữa là chính sách kinh tế của Hoa Kỳ không

chỉ bao hàm những yếu tố, công cụ thuần tuý kinh tế. Hoa Kỳ luôn luôn gắn

các quan hệ kinh tế với việc thúc đẩy dân chủ, truyền bá các "giá trị Hoa Kỳ"

ở nước đối tác. Những khác biệt có tính nguyên tắc nói trên sẽ chi phối toàn

bộ quá trình phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.

Với thực tế đó, trong quá trình hoạch định chính sách thương mại với

Hoa Kỳ, Việt Nam cần phải chú trọng đến các vấn đề sau:

Thứ nhất, việc xây dựng chính sách thương mại với Hoa Kỳ phải dựa

trên tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác, bảo đảm độc

lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh

quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Đặc biệt Việt

Nam phải hoàn toàn tự chủ quyết định đường lối chính sách của mình trong

quan hệ với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một quốc gia phát triển nhất thế giới về mọi

mặt, ý đồ của Hoa Kỳ trong việc bình thường hoá với Việt Nam không chỉ

đơn thuần là đạt được lợi ích trong quan hệ thương mại với Việt Nam, mà còn

nhằm thông qua Việt Nam gây ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á, kiềm chế

ảnh hưởng của Trung Quốc, mở rộng ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở khu vực Châu

Á - Thái Bình Dương. Do vậy, Việt Nam cần có chính sách mềm dẻo, thích

ứng với tình hình tương quan lực lượng và luôn đảm bảo tính chủ động và

bình đẳng trong quá trình đàm phán các Hiệp định cụ thể tiếp theo, cũng như

đàm phán với Hoa Kỳ trong tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới

(WTO).

Thứ hai, trong mục tiêu chiến lược của mình, Hoa Kỳ bao giờ cũng gắn

mục đích chính trị song song với hoạt động thương mại. Do vậy, không thể

loại trừ việc Hoa Kỳ sẽ có những tính toán chính trị, an ninh thông qua thực

63

hiện Hiệp định thương mại song phương. Nhiều nhận định cho rằng chính

sách thương mại hiện nay của Hoa Kỳ đang ngày càng triệt để hơn cái gọi là

"buôn bán bình đẳng" và đã có sự biến dạng trong nguyên tắc "có đi có lại".

Các hoạt động thương mại cụ thể gần đây với Nhật Bản, Trung Quốc...cho

thấy Hoa Kỳ đã bắt đầu giải quyết vấn đề theo kiểu có đi có lại một cách đầy

thực dụng và cứng rắn. Phải khẳng định rằng chính sách nhập khẩu của Hoa

Kỳ luôn có tính hai mặt. Một mặt là tính mở về sự tiếp cận thị trường, do Hoa

Kỳ muốn ép nước đối tác của mình mở cửa thị trường cho hàng hoá Hoa Kỳ

thì trước tiên họ phải mở cửa chính thị trường của mình. Mặt khác, tính đóng

thể hiện qua việc Hoa Kỳ thường lợi dụng chính công cụ tiếp cận thị trường

đó để phục vụ các lợi ích phi kinh tế và các mục đích khác của Hoa Kỳ đối

với các đối tác, tại các thời điểm hoàn toàn theo chủ quan từ phía Hoa Kỳ .

Hơn nữa, thị trường Hoa Kỳ cũng như bất kỳ thị trường rộng lớn nào

khác, đều có những bước thăng trầm, suy thoái và có những vấn đề riêng ở

từng thời điểm. Do vậy, Việt Nam không chỉ dựa vào quan hệ thương mại với

Hoa Kỳ, mà cần kiên trì và nhất quán thực hiện phương châm đa phương hoá,

đa dạng hoá các quan hệ thương mại. Nghĩa là Việt Nam cần phải tiếp tục mở

rộng quan hệ thương mại với nhiều đối tác khác nữa, chứ không chỉ chú trọng

đến quan hệ thương mại với Hoa Kỳ. Trong tương lai Việt Nam cần có chính

sách giữ thăng bằng trong quan hệ thương mại với tất cả các bạn hàng trên thế

giới. Nhất là trong bối cảnh như hiện nay, khi mà Hoa Kỳ đang mong muốn

mở rộng chiến tranh chống khủng bố sang một số nước. Mặt khác, cũng

không nên để hàng xuất khẩu của Việt Nam quá phụ thuộc vào mỗi một thị

trường Hoa Kỳ. Bài học rút ra từ thực tế Singapo là khi 40% hàng điện tử của

nước này xuất sang Hoa Kỳ và khi thị trường Hoa Kỳ có biến động đã kéo

theo sự mất ổn định của thị trường Singapo

64

Thứ ba, pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Việt Nam khác nhau rất nhiều. Hiểu được pháp luật Hoa Kỳ, nhất là nắm được hệ thống án lệ 17 của

họ trong tranh chấp hương mại hoàn toàn không phải là điều dễ dàng. Bên

cạnh đó, về cơ chế quản lý, có sự khác biệt giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Ví dụ

trong lĩnh vực bản quyền và xuất bản, tại Việt Nam, tất cả các xuất bản đều

cần có phép của Chính phủ. Vì vậy, Hoa Kỳ có thể buộc Chính phủ Việt Nam

có trách nhiệm đối với bất kỳ mọi vi phạm về bản quyền. Trong khi đó tại

Hoa Kỳ, xuất bản không đòi hỏi giấy phép của Chính phủ. Vì vậy, Chính phủ

Hoa Kỳ sẽ dễ dàng từ chối mọi trách nhiệm đối với việc vi phạm bản quyền ở

phía Hoa Kỳ. Hơn thế nữa, từ nay cho tới khi chúng ta gia nhập được WTO,

các tranh chấp của chúng ta chỉ có thể giải quyết được thông qua Hiệp định

thương mại song phương. Mà các quy định về giải quyết tranh chấp trong

Hiệp định không được đầy đủ, không có cơ chế hoặc cơ quan chức năng riêng

để giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả, công bằng. Vì vậy, khi xảy tranh

chấp, bất lợi chắc chắn nghiêng về phía Việt Nam. Số liệu thống kê thực tế

của WTO cho thấy xác xuất để các nước chưa phải là thành viên WTO bị áp

dụng thuế chống bán phá giá là rất cao một khi bị điều tra. Tiêu biểu là trường

hợp Nga 33/39 vụ điều tra bị áp thuế (từ 1995 - 2001), và Ucraina 53/62 vụ,

Trung Quốc 178/255 vụ (tỷ lệ này đã giảm đi đáng kể sau khi Trung Quốc gia

nhập WTO).

Thứ tư, người Hoa Kỳ luôn luôn phản đối và chưa bao giờ từng thực

hiện một Hiệp định thương mại toàn diện, xuất phát từ hai mối lo ngại: "các

bạn hàng buôn bán của chúng ta (Hoa Kỳ) sẽ có những tiêu chuẩn thấp hơn về

17 Hệ thống Pháp luật Hoa Kỳ là hệ thống luật Common Law với đặc điểm cơ bản là sự thiếu hệ thống hoá, bất thành văn, chủ yếu dựa vào tiền lệ xét xử (hay còn gọi là án lệ). Common Law bao gồm các nguyên tắc pháp lý hàm chứa trong các phán quyết của toà án. Toà án không chỉ là cơ quan xét xử mà còn là cơ quan làm Luật. Hơn nữa trong hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ không có sự phân biệt riêng rẽ giữa pháp luật thương mại và pháp luật dân sự. Vì vậy, các Luật sư ở Hoa kỳ có một vị trí không thể thiếu, họ là những người chủ yếu xác định các giá trị pháp lý.

môi trường và lao động, điều này sẽ mang lại cho họ một lợi thế không công

65

bằng ở thị trường của chúng ta" và"ngày càng nhiều người lao động của

chúng ta sẽ mất việc làm và phải làm lại từ đầu". Do vậy Hoa Kỳ sẽ "tìm cách

đưa ra những tiêu chuẩn về người lao động và môi trường trên khắp thế giới"

[19,tr.458] và coi đây là một phần tất yếu của tất cả các chương trình nghị sự

và các hoạt động cụ thể về buôn bán của Hoa Kỳ. Và tất nhiên Việt Nam

không thể là một trường hợp được loại trừ.

Thứ năm, trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, hiện nay chúng ta

đang ở thế xuất siêu. Với tiềm lực kinh tế của Hoa Kỳ, hiện tại có thể đây vẫn

chưa phải là vấn đề gây sự quan tâm nhiều lắm cho các nhà điều tiết chính

sách thương mại Hoa Kỳ, cũng như chưa cần có một đối sách cụ thể. Song

Việt Nam vẫn cần phải lường trước những khả năng Hoa Kỳ sẽ thực hiện sự

"công bằng" trong thương mại, hoặc các quyết định bất ngờ khác. Nhất là

trong điều kiện sự thâm hụt trong cán cân thương mại đã là một vấn đề cần

giải quyết tại Hoa Kỳ. Bài học từ trường hợp Singapore ở thập kỷ 90 đã cho

thấy chỉ cần Hoa Kỳ có nhận định về tiềm lực của một "con rồng Châu Á"

ngay lập tức họ thực hiện bãi bỏ Quy chế tối huệ quốc.

Tóm lại, trong quan hệ với Hoa Kỳ nói chung và ở lĩnh vực thương mại

nói riêng, chúng ta cần phải biết ứng xử theo cách mà người Hoa Kỳ vẫn

thường làm là "đối phó với một cơn bão xa có thể đổ vào bờ biển là khôn

ngoan hơn nhiều so với việc phớt lờ tiếng sấm cho đến khi những đám mây

đen phủ kín ở trên đầu" [19, tr.459]

66

CHƯƠNG 3

TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ

3.1. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM -HOA KỲ

Phải khẳng định rằng, sau những thuận lợi ban đầu, quan hệ thương

mại Việt Nam - Hoa Kỳ từ cuối năm 2003 cho đến nay đã có những dấu hiệu

chững lại và đang gặp nhiều vấn đề có tính sự vụ, phải giải quyết bằng các

biện pháp chấp nhận, thích ứng. Vậy những vấn đề gì phải đặt ra khi dự báo

triển vọng về quan hệ thương mại của hai nước?

Theo quan điểm của chúng tôi, với Việt Nam, Hoa Kỳ là một đối tác

mới mẻ trong giao lưu kinh tế. Mặt khác các mâu thuẫn từ phía Hoa Kỳ

thường nhạy cảm, gây nhiều tranh cãi hơn là đối với các bạn hàng khác.

Trước những gì còn mới, khác thường và nhất là để đạt được nó không dễ,

người ta thường kỳ vọng và trông đợi ở nó nhiều cái lớn lao. Khi gặp phải

những khó khăn nhất định ở vào các thời điểm nóng, chắc chắn vấn đề sẽ trở

nên bức xúc và mang nhiều tính quan niệm phức tạp hơn. Hơn thế nữa, từ

trước tới nay, Hoa Kỳ luôn là nước sử dụng nhiều các biện pháp hạn chế

thương mại. Riêng thuế chống phá giá cũng đã được Hoa Kỳ áp dụng với 41

quốc gia. Các nước Châu Á với khoảng 45% kim ngạch nhập khẩu của Hoa

Kỳ, thì chiếm 47% số vụ chống phá giá, Châu Âu có 21% kim ngạch nhập

khẩu thì là đối tượng của 30% vụ chống phá giá [20, 2003 tr.58]. Vì vậy, nếu

nhìn vào kinh nghiệm phát triển của các nước khác trong quan hệ thương mại

với Hoa Kỳ, có thể khẳng định quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn đang

diễn ra tốt đẹp, có tiềm năng đem lại những cơ hội phát triển lớn trong tương

lai. Chính vị tân Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam M.Marine cũng cho rằng “Việc

tiếp tục tăng cường mối quan hệ giữa Hoa kỳ và Việt Nam về cả chiều sâu lẫn

67

chiều rộng đang có triển vọng rất tươi sáng. Điều then chốt để tiếp tục

đạt được tiến bộ là phải kiên nhẫn, đồng thời phải có niềm tin trong quan hệ hợp tỏc với nhau” [16, tr.1] 18.

Vì vậy, vấn đề cần thiết ở thời điểm hiện nay là xác định rõ những cơ

hội và thách thức để có những định hướng đúng đắn, mang tính dài hạn, phát

huy tốt những kết quả đã đạt được, đồng thời hạn chế những trở ngại không

mong muốn.

3.1.1. Những cơ hội thuận lợi để phát triển quan hệ thƣơng mại Việt

Nam- Hoa Kỳ

Thứ nhất, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế và tự do hoá

thương mại đang phát triển mạnh mẽ, tạo những biến đổi sâu sắc trong kinh

tế, thương mại thế giới, thức đẩy việc hợp tác giữa các quốc gia, khu vực với

nhau. Dù trình độ phát triển có thể chênh lệch song các nước đều đang có

khuynh hướng ngày càng xích lại gần nhau hơn, phụ thuộc lẫn nhau. Trong

khi đó, Hoa Kỳ lại đang có chính sách hướng về các nước Đông Á nhằm củng

cố quan hệ cạnh tranh giữa ba trung tâm Hoa Kỳ - EU - Nhật bản, và ngược

lại Đông Á cũng luôn hướng về Hoa Kỳ để mở rộng thị trường. Sự ra đời

APEC là kết quả của xu thế tự do hoá thương mại và sự nỗ lực thúc đẩy để

gặp gỡ lẫn nhau của tất cả các nước thành viên trong đó có cả Hoa Kỳ và Việt

Nam

Thứ hai, việc ký kết Hiệp định thương mại song phương giữa Hoa Kỳ

và Việt Nam, Hiệp định dệt may đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong lịch sử

quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, tạo ra cơ sở pháp lý để cả hai bên đưa mối quan

hệ hợp tác kinh tế thương mại lên một tầm vóc mới nhằm khai thác nhiều hơn

tiềm năng của mỗi bên.

18 Đại sứ Hoa Kỳ M.Marine Phỏt biểu trước Phũng Thương mại Hoa kỳ tại Hà Nội vào tháng 4 năm 2004

68

Thứ ba, trong quan hệ thương mại hai chiều trên cơ sở cùng có lợi,

Việt Nam không có hàng cạnh tranh trực tiếp với Hoa Kỳ. Ví dụ như tôm của

Việt Nam chỉ có tôm sú không có tôm thẻ, ngược lại Hoa Kỳ không có tôm

sú, chỉ có tôm thẻ. Nông sản Hoa Kỳ có lúa mỳ, đậu tương, ngô thì Việt Nam

không có để xuất khẩu các mặt hàng đó nhưng lại có các loại hoa quả nhiệt

đới mà Hoa Kỳ không có, Việt Nam có lao động rẻ còn Hoa Kỳ có công nghệ

cao, dịch vụ tốt

Thứ tư, các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường Hoa

Kỳ là những mặt hàng Việt Nam đang có tiềm năng về nguồn lực phục vụ sản

xuất, khai thác để xuất khẩu như thuỷ hải sản, nông sản hoặc những mặt hàng

sử dụng lợi thế cạnh tranh về nhân công giá rẻ như dệt may, giày dép (hiện

nay Việt Nam được xem là có giá nhân công rẻ vào hàng bậc nhất trong khu

vực - xem Bảng 12)...Mặc dù hiệu quả xuất khẩu sang Hoa Kỳ những mặt

hàng này chưa cao song cũng đã tạo nên tiền dề thuận lợi để các doanh nghiệp

Việt Nam làm quen, tiếp cận thị trường Hoa Kỳ, tạo nền tảng để từng bước

mở rộng thêm các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ, đồng thời phần nào hình

thành nên thói quen tiêu dùng hàng Việt Nam của người dân nước này.

Nhật bản

13,00

Đài Loan

2,17

Singapore

2,67

Nam Triều Tiên

2,30

Hồng Kông

2,43

Malaixia

1,56

Thái Lan

0,86

Philipin

0,53

Indonexia

0,41

Việt Nam

0,16

Bảng 13: Giá thuê nhân công ở một số nước Châu Á Đơn vị: USD / người / ngày

69

Nguồn: Bộ Thương mại Việt nam, 2002

Thứ năm, xét về chủng loại mặt hàng, Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu

nguyên vật liệu, chưa có hàng công nghiệp. Một ví dụ cụ thể là nhóm hàng

thuỷ hải sản của chúng ta phần lớn là hàng thô, đông lạnh. Hoa Kỳ nhập về

rồi lại chế biến tiếp. Điều này vừa đem lại lợi ích cho Hoa Kỳ là giải quyết

vấn đề về nguyên liệu, vừa góp phần tạo thêm công ăn việc làm, thu nhập và

giá trị gia tăng cho các công ty của Hoa Kỳ

Thứ sáu, chúng ta hoàn toàn có cơ hội tăng trưởng kim ngạch xuất nhập

khẩu nhanh bởi xuất phát điểm của chúng ta là một con số quá nhỏ nếu so

sánh với các nước trong khu vực

Bên cạnh những yếu tố thuận lợi cơ bản nêu trên, trong quan hệ thương

mại Việt Nam - Hoa Kỳ đang còn nhiều tồn tại và vấp phải không ít khó khăn,

thách thức

3.1.2. Những khó khăn và thách thức trong phát triển quan hệ thƣơng

mại Việt Nam - Hoa Kỳ.

a. Những khó khăn của Việt Nam

Bàn về những yếu kém từ bên trong nền kinh tế, đầu tiên phải đề cập

đến các doanh nghiệp - chủ thể chủ yếu quyết định sự thành bại của quá trình

giao lưu thương mại, các đấu sĩ chính trên thương trường. Có thể khẳng định

rằng nội lực các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói chung và sang thị

trường Hoa Kỳ nói riêng còn rất thấp kém. Đa số có quy mô vừa và nhỏ, tiềm

lực về vốn và nhân lực rất hạn chế. Chúng ta là những người đến sau, muốn

chiếm được thị phần, tăng cường quy mô và giá trị xuất khẩu, điều trước tiên

là hàng hoá phải thể hiện được sức cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ. Vấn đề

cốt lõi trong cạnh tranh của hàng hoá là năng lực sản xuất, nội lực của các

doanh nghiệp. Trong khi đó, cơ cấu sản xuất các ngành sản xuất hàng xuất

70

khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ còn lạc hậu hơn rất nhiều so với một số

nước có cùng chủng loại mặt hàng khác, hàm lượng công nghệ kết tinh trong

sản phẩm thấp do trình độ kỹ thuật của các ngành sản xuất này còn ở mức

trung bình, thậm chí còn lạc hậu từ một đến hai thế hệ so với các nước đang

phát triển khác. Mặt khác, sự non trẻ và phần nào còn lúng túng trước những

định chế kinh tế thị trường của các doanh nghiệp của Việt Nam có thể cũng là

một yếu tố chính làm cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hầu như chưa có

tên tuổi trên thị trường Hoa Kỳ.

Mặt khác, hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung còn rất ít loại là

sản phẩm tinh chế và chế biến có tỷ lệ nội địa cao, còn phụ thuộc khá nhiều

vào nguồn nguyên liệu nước ngoài và phổ biến phải xuất khẩu gián tiếp qua

trung gian nước ngoài. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị

trường Hoa Kỳ như dệt may, giầy dép chủ yếu là chủng loại hàng gia công và

nguyên liệu. Đây là hai mặt hàng chiếm tới 60% kim ngạch xuất khẩu của

Việt Nam sang Hoa Kỳ hàng năm song hiệu quả xuất khẩu của chúng lại chưa

cao. Trên 80% khối lượng là hàng gia công cho nước ngoài và phần lớn lại

phải xuất khẩu gián tiếp qua các trung gian nước ngoài. Thực chất, cách làm

này chỉ tạo ra một lượng giá trị gia tăng thấp dựa trên giá nhân công về cơ bản

là rẻ mà thôi. Thực trạng hiện nay của ngành da giày là một ví dụ cho khuynh

hướng sản xuất hàng gia công giá rẻ, lợi ích thu lại thấp. Ngoại tệ trung bình

thu về chỉ xấp xỉ 18% kim ngạch xuất khẩu với đơn giá bình quân chỉ 5-10

USD/đôi. Do đó, mặc dù có đạt doanh thu xuất khẩu lớn nhưng hiệu quả thực

tế có được từ hai mặt hàng xuất khẩu chính này lại rất nhỏ. Điều này cũng

không khả quan hơn đối với các sản phẩm về nông sản và thuỷ sản.

Thêm vào đó, chất lượng sản phẩm hàng hoá xuất khẩu thấp chưa

đáp ứng được yêu cầu của thị trường Hoa Kỳ. Hầu các ngành hàng hàng nông

thuỷ sản và chế biến xuất khẩu đều chưa ổn định về chất lượng do máy móc

71

thiết bị chưa được hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, dẫn đến

điều kiện sản xuất, chế biến chưa đảm bảo tốt các tiêu chuẩn vệ sinh môi

trường, khả năng bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch thấp, tỷ lệ thất thoát sau

thu hoạch cao. Hơn nữa, phần lớn hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chưa đáp

ứng được các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam

chưa áp dụng các Bộ tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, tiêu chuẩn HACCP 19.... Cho nên, nhiều chủng loại hàng hoá của Việt Nam chưa đạt được tiêu

chuẩn theo quy định của Hoa Kỳ hoặc tương đương tiêu chuẩn của Hoa Kỳ

nên chưa có khả năng xuất khẩu sang thị trường này.

Nhìn từ góc độ phân phối, cho đến nay hệ thống các kênh phân phối

vào thị trường Hoa Kỳ vẫn còn bị phụ thuộc nhiều vào hệ thống kênh phân

phối của nước ngoài làm cho phương thức xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm cuả

Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ còn yếu kém, thiếu hiệu quả; các doanh

nghiệp cũng như sản phẩm hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chưa có vị trí

ổn định và phát triển được trên thị trường Hoa Kỳ.

Hơn nữa, năng lực cạnh tranh và khả năng tiếp thị của các doanh

nghiệp Việt Nam còn yếu. Hầu hết có quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý lẫn

công nghệ, lại hình thành và hoạt động quá lâu trong cơ chế bao cấp. Có thể

nói, Việt Nam chưa tạo ra được những cơ chế, biện pháp có hiệu lực nhằm

kích thích, thúc đẩy các doanh nghiệp gắn sự tồn tại và phát triển của mình

với việc cải tiến sản xuất kinh doanh, với khả năng cạnh tranh trên thương

trường, nhất là thương trường quốc tế. Ngoài ra, vấn đề tiếp thị và trình độ

marketing của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường nước ngoài còn

yếu. Cụ thể ở đây là khi thực hiện một dự án hợp tác thì phía các doanh

nghiệp Việt Nam thường không tham gia tích cực vào phần bán hàng và làm

nhiệm vụ marketing quốc tế. Đây là hạn chế nhất của doanh nghiệp Việt Nam, 19 Tiêu chuẩn HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point) - Phân tích và xác định các điểm nguy hại trọng điểm

72

vì như thế Việt Nam sẽ dần dần mất đi tính chủ động trên thị trường thế

giới cũng như không nắm được nhu cầu thị hiếu của khách hàng và điều đó

dẫn đến vai trò của doanh nghiệp Việt Nam bị chi phối trong các hình thức

hợp tác.

Đáng lo hơn, các doanh nghiệp Việt Nam thưòng thiếu thông tin thị

trường, ít hiểu biết về đối tác. Đây cũng là một nguyên nhân cho việc đến nay

các doanh nghiệp vẫn chỉ tập trung vào sản xuất một số ít mặt hàng đã xuất

khẩu được sang thị trường Hoa Kỳ, gây nên tình trạng nghèo nàn về chủng

loại hàng hoá xuất khẩu, không thích ứng kịp với thị hiếu tiêu dùng của Hoa

Kỳ, không tạo ra được thị trường cho các sản phẩm mới. Sự tập trung cao độ

này sẽ dễ dàng tạo ra các nguy cơ rủi ro cao khi có sự thay đổi trong các thoả

thuận, hợp đồng, môi trường thương mại song phương và các điều kiện khách

quan khác.

Một trở ngại nữa là hàng hoá của chúng ta phải cạnh tranh khốc liệt

với các sản phẩm cùng loại của các đối thủ mạnh như Trung Quốc và các

nước ASEAN khác. Áp lực này trên thị trường Hoa Kỳ đang ngày một gia

tăng khi mà hầu hết các nước này đã được hưởng chế độ GSP của Hoa Kỳ,

các ưu đãi của WTO trong khi Việt Nam vẫn còn chưa gia nhập được tổ chức

này.

Đối với các nước ASEAN nhiều nghiên cứu đã nhận định “hợp tác

ASEAN mang tính cạnh tranh nhiều hơn là bổ trợ nguồn lực giữa các nước

thành viên để cùng phát triển” [47.tr74]. Xuất phát từ thực tế là Việt Nam có

trình độ phát triển kinh tế thấp hơn các nước thành viên chủ chốt của ASEAN

như Singapore, Thái Lan, Malaysia, Inđônêxiavà Philipines, nên sức cạnh

tranh của hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Hoa

Kỳ đều thấp hơn các nước này. Cơ cấu sản xuất hàng hoá xuất khẩu sang Hoa

Kỳ và lợi thế cạnh tranh của Việt Nam với các nước này có nhiều nét tương

73

đồng, trong khi đó các nước này đã có trình độ công nghiệp hoá cao hơn

Việt Nam khoảng 10 năm. Rất nhiều công nghệ hiện đại đã được các nước

phát triển chuyển giao cho các nước này, trong khi Việt Nam mới chỉ được

chuyển giao công nghệ thế hệ trước như điện tử.

Đối với Trung Quốc, nước vừa mới là thành viên của Tổ chức Thương

mại thế giới (WTO), hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều

khó khăn hơn vì phải cạnh tranh với hàng của Trung Quốc trên cùng một thị

trường trong điều kiện xuất phát từ thực tế là Trung Quốc là nhà xuất khẩu

lớn các sản phẩm có hàm lượng lao động cao và hàng của họ được hưởng

nhiều chế độ ưu đãi hơn Việt Nam. Mặt khác, trong thời gian từ nay đến khi

Việt Nam được gia nhập WTO, hàng của Việt Nam sẽ phải tiếp tục cạnh tranh

trên thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện chưa được Hoa Kỳ dành cho hưởng

những ưu đãi như các nước đã là thành viên của WTO.

b. Những thách thức đối với Việt Nam từ phiá Hoa Kỳ

Việt Nam mới được hưởng quy chế tối huệ quốc chưa đầy đủ của

Hoa Kỳ nên còn nhiều bất lợi đối với hàng hoá xuất khẩu. Đây là lý do chính

mà quan hệ kinh tế, thương mại hai nước chưa bình thường, chưa tạo sân chơi

bình đẳng cho hàng hoá của Việt Nam vào Hoa Kỳ, trong khi hàng hoá của

Hoa Kỳ vào Việt Nam vẫn không bị phân biệt đối xử gì

Đặc biệt trong quan hệ thương mại, rào cản lớn nhất cần tháo gỡ là

các chính sách cũ để lại, Điều luật Jackson Vanik chưa được xóa bỏ hoàn

toàn, quyền sử dụng vốn vây Ngân hàng xuất nhập khẩu (EXIMBANK) và

bảo lãnh đầu tư cho các công ty Hoa Kỳ làm ăn với Việt Nam chưa được tạo

điều kiện thuận lợi về thủ tục

Việt Nam còn bị phân biệt đối xử trong các tranh chấp thương mại,

còn phải đối phó với một số vấn đề phát sinh từ bản chất cạnh tranh tự nhiên

74

của một số nhóm đặc quyền có ảnh hưởng ở Hoa Kỳ (như trường hợp vụ

kiện cá da trơn). Tuy nhiên đây là nước vấn đề đòi hỏi thời gian và kinh

nghiệm để chúng ta học được cách đối phó và xử lý những vấn đề tương tự

như những nước khác đã từng vượt qua sau thời gian giao thương ban đầu vói

Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ thường gắn những vấn đề không liên quan đến thương mại:

ví dụ như các vấn đề về nhân quyền, dân chủ, môi trường... làm áp lực trong

buôn bán thương mại. Điều này được thể hiện rõ trong đàm phán, ký kết Hiệp

định. Hoa Kỳ dùng con bài nhân quyền làm nền tảng cho sự hợp tác quốc tế.

Chính vì vậy, Việt Nam đã là thành viên của ASEAN nhưng hiện nay trong

một số quy chế của Hoa Kỳ, Việt Nam vẫn chưa được hưởng các chính sách

chung của Hoa Kỳ dành cho khối ASEAN

Tuy nhiên, vượt qua tất cả những trở ngại đó, dù sao thị trường Hoa Kỳ

vẫn là một thị trường lớn nhất và tương đối "mở" nhất cho hàng xuất khẩu

Việt Nam. Hoa Kỳ đã nhập khẩu từ Việt Nam nhiều hơn EU 50% những mặt

hàng chế tạo, kể cả dệt may

Nhìn chung, về nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, thách thức nêu

trên bên cạnh những nguyên nhân khách quan thì nguyên nhân chủ quan là do

Việt Nam chưa có được một chiến lược lâu dài, toàn diện về phát triển thương

mại với các quốc gia, khu vực trên thế giới nói chung và với Hoa Kỳ nói

riêng. Chậm trễ trong việc triển khai các chủ trương chính sách mới: năng lực

tổ chức thực hiện đường lối yếu kém cộng với những hạn chế vốn có của nền

kinh tế vừa thoát khỏi cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp tạo nên.

Chính những nguyên nhân chủ quan này cũng dẫn đến việc đối phó, xử lý khi

xẩy ra các nguyên nhân khách quan chưa được phù hợp, khéo léo, tăng thêm

trở ngại trong phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

75

3.2. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CHUNG

PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ.

3.2.1. Phấn đấu gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trƣờng Hoa Kỳ.

Để thực hiện tốt mục tiêu này, Việt Nam cần tích cực cải thiện tình trạng

xuất khẩu hiện nay vào Hoa Kỳ với những phương hướng chủ yếu sau:

a. Phát triển chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hình

thành những ngành xuất khẩu chủ lực, mũi nhọn quan trọng vào thị trường

Hoa Kỳ.

Như chúng tôi đã đề cập ở phần trên, kinh nghiệm các nước và lãnh thổ

đã và trải qua con đường tăng trưởng nhanh hướng vào xuất khẩu cho thấy có

một mô hình chung là trong giai đoạn phát triển đầu tiên, các nước đều lấy

các nghành khai thác lợi thế tự nhiên của đất nước làm chủ đạo; giai đoạn

tiếp sau, vị trí chủ đạo chuyển sang các nghành công nghiệp chế biến tận dụng

lợi thế nhân công rẻ; Giai đoạn thứ ba là phát triển các nghành công nghiệp có

hàm lượng công nghệ cao.

Nền kinh tế Việt Nam hiện đang còn ở một điểm xuất phát rất thấp. Xét

về cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, cơ cấu xuất nhập khẩu... thì nước ta đang

ở những bước đi đầu tiên trên con đường công nghiệp hoá. Tuy nhiên, trong

nền kinh tế cũng đã xuất hiện những điều kiện để chuyển mạnh sang giai đoạn

thứ hai, đó là: lực lượng lao động dồi dào với trình độ giáo dục phổ thông đủ

khả năng tiếp thu các kỹ thuật sản xuất công nghiêp không quá phức tạp; các

nghành công nghiệp, dịch vụ yểm trợ và cơ sở hạ tầng đã được phát triển một

bước ...Từ đó có thể thấy rằng cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian

trước mắt sẽ phải là sự kết hợp giữa các ngành khai thác lợi thế tự nhiên. Chủ

yếu là nông nghiệp và các ngành công nghiệp tận dụng nhân công.

76

b. Trong điều kiện Việt Nam ngày càng tham gia sâu sắc vào thị

trường khu vực và thế giới, việc cải cách hệ thống thuế để khuyến khích

xuất khẩu là hết sức cần thiết và phải được thực hiện nhanh chóng, hợp lý.

Mục tiêu của chính sách thuế ở nước ta đã được xác định là tạo sự cân bằng

trong cán cân thanh toán quốc tế đồng thời khuyến khích tăng trưởng xuất

khẩu ở một số ngành, góp phần bảo hộ thị trường nội địa.

Việc sử dụng đúng các chính sách khuyến khích về thuế có tác dụng căn

bản đối với quá trình tăng trưởng lâu bền ở nước ta trên hai khía cạnh đó là:

nâng cao tiết kiệm trong toàn bộ nền kinh tế (tăng khối lượng vốn đầu tư nội

địa) và thúc đẩy sự phát triển của những ngành ưu tiên. Trong giai đoạn tới ở

nước ta, sự khuyến khích về thuế cần được dành cho :

- Các ngành và doanh nghiệp đang sản xuất các sản phẩm xuất khẩu sang

thị trường Hoa Kỳ được ưu tiên.

- Các ngành và doanh nghiệp đang sản xuất các sản phẩm thay thế nhập

khẩu.

- Các ngành và doanh nghiệp đang tận dụng có hiệu quả các nguồn lực

sẵn có.

c. Bên cạnh việc thực hiện các chính sách về thuế, chính sách tín dụng

ưu đãi cũng là cần thiết bởi hiện nay, tình trạng không đủ vốn tài chính vẫn là

trở ngại lớn cho xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Theo Bộ Thương mại,

nhiều ngành xuất khẩu không phát triển hết công suất cũng do thiếu vốn;

nhiều tổ chức tư nhân và các doanh nghiệp nhỏ không được hoặc rất khó khăn

trong việc vay vốn;

Sở dĩ tình trạng này còn chưa được giải quyết là do các nguồn vốn tiết

kiệm và đầu tư nội địa của Việt Nam còn rất hạn chế. Căn cứ vào điều kiện

phát triển và mục tiêu kinh tế cụ thể của đất nước trong giai đoạn tới, có thể

nêu một vài đề xuất mang tính giải pháp cho vấn đề này như sau:

77

- Kiên trì nguyên tắc định hướng chính sách lãi suất trong giai đoạn

tới là không chỉ duy trì mức lãi suất dương mà còn phải giữ ở mức cao đủ

hấp dẫn huy động các khoản tiết kiệm trong dân cư.

- Thay đổi cơ cấu lãi suất cũng là một yêu cầu hết sức cấp bách. Một cơ

cấu lãi suất tín dụng ngắn hạn cao hơn dài hạn sẽ có thể làm méo mó các tín

hiệu thị trường đối với tiết kiệm và đầu tư. Hơn nữa, công cuộc cải tổ cơ cấu

theo định hướng xuất khẩu ở nước ta luôn cần đến một khối lượng khổng lồ

các khoản tín dụng dài hạn, nhưng cơ cấu lãi suất hiện tại không khuyến

khích người dân gửi tiết kiệm dài hạn. Nguồn vốn đầu tư dài hạn bị thiếu hụt

sẽ gây ra những tổn hại lớn trong quá trình tăng trưởng.

Khi đã có được nguồn tín dụng dành để thực hiện chính sách ưu đãi, việc

xác định đối tượng và mức độ ưu đãi cũng hết sức cần thiết. Hình thức ưu đãi

tín dụng có thể chủ yếu là ưu đãi về khối lượng và thời hạn tín dụng. Về

nguyên tắc, để không làm méo các quan hệ thị trường, việc cung cấp tín dụng

ưu đãi ít khi bao hàm sự ưu đãi lãi suất. Đối với trường hợp Việt Nam, điều

này còn được lý giải bằng việc khắc phục tình trạng bao cấp vốn - yếu tố đối

nghịch với các quan hệ thị trường, triệt tiêu các động lực cạnh tranh lành

mạnh và duy trì một hiệu quả đầu tư thấp. Tuy nhiên, việc xử lý vấn đề lãi

suất ưu tiên có thể cũng có những ngoại tệ, mục tiêu cuối cùng vẫn là tạo điều

kiện thuận lợi tối đa cho một số doanh nghiệp được xếp vào diện ưu tiên phát

triển, tham gia cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ.

Liên quan đến nhiệm vụ khắc phục tình trạng không đủ vốn ở Việt Nam

hiện nay còn là việc tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận đến các nguồn

vay nước ngoài. Hiện nay đã có nhiều ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh và

văn phòng đại diện ở Việt Nam. Điều đó hé mở cho các doanh nghiệp nước ta

khả năng tìm kiếm và mở rộng nguòn đầu tư. Song vì nhiều lý do, trong đó

đặc biệt là lý do thể chế (quy tắc bảo lãnh cho vay), cho đến nay kênh tín

78

dụng này nhìn chung vẫn còn khá "đóng cửa" với các doanh nghiệp Việt

Nam . Sự gợi ý ở đây là chính phủ cần hỗ trợ cho một số doanh nghiệp xác

định, sao cho họ nhanh chóng có đủ tư cách và các điều kiện cần thiết để vay

vốn nước ngoài.

d. Chính phủ nỗ lực đàm phán để Hoa Kỳ gỡ bỏ dần những ràng buộc,

hạn chế về hạn ngạch xuất khẩu, mở rộng thị trường hơn nữa cho Việt Nam

đối với các mặt hàng như Dệt may, giày dép, thuỷ sản, thủ công Mỹ nghệ ,

gạo...

e. Hỗ trợ, tháo gỡ những vướng mắc cho doanh nghiệp trong quá trình

thực hiện xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Hoa Kỳ. Bao gồm cả lĩnh vực

tài chính và kỹ thuật, Khuyến khích, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp thực hiện xúc tiến thương mại và thực hiện chuiyên môn hoá trong

xuất khẩu sản phẩm hàng hoá sang thị trường Hoa Kỳ.

3.2.2. Nỗ lực giải quyết những hạn chế nhập khẩu đối với hàng hoá của

Hoa Kỳ

Hướng thực hiện của mục tiêu là:

a. Khuyến khích nhập khẩu công nghệ của Hoa Kỳ : Công nghệ nguồn

đóng vai trò then chốt trong tiến trình thực hiện CNH - HĐH; tạo ra giá trị gia

tăng cao cho sản phẩm và nâng cao được sức cạnh tranh của chúng trên thị

trường Hoa Kỳ. Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam cũng đã

khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ

từ các chương trình hợp tác, nguồn vốn ODA của Hoa Kỳ để nhập khẩu máy

móc, thiết bị từ Hoa Kỳ nhằm chuyên môn hoá sản xuất, nâng cao chất lượng,

sức cạnh tranh của sản phẩm hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Trong

thực tế thì các doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nguồn vốn trong

các chương trình này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp.

79

b. Tiếp tục mở rộng thị trường cho hàng hoá của Hoa Kỳ vào Việt

Nam. Giá trị nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt Nam đến năm 2010 dự kiến

khoảng 15 -20% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam với cơ cấu hàng

hoá theo mục đích chính là phát triển nền sản xuất công nông nghiệp của Việt

Nam. Công nghệ, thiết bị nhập khẩu từ Hoa Kỳ phải là những công nghệ có

mức độ tự động hoá cao, đảm bảo tiêu chuẩn môi trường. Trước mắt cần ưu

tiên nhập khẩu thiết bị, công nghệ cho ngành chế biến nông sản như chế biến

các loại hoa quả nhiệt đới, chế biến thuỷ sản, viễn thông, dệt may, sản xuất

giày dép, ngành cơ khí sản xuất ra thiết bị, công cụ cho các ngành sản xuất

hàng xuất khẩu khác... thông qua việc tăng cường nhập khẩu từ Hoa Kỳ, Việt

Nam sẽ có những ưu đãi của Hoa Kỳ về hàng nhập khẩu và giá trị xuất khẩu

của Việt Nam sang Hoa Kỳ cũng sẽ được tăng cường, tạo sự cân bằng trong

quan hệ buôn bán song phương.

c. Bàn thêm về cải cách thuế trong ngọai thương, trong giai đoạn tơí,

nhiệm vụ đầu tiên và cơ bản của chúng ta là hoàn thiện biểu thuế XNK dựa

trên danh mục hàng XNK của hội đồng hợp tác Hải quan Thế giới - HS. Hàng

trong danh mục này được phân loại theo từng phần, chương, nhóm, mặt hàng

theo nguyên tắc phân loại cụ thể đảm bảo một mặt hàng chỉ được phân loại

vào một mã số và có môt mức thuế duy nhất trong biểu thuế nhằm đơn giản

hệ thống thuế thống qua việc thu gọn các mức thuế trong từng sắc thuế, dồn

các mức thuế không chênh lẹch nhau lắm về một mức, làm tăng khoảng cách

giữa các mức thuế trong cùng một sắc thuế. Đồng thời với việc thực hiện

danh mục biểu thuế theo HS, mức thuế suất thuế XNK của các mặt hàng trong

biểu thuế hiện hành cũng cần được xây dựng theo hướng phù hợp với tình

hình sản xuất kinh doanh, lợi thế cạnh tranh của đất nước vừa đáp ứng yêu

cầu bảo hộ, phù hợp với thông lệ quốc tế, thuận tiện cho viẹc thực hiện chắc

80

chắn hiệu quả thu dược sẽ cao hơn, đồng thời còn có tác dụng khuyến

khích hay kiềm chế phát triển rõ rệt hơn.

Ở Việt Nam hiện nay, trong cơ cấu của biểu hiện thuế nhập khẩu, mức

thuế suất thấp (0-5%) chủ yếu áp dụng cho các mặt hàng là nguyên liệu đầu

vào phục vụ sản xuất xuất khẩu. Các thuế suất cao hơn phần lớn áp dụng đối

với các mặt hàng trong nước đã sản xuất nhằm được bảo hộ các nhà sản xuất,

hoặc các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu. Các mức thuế suất trên

60% chủ yếu được áp dụng đối với các mặt hàng xa xỉ phẩm, đồ dùng thiết

bị... với mục đích điều chỉnh tiêu dùng.

Như vậy, biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam con nhiều hạn chế đó

là mức thuế quá nhiều, với 12 mức thuế suất dàn trải từ 0% đến 100%, mức

thuế chênh lệch giữa các nhóm hàng hoá lại quá lớn gây ra nhiều trở ngạicho

doanh nghiệp. Ngoài ra, trong thực tế có nhiều loại hàng hoá mới xuất hiện

với những cấu tạo đặc điểm, tính chất phức tạp, đa dạng nên viẹc áp dụng

biểu thuế XNKvẫn còn hiện tượng sai mức sai mức thuế hoặc áp không

thôngs nhất đối với cùng một mặt hàng nhập khẩu, việc khấu trừ thuế trên các

tờ khai Hải Quan tiếp theo, thời gian duy trì thuế bảo hộ đối với một số mặt

hàng quá cao vàkéo dài. Đây thực sự là những khó khăn cho các doanh

nghiệp nhập khẩu của Việt Nam .

Về nguyên tắc để thoả mãn đồng thời hai mục tiêu tăng trưởng lâu bền

và bảo hộ thị trường nội địa, giải pháp thuế quan cần được áp dụng là mức độ

đánh thuế hàng nhập khẩu phải mang tính chọn lọc và phân biệt cao. Đối với

các sản phẩm đang được khuyến khích thay thế nhập khẩu, rõ ràng là mức

thuế nhập khẩu cần đủ cao để bảo vệ các nghành công nghiệp non trẻ chưa đủ

sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Cần phân biệt rõ mức bảo hộ đối với

hàng tiêu dùng và hàng tư liệu sản xuất, giữa loại sản xuất tận dụng các nguồn

lực sẵn có trong nước với loại cần nhiều vốn và kỹ thuật công nghệ cao.Đối

81

với mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu, chế độ thuế quan sẽ có tác dụng tích

cực nếu thuế đánh vào các hàng nhập khẩu (chủ yếu là máy móc thiết bị)

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG

PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MAỊ VIỆT NAM - HOA KỲ.

3.3.1. Những quan điểm cơ bản về phát triển quan hệ thƣơng mại Việt

Nam - Hoa Kỳ

Phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ trước hết phải phù hợp và

góp phần thực hiện tốt chính sách phát triển thương mại quốc tế chung của

Việt Nam, nhằm thực hiện các mục tiêu CNH- HĐH, ổn định và phát triển

kinh tế - xã hội của Nhà nước, góp phần thực hiện định hướng xã hội chủ

nghĩa, giữ vững độc lập tự chủ, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn

bản sắc dân tộc.

Như vậy, phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ cũng giống như

phát triển quan hệ thương mại với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, đều phải

xuất phát trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Việc đổi mới, hoàn thiện và

phát triển thương mại quốc tế nói riêng hay việc chủ động tham gia các cuộc

chơi toàn cầu nói chung, trước hết là phải phục vụ lợi ích của quốc gia, dân

tộc bao gồm cả lợi ích chính trị kinh tế.

Hiệu quả của việc phát triển quan hệ thương mại Việt Nam với Hoa Kỳ

phải được xét trên các tiêu chí cơ bản như sau:

- Mức độ phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với

nội dung và các giai đoạn cụ thể của quá trình CNH, HĐH

- Trước mắt, hiệu quả kinh tế là mục tiêu phải được ưu tiên hàng đầu

nhằm tạo ra các điều kiện kinh tế tốt hơn, thúc đẩy các mục tiêu xã hội.

- Đảm bảo các điều kiện tiền đề cho việc phát triển hợp lý giữa các

vùng, các ngành hàng.

82

- Đảm bảo khai thác và phát huy sức mạnh tổng hợp của các hình

thức sở hữu: Nhà nước, tư bản tư nhân và cá thể.

Hoa Kỳ đã được chúng ta xác định là một đối tác cần thiết và quan

trọng trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đẩy mạnh tiến trình hội nhập và

phát triển của Việt Nam. Thúc đẩy quan hệ thương mại với Hoa Kỳ là sự

đóng góp tích cực vào quá trình đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế

của Việt Nam,

Mặt khác, tự do hoá thương mại nói chung và tự do hoá thương mại đối

với Hoa Kỳ nói riêng là một xu thế khách quan phù hợp với xu thế thương

mại toàn cầu và khu vực, là nhân tố hàng đầu thúc đẩy hội nhập kinh tế thế

giới. Nhà nước thống nhất quản lý các hoạt động thương mại quốc tế, đồng

thời từng bước mở rộng khu vực tư nhân tham gia xuất nhập khẩu vào thị

trường Hoa Kỳ, từng bước gỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan theo

yêu cầu của các Hiệp định song phương. Thực hiện chủ trương đa dạng hoá

các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu

Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải thống nhất rằng bảo hộ mậu dịch

vẫn là cần thiết và phù hợp với lợi ích quốc gia của Việt Nam hiện nay, đồng

thời điều này cũng là phổ biến trong thông lệ quốc tế. Chính sách bảo hộ mậu

dịch phải giải quyết thoả đáng lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng,

hỗ trợ cho các ngành sản xuất trong nước phát triển; đồng thời thúc đẩy người

sản xuất nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm của mình trên thị trường Hoa

Kỳ. Vì vậy, không thể bảo hộ tràn lan, bảo hộ với bất kỳ giá nào mà phải có

chọn lọc, bảo hộ có thời hạn và giới hạn đối tượng, tập trung vào những sản

phẩm có hiệu quả và có triển vọng. Bảo hộ theo quan điểm như vậy được thực

hiện song song và gắn liền với quá trình tự do hoá.

3.3.2. Một số kiến nghị và giải pháp

3.3.2.1 Kiến nghị và giải pháp về cơ chế chính sách và quản lý vĩ mô

83

Thứ nhất, cần cải thiện cơ chế, chính sách, hoàn thiện môi trường

pháp lý nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý vĩ mô của Nhà nước trong

quan hệ thương mại với Hoa Kỳ. Một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ,

vận hành hữu hiệu là một trong những yếu tố quyết định tạo nên môi trường

kinh doanh toàn diện, định hướng và hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam

cũng như đối với các doanh nghiệp của Hoa Kỳ.

Trên thực tế, sau khi Hiệp định thương mại song phương ra đời, Chính

phủ Việt Nam đã có những cải cách đáng kể về chính sách và pháp luật.

Trong đó đáng chú ý là Quyết định số 35/2002/QĐ-TTg về Chương trình

hành động của Chính phủ thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa

Kỳ. Kèm theo đó là các kế hoạch cụ thể của nhiều Bộ, ngành nhằm đáp ứng

các yêu cầu của Hiệp định. Nhiều văn bản pháp luật được gấp rút ban hành,

sửa đổi, bổ sung. Có thể nói những hoạt động trên đã có những tác động tích

cực nhất định đối với việc định hướng và thúc đẩy quan hệ thương mại Việt

Nam - Hoa Kỳ. Tuy nhiên có thể do tính chất cấp bách của việc thực hiện

Hiệp định mà những điều chỉnh này mới chỉ dừng lại ở tính chất tác nghiệp

[36, tr.154,155].

Điều cần thiết với Việt Nam để có sự phát triển ổn định trong quan hệ

thương mại với Hoa Kỳ là phải hoạch định được một chiến lược lâu dài. Có

nghĩa là phải nắm bắt xu thế, triển vọng từ đó có những định hướng và đối

sách rõ ràng. Ngay ở một nước mà tự do thị trường phát triển vào loại bậc

nhất thế giới như Hoa Kỳ, Chính phủ cũng luôn đóng vai trò rất quan trọng

trong việc điều tiết, "cân bằng" thị trường. Sự can thiệp này từ lâu đã là một

phần không thể thiếu để tạo ra những lợi ích thương mại quốc tế của Hoa Kỳ.

Đáng chú ý là mọi chính sách, pháp luật có liên quan tới trực tiếp tới

các đối tác nước ngoài muốn thiết lập quan hệ, muốn làm ăn kinh doanh trên

lãnh thổ của nước bản địa. Do đó việc hoàn thiện hệ thống chính sách, luật

84

pháp phải tính toán đầy đủ đến cả lợi ích của phía nước ngoài, đến những

nguyên tắc của pháp luật quốc tế. Một mặt nó phải tạo ra cơ sở vững chắc

theo hướng tăng cường hợp tác và hội nhập, mặt khác phải thích hợp với điều

kiện của Việt Nam, tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng nhưng chặt chẽ,

đảm bảo an toàn trật tự cho hoạt động kinh tế đối ngoại.

Cụ thể là trong pháp luật thương mại, cần bổ sung thêm các quy định rõ

ràng hơn về quản lý nhập khẩu. Sử dụng hợp lý các công cụ phi thuế quan

như hàng rào kỹ thuật, hạn ngạch, thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế chống phá

giá....Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân

sách. Khắc phục triệt để những bất hợp lý còn tồn tại trong chính sách bảo hộ

mà xuất phát chủ yếu là từ yêu cầu bảo hộ của các Bộ chuyên ngành và các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, phải xem xét lại về đối

tượng được bảo hộ theo hướng chú trọng bảo hộ nông lâm nghiệp. Biểu thuế

cần sửa đổi và công tác thu thuế cũng cần cải cách nhằm xoá bỏ phương thức

tính thuế theo giá tối thiểu.

Về nhập khẩu, Nhà nước có thể định hướng nhập khẩu công nghệ nguồn

từ Hoa Kỳ thông qua phương thức quản lý nhập khẩu hợp lý. Trước mắt ưu

tiên công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến...nhằm tạo điều kiện cho

các sản phẩm của Hoa Kỳ được tiêu thụ trên thị trường Việt Nam. Trong một

nền kinh tế thị trường mở cửa, tất nhiên tiềm lực kinh tế sẽ quyết định ai là

người đảm nhận tốt nhất công việc nhập khẩu này. Song, hiện tại việc duy trì

một số đầu mối xuất nhập khẩu trong khi các công cụ quản lý vĩ mô chưa

chưa hoàn thiện tuy có thể gây ra những bất cập nhất định, nhưng vẫn không

tai hại bằng hình thức độc quyền và cơ chế "xin - cho". Sự cạnh tranh luôn

kích thích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải năng động trong việc khai

thác các nguồn hàng, tìm kiếm thị trường, từ đó nâng cao hiệu quả xuất nhập

khẩu, nâng cao tác dụng của xuất nhập khẩu đối với sản xuất trong nước.

85

Cạnh tranh cũng sẽ kích thích sự hình thành các hiệp hội xuất nhập khẩu

theo ngành hàng. Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh của các hoạt động

xuất nhập khẩu, nhất là trên thị trường khó tính và đa dạng như thị trường

Hoa Kỳ.

Như vậy, xuất phát từ nhu cầu tự thân cũng như trong quan hệ quốc tế,

từ điểm nhìn hiện tại cũng như từ góc độ triển vọng, việc đẩy mạnh công tác

đổi mới cơ chế, chính sách như một khâu đột phát nhằm đảo ngược các xu

hướng kinh tế đang xấu đi, cũng như dỡ bỏ những cản trở trong quá trình hội

nhập kinh tế, phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ.

Thứ hai, cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu luôn thể hiện trình độ phát

triển và hiệu quả thương mại quốc tế của một quốc gia. Vì vậy cần quan tâm

phát triển và chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu sang thị trường

Hoa Kỳ.

Việc sớm xác định những mặt hàng xuất khẩu chủ lực là một nội dung

quan trọng của chính sách đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ nói

riêng và sang thị trường thế giới nói chung của Việt Nam. Việt Nam hiện

đang ở giai đoạn đầu của quá trình tham gia thương mại quốc tế, đó là xuất

khẩu sản phẩm thô và nguyên liệu là chủ yếu. Với cơ cấu này không thể là cơ

sở chắc chắn cho sự tăng trưởng bền vững, vì hầu hết giá cả các sản phẩm thô

và nguyên liệu trên thị trường thế giới có xu hướng giảm hoặc không ổn định.

Tình hình đối với thị trường Hoa Kỳ cũng vậy, trong những năm qua

mặc dù kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ ngày càng tăng nhưng

Việt Nam vẫn thiếu mặt hàng chủ lực khả dĩ có một ảnh hưởng đáng kể trên

thị trường Hoa Kỳ. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào

các điều kiện bên ngoài.

86

Nếu Việt Nam chỉ dựa vào những mặt hàng xuất khẩu như hiện nay

sang thị trường Hoa Kỳ thì sự tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường này sẽ

khó duy trì và mức độ đóng góp vào nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu chung của

Việt Nam cũng kém hiệu quả, không hỗ trợ được việc phát triển kinh tế một

cách bền vững. Ở đây, có vấn đề nan giải là nếu không đẩy mạnh xuất khẩu

các mặt hàng này thì Việt Nam không thể cải thiện được cán cân thương mại

với Hoa Kỳ vì những mặt hàng này chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối trong

kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ hàng năm của Việt Nam. Mặt

hàng dệt may, giày dép, thủy sản chiếm tới hơn 75% kim ngạch xuất khẩu của

Việt Nam sang Hoa Kỳ. Do vậy, biến động của kim ngạch xuất khẩu chủ yếu

là do biến động về kim ngạch xuất khẩu của những mặt hàng này. Còn nếu

đẩy mạnh xuất khẩu theo hướng này đến mức tối đa thì cơ cấu nền kinh tế

Việt Nam về cơ bản không được cải thiện và sẽ chịu những bất lợi trong

tương lai. Hơn nữa, nếu coi đây là những mặt hàng chủ lực thì khả năng

chiếm lĩnh vị trí ổn định và có trọng lượng trên thị trường Hoa Kỳ của Việt

Nam là hết sức mong manh. Bên cạnh đó, nhu cầu của thị trường thế giới

cũng có hạn, giá cả lại không ổn định.

Tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến và chế tạo là một giải pháp để đẩy

mạnh xuất khẩu. Mục tiêu đặt ra là phải tăng dần tỷ trọng hàng xuất khẩu đã

qua chế biến của Việt Nam sang Hoa Kỳ từ tỷ lệ 65/35 hiện nay lên 80/20

trong khoảng thời gian 5 năm tới, bằng cách đầu tư chế biến và chế biến sâu

hàng nông - lâm- sản, tăng cường các mặt hàng công nghiệp kỹ thuật cao, các

mặt hàng tinh chế nhằm tạo ra cơ cấu hợp lý.

Về cơ cấu nhập khẩu, thực tế hiện nay, công nghệ chế biến hàng hoá của

Việt Nam rất thấp kém và lạc hậu cả về quy mô, trình độ công nghệ và năng

lực quản lý. Do vậy cần:

87

- Nhập khẩu công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, tính tự động hoá

cao có công nghệ nguồn cao từ các nước Hoa Kỳ. Hạn chế nhập khẩu công

nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm môi trường.

- Nhập khẩu theo yêu cầu hiện đại hoá đối với các ngành công nghiệp

then chốt đang tác động đến toàn bộ hoặc một bộ phận quan trọng của nền

kinh tế như tin học, viễn thông, điện tử, chế tạo máy...

- Tiếp tục hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặc biệt là

những mặt hàng mà nền sản xuất trong nước đã đáp ứng được cả về thị hiếu,

chất lượng và giá cả.

Chính sách về cơ cấu nhập khẩu phải là công cụ thực hiện bảo hộ hợp lý

sản xuất trong nước thúc đẩy sản xuất thay thế hàng nhập khẩu. Tuy nhiên,

cần tính tới yếu tố mở cửa thị trường theo các cam kết tại Hiệp định thương

mại Việt - Hoa Kỳ và đàm phán gia nhập WTO.

Thứ ba, thực hiện đa dạng hoá các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu vào thị

trường Hoa Kỳ. Các hoạt động này chủ yếu có thể là:

+ Thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu (Quỹ HTXK) vào Hoa Kỳ, Quỹ mang

tính đặc thù với thị trường Hoa Kỳ với nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ các mặt

hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trước hết là nhóm hàng nông sản, hải

sản. Mở rộng và phát triển chủng loại mặt hàng xuất khẩu sang thị trường

Hoa Kỳ. Tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hoa

Kỳ.

Thời gian gần đây, Chính phủ Việt Nam cũng đã có những quy định cụ

thể về việc hỗ trợ lãi suất cho vay đối với một số mặt hàng xuất khẩu có khó

khăn; thưởng khuyến khích, động viên xuất khẩu; lập, sử dụng và quản lý

Quỹ HTXK...Tuy nhiên trong thực tế, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu sang

Hoa Kỳ, nhất là các doanh nghiệp tư nhân, vẫn còn gặp nhiều khó khăn về tài

88

chính, chưa đủ điều kiện để tăng khối lượng kim ngạch xuất khẩu, giữ

vững và mở rộng thị phần trên thị trường này. Theo kết quả thống kê gần đây

nhất cho thấy, số doanh nghiệp tư nhân được hưởng các loại dịch vụ do ngân

hàng quốc doanh cung cấp chỉ chiếm xấp xỉ 25%. Đây cũng là tỷ lệ doanh

nghiệp tư nhân được hưởng tín dụng xuất khẩu và tín dụng ưu đãi, chỉ có 5%

được hỗ trợ lãi xuất từ các ngân hàng thương mại và bảo lãnh tín dụng.

Khoảng 60% doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn phiền hà trong việc mua

ngoại tệ. Do vậy, thành lập Quỹ HTXK vào Hoa Kỳ, triển khai hoạt động Quỹ

bảo hiểm xuất khẩu là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm hỗ trợ,

khuyến khích và thúc đẩy các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường đặc

biệt này.

Quỹ HTXK sang Hoa Kỳ có thể được sử dụng dưới nhiều hình thức

khác nhau: cho vay, bù lãi suất dự trữ hàng hoá để xuất khẩu, cấp bù lỗ xuất

khẩu khi cần thiết, thưởng xuất khẩu, thưởng tìm kiếm và mở rộng mặt hàng

xuất khẩu, thưởng cho doanh nghiệp khi có mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch

lớn, ổn định trên thị trường Hoa Kỳ...Theo tinh thần đó, Quỹ HTXK sang Hoa

Kỳ sẽ có những chức năng sau.

- Hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lãi suất vay vốn của các doanh nghiệp

kinh doanh hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, trước mắt chủ yếu là

nhóm hàng nông sản và thuỷ sản xuất khẩu .

- Hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá sang thị trường

Hoa Kỳ khi gặp khó khăn về tài chính trong các trường hợp như: hàng hoá lần

đầu tiên xuất khẩu sang Hoa Kỳ và chưa ổn định, doanh nghiệp phải bù lỗ khi

xuất khẩu do những nguyên nhân bất khả kháng. (Ví dụ do biến động về tỷ

giá, thiên tai, phí vận tải, bến bãi)...

- Hỗ trợ khác cho doanh nghiệp xuất khẩu sang Hoa Kỳ theo quyết định

của Thủ tướng Chính phủ. Trong thời điểm hiện nay. Quỹ HTXK ở nước ta

89

chủ yếu mới chỉ hỗ trợ cho khâu mua để xuất khẩu mà chưa có chủ

trương cho vay để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, trong khi đó muốn có hàng

hoá để xuất khẩu, điều quan trong là phải tổ chức sản xuất. Vì vậy, Quỹ

HTXK sang Hoa Kỳ còn nhằm thể thực hiện nhiệm vụ ưu đãi xuất khẩu, bảo

lãnh tín dụng xuất, nhập khẩu nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư mua

trang thiết bị, máy móc, công nghệ từ Hoa Kỳ, sản xuất hàng xuất khẩu thực

hiện kinh doanh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ và từ đó mở rộng sang các

thị trường khác.

Thứ tư, tăng cường xúc tiến thương mại của Việt Nam đối với Hoa Kỳ.

Đây là một giải pháp rất quan trọng nhằm phát triển quan hệ thương mại giữa

Việt Nam và Hoa Kỳ. Các hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh sẽ

giúp cho các doanh nghiệp của cả hai bên có những cơ hôị thuận lợi trao đổi

buôn bán và đặc biệt là sẽ tạo ra được chỗ đứng vững chắc cho hàng hoá Việt

Nam trên thị trường Hoa Kỳ.

Ở góc độ vĩ mô, Chính phủ cần quy hoạch và kiện toàn lại hệ thống cơ

quan làm công tác xúc tiến thương mại Hoa Kỳ. Hệ thống xúc tiến thương

mại bao gồm:

+ Các cơ quan Chính phủ, đó là các cơ quan quản lý và các cơ quan

thực hiện.

+ Các cơ quan phi Chính phủ, gồm các phòng thương mại, các hiệp hội

ngành và các đơn vị, tổ chức tư nhân.

+ Các cơ quan bán Chính phủ, gồm các liên minh, các tổ chức kinh tế....

Hiện nay, đáng lưu tâm là vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại

trong cơ cấu quản lý Nhà nước là sự thiếu rõ ràng. Sự không rõ ràng này gây

ra nhiều khó khăn cho tác nghiệp của các đơn vị liên quan và làm giảm khả

năng gây ảnh hưởng của tổ chức này đối với các cơ quan thuộc Chính phủ.

90

Kết quả là các kiến nghị mà các đơn vị này đưa ra hiếm khi được tiếp thu

và thực hiện nghiêm túc. Vì vậy công tác tổ chức hoạt động xúc tiến thương

mại chưa thực sự hiệu quả.

Thêm vào đó, một trong những khâu yếu kém, là trở lực lớn đối với các

họat động xúc tiến thương mại với Hoa Kỳ là đội ngũ cán bộ, chuyên gia về

thị trường Hoa Kỳ của chúng ta thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Thiếu

những người tinh thông nghiệp vụ và dày dạn kinh nghiệm kinh doanh xuất

khẩu ở một thị trường khó tính như Hoa Kỳ. Thiếu những cán bộ thương mại

thành thạo ngoại ngữ, thuần thục tác phong làm việc với các phương tiện kỹ

thuật hiện đại mà Hoa Kỳ đang áp dụng. Đặc biệt là thiếu nghiêm trọng

những người có khả năng hoạch định chính sách, có kinh nghiệm về pháp

luật, tập quán kinh doanh trên thị trường Hoa Kỳ.

Vì vậy, để các hoạt động thương mại với thị trường Hoa Kỳ đạt được

hiệu quả và phát triển, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch tổng thể về đào tạo

và đào tạo lại đội ngũ cán bộ xúc tiến thương mại để có những chuyên gia có

bản lĩnh chính trị, có kiến thức XNK trong cơ chế thị trường, thông hiểu các

mặt hàng kinh doanh trên thị trường Hoa Kỳ. Tăng sự hiểu biết và thích ứng

với phong cách, tập quán kinh doanh của các doanh nghiệp Hoa Kỳ nhằm tiếp

cận và mở rộng thị trường trong các nước Hoa Kỳ.

Thứ năm, khuyến khích phát triển các hình thức xuất khẩu của Việt

Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Chúng tôi coi đây là giải pháp có sự liên quan

mật thiết với chính sách khuyến khích đầu tư. Với môi trường đầu tư cởi mở

và thông thoáng sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư Hoa Kỳ, nhất là các tập đoàn, công

ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam để sản xuất hàng xuất

khẩu.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) góp phần đáng kể cho xuất khẩu nên

cần hết sức chú trọng cải thiện môi trường đầu tư một cách đồng bộ để tăng

91

sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ nhất là trong lĩnh vực sản

xuất để xuất khẩu. Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng ở trong nước để

các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Bằng

các chính sách thích hợp mềm dẻo, chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn

xuyên quốc gia và của các nhà sản xuất "chìa khoá trao tay" của Hoa Kỳ (đặc

biệt là trong lĩnh vực điện tử, công nghệ thông tin và những ngành thu hút

nhiều lao động, sản xuất hàng xuất khẩu, do đó cũng là những ngành có khả

năng đạt và giữ chỉ số ICOR thấp; đa số những ngành trong số này là các

ngành sản xuất hàng xuất khẩu như dệt, giày da, may mặc, chế biến nông sản,

chế tạo hàng tiêu dùng.v.v...) để vừa đảm bảo thị trường xuất khẩu thông qua

hệ thống phân phối toàn cầu của Hoa Kỳ, vừa góp phần chuẩn bị tiền đề cho

thời kỳ sau là thời kỳ đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng chất

xám và hàm lượng công nghệ cao.

Chính phủ cũng cần có những chính sách khuyến khích, ưu đãi cụ thể, có

thể là thuế, với điều kiện là sản phẩm của các doanh nghiệp Hoa Kỳ đầu tư

phải được xuất khẩu 80% sang thị trường Hoa Kỳ. Các công nghệ sản xuất

được đầu tư phải là sản phẩm công nghiệp tiên tiến của Hoa Kỳ hoặc của các

trung tâm công nghệ như Hoa Kỳ, Nhật bản.. Nguyên liệu và nhân công là

của Việt Nam, chỉ nhập khẩu những nguyên liệu thật cần thiết phục vụ sản

xuất mà phía Việt Nam chưa sản xuất được. Không thu thuế suất chuyển lợi

nhuận ra nước ngoài trong từ 3 -5 năm đầu tiên kể từ khi sản phẩm được xuất

khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.

Ngoài ra Chính phủ cần tăng cường đầu tư, cải tạo và nâng cấp hệ thống

cơ sở hạ tầng: đường xá, bến cảng, thông tin bưu điện. Đặc biệt quan tâm tăng

cường đầu tư phục vụ hoạt động xuất khẩu như các cảng, kho ngoại quan, các

trung tâm thương mại ở nước ngoài, các hoạt động xúc tiến thương mại.

92

Có thể nói, trong môi trường kinh tế hiện đại thì cơ sở hạ tầng vật

chất, kỹ thuật là điều kiện tiên quyết, bởi kỹ thuật cao chỉ phát huy được trên

một hạ tầng thích hợp. Hơn nữa, sự biến động của các thị trường tiền tệ, tài

chính, kỹ thuật... đang diễn ra hết sức nhanh chóng và tác động qua lại với

nhau rất chặt chẽ, buộc các chủ thể kinh doanh phải ứng phó kịp thời và

chuẩn xác. Điều đó đòi hỏi phải có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại.

Không một đối tác nước ngoài nào chịu gánh những thiệt hai và những chi phí

trực tiếp do hạ tầng vật chất kỹ thuật yếu kém gây ra. Do đó, cơ sở hạ tầng

hoàn chỉnh và hiện đại là một trong những yếu tố chính thu hút các đối tác

nước ngoài hợp tác kinh doanh. Hiện nay, cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn

yếu kém, chưa phù hợp với các yêu cầu kinh doanh, chuyển giao kỹ thuật và

công nghệ hiện đại. Vì vậy, cần có những giải pháp phù hợp, kiến tạo cho

được một cơ sở hạ tầng vật chất thích hợp.

Tóm lai, có thể nói giải pháp khuyến khích các nhà đầu tư Hoa Kỳ đầu

tư sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam là giải pháp tối ưu nhất để Việt Nam

có thể nhập khẩu được công nghệ nguồn từ Hoa Kỳ, khai thác được tối đa

những lợi thế so sánh của mình, nâng cao hiệu quả các hoạt động xuất nhập

khẩu, cải thiện được cơ cấu hàng xuất khẩu một cách thích hợp và sử dụng có

hiệu quả những công nghệ hiện đại này, nâng cao được trình độ quản lý và

sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam, hiện đại hoá công nghệ.

3.3.2.2 Kiến nghị và Giải pháp đối với một số ngành hàng

a. Hàng dệt may

Theo dự báo thì trong hơn một thập kỷ nữa, hạt nhân của nhóm hàng sản

phẩm chế biến và chế tạo xuất khẩu sang Hoa Kỳ vẫn là các mặt hàng dệt

may, giày dép. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường khả năng

xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này. Vấn đề cơ bản là làm thế nào để

hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn khi xuất

93

khẩu sang Hoa Kỳ, giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm đạt từ 30-

40%. Để đạt được mục tiêu này, việc nâng cao năng lực nội sinh của các

doanh nghiệp và sức mạnh của các sản phẩm dệt may là điêù quan trọng nhất,

quyết định tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bền vững hàng dệt may Việt Nam

trên thị trường Hoa Kỳ. Thực tế đã chỉ ra rằng, còn có sự khập khiễng giữa

sản xuất vải và các nguyên phụ liệu với khâu gia công thành phẩm. Đã có kết

quả nghiên cứu chỉ ra rằng, sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam

mới chỉ sử dụng khoảng 15 -20% nguyên phụ liệu trong nước, còn lại là nhập

ngoại nên giá thành sản phẩm của Việt Nam cũng cao hơn 15 - 20% so với

sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Inđônêxia, Do đó, cũng có nhiều ý kiến

cho rằng, với hiện trạng ngành dệt may Việt Nam hiện nay thì việc Hoa Kỳ

còn có duy trì chế độ hạn ngạch là có lợi cho Việt Nam hơn là có hại vì nếu tự

do hoá, bãi bỏ hoàn toàn hoàn toàn hạn ngạch cho hàng dệt may thì hàng dệt

may Việt Nam chưa chắc có đủ sức cạnh tranh để tìm được chỗ đứng trên thị

trường này. Vì vậy, từ ngay bây giờ các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải

có một chiến lược phát triển đồng bộ gồm:

+ Đầu tư chiều sâu, cụ thể là đổi mới công nghệ và thiết bị trong lĩnh vực

dệt, có chính sách đầu tư cho công nghệ dệt vải và hoàn tất để có thể chủ

động cung cấp vải và phụ kiện cho ngành may mặc. Đồng thời, cần quan tâm

và đầu tư thích đáng cho công nghệ những công đoạn tạo ra giá trị gia tăng

lớn như khâu hoàn tất. Một nghiên cứu gần đây cho thấy, công đoạn hoàn tất

là công đoạn tạo ra giá trị tăng lớn nhất cho sản phẩm trong toàn bộ dây

truyền công nghệ, khoảng 40%. Vì vậy, muốn tạ ra giá trị gia tăng lớn thì

việc đầu tư thiết bị và công nghệ cho công đoạn này là một yếu tố không thể

không tính đến trong chiến lược phát triển của các doanh nghiệp như đã nêu

trên.

94

+ Cần có chính sách để phát triển ngành công nghiệp thiết kế mẫu

thời trang nhằm nghiên cứu mẫu mã sản phẩm và thị hếu người tiêu dùng ở

thị trường Hoa Kỳ. Một trong những yếu tố mà những nhà nhập khẩu hàng

dệt may Việt Nam chỉ đặt hàng dưới hình thức gia công là do các doanh

nghiệp dệt may Việt Nam không có uy tín trong lĩnh vực này và ngành công

nghiệp thời trang mới trong giai đoạn phôi thai.

+ Tăng sự đa dạng về mẫu mã, chủng loại mặt hàng và tính phù hợp với

thị hiếu tiêu dùng của thị trường Hoa Kỳ là những điểm cần được các doanh

nghiệp chú ý, coi trọng vì cũng theo dự báo, trong thế kỷ này, lượng sản phẩm

dệt may tiêu thụ ở các nước đang phát triển sẽ lớn hơn ở các nước phát triển

do cung vượt cầu. Do vậy, đây cũng chính là những cơ hội kinh doanh mới

cho doanh nghiệp các nước nói chung và cho doanh nghiệp Việt Nam nói

riêng khả năng thâm nhập vào thị trường các nước đang phát triển khác.

Nhưng khi đó, lợi thế cạnh tranh do giá nhân công rẻ sẽ không còn là ưu thế

quan trọng nhất mà phải là sự đa dạng hoá về mẫu mã, chủng loại và phù hợp

với thị hiếu tiêu dùng.

b. Hàng nông hải sản

Đối với hàng nông hải sản, trước hết để có thể nâng cao sức cạnh tranh,

tăng giá trị của hàng hoá nông sản xuất khẩu, các doanh nghiệp cần phải đầu

tư phát triển thâm canh, đánh bắt, nuôi trồng tăng năng suất và đặc biệt là đầu

tư vào khâu công nghiệp chế biến để tăng chất lượng sản phẩm tạo ra những

sản phẩm sạch đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Công nghiệp chế

biến hàng nông sản của Việt Nam hiện nay rất thấp về mọi mặt như quy mô,

năng lực điều hành quản lý và trình độ công nghệ. Hiện nay, ngành công

nghiệp chế biến này mới chỉ đáp ứng được 3% đối với thịt, 7% đối với quả,

5% đối với rau và 60% đối với chè. Trong khi đó, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm

nông phẩm của thị trường Hoa Kỳ lại rất lớn và tăng mạnh trong những năm

95

gần đây, đặc biệt là đối với sản phẩm sạch. Hiện nay, Hoa Kỳ là thị

trường tiêu thụ sản phẩm sạch lớn nhất thế giới. Do vậy, vấn đề then chốt cần

giải quyết đó là công nghệ, từ khâu nuôi trồng, thu hoạch đến chế biến tất cả

đều phải đảm bảo tuyệt đối về chất lượng theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ. Giá

của các sản phẩm sạch thường tăng 20% so với các sản phẩm thường, góp

phần giải quyết được vấn đề chính trong xuất khẩu nông hải sản cũng như

xuất khẩu hàng hoá nói chung là không phải xuất khẩu được theo khối lượng

sản phẩm mà là theo giá trị tiền thu được. Hiện nay, nhiều mặt hàng nông hải

sản xuất khẩu của Việt Nam đã khai thác tối đa về sản lượng như gạo, cà phê,

cao su... Một hạn chế trong xuất khẩu hàng nông hải sản hiện nay là bên cạnh

một số ít sản phẩm xuất khẩu với khối lượng lớn thì còn nhiều sản phẩm chưa

đủ tiêu chuẩn xuất khẩu với quy mô lớn như rau, quả, thịt các loại nhuyễn thể

hai mảnh như Ngêu, Sò huyết, Hào, Vẹm... Như vậy, để có thể tăng nhanh số

lượng cũng như chủng loại hàng nông hải sản xuất khẩu sang thị trường Hoa

Kỳ, đạt giá trị gia tăng cao, ổn định và nâng cao vị thế, sức cạnh tranh hàng

nông sản của Việt Nam trên thị trường khó tính này thì nhiệm vụ cần thiết là

phải đầu tư công nghệ mới hiện đại, xây dựng các vùng nguyên liệu cây

trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế vùng sinh thái. Khả năng cạnh tranh của

hàng nông hải sản Việt Nam phải được xây dựng, củng cố trước hết từ lợi thế

so sánh của các vùng sinh thái.

c. Hàng giầy dép, đồ da

Đối với hàng giầy dép, đồ da cần thực hiện tốt ngay từ đầy việc cấp

chứng thư xuất khẩu và quản lý tốt các chứng thư này để ngăn ngừa các chành

vi gian lận thương mại như đã xảy ra. Các doanh nghiệp, cùng với sự hỗ trợ

của Nhà nước, tăng cường công tác tìm kiếm thêm các nhà nhập khẩu của

Hoa Kỳ để có thêm bạn hàng, nhập khẩu trực tiếp. Trước mắt, cần nâng cao

hiệu quả gia công xuất khẩu sang Hoa Kỳ, từng bước tạo tiền đề chuyển sang

96

xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua trung gian,

cần có những thoả thuận trực tiếp từ doanh nghiệp để dành quyền tự cung cấp

nguyên liêu, quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm để

từng bước giúp thị trường Hoa Kỳ làm quen với sản phẩm của các doanh

nghiệp Việt Nam .

Duy trì và phát triển nguồn nhân công có tay nghề cao, thường xuyên có

những mẫu mã sản phẩm mới, có sự sáng tạo mang phong cách riêng, đảm

bảo chất lượng, đáp ứng được những yêu cầu kỹ thuật, chất lượng, thị hiếu

của thị trường Hoa Kỳ. Xoá bỏ được những rào cản về sản xuất nguyên phu

liệu cung cấp cho ngành công nghiệp giày dép. Hiện nay, sản xuất cung ứng

trong nước mới chỉ đạt 20%. Sự đầu tư phát triển không cân đối, việc đầu tư

xây dựng sản xuất giày dép phần lớn ở công đoạn gia công mà chưa chú trọng

vào sản xuất nguyên phụ liêu, khâu này chiếm tới 67% giá thành của sản

phẩm. Nguồn nguyên phụ liệu da chủ yếu cho các doanh nghiệp sản xuất đều

phải nhập khẩu từ nước ngoài, chiếm 60%, thông qua các hợp đồng gia công

hoặc dưới hình thức nhập nguyên phụ liệu sản xuất xuất khẩu. Do đó sẽ làm

chi phí sản xuất tăng, giá thành cao, khả năng cạnh tranh kém. Đây là một

trong những nguyên nhân chính cần khắc phục trong sản xuất công nghiệp

ngành thuộc da. Sản phẩm da giầy Việt Nam muốn xuất khẩu vào thị trường

Hoa Kỳ một cách hiệu quả, có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực thì

phải đáp ứng được chất lượng và có nguồn hàng ổn định.

d. Nhóm hàng thủ công, mỹ nghệ

Là một nhóm hàng tạo ra giá trị gia tăng lớn, bên cạnh việc tạo ra những

hiệu quả kinh tế - xã hội khác. Hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất chủ yếu

bằng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, nguyên phụ liêu nhập khẩu

thường không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 5% giá trị hàng hoá được sản xuất

ra. Vì vậy, khác với nhiều loại sản phẩm khác, trong xuất khẩu thủ công hàng

97

thủ công mỹ nghệ sang thị trường Hoa Kỳ, mức ngoại tệ thực thu rất cao

từ 95 - 97%. Trong khi đó xuất khẩu một số loại hàng hoá khác như may mặc,

giày dép.. tuy kim ngạch lớn hơn những ngoại tệ thực thu lại thấp, chỉ chiếm

khoảng 25% giá trị xuất khẩu, vì nguyên phu liệu phục vụ sản xuất chủ yếu là

nhập khẩu từ nước ngoài. Có thể nói, đây là nhóm mặt hàng có giá trị gia

tăng cao nhất, ước tính khoảng 70- 80% trong các nhóm hàng xuất khẩu của

Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Do vậy, việc khai thác, tận dụng tiềm năng

sẵn có ở trong nước để đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ sang Hoa Kỳ được coi là một lợi thế, một ưu việt cần có sự đầu tư quan

tâm trong những năm tới.

Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Hoa Kỳ sẽ

tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động thủ công chuyên

nghiệp và nông nhàn, góp phần giải quyết một trong vấn đề lớn nhất hiện nay

trong xã hội nước ta là nạn thất nghiệp . Theo tính toán tổng kết, cứ xuất

khẩu được 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì tạo được việc làm và thu

nhập cho khoảng 3000 - 4000 lao động, chủ yếu là lao động tại các làng nghề

ở nông thôn, trong khi chế biến hạt điều thì 1 triệu USD kim ngạch xuất khẩu

chỉ thu hút được khoảng 400 lao động.

Có thể khẳng định việc đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này sang Hoa Kỳ

sẽ tạo ra những hiệu quả kinh tế - xã hội rất lớn. Mặt khác, đó chính là thế

mạnh của Việt Nam, vì đây thực sự là nhóm hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng

rất lớn.

e. Nhóm hàng điện tử và tin học

Nhóm hàng điện tử và tin học hiện vẫn đang đạt giá trị gia tăng thấp mặc

dù có kim ngạch xuất khẩu khá lớn. Nguyên nhân chính là do hạ tâng cơ sở

vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp còn yếu kém, thiếu vốn đầu tư nên

hiện nay chỉ là ngành công nghiệp lắp ráp, tỷ lệ nội địa hoá còn thấp, các

98

doanh nghiệp cần có chính sách cụ thể để tập trung đầu tư cho những sản

phảm trong lĩnh vực này mà thực sự chứa đựng hàm lượng công nghệ và chất

xám cao như phần mềm tin học gồm cả phẩn mềm hệ thống và phầm mềm

ứng dụng, linh kiện điện tử, phụ tùng thay thế.... Đây là một nhóm hàng đang

có nhiều tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, nhất là trong bối cảnh

thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức,

Yêu cầu cấp bách đối với các doanh nghiệp hiện nay là đầu tư đào tạo,

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là các kỹ thuật viên và công nhân làm

phần mềm; nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, tiếp nhận chuyển giao công nghệ trong

lĩnh vực sản xuất linh kiện vì hiện nay thị trường cung cấp linh kiện trên thế

giới rất phong phú. Tuy nhiên nếu các doanh nghiệp quá phụ thuộc vào việc

nhập linh kiện thì cũng có các khó khăn như: giá các linh kiện bị ảnh hưởng

rất lớn của những điều kiện tài chính toàn cầu nên giá thành của sản phẩm sẽ

cao, nguồn hàng không ổn định gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi bán

sản phẩm sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện giao thông, địa lý khó khăn,

vấn đề các công ty liên doanh độc quyền nội bộ về linh kiện nên các doanh

nghiệp lắp ráp đồ điện tử tin học khác bị thu hẹp dần sự tự do lựa chọn mặt

hàng hoặc bị ép giá.. Từ đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có biện pháp tăng

cường phương thức liên doanh và triển khai dần chế tạo các linh kiện, phụ

kiện và sản xuất với giá trị gia tăng từ 40% trở lên. Chính phủ cũng có thể tạo

thêm cơ hội xuất khẩu cho hàng điện tử tin học của các doanh nghiệp xuáat

khẩu sang Hoa Kỳ thông qua việc tham gia chương trình trả nợ của Việt Nam

3.3.2.3. Kiến nghị và giải pháp đối với các doanh nghiệp

a. Thứ nhất, tạo hiệu quả xuất khẩu, tăng giá trị gia tăng đối với các

mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá

sang thị trường Hoa Kỳ trong những năm qua cho thấy, nếu chỉ dựa trên lợi

thế cạnh tranh "tĩnh" như hiện nay thì vấn đề thúc đẩy xuất khẩu sang thị

99

trường Hoa Kỳ một cách có hiệu quả là không đơn giản. Vì một trong

những yếu tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng bền vững của hoạt động

xuất khẩu sang Hoa Kỳ là phải tạo ra lợi thế cạnh tranh "động" cho những mặt

hàng xuất khẩu sang thị trường này. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp

Việt Nam phải chủ động tạo ra lợi thế cho chính những mặt hàng đó. Có

nhiều quan điểm cho rằng, lợi thế về nguồn lao động dồi dào sẽ dần mất đi

khi xu hướng của thế giới chuyển dịch sang những ngành sản xuất có hàm

lượng công nghệ và chất xám cao. Vậy thì những mặt hàng đang có thế mạnh

về hàm lượng lao động cao hiện nay sẽ không còn tính cạnh tranh trong

tương lai. Vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là phải

làm gì để có thể biến đổi được các yếu tố nội tại theo hướng phù hợp với xu

thế phát triển của thế giới mà vẫn không mất đi cơ sở nền tảng của Việt Nam

vốn đang được coi là có nhiều lợi thế.

b. Thứ hai, các doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu và nắm bắt tốt các

thông tin về thị trường Hoa Kỳ qua nhiều nguồn khác nhau, tiếp cận với các

phương thức kinh doanh hiện đại. Từ đó, các doanh nghiệp sẽ có những

phương án kinh doanh phù hợp, giảm thiểu được rủi ro, phát huy lợi thế cạnh

tranh trong kinh doanh. Chỉ qua việc tìm hiểu và nắm vững thông tin, các

doanh nhân Việt Nam mới có điều kiện tốt để thiết lập những mối quan hệ

trực tiếp với mạng lưới phân phối mà đặc biệt là những kênh phân phối chủ

đạo của Hoa Kỳ, từng bước loại bỏ các khâu trung gian đang còn rất phổ biến

hiện nay, thực hiện xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ một cách trực tiếp.

Mặt khác, thị trường Hoa Kỳ là một thị trường có đặc tính cạnh tranh

mạnh mẽ, bắt buộc các doanh nghiệp muốn tham gia phải tự mình tạo ra lợi

thế cạnh tranh hơn các đối thủ khác. Điều đó đồng nghĩa với việc doanh

nghiệp phải chấp nhận vòng đời của một sản phẩm sẽ ngắn hơn, giá thành rẻ

và phương thức dịch vụ tốt hơn. Những kết quả này chỉ có được bằng biện

100

pháp liên tục cải thiện chất lượng sản phẩm, chú trọng việc tìm kiếm các

thông tin thay đổi về thị hiếu tiêu dùng, mẫu mã sản phẩm, kiểu dáng, thông

tin về đối thủ cạnh tranh....

Thực hiện tốt các điều khoản của hợp đồng đã cam kết. Phải quan tâm và

chú ý đến từng chi tiết khi ký kết hợp đồng để tránh xảy ra những tranh chấp,

tổn hại không đáng có. Thị trường Hoa Kỳ vốn là thị trường khó tính, Thực

hiện hợp đồng đã ký kết nếu để vi phạm hợp đồng, bị phạt sẽ có nguy cơ mất

khách. Sự quan tâm, tìm hiểu rõ những tập quán kinh doanh theo tính đặc thù

của từng thị trường các nước thành viên trong Hoa Kỳ là hết sức cần thiết.

Hoa Kỳ tuy là một thị trường thống nhất về mặt kỹ thuật, song thị trường này

trên thực tế là nhóm các thị trường quốc gia và khu vực, mỗi nước có một bản

sắc và đặc điểm riêng mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thường

không hay để ý tới. Mỗi nước trong Hoa Kỳ sẽ tạo ra các cơ hội khác nhau và

yêu cầu của họ cũng khác nhau. Hoa Kỳ đang áp dụng ưu đãi thuế quan với

hàng nhập khẩu từ Việt Nam với các mức từ 15% đến 25%. Hoa Kỳ có các

biểu thuế nhập khẩu chung áp dụng cho tất cả các hàng hoá nhập khẩu vào

thị trường các nước thành viên Hoa Kỳ. Thuế áp dụng theo từng tên gọi mặt

hàng. Cho nên, các doanh nghiệp cần chú ý để cùng một chủng loai mặt hàng

không bị đóng nhiều thuế khác nhau.

Thương mại điện tử đang trở thành một phương thức kinh doanh hiệu

quả và tiếp kiệm được các chi phí giao dịch. Hệ thống phân phối cũng thay

đổi cục diện khi thương mại điện tử, Internet ra đời và phát triển. Nhờ có hệ

thống mạng lưới này mà người mua và người bán dễ dàng tìm thấy nhau,

thông tin liên lạc nhanh chóng và tiện lợi. Do đó, các doang nghiệp cần nhanh

chóng khai thác cơ hội này để tìm kiếm bạn hàng trên thị trương Hoa Kỳ, thực

hiện công tác xúc tiến thương mại, khuyếch trương, quảng bá sản phẩm của

mình theo phương thức thương mại điện tử.

101

c. Thứ ba, thực hiện đầu tư hiệu quả vào công nghệ nhằm ổn định

và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh của

hàng Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Thị trường Hoa Kỳ là thị trường đòi

hỏi tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh y tế cũng như môi trường khắt

khe, giá cả cạnh tranh và phương thức kinh doanh rất linh hoạt. Do đó, các

doanh nghiệp Việt Nam muốn kinh doanh ở thị trường Hoa Kỳ cần phải

nhanh chóng nâng cấp hoặc trang bị công nghệ mới, sử dụng phương thức

"kiểm soát chất lượng hệ thống". Tranh thủ tận dụng tối đa nguồn vốn hỗ trợ

của Hoa Kỳ cũng như thu hút các nguồn vốn khác để đầu tư áp dụng công

nghệ mới, đặc biệt là các công nghệ của Hoa Kỳ. Thu hút nguồn vốn và công

nghệ của Hoa Kỳ chủ yếu thực hiện qua FDI để sản xuất và xuất khẩu sản

phẩm sang Hoa Kỳ. Cần nỗ lực đạt tới công nghệ cao và sản xuất các sản

phẩm có chất lượng cao nhất là hải sản, thực phẩm chế biến, giàu dép, sản

phẩm gỗ, sản phẩm nhựa... vì khu vực này đang có xu hướng tăng cường nhập

khẩu các loại sản phẩm này.

Mặt khác, các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất hàng xuất khẩu Việt

Nam cần tăng cường hơn nữa nhận thức và hiểu biết để áp dụng các tiêu

chuẩn về chất lưoựng sản phẩm hàng hoá như: HACCP (Hazard Analysis

Critical Control Point) - Phân tích và xác định các điểm nguy hại trọng điểm.

Đây là hệ thống kiểm tra chất lượng thực phẩm được rất nhiều nước và các tổ

chức trên thế giới công nhận và áp dụng. Ngoài ra còn hệ thống quản lý chất

lượng ISO 9000, hệ thông quản lý về môi trường ISO 14000 và các phương

pháp hiện đại như GMP (quy phạm sản xuất), SSOP/GHP (quy phạm vệ

sinh)... việc áp dụng các tiêu chuẩn HACCP, ISO 9000 và ISO 14000 trong

sản xuất hàng hoá, đối với các doanh nghiệp thì có thể đây chính là giấy thông

hành để các doanh nghiệp đưa hàng của mình vào thị trường Hoa Kỳ với

nguồn hàng ổn đình và đạt tiêu chuẩn thích hợp. Tạo thế chủ động trong sản

102

xuất và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo về thời gian hàng theo đúng hợp

đồng, tạo uy tín và lòng tin cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ, Đây là những yếu

điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam hay vấp phải trong kinh doanh với thị

trường Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc và đúng quy

trình của hệ thống kiểm tra chất lượng từ khâu sản xuất đến thu hoạch, chế

biến, bảo quản cho từng mặt hàng nông hải sản xuất khẩu, đặc biệt chú trọng

khâu bảo quản chế biến. Có những hướng dẫn cụ thể cho ngày từ những

người sản xuất, đánh bắt và nuôi trồng về những quy định mẫu mã, chất lượng

sản phẩm xuất khẩu. Từ đó sẽ dẫn đến việc hàng nông hải sản xuất khẩu đạt

chất lượng cao, tăng sức cạnh tranh và không bị ép giá bán.

Tổng kết lại, có thể khẳng định phát triển quan hệ thương mại Việt Nam

- Hoa Kỳ một mặt cần phát triển theo chiều rộng, mặt khác phải chú ý phát

triển theo chiều sâu nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả của hợp tác. Thiết

thực nhất là phải chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng cường xuất

khẩu các mặt hàng chế biến, mặt hàng thu hút nhiều lao động và có giá trị gia

tăng lớn. Khai thác các nguồn vốn đầu tư của Hoa Kỳ để tăng cường khả năng

cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, đồng thời đẩy

mạnh xúc tiến thương mại cả tầm vĩ mô và vi mô.

Điều kiện để phát triển có hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam -Hoa

Kỳ là ổn định chính trị, kiên trì đường lối đổi mới, thực hiện cải cách bộ máy

nhà nước, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hoàn thiện hệ thống pháp luật

nhằm tăng sự hấp dẫn của môi trường thương mại, đầu tư.

Đường lối chính sách và các giải pháp phát triển quan hệ thương mại

Việt Nam -Hoa Kỳ suy cho đến cùng cũng là do con người thực hiện; bởi vậy

khâu then chốt quan trọng nhất là đầu tư đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ

cán bộ ngang tầm với những yêu cầu cần thiết.

103

KẾT LUẬN

Trong luận văn, chúng tôi đã trình bày những nội dung cơ bản sau đây:

+ Phân tích làm rõ tầm quan trọng đối với Việt Nam trong phát triển

quan hệ thương mại với Hoa Kỳ đặc biệt là trong xu thế phát triển của thế giới

và trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Đồng thời nghiên cứu tìm hiểu kinh

nghiệm của một số nước trong khu vực đã mở rộng, phát triển quan hệ

thương mại với Hoa Kỳ và khả năng vận dụng vào Việt Nam .

+ Thực trạng quan hệ thương mại giữa hai bên từ khi Hoa Kỳ bỏ cấm

vận đến năm 2001 đã có chuyển biến nhưng diễn ra chậm chạp. Đặc biệt từ

khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết, cán cân thương

mại hai chiều đã có sự phát triển khởi sắc, tốc độ tăng cao song chưa ổn định.

Việt Nam đã xuất siêu, nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn

chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ.

+ Quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tác động nhiều mặt đến sự

phát triển kinh tế, thương mại của Việt Nam. Bên cạnh những triển vọng phát

triển quan hệ kinh tế của hai bên, cho đến nay vẫn còn nhiều thách thức to lớn

đòi hỏi Việt Nam phải xử lý linh hoạt, khéo léo và phù hợp với tiến trình hội

nhập nền kinh tế Việt Nam vào khu vực và trên thế giới.

+ Thông qua những phân tích thực trạng quan hệ thương mại với Hoa

Kỳ, luận văn khẳng định vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc hoạch

định chiến lược phát triển kinh tế- xã hội dài hạn nói chung và phát triển

thương mại nói riêng, đồng thời đổi mới chính sách, biết tận dụng những nhân

tố thúc đẩy và thời cơ để phát triển.

+ Trong điều kiện xuất phát điểm thấp của nền kinh tế Việt Nam, để

nâng cao hiệu quả trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, đòi hỏi phải nhanh

chóng tích cực chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu mặt hàng xuất

104

khẩu, mở rộng chủng loại mặt hàng và tăng giá trị gia tăng. Không ngừng

mở rộng quan hệ buôn bán theo chiều rộng đi đôi với phát triển quan hệ theo

chiều sâu, thực hiện phương châm đa dạng hoá các hình thức quan hệ thương

mại với Hoa Kỳ.

+ Những thành công của Việt Nam trong thời gian qua và kinh nghiệm

phát triển của các nước cho thấy chỉ có thực hiện chính sách mở cửa, tự do

hoá thương mại trên cơ sở vận dụng các công cụ của chính sách thương mại

quốc tế như thuế, tỷ giá hối đoái, tài chính tín dụng,.. đồng thời vận dụng

khôn khéo quy luật "lợi thế so sánh", phát huy nội lực để thúc đẩy thương mại

Việt Nam phát triển và nhanh chóng hội nhập với các nền thương mại trong

khu vực và thế giới.

+ Quá trình phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ chỉ ra rằng những

thành công đạt được chủ yếu nhờ sự nỗ lực chủ quan, tốc độ phát triển quan

hệ thương mại phụ thuộc vào tốc độ và khả năng trình độ, hoàn chỉnh của môi

trường pháp lý, đầu tư, tăng cường quản lý nhà nước về thương mại, cải cách

nền hành chính quốc gia về thương mại quốc tế trong quan hệ với Hoa Kỳ.

105

PHỤ LỤC 1

TIẾN TRÌNH QUAN HỆ VIỆT NAM - HOA KỲ TỪ 1994 ĐẾN NAY

3.2.1994 Tổng thống Hoa Kỳ gỡ bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam

28.1.1995 Hoa Kỳ và Việt Nam ký cam kết thiết lập quyền sở hữu và mở

văn phòng liên lạc tại thủ đô hai nước

15.5.1995 Việt Nam trao cho phái đoàn chính phủ Hoa Kỳ bộ tài liệu về

những người lính Hoa Kỳ bị mất tích

6.1995 Các cựu binh chiến tranh nước ngoài của Hoa Kỳ tuyên bố sẽ trợ giúp tiến trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam

11.7.1995 Tổng thống B.Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ với

Việt Nam

12.7.1995 Thủ tướng Việt Nam Vừ Văn Kiệt tuyên bố thiết lập quan hệ

ngoại giao với Hoa Kỳ.

6.8.1995 Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Warren Christopher thăm Hà nội và chính thức mở Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam. Việt Nam mở Đại sứ quán tại Hoa Kỳ

20.9.1995 Thượng nghị viện Hoa Kỳ không thông qua được Điều khoản S.AMDT.2723 với tỷ lệ phiếu 39-58 về: cấm hỗ trợ về tài chính cho Việt Nam trừ khi các điều kiện liên quan tới những binh lính Hoa Kỳ bị mất tích trong chiến tranh Việt Nam được giải quyết

5.1996 Hoa Kỳ đưa ra kế hoạch chi tiết cho Hiệp định thương mại 25.7.1996 Thượng nghị viện Hoa Kỳ không thông qua được Điều khoản S.AMDT.5027 với tỷ lệ phiếu 43-56 về: xoá bỏ quỹ dành cho Việt Nam nhằm trợ giúp kỹ thuật

7.4.1997 Bộ trưởng tài chính Hoa Kỳ và Bộ trưởng tài chính Việt Nam ký Hiệp ước tại Hà Nội về hoàn trả khoản nợ 145 triệu USD của Chính quyền miền Nam Việt Nam

10.4.1997 Thượng nghị viện Hoa Kỳ bổ nhiệm ông D.Peterson - cựu binh, cựu tù chiến tranh Việt Nam làm đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam

16.4.1997 Hoa Kỳ và Việt Nam ký cam kết bảo hộ về mặt luật pháp cho

các bản quyền tác giả

12.5.1997 Việt Nam và Hoa Kỳ trao đổi Đại sứ đầu tiên.

106

8.1997 Chính phủ Hoa Kỳ thông qua Đại diện Hoa Kỳ về phát triển quốc tế (USAID) bắt đầu chương trình luật thương mại

11.3.1998 Tổng thống Clinton miễn trừ Điều khoản Jackson - Vanik cho Việt Nam, mở đường cho OPIC, Ex-Im Bank, USDA, MARAD

26.3.1998 Bộ trưởng Trần Xuân Giá và Đại sứ P.Peterson ký Hiệp định

song phương OPIC cho Việt Nam

23.7.1998 Thượng viện Hoa Kỳ bỏ phiếu tỷ lệ 66-34 về việc tiếp tục chi ngân sách cho đại sứ quán tại Việt Nam để hợp tác giải quyết các vấn đề POW/MIA

30.7.1998 Các nghị sỹ quốc hội Hoa Kỳ thảo luận lại việc miễn trừ

30.9- 2.10.1998 Jackson-vanik cho Việt Nam với tỷ lệ phiếu bầu 260-163 Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm lần đầu tiên thăm chính thức Hoa Kỳ

10.1998 Hoa Kỳ và Việt Nam đồng ý đàm phán Hiệp định khoa học và

kỹ thuật

30.6.1999 Tổng thống Clinton gia hạn miễn trừ Điều khoản Jackson -

Vanik cho Việt Nam

25.7.1999 Tại Hà Nội, Việt Nam, Đại diện thương mại Hoa Kỳ Richard Fisher và Bộ trưởng thương mại Việt Nam Trương Đình Tuyển đồng ý thoả thuận một Hiệp định thương mại song phương có nguyên tắc

3.8.1999 Nhà trắng thông qua việc miễn trừ Jackson-vanik cho Việt

12- 13.9.1999

Nam với tỷ lệ phiếu 297-130 Thủ tướng Phan Văn Khải và Tổng thống Clinton đó cú cỏc cuộc tiếp xỳc riờng trao đổi một số vấn đề trong quan hệ song phương nhân nhân dịp tham dự Hội nghị Cấp cao APEC tại Auckland, Niu Dilân

9.12.1999 Ex-Im Bank và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thành Hiệp định khung cho phép Ex-Im Bank bắt đầu hoạt động tại Việt Nam

13.3.2000 Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ William Cohen trở thành Bộ trưởng quốc phòng đầu tiên của Hoa Kỳ tới thăm Việt Nam từ khi chiến tranh kết thúc

3.5.2000 Hoa Kỳ thông qua Nghị quyết 295 đề nghị Hà Nội gỡ bỏ tất cả

107

những luật pháp ngăn cản sự tự do ngôn luận. Điều này được đưa ra bởi Uỷ ban nghị viện Hoa Kỳ về ngoại giao 13.7.2000 Tại Uỷ ban thương mại Hoa Kỳ, Bộ trưởng thương mại Vũ Khoan và Đại diện thương mại Barshfsky ký một thoả thuận về quan hệ thương mại. Tổng thống B.Clinton công bố kết luận về Hiệp định thương mại song phương trong buổi lễ Kỷ niệm tại Vườn hồng - Nhà trắng

16 - 20.11.2000

26.7.2000 Các nghị sỹ quốc hội Hoa Kỳ thảo luận lại việc miễn trừ Jackson-vanik cho Việt Nam với tỷ lệ phiếu 332- 91 6.9.2000 Nhân dịp tham dự Hội nghị Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc tại New York, Chủ tịch nước Trần Đức Lương có cuộc gặp với Tổng thống Bill Clinton, chính thức mời Tổng thống thăm Việt Nam. Tổng thống B.Clinton thăm chính thức Việt Nam. Trong dịp này, hai nước ký Hiệp định về hợp tác khoa học-công nghệ và Bản ghi nhớ về hợp tác lao động và chứng kiến lễ ký 12 thư thoả thuận về đầu tư, buôn bán.

17.11.2000 Bộ Lao động Hoa Kỳ và Bộ Lao động Thương binh Xã hội

Việt Nam ký bản ghi nhớ về hợp tác lao động

1.6.2001 Tổng thống Bush gia hạn miễn trừ Điều khoản Jackson -

Vanik cho Việt Nam

22.6- 2.7.2001

8.6.2001 Tổng thống Bush đưa ra yêu cầu đối xử tối huệ quốc với Việt Nam và thực thi Hiệp định Thương mại trước Quốc hội Hoa Kỳ Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm thăm làm việc tại Hoa Kỳ nhằm trao đổi về hợp tác khoa học, công nghệ và giáo dục giữa hai nước nhân dịp tham dự Khóa họp về HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc tại New York.

17.7.2001 Uỷ ban tài chính Thượng nghị viện Hoa Kỳ cân nhắc và tổ chức thêm 1 buổi họp. BTA được đề nghị bỏ phiếu bằng miệng

26.7.2001 Các nghị sỹ Nhà trắng thông qua việc miễn trừ Jackson-vanik

cho Việt Nam với tỷ lệ phiếu 324-91

6.9.2001 BTA được các nghị sỹ Quốc hội Hoa Kỳ thông qua bằng hình

thức bầu miệng

108

3.10.2001 BTA được Thượng nghị viện Hoa Kỳ thông qua không có bổ

sung với tỷ lệ phiếu 88-12

16.10.2001 Tổng thống Bush ký Hiệp định thương mại song phương theo

Công Luật Hoa Kỳ số 107-52

28.11.2001 BTA được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn, tỷ lệ 278 - 85

7.12.2001 BTA được Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định công bố

9- 14.12.2001

theo luật của Việt Nam Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu phái đoàn cấp cao tới Washington,DC, New York, San Francisco, chứng kiến lễ phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ.

10.12.2001 BTA được công bố chính thức có hiệu lực trong một buổi lễ

kỷ niệm tại Blair House

3-6.3.2002 Hội thảo khoa học đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về chất

độc màu da cam tổ chức tại Hà Nội

8.4.2002 Bộ Tư pháp Việt Nam thông báo kết quả điều tra ban đầu về hệ thống văn bản pháp luật của các Bộ và các cơ quan Trung Ương: khoảng 150 văn bản mâu thuẫn với các điều khoản trong BTA

6-7.5.2002 Phó đại diện thương mại Hoa Kỳ tới Hà nội để mở văn phòng

Uỷ ban kết nối BTA

10.5. 2002 Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình thăm Hoa Kỳ 13.5. 2002 Tổng thống Hoa Kỳ ký công hàm yêu cầu Việt Nam đổi tên

các sản phẩm cá da trơn của mình

18.5. 2002 Thứ trưởng Bộ thương mại Lương Văn Tự dẫn đầu phái đoàn

thương mại tới Hoa Kỳ

1-8.6.2002 Thứ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc thăm Hoa Kỳ về việc

thực thi Hiệp định Thương mại song phương

3.6. 2002 Tổng thống Bush gia hạn miễn trừ Điều khoản Jackson -

Vanik Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm thăm Texas, Newyork, Massachusetts, Washington D.C

12- 22.6.2002 28.6. 2002 Nông dân nuôi cá da trơn Hoa Kỳ làm đơn thỉnh cầu chống

bán phá giá các sản phẩm cá từ Việt Nam

23.7. 2002 Nhà trắng thông qua việc miễn trừ Jackson-vanik cho Việt

109

Nam với tỷ lệ phiếu 338-91

8.8. 2002 Uỷ ban quốc tế Hoa Kỳ xem xét thấy có dấu hiệu ngành công nghiệp Hoa Kỳ đe doạ bị tổn hại do nhập khẩu cá philê đông lạnh từ Việt Nam

8.11. 2002 Bộ thương mại Hoa Kỳ xác định: Việt Nam là một nền kinh tế phi thị trường, nhằm mục đích chống bán phá giá và phải chịu trách nhiệm trước vụ kiện

3.4.2003 Nghị sỹ Chris Smith giới thiệu lại Đạo luật nhân quyền Việt Nam (H.R.1587) với Các nghị sỹ Quốc hội Hoa Kỳ 17.6.2003 Bộ thương mại Hoa Kỳ công bố xác định cuối cùng của mình sau khi điều tra vụ cá da trơn là người Việt Nam đã bán cá philê đông lạnh với giá thấp hơn giá hợp lý khoảng 36,84 - 63,88%

15.7.2003 Đạo luật nhân quyền Việt Nam được bổ sung vào Đạo luật Cấp phép quan hệ ngoại giao. Giấy phép được Nhà trắng thông qua vào ngày 15.7 và được chuyển tới Thượng nghị viện 17.7. 2003 Hiệp định Dệt may Việt Nam - Hoa Kỳ được Bộ trưởng Bộ thương mại Trương Đình Tuyển và Đại diện thương mại R.Burghardt ký chính thức tại Hà Nội, (ký tắt tại Oasinhtơn ngày 25.4.2003)

23.7. 2003 Uỷ ban thương mại Hoa Kỳ công bố xác định của mình là cá da trơn nhập khẩu từ Việt Nam đã làm tổn hại đến ngành công nghiệp cá da trơn của Hoa Kỳ, đề nghị Bộ thương mại Hoa Kỳ đánh thuế chống phá giá từ 36,84 - 63,88% 16.9. 2003 Bộ trưởng thương mại Trương Đình Tuyển thăm Hoa Kỳ 5.10. 2003 Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc thăm Hoa

Kỳ nhằm thúc đẩy đầu tư song phương

10.11.2003 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm VănTrà thăm Hoa Kỳ để thảo luận việc hợp tác thúc đẩy anh ninh khu vực 4.12. 2003 Phó thủ tướng Vũ Khoan thăm Washington, Việt Nam - Hoa Kỳ, chứng kiến lễ ký 5 văn bản, trong đó có Hiệp định Hàng khụng, Thoả thuận hợp tỏc phũng chống ma tuý. 12.12.2003 Phái đoàn đàm phán WTO của Việt Nam có những thảo luận

song phương với Hoa Kỳ trong một buổi làm việc tại Geneva

31.12.2003 Liên minh tôm miền Nam của Hoa Kỳ đệ đơn chống phá giá

110

kiện các nhà sản xuất Thái Lan, Trung Quốc Brazil, India, Ecuado và Việt Nam

4.3. 2004 Nghị sỹ Brownback công bố Nghị quyết 311 yêu cầu thả tự do Cha Nguyễn Văn Lý ngay lập tức, không điều kiện. Nghị quyết cho rằng việc giam cầm Cha Lý là vi phạm sự tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do di cư, liên kết, và thiếu công bằng ở Việt Nam, đề nghị Chính phủ Việt Nam xem xét sự việc lại trong điều kiện muốn hội nhập và thực hiện Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ

22- 30.4.2004

17- 21.5.2004

2.4. 2004 Quốc hội Hoa Kỳ thông báo bổ nhiệm người lãnh đạo và trợ giúp bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ là 2 đồng nhiệm Rob Simons và Lane Evans Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phúc Thanh thăm Hoa Kỳ, tham dự Lễ ra mắt của "Nhóm nghị sỹ Mỹ vỡ quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam". Hội nghị Uỷ ban hợp tác BTA lần 3 được tổ chức tại Washington. Thứ trưởng Lương Văn Tự dẫn đầu phái đoàn Việt Nam

3.6. 2004 Tổng thống Bush và gửi tới Thượng nghị viện bản gia hạn

7- 12.6.2004

hàng năm điều khoản Jackson-Vanik Bộ trưởng Trương Đình Tuyển gặp gỡ các nhà chính trị chủ chốt Hoa Kỳ để thảo luận việc gia nhập WTO của Việt Nam, Hiệp định dệt may, UB thương mại Hoa Kỳ điều tra việc xuất khẩu tôm, và việc thực hiện Hiệp định BTA

16.6. 2004 Việt Nam tiến hành vòng đàm phán thứ 8 để gia nhập WTO tại Geneva. Thực hiện đàm phán song phương với một số nước trong đó có Hoa Kỳ

23.6. 2004 Tổng thống Bush xác định Việt Nam là một nước nhận viện trợ mới cho kế hoạch 15 tỷ đôla chống lại dịch AIDS toàn cầu. Như một "nước trọng điểm" Hoa Kỳ có thể tăng mạnh hỗ trợ tài chính thông qua các tổ chức phi chính phủ nhằm cung cấp các dịch vụ AIDS tại Việt Nam

6.7. 2004 Bộ thương mại Hoa Kỳ bước đầu xác định thuế chống phá giá

cho tôm xuất khẩu từ Việt Nam.

19.7. 2004 Đạo luật Nhân quyền Việt Nam 2003 do Nghị sỹ Smith đề

111

xuất được Nghị viện Hoa Kỳ thông qua với tỷ lệ phiếu 323-45 Phó Uỷ ban thương mại Hoa Kỳ tới Hà nội thảo luận việc thực hiện BTA và gia nhập WTO của Việt Nam

22- 23.7.2004 15.9. 2004 Hoa Kỳ coi Việt Nam là một nước "quan tâm đặc biệt" trong

Đạo luật tự do tôn giáo Nghị sỹ Gary Locke dẫn đầu phái đoàn 25 người tới Việt Nam nhằm mở rộng cơ hội thương mại Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Nam thăm Hoa Kỳ

19- 26.9.2004 20- 24.9.2004 5.10. 2004 Thứ trưởng tài chính Việt Nam thăm Hoa Kỳ

25- 28.10.2004 20- 21.11.2004

Đoàn đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam gặp các thành viên Hoa Kỳ tại Washington Chủ tịch nước Trần Đức Lương tiếp xúc song phương với Tổng thống Hoa Kỳ George W.Bush nhân dịp tham dự Hội nghị Cấp cao APEC 12 tại Santiago (Chilê).

30.11.2004 Bộ thương mại Hoa Kỳ quyết định phạt thuế quan đánh vào tôm xuất khẩu từ Việt Nam trong tháng 7. Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam bán tôm với giá thấp hơn giá thị trường, và thấp hơn thuế chống phá giá từ 4,13 - 25,76%. Trừ khi quyết định này được xó bỏ, tôm xuất khẩu từ Việt Nam sẽ bị áp mức thuế mới tới 2.2005.

10.12.2004 Tổng thống Hoa Kỳ nhắc lại BTA 11.12.2004 Khai trương đường bay thẳng từ Hoa Kỳ tới Việt Nam 12.12.2004 Hội nghị gia nhập WTO của Việt Nam lần thứ 9

14- 16.3.2005

6.1.2005 Uỷ ban thương mại Hoa Kỳ bảo lưu kết luận sơ bộ hồi tháng 2 là nhập khẩu tôm làm tổn hại Hoa Kỳ với tỷ phiếu bầu lại 6-0, và tỷ lệ 4-2 đồng ý nhập khẩu tôm đóng hộp Vòng đàm phán song phương tiếp theo của Việt Nam - Hoa Kỳ về vấn đề gia nhập WTO của Việt Nam tổ chức tại Washington

4.2005 Thời hạn cuối cùng để Thượng nghị viện Hoa Kỳ phê chuẩn

Đạo luật tự do tín ngưỡng cho Việt Nam Thủ tướng Phan Văn Khải thăm chính thức Hoa Kỳ

19- 25.6.2005

13- Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 16 về việc gia nhập WTO

112

18.12.2005 của Việt Nam tổ chức tại Hồng Kông

113

PHỤ LỤC 2

NHỮNG YÊU CẦU "BTA CỘNG" ĐỐI VỚI VIỆC GIA NHẬP WTO

BTA Chỉ giới hạn khoảng 4% biểu thuế quan của VN 23.6% (chiếm 3.3% biểu thuế quan)

22.86% (chiếm 0.76 % biểu thuế quan)

Vấn đề Giới hạn mức thuế quan Thuế suất TB đơn giản với sản phẩm nông nghiệp Thuế suất TB đơn giản với sản phẩm phi nông nghiệp SPS

TBT

Nông nghiệp

Quy tắc xuất xứ

Các biện pháp khắc phục thương mại

Quy định các nguyên tắc chung về SPS Quy định các nguyên tắc chung về TBT Trừ thuế quan, không có thêm quy định nào về nông nghiệp Không có quy định về Quy tắc xuất xứ Quy định những nguyên tắc hạn chế về tự vệ . Không quy định về AD hoặc CVD

TRIPS

GATS

Quy định hầu hết nhưng không phải toàn bộ các nghĩa vụ theo TRIPS Quy định hầu hết nhưng không phải toàn bộ các nghĩa vụ theo GATS

TRIMS

Loại bỏ các biện pháp TRIMS không phù hợp các nguyên tắc của WTO WTO Các nước xin gia nhập giới hạn 100% biểu thuế quan 10.4-17.5% (phạm vi giới hạn thuế quan của 7 nước gia nhập gần đây) 4.8-8.9% (phạm vi giới hạn thuế quan của 7 nước gia nhập gần đây) Quy định thêm những nghĩa vụ cụ thể hơn Quy định thêm những nghĩa vụ cụ thể hơn Quy định phải có cam kết về hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu Quy định những nguyên tắc về ROO Hiệp định WTO về tự vệ, AD, SCM quy định nguyên tắc áp dụng các biện pháp khắc phục thương mại Các quy định bổ sung bao gồm MFN và chỉ dẫn địa lý Các quy định bổ sung bao gồm việc hình thành các điểm cung cấp thông tin và phụ lục GATS về vận tải đường không Các thành viên WTO có thể muốn Việt Nam đẩy nhanh lịch trình loại bỏ

114

vào năm 2006 từng bước

115

PHỤ LỤC 3

TỔNG HỢP CÁC VỤ TRANH CHẤP BỊ ĐIỀU TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM ĐẾN 2005

Nƣớc Mặt hàng Tiến trình điều tra Năm

1994 Colombia Gạo

Không đánh thuế vì mặc dù có bán phá giá ở mức 9.07% nhưng không gây tổn hại cho ngành trồng lúa ở Colombia

1998 EU Mì chính Đánh thuế bán phá giá ở mức 16.8%

1998 EU Giầy dép Không đánh thuế vì thị phần gia tăng

nhỏ so với Trung Quốc, Inđônexia

2000 Balan Bật lửa

Đánh thuế bán phá giá ở mức 0.09 Hoa Kỳ/ chiếc

2001 Canada Tỏi

Đánh thuế bán phá giá mức 1.48 đôla Canada / kg

2002 Canada Bát đầu điều tra từ tháng 4 năm 2002

Giày không thấm nước

EU Bật lửa Bát đầu điều tra từ tháng 6 năm 2002 2002

2002 Hoa Kỳ

Cá da trơn USTR xác định cá da trơn nhập khẩu từ Việt Nam đã làm tổn hại công nghiệp cá da trơn của Hoa Kỳ, đề nghị Bộ thương mại Hoa Kỳ đánh thuế chống phá giá từ 36.84% - 63.88%

2004 Hoa Kỳ

Tôm đông lạnh

Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam bán tôm với giá thấp hơn giá thị trường, và thấp hơn thuế chống phá giá từ 4.13% - 25.76%. Trừ khi quyết định này được xóa bỏ, tôm xuất khẩu từ Việt Nam sẽ bị áp mức thuế mới tới 2005.

116

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu trong nƣớc

1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 về hội nhập

kinh tế quốc tế

2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/1/1996 của Bộ Chính trị:

Về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị

trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

3. Bộ Thương mại - Kinh tế, thương mại thế giới và Việt Nam: Cục diện

năm 2003 và Dự báo năm 2004, 2004

4. Bộ Thương mại, Dự báo chiến lược thương mại Việt Nam đến năm 2010

- Hà nội, 2003.

5. Bộ Thương mại, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia "Thương mại Việt

Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế", 2003

6. Bộ Thương mại, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Tác động của toàn cầu hoá

và hội nhập kinh tế đến phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở

Việt Nam, Hà nội, 2003

7. Bộ Thương mại, Thị trường Hoa Kỳ, Báo cáo chuyên đề, 2003

8. Bộ Thương mại. Tổng kết hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu các năm

1997, 1998, 1999, 2000,2001,2002,2003, 2004

9. Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020 - NXB Chính trị quốc

gia - 2001

10. Chính phủ, Chỉ thị số 22/2000/CT-TT ngày 27/10/2000 về Chiến lược

phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2010

11. Chính phủ, Nghị định số 33/CP ngày 19 tháng 4 năm 1994 về quản lý

Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu

117

12. Chính phủ, Nghị định 11/1999/NĐ-CP ngày 03/3/ 1999 Về hàng hóa

cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ

thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện

13. Chính phủ, Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 Quy

định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập

khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài

14. Cục Xúc tiến thương mại, Xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ - Một số

thông tin cần biết- H. 2003

15. Báo Nhân Dân, Tuyên bố của Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton về việc

bình thường hoá quan hệ của Hoa Kỳ với Việt Nam, số 234, 1995

16. Báo Thanh niên, Phỏng vấn đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam M.Marine, số

ngày 22-4-2004

17. Bạch Thụ Cường, Bàn về cạnh tranh toàn cầu, NXB Thông Tấn, 2002

18. Hoàng Thị Chỉnh, Xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ - Những vấn đề đặt ra và

giải pháp. Tạp chí Kinh tế phát triển, số tháng 1/2003

19. Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Trọng Điệp, Thông điệp Liên bang của

Tổng thống Bill Clinton đọc trước Quốc hội Hoa Kỳ ngày 27.1.1998.

NXB Thanh niên, 2001

20. Dự án STAR Việt Nam, Viện QLKTTW, Đánh giá tác động kinh tế của

Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ các năm 2002,

2003, 2004, NXB Chính trị quốc gia, 2003, 2004

21. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, NXB Chính trị Quốc gia, 1996

22. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, NXB Chính trị Quốc gia, 2004

23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trungương lần thứ 4,

Khoá VIII

118

24. Đỗ Đức Định, Quan hệ kinh tế Việt Nam Hoa Kỳ - NXB Thế giới -

2000

25. Đinh Quý Độ. Chính sách kinh tế của Hoa Kỳ đối với khu vực Châu Á -

Thái Bình Dương kể từ sau chiến tranh lạnh, NXB KHKT, HN, 2000

26. Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc

Hoa Kỳ về quan hệ thương mại , Tài liệu chụp nguyên gốc (Lưu hành nội

bộ- Bộ Thương mại), 2000.

27. Võ Đại Lược. Bối cảnh quốc tế và những xu hướng điều chỉnh chính sách

phát triển kinh tế ở một số nước lớn, NXB KHXH, Hà Nội, 2003

28. Nguyễn Đình Lương, Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ dưới tác động của

Hiệp định thương mại song phương, Tạp chí Quốc tế, số 11/2001

29. Nguyễn Thị Mơ, Chính sách xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ và những biện

pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, Hà Nội,

2002

30. Paul R.Krugman, Maurice Obstfeld, Kinh tế học quốc tế, Lý thuyết và

chính sách. Bộ 2 tập NXB Chính trị quốc gia, 1998.

31. Quốc hội, Luật số 03/1998/QH10, ngày 20/5/1998: Luật khuyến khích

đầu tư trong nước sửa đổi.

32. Quốc hội, Luật số 05/1997/QH9, ngày 10/5/1997 : Luật Thương mại.

33. Quốc hội, Luật số 13/1999/QH10, ngày 12/6/1999 : Luật doanh nghiệp.

34. Nguyễn Thiết Sơn, Chính sách và vai trò của Mỹ ở khu vực Châu Á -

Thái Bình Dương, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 1/2005

35. Nguyễn Thiết Sơn, Một năm thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam -

Hoa Kỳ và những vấn đề - Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1/ 2003

36. Nguyễn Thiết Sơn. Việt Nam - Hoa Kỳ quan hệ thương mại và đầu tư,

NXB KHXH, 2004

119

37. Tổng cục Thống kê, Tư liệu kinh tế các nước trên thế giới - NXB

Thống kê, 2000

38. Lê Bàn Thạch, Trần Thị Tri, CNH ở NIEs Đông Á và bài học kinh nghiệm

đối với Việt Nam - NXB Thế giới, 2000

39. Thời báo kinh tế Việt Nam. Chuyên san Kinh tế Việt Nam và thế giới từ

năm 1998 đến 2002, 2002

40. Thông tấn xã Việt Nam, Quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập

WTO- Tình hình thế giới năm 2004 và dự đoán năm 2005, 2004

41. Thông tấn xã Việt Nam, Chuyên đề "Nước Mỹ với những điều chỉnh

chiến lược lớn", 2002

42. Võ Thanh Thu, Quan hệ Kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, 2003

43. Trần Nguyễn Tuyên, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, bước tiến

mới trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, Tạp chí Kinh tế

Châu Á - Thái Bình Dương, số 2 tháng 4/2004

44. Trần Văn Tùng - Tính hai mặt của toàn cầu hoá - NXB thế giới, 2000

45. Trường Đại học Ngoại thương, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Việt Nam hội

nhập kinh tế quốc tế, Cơ hội và Thách thức. Tháng 2/1999.

46. Trung tâm Thông tin thư viện và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng Quốc

Hội, CD-ROM "Cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam", Phiên bản 3.0, 2003;

Phiên bản 3.0, 2004

47. Trung tâm Thương mại Quốc tế UNCTAD/WTO (ITC), Ban thư ký Khối

thịnh vượng chung (CS), Hướng dẫn doanh nghiệp về Hệ thống thương

mại thế giới, NXB Chính trị quốc gia, 2001

48. Trung tâm Tư vấn và Đào tạo kinh tế thương mại, Hợp tác thương mại

hướng tới thị trường Mỹ, NXB Giao thông Vận tải, 2001

49. Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, Điều tiết thị trường trong bối

cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội, 2004

120

50. Phan Tố Uyên, Thực trạng xuất khẩu sang thị trường Mỹ và những

vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Kinh tế phát triển

số tháng 2/2004

51. Viện Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế, Viện Hàn lâm Khoa học Nga,

Thế giới trong đầu thiên niên kỷ mới, Moscva, 2001

Tài liệu nƣớc ngoài, tài liệu điện tử

52. Chung T,K. VietNam, Productivity growth and Industrial Structure in the

Pacific Region. Japan Committee for pacific Economic Outlook., 2000

53. David Collahan, Between Two Warlds, Happers Collin, 1999.

54. Ha Joon Chang, Kicking away the ladder, Development Strategy in

Historical perspective, Anthern Press, London, 2002

55. International Monertary Fund (IMF). Word Economic Outlook.

Washington DC., Imk, 2003

56. Institute of Training and Technical Cooperation of the World Trade

Organization, World Trade Report, 2003

57. Jorgenson, Dale W, and Kevin J. Stiroh. Information Tecnology and

Growth. American Economic Review. May, 1999.

58. Ranja Sengupta - US-Vietnam Trade war over seafood: Free trade not so

free after- September 4, 2003

59. Shiumei Lin, Alexander Koff. US- Vietnam Bilateral Trade Agreement

Commitments Road map. January, 2001

60. Reuters, Summay of key Provisions of the US-Vietnam Bilateral Trade

Agreement (BTA), Washington D.C, 7/2003

61. Tarrant F. 2002. United State's agricultural Situation: Overview of US.

Horticultural and Tropical Products Division. USDA.2002

62. UNCTAD, Trade and Development Report, New York and Geneva, 1997

121

63. US-VN Trade Council, Who gets what?- an inventory of benefits

from the US - VN Trade Agreement , 2002 - www.usvtc.org

64. World Trade Organization- Legal texts, the results of the Uruguay Round

of Multilateral Trade Negotiations, 2002

65. www.dataweb/ustic.gov

66. www.usvtc.org

67. www.usembassy.state.gov/vietnam

68. www.whitehouse.gov.omb

69. www.cencus.gov

70. www.vietnamustrade.org

122