ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH
QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM – HOA KỲ THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SỸ
Ngƣời hƣớng dẫn: GS.TS. Nguyễn Thiết Sơn
Hà nội - 2005
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 .................................................................................................. 7
TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM .............................................................................................................. 7
1.1. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ, SỰ TẤT YẾU TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP CỦA NƢỚC TA ... 7
1.1.1. Xu hƣớng cơ bản của nền kinh tế, thƣơng mại thế giới ............. 7
1.1.2. Định hƣớng phát triển thƣơng mại quốc tế vủa Việt Nam trong quá trình hội nhập ................................................................................... 11
1.1.3. Hoa Kỳ và vị thế của Hoa Kỳ trong nền kinh tế, thƣơng mại thế giới......................................................................................................... 14
1.1.4. Lợi ích của quan hệ thƣơng mại với Hoa Kỳ trong quá trình hội nhập của Việt Nam ............................................................................... 22
1.2. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC VỀ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG CỦA VIỆT NAM ..................................................................................... 24
1.2.1. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong khu vực có quan hệ thƣơng mại với Hoa Kỳ........................................................................ 24
1.2.2. Khả năng vận dụng của Việt Nam. ............................................ 30
CHƢƠNG 2 ................................................................................................ 32
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ ..................................................................................................... 32
2.1. THỰC TRẠNG THƢƠNG MẠI HAI CHIỀU TỪ KHI HOA KỲ BỎ CẤM VẬN ĐẾN TRƢỚC HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ (1994 - 2001) ............................................................... 32
2.1.1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá thời kỳ 1994 - 2001 ................ 33
2.1.2. Thực trạng nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 1994 -2001 ................ 37
123
2.2. HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI SONG PHƢƠNG VIỆT NAM - HOA KỲ VÀ QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ SAU KHI CÓ HIỆP ĐỊNH .............................................................................. 40
2.2.1. Tổng quan về Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ ........ 40
2.2.2. Ý nghĩa sự ra đời Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ 44
2.2.3. Tình hình quan hệ thƣơng mại hai chiều sau Hiệp định thƣơng mại......................................................................................................... 47
2.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ TRONG THỜI GIAN QUA .............................................................................................. 55
2.3.1. Những đổi mới trong chính sách thƣơng mại quốc tế của Việt Nam ....................................................................................................... 55
2.3.2. Những nhân tố thúc đẩy từ phía Hoa Kỳ .................................. 59
2.4. VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ ......................................... 61
CHƢƠNG 3 ................................................................................................ 67
TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ ..................................................................... 67
3.1. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM -HOA KỲ ....................................................................................... 67
3.1.1. Những cơ hội thuận lợi để phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam- Hoa Kỳ ........................................................................................ 68
3.1.2. Những khó khăn và thách thức trong phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ. .......................................................... 70
3.2. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CHUNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ. ........................................................................................................... 76
3.2.1. Phấn đấu gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trƣờng Hoa Kỳ. ............................................................................................................... 76
3.2.2. Nỗ lực giải quyết những hạn chế nhập khẩu đối với hàng hoá của Hoa Kỳ ........................................................................................... 79
124
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MAỊ VIỆT NAM - HOA KỲ. ................................................................................................. 82
3.3.1. Những quan điểm cơ bản về phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ ............................................................................... 82
3.3.2. Một số kiến nghị và giải pháp .................................................... 83
KẾT LUẬN ............................................................................................... 104
PHỤ LỤC 1 ............................................................................................... 106
Tài liệu trong nƣớc ................................................................................... 117
Tài liệu nƣớc ngoài, tài liệu điện tử ......................................................... 121
125
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài luận văn
Toàn cầu hoá kinh tế là một sự phát triển tất yếu khách quan, một xu
hướng bao trùm của sự vận động kinh tế thế giới ngày nay. Do tác động của
viễn thông, công nghệ và vốn, các hoạt động kinh tế và thương mại của mỗi
nước đã gia tăng mạnh mẽ, vượt ra khỏi biên giới quốc gia, liên kết trên một
chỉnh thể thị trường toàn cầu. Đồng thời với quá trình đó là sự hình thành và
hoàn thiện các định chế tổ chức kinh tế quốc tế tương thích nhằm quản lý và
điều hành các hoạt động kinh tế đã ngày càng lệ thuộc chặt chẽ giữa các quốc
gia và khu vực.
Với quan điểm chủ đạo của Đảng và Nhà nước ta là “đa phương hóa và
đa dạng hóa trên cơ sở công bằng lợi ích giữa các đối tác,... tận dụng mọi
khả năng để tăng mức xuất khẩu trên tất cả các thị trường đã có, song song
với việc đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện
còn chiếm tỷ trọng thấp, mở ra các thị trường mới và tích cực tăng cường tiếp
cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn” [10, P.III, M.II,C], thì Hoa Kỳ
đã trở thành một trong những trọng điểm quan trọng trong chiến lược phát
triển thương mại quốc tế của Việt Nam. Việc tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa
quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là nhu cầu bức thiết nhằm đa
dạng hóa thị trường, thúc đẩy xuất khẩu hướng tới một thị trường có tính ổn
định cao, và tiếp cận nhập khẩu "công nghệ nguồn". Hơn nữa, Hoa Kỳ còn là
một trong những nhà đàm phán lớn cho việc Việt Nam gia nhập WTO.
Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là Hoa Kỳ và Việt Nam có quá nhiều
điểm khác biệt không chỉ về chế độ chính trị, mà cả kinh tế, ngoại giao, chính
sách thương mại... Xét ở khía cạnh khác, trải qua 30 năm liên tục bị Hoa Kỳ
cấm vận đã làm cho thị trường Hoa Kỳ tuy hấp dẫn nhưng đầy mới mẻ, xa lạ
1
với Việt Nam. Hàng loạt chính sách, luật lệ phức tạp chưa được chúng ta
tìm hiểu, nắm bắt và cập nhật đầy đủ vì vậy các hoạt động kinh tế hai chiều
hàm chứa nhiều rủi ro.
Mặc dù vậy, vẫn phải khẳng định rằng kể từ khi bình thường hoá quan
hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ, quan hệ kinh tế, thương mại đã có bước
phát triển rất lớn, đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại song phương giữa
hai nước được ký kết vào cuối năm 2001. Hoa Kỳ cũng đã có những khoản
viện trợ cho Việt Nam, tuy không nhiều và phần lớn là phi Chính phủ.
Nói chung, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, quan hệ
kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ còn nhiều tồn tại, thách thức,
chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn của cả hai bên. Điều này cho
thấy việc nghiên cứu phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là rất
cần thiết. Đó cũng là lý do chúng tôi chọn đề tài: “Quan hệ thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ, Thực trạng và giải pháp” làm chủ đề nghiên cứu của luận
văn.
Đề tài được thực hiện nhằm luận giải cơ sở thực tiễn của việc phát triển
quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, trên cơ sở đó có những giải pháp
thích ứng để đẩy mạnh việc khai thác hiệu quả tiềm năng của cả hai bên, góp
phần làm căn cứ cho việc điều chỉnh các quan hệ buôn bán quốc tế cũng như
các chính sách thương mại của Việt Nam. Trong bối cảnh và xu hướng quốc
tế hoá hiện nay, việc nghiên cứu có hệ thống các vấn đề trên là rất cần thiết,
góp phần đáp ứng được những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, đưa Việt Nam hội nhập nhanh và hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và
khu vực.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong và ngoài nƣớc
Trong xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang phát triển như vũ bão
hiện nay, hợp tác kinh tế, thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế đang là
những vấn đề thực tiễn nóng bỏng, sôi động, được cả giới khoa học và chính
2
khách quan tâm. Do vậy quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại quốc tế của
Việt Nam với các nước, các khu vực nói chung và với Hoa Kỳ nói riêng
không phải là một chủ đề hoàn toàn mới. Việc nghiên cứu các vấn đề hợp tác
kinh tế, thương mại với Hoa Kỳ được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới,
song liên quan tới Việt Nam thì cho đến nay, chúng tôi chưa tiếp cận được đề
tài nghiên cứu nào được công bố - thực hiện ở nước ngoài, loại trừ một số
bài viết, tham luận ngắn dành cho các hội thảo, đăng trên các tạp chí, các kỷ
yếu, hoặc trong các báo cáo của một số tổ chức như STAR, USAID, WB,
IMF.... Ở trong nước, cũng đã có các công trình nghiên cứu vấn đề này,
nhưng chủ yếu nghiên cứu quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ nói chung,
những sự chuẩn bị để đi đến ký kết Hiệp định thương mại song phương hoặc
đề cập một cách tổng quát về chính sách và thị trường Hoa Kỳ. Một số công
trình có đề cập tới quan hệ mậu dịch hàng hoá hai nước song phần lớn được
xem như là một yêu tố cấu thành trong nghiên cứu tổng thể quan hệ kinh tế.
Có thể nêu một số công trình như: "Hợp tác và đấu tranh trong quan hệ giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ hiện nay"- Viện quan hệ quốc tế- Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 1998, "Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ"- TS Đỗ
Đức Định- NXB Thế giới 2000, "Tiếp cận thị trường Hoa Kỳ" - Bộ Thương
mại"- 2003. Đề tài cấp Bộ, "Việt nam - Hoa Kỳ, Quan hệ thương mại và đầu
tư" - Nguyễn Thiết Sơn - NXB KHXH, 2004..v.v..
Cho đến nay, chưa có nhiều công trình nhấn mạnh đến thực trạng quan
hệ thương mại hàng hoá giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sau khi Việt Nam và Hoa
Kỳ ký kết Hiệp định thương mại song phương và các giải pháp để phát triển
quan hệ này trong giai đoạn Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đặc
biệt từ cách tiếp cận của chuyên ngành kinh tế chính trị.
3
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn hướng tới hai mục đích cơ bản sau:
- Thứ nhất, làm rõ tầm quan trọng của việc phát triển quan hệ thương
mại quốc tế nói chung và thương mại với Hoa Kỳ nói riêng trong bối cảnh
toàn cầu hoá và khu vực hoá trên cơ sở những điều kiện thực tế khách quan và
định hướng cơ bản của Đảng và Nhà nước ta.
- Thứ hai, nghiên cứu thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ dựa trên những động thái chính trị, kinh tế để từ đó đánh giá được thực
trạng, tìm ra các nguyên nhân cơ bản nhằm cải thiện quan hệ tương xứng với
khả năng và mong muốn của cả hai quốc gia. Từ đó đề xuất một số kiến nghị
về chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ trên cơ sở các động thái chủ quan và khách quan chi phối các
mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội; là các giải pháp nhằm thúc đẩy, phát
triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ trong xu hướng toàn cầu hóa và
khu vực hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại của Việt Nam - Hoa Kỳ bao gồm
rất nhiều các hình thức phong phú, linh hoạt, đa dạng. Luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu một lĩnh vực, được coi là một trong những động lực tăng trưởng
mạnh nhất của nền kinh tế Việt Nam hiện nay là thương mại hàng hóa.
4
Ngoài những nghiên cứu về vai trò và thực trạng của mối quan hệ, chủ đề
nghiên cứu bao gồm sự tăng trưởng kim ngạch xuất - nhập khẩu, vấn đề về thị
trường, hàng rào thương mại, cán cân thương mại...
Sự khảo cứu của luận văn được giới hạn trong khoảng thời gian từ năm
1995 đến nay và dự báo triển vọng tới năm 2010.
Những tư liệu thống kê, phân tích hoặc các so sánh ngoài đối tượng và
phạm vi nghiên cứu trên chỉ là những đối chứng cần thiết nhằm đảo bảo tính
logíc của luận văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử , kết hợp với quan điểm lý thuyết hệ thống hiện đại.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh, phân loại và dự báo...
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ tầm quan trọng của sự phát triển quan hệ thương mại
giữa Việt Nam với Hoa Kỳ; phát hiện những nhân tố, những động lực thúc
đẩy, gắn kết nền kinh tế, thương mại Việt Nam hội nhập và phát triển cùng
với các nền kinh tế, thương mại trong khu vực và toàn thế giới.
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng quan hệ thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ, triển vọng của mối quan hệ này qua những cơ hội,
những tồn tại và thách thức.
- Trên cơ sở đó, cùng với những kinh nghiệm tham khảo từ một số
nước trong khu vực có phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, xác định
những phương hướng và đưa ra những kiến nghị thích hợp nhằm phát triển
5
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong xu hướng toàn cầu
hóa và khu vực hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Tên luận văn: Quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Thực trạng
và Giải pháp
Bố cục luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo; nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Tầm quan trọng của quan hệ thƣơng mại với Hoa Kỳ
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam -
Hoa Kỳ.
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển quan hệ thƣơng
mại Việt Nam - Hoa Kỳ
6
CHƯƠNG 1
TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI HOA KỲ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1.1. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ, SỰ TẤT
YẾU TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP CỦA NƢỚC TA
1.1.1. Xu hƣớng cơ bản của nền kinh tế, thƣơng mại thế giới
a. Như một xu thế khách quan, toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế đang
diễn ra ngày một sôi động. Toàn cầu hoá là giai đoạn phát triển cao của quá
trình quốc tế hoá đời sống kinh tế. Theo UNCTAD, bản chất của toàn cầu hoá
là sự tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau
của tất cả các nước, các khu vực [62, tr. 23]. Toàn cầu hoá chỉ có thể được
giải quyết ở quy mô toàn cầu trên cơ sở hợp tác của các quốc gia, không phân
biệt trình độ phát triển, trình độ chính trị, xã hội. Do đó, có thể nói toàn cầu
hoá là một xu thế tích cực, phát triển như một thực tế khách quan của văn
minh nhân loại.
Do có vị trí đặc biệt trong nền kinh tế thế giới, chính sách của các trung
tâm kinh tế lớn đương nhiên có ảnh hưởng nhiều đến chiều hướng và nội
dung của quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát
triển, những mục tiêu và toan tính ban đầu của các cường quốc này dần trở
thành động lực khách quan, thúc đẩy sự tự do cạnh tranh trên quy mô rộng
lớn. Toàn cầu hoá kinh tế một mặt đưa đến sự hình thành một thị trường thế
giới tự do, một hệ thống tài chính, tín dụng toàn cầu, sự phát triển phân công
lao động quốc tế và mở rộng giao lưu kinh tế, khoa học công nghệ giữa các
quốc gia trên phạm vi toàn thế giới. Mặt khác, toàn cầu hoá làm gia tăng tính
tuỳ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế, có nhiều vấn đề trở thành vấn đề
chung của nhân loại, nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mang tính quốc tế...
7
Tất cả những đặc trưng đó của thế giới hiện đại đã nảy sinh nhu cầu hợp
tác đa dạng nhiều chiều, ổn định và bền vững đối với mọi quốc gia trên thế
giới. Nền kinh tế của mỗi dân tộc được đặt trong mối quan hệ ràng buộc, phụ
thuộc với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế có nghĩa là tham gia vào quá trình toàn cầu hoá
và khu vực hoá, tham gia vào hệ thống thương mại và tài chính quốc tế, hệ
thống phân công lao động quốc tế để phát huy tối đa lợi thế cá biệt; đồng thời
có cơ hội tận dụng các lợi thế khu vực, lợi thế từ bên ngoài. Mặt khác, chính
sự phân công lao động toàn cầu lại tạo ra một khuynh hướng cạnh tranh ngày
càng mạnh mẽ và khốc liệt. Sự cạnh tranh diễn ra trong mọi lĩnh vực, và đặc
biệt là trong các hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều đó buộc mọi quốc gia dù
thuộc mô hình và trình độ phát triển nào, cũng phải cải cách và chuyển đổi
tích cực để trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thế giới đang được
hình thành như một thể thống nhất. Thực tế đã cho thấy dù là một mô hình
kinh tế thị trường tự do với điển hình là Hoa Kỳ, hay mô hình thị trường xã
hội của các nước thành viên EU, hoặc mô hình thị trường hỗn hợp như Nhật
Bản thì cũng đang đều phải cải tổ lại một cách sâu sắc. Đồng thời, đây cũng là
thách thức lớn, buộc các nước đang phát triển phải có những đối sách thật phù
hợp, để không bị tuột dốc trong cuộc chiến kinh tế toàn cầu.
b. Khi đi sâu nghiên cứu về phân công lao động trong quá trình quốc tế
hoá đời sống kinh tế, chúng ta thấy sự phân công lao động quốc tế đang ngày
càng đi vào chiều sâu. Điều này là do có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ và hệ thống các công ty đa quốc gia. Quá trình phân công theo
ngành và theo sản phẩm đang được chuyển dần sang phân công theo chi tiết
và từng công đoạn của quy trình công nghệ. Khác biệt về điều kiện tự nhiên
không còn đóng vai trò quyết định trong phân công lao động quốc tế nữa, mà
8
khả năng về kỹ thuật và công nghệ đang dần dần trở thành yếu tố quan
trọng trong sự phân công lao động mới.
Cơ cấu ngành và cơ cấu địa lý của phân công lao động quốc tế cũng có sự thay đổi. Trước đây các nước khối Nam 1 thường tập trung vào những
ngành có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao trong khi các nước khối Bắc
phát triển những ngành thiên về hàm lượng vốn và công nghệ. Sự phân công
như vậy đã tạo tiền đề cho thương mại hàng hoá giữa Bắc và Nam. Tuy nhiên,
với triển vọng phát triển kinh tế "mềm", các nước khối Bắc sẽ đi dần vào các
sản phẩm có hàm lượng chất xám cao và các dịch vụ có nền móng là công
nghệ thông tin trong khi các nước khối Nam tiếp nhận vai trò cung ứng các
sản phẩm có hàm lượng công nghệ trung bình. Tỷ trọng của trục Bắc-Nam
trong thương mại hàng hoá quốc tế có thể sẽ giảm dần trước sự lớn mạnh của
trục Nam - Nam.
Trước diễn biến của sự phân công lao động quốc tế theo cả chiều rộng
lẫn chiều sâu, đòi hỏi mỗi quốc gia phải xác định vị trí của mình, xác định có
thể đảm nhiệm được khâu nào trong quá trình này, nhằm giành thế tích cực và
chủ động khi tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế.
c. Vừa là nguyên nhân lại vừa là kết quả của những xu hướng đang chi
phối đời sống thế giới nêu trên, thương mại quốc tế ngày càng có vai trò to
lớn đối với sự tăng trưởng kinh tế, chiếm một tỷ lệ đáng kể trong GDP của
các quốc gia. Một mặt, thương mại quốc tế là phương tiện để cung cấp các
yếu tố đầu vào cho nền sản xuất, quyết định khả năng và trình độ sản xuất của
một nước. Mặt khác, thương mại quốc tế là đòn bẩy của tăng trưởng kinh tế
theo nghĩa là phương thức để một ngành sản xuất có thể mở rộng quy mô của
mình tới mức tối ưu, để một quốc gia có khả năng và cơ hội khai thác tối đa
1 Các nước Nam: các nước đang phát triển, Các nước Bắc: các nước công nghiệp phát triển
lợi thế so sánh của mình.
9
Xét về sự phát triển cơ cấu ngành hàng, các ngành giàu hàm lượng
chất xám sẽ phát triển mạnh. Chu kỳ đổi mới công nghệ và sản phẩm được rút
ngắn, lợi thế so sánh của các quốc gia luôn thay đổi dẫn đến sự chuyển dịch
thường xuyên hơn về cơ cấu kinh tế. Đối tượng thương mại được mở rộng,
không chỉ bao gồm các sản phẩm hữu hình của nền sản xuất truyền thống mà
cả các sản phẩm vô hình như các sản phẩm dịch vụ, vốn và công nghệ; và các
sản phẩm của tri thức như quyền sở hữu trí tuệ và các sản phẩm khác.
Một đặc điểm đáng chú ý nữa trong quan hệ thương mại toàn cầu là sự
gia tăng mạnh của thương mại dịch vụ (vận tải, viễn thông, bảo hiểm, ngân
hàng...) so với thương mại hàng hoá. Điều này phản ánh sự thay đổi trong cơ
cấu tiêu dùng do ảnh hưởng của sự phát triển khoa học - công nghệ. Khái
niệm thương mại quốc tế hiện nay bao gồm sản phẩm "cứng", các Hiệp định
dịch vụ đi kèm và cả các sản phẩm trí tuệ hay còn gọi là các sản phẩm
"mềm".
e. Mặt khác, sự phát triển của khoa học và công nghệ sẽ còn tạo ra
những thay đổi căn bản về phương thức tiến hành thương mại trên phạm vi
toàn cầu. Mức độ phổ cập của mạng internet sẽ khiến tỷ trọng của thương mại
điện tử tăng rất nhanh và thông qua đó thay đổi một cách sâu sắc trong tư duy
kinh doanh, chiến lược tiếp thị cũng như phương thức kinh doanh của mọi
doanh nghiệp. Cùng với việc đem lại các cơ hội thị trường mới, thương mại
điện tử cũng sẽ làm cho quá trình cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Sự phát
triển đó đã, đang và sẽ làm suy giảm các lợi thế so sánh cổ điển như lợi thế tự
nhiên và giá lao động thấp mà lợi thế này hiện đang là một ưu thế quan trọng
của các nước đang phát triển. Thay vào đó là ưu thế so sánh của các nền kinh
tế dựa vào công nghệ tiên tiến và các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.
Chính vì vậy, thị trường thế giới vừa có thể là động lực, là môi trường
cho sự phát triển kinh tế lại vừa là thách thức đối với các nền kinh tế. Hơn ai
10
hết các quốc gia đang phát triển, đang trên con đường công nghiệp hoá
chịu sự ảnh hưởng rất nhiều của thương mại quốc tế trong định hướng phát
triển của mình.
f. Trong trật tự kinh tế thế giới hiện nay, Hoa Kỳ với thực lực kinh tế,
sức mạnh quân sự vẫn đang là một quốc gia chiếm ưu thế lớn nhất thế giới.
Bên cạnh đó, các nước EU, Nhật bản, Nga, Trung Quốc và nhiều nước khác
đang có những bước phát triển kinh tế mạnh mẽ sẽ là những đối tác có nhiều
tiềm năng.
Xét về sự năng động của quá trình tăng trưởng, theo dự báo của nhiều
chuyên gia nghiên cứu kinh tế có uy tín, có nhiều khả năng thế kỷ 21 là thế kỷ
của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Khu vực này hiện chiếm 24% sản
xuất của cả thế giới, đến năm 2010 có khả năng chiếm tới 35%. Trong thập kỷ
tới, khu vực này vẫn là khu vực năng động nhất về phát triển kinh tế, là khu
vực thu hút sự quan tâm chú ý của thế giới và là đối tượng tranh giành ảnh
hưởng của ba trung tâm kinh tế là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản.
Trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, các nước Đông Nam Á lại
đang trỗi lên nhanh chóng, trở thành tâm điểm cạnh tranh của các công ty
xuyên quốc gia. Tỷ trọng của các nước này trong GDP thế giới đã tăng từ
2,4% năm 1970 lên 5% năm 1995 và 5,7% vào năm 2000. Đến năm 2010
nhiều dự báo cho rằng các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam tiếp tục
đạt mức tăng trưởng kinh tế khá cao từ 7-9%/ năm.
1.1.2. Định hƣớng phát triển thƣơng mại quốc tế vủa Việt Nam
trong quá trình hội nhập
Đáp ứng những điều kiện khách quan của đời sống kinh tế thế giới hiện
đại, kể từ Đại hội VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương phát
triển một nền kinh tế mở theo nguyên tắc chung của thị trường thế giới. Đồng
11
thời nhấn mạnh chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, coi xuất
khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm trong kinh tế đối ngoại; khuyến khích
hoạt động hội nhập vào các tổ chức và diễn đàn khu vực, quốc tế với bước đi
thích hợp; khẳng định chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài
với các hình thức thích hợp... [21, tr. 90,94]
Cụ thể hoá tư tưởng trên, Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa VIII đã
đề ra những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể cho hoạt động kinh tế đối ngoại theo
hướng: “Tích cực, chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường thế giới”
[23,tr.3] thông qua các hoạt động:
1) Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho xuất khẩu, từ chính
sách tự do xuất khẩu đến hỗ trợ tài chính, thành lập các khu mậu dịch tự do,
khu chế xuất...;
2) Thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên
ngoài thông qua các hoạt động mở cửa thị trường trong nước, chính sách
khuyến khích tài chính và cải thiện môi trường đầu tư...;
3) Chủ động hội nhập vào các tổ chức khu vực và quốc tế thông qua
công tác chuẩn bị về tiềm lực cạnh tranh, về thể chế pháp lý và con người...
Tư tưởng chủ đạo này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng IX.
Theo tinh thần đó ngày 27/11/2001, Tổng bí thư đã ký ban hành Nghị
quyết số 07-NQ/TW của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó,
Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh
thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa....
Trong vấn đề phát triển thương mại với các nước trên thế giới, Đảng và
Nhà nước chỉ đạo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau. Đổi mới và phát triển thương mại quốc tế trước
12
hết là phải xuất phát từ lợi ích của quốc gia dân tộc bao gồm cả lợi ích
chính trị, kinh tế. Mục tiêu của thương mại quốc tế là [10, P.II, M.II]:
+ Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh
CNH-HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; đảm bảo nhu cầu về hàng hoá
cho sản xuất và tiêu dùng thông qua các hình thức xuất nhập khẩu hàng hoá,
dịch vụ và sự giúp đỡ của quốc tế.
+ Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia
tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công
nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ;
+ Về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất,
nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến
tới cân bằng kim ngạch xuất - nhập khẩu;
+ Tăng cường phương thức kinh doanh theo hướng văn minh, hiện đại.
Tiếp cận những phương thức kinh doanh tiên tiến, nhất là thương mại điện tử,
hoàn thiện cơ chế thương mại phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN và quá trình hội nhập.
+ Mở rộng và đa dạng hóa thị trường. Hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu
vực và thế giới.
Để thực hiện các mục tiêu chiến lược trên đây, cần phải tiến hành đồng
bộ nhiều hoạt động, mà một trong những hoạt động đó là chiến lược phát triển
thị trường. Theo dự báo của Bộ thương mại Việt Nam, tỷ trọng của các thị
trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới (2010) như sau:
Châu Á : 46 - 50%
Nhật bản: 17 - 18%
ASEAN: 15 - 16%
Trung Quốc, Đài Loan, Hồng kông: 14 - 16%
Châu Âu: 27 - 30%
13
EU: 25 - 27%
SNG và Đông Âu: 3 - 5%
Bắc Mỹ (chủ yếu là Hoa Kỳ): 15 - 20%
Australia và New Zealand: 5%
Trước mắt, định hướng phát triển thị trường của Việt Nam tập trung vào
những thị trường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch thương mại thế
giới- những thị trường chắc chắn ảnh hưởng đến quy mô và nhịp độ xuất nhập
khẩu của nước ta như: Hoa Kỳ, EU và một số nước Châu Á.
1.1.3. Hoa Kỳ và vị thế của Hoa Kỳ trong nền kinh tế, thƣơng mại thế
giới
1.1.3.1. Tiềm lực của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một quốc gia hùng mạnh cả về kinh tế, chính trị, quân sự,
khoa học công nghệ và tài chính...Về tiềm lực kinh tế, kể từ 1991 cho đến
nay, liên tục GDP của Hoa Kỳ chiếm khoảng 30,0% GDP toàn cầu, với con
số tuyệt đối năm 2000 là 10.000 tỷ USD (GDP năm 2000 cả thế giới là 33.110
tỷ USD). Trong danh sách 500 công ty đa quốc gia lớn nhất hành tinh thì có
hơn 300 công ty mang quốc tịch Hoa Kỳ. Các chuyên gia kinh tế dự báo đến
năm 2020, Hoa Kỳ vẫn là siêu cường duy nhất trên thế giới. [51, tr.240, 385]
Bảng 1: Vị trí cuả Hoa Kỳ trong nền kinh tế thế giới (% trong GDP thế giới)
1971-1980
1981-1990
1991-2000
2000
Hoa Kỳ
16,8
19,4
28,4
30,6
EU
17,4
18,4
30,3
28,0
Nhật bản
5,8
9,0
15,9
14,0
Nguồn: Kinh tế tài chính thế giới, NXB Tài chính, 2/2000
Hiện tại, nền kinh tế Hoa Kỳ đã phát triển ở mức rất cao. Trong nhiều
ngành quan trọng, các nhà sản xuất Hoa Kỳ có khả năng cạnh tranh hơn bất
14
kỳ đối thủ nào khác. Hoa Kỳ đã theo đuổi chính sách tự do hoá thương
mại và đầu tư toàn cầu kể từ nhiều thập kỷ trước đây. Hoa Kỳ cũng là một thị
trường lớn có sức hấp dẫn các nước và các nhà đầu tư nước ngoài hơn bất kỳ
nơi nào khác trên thế giới.
Trong lĩnh vực thương mại, Hoa Kỳ có nền ngoại thương rất phát triển.
Tuy bị EU và Nhật Bản cạnh tranh mạnh mẽ, nhưng kể từ thập kỷ 90 của thế
kỷ XX, Hoa Kỳ đã thành công trong việc mở cửa thị trường, đẩy nhanh xuất
khẩu của mình lên vị trí hàng đầu thế giới. Kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ
chiếm 12.5% và kim ngạch xuất khẩu chiếm 15% tổng kim ngạch toàn cầu.
Thị trường nhập khẩu của Hoa Kỳ có dung lượng lớn, phong phú và đa dạng.
Có thể nói, đây là một thị trường có sức hấp dẫn các nước và các nhà đầu tư
nước ngoài, một thị trường chủ yếu của các nước đang phát triển, về quy mô
chỉ đứng thứ 2 sau EU. Hơn thế nữa nếu chỉ xét về kim ngạch các mặt hàng
xuất khẩu của các nước trong phạm vi Châu Á, Hoa Kỳ còn lớn hơn EU. Phần
lớn hàng nhập khẩu từ Châu Á của Hoa Kỳ là hàng công nghiệp chế tạo, kim
ngạch hơn 400 tỷ USD năm 2001, cao hơn 60% so với kim ngạch tương ứng
của EU, về các mặt hàng sử dụng nhiều lao động như may mặc, chế biến, tiêu
dùng, Hoa Kỳ nhập từ Châu Á cao hơn EU 70 - 80%.
Bảng 2: Thị phần của Hoa Kỳ trong mậu dịch thế giới
Đơn vị: %
1970
1980
1985
1990
2000
Xuất khẩu
Hoa Kỳ
15,2
11,8
11,6
11,8
9,8
EU
40,3
35,9
36,5
41,0
44,9
Châu Á- TBD
12,0
21,2
14,5
22,2
31,9
Nhập khẩu
Hoa Kỳ
14,5
19,1
13,2
15,0
10,3
EU
40,7
35,1
39,7
41,0
49,2
15
Châu Á- TBD
12,8
8,0
11,6
13,7
35,1
Nguồn: WB, World Developement Report, 2000
Là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế tài chính quốc tế cũng như các
tổ chức thuộc Liên hợp quốc, Hoa Kỳ có vị trí quan trọng và ở nhiều nơi, có
tiếng nói quyết định. Ngay từ sau Thế chiến thứ II, Hoa Kỳ đã thiết kế hệ
thống tài chính tiền tệ quốc tế nhằm phục vụ cho mục đích bành trướng kinh
tế, quân sự và chính trị của Hoa Kỳ như IMF, WB. Đồng thời Hoa Kỳ cũng là
nước chủ xướng ra hệ thống thương mại toàn cầu nhờ vào tổ chức GATT
trước đây và WTO ngày nay. Hiện tại, Hoa Kỳ là một trong 22 nước giàu nhất
nắm giữ 2/3 số phiếu trong Quỹ tiền tệ quốc tế, số phiếu của Hoa Kỳ gấp 4
lần số phiếu của 47 nước Châu Phi cộng lại. Đồng thời Hoa Kỳ cũng có vai
trò rất lớn trong APEC, NAFTA...
Hoa Kỳ còn là nước có tiềm năng phát triển khoa học công nghệ rất cao
và là nước đầu tư lớn nhất cho khoa học và công nghệ. Ngày nay Hoa Kỳ
chiếm ưu thế nổi trội về khoa học, công nghệ cao và có đội ngũ hùng hậu các
nhà khoa học, mạnh cả về khoa học cơ bản cũng như khoa học ứng dụng.
Người Hoa Kỳ luôn luôn tự hào về năng lực kỹ thuật của mình, họ quan niệm
"chỉ với kỹ thuật... sẽ làm cho Hoa Kỳ có thể làm được tất cả những gì trên
thế giới mà họ mong muốn và đảm bảo được lợi ích toàn cầu của Hoa Kỳ"
[53, tr.135]
Hiện tại, Hoa Kỳ đang tỏ ra tích cực trong việc đẩy mạnh quan hệ kinh
tế với các nước Châu Á. Hoa Kỳ không ngừng tăng cường ảnh hưởng ở các
nước Đông Dương, giành giật với các nước phát triển khác về thị trường đầu
tư tại những “mảnh đất hoang cuối cùng ở Châu Á”, hình thành một chiến
lược khai thác thị trường Châu Á cả bề rộng lẫn bề sâu và trên mọi hướng.
Hiện tại tỷ trọng buôn bán với các nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
chiếm 40% tổng giao dịch ngoại thương của Hoa Kỳ và tạo ra 2,5 triệu công
16
ăn việc làm cho người dân của những nước này. Quan hệ mậu dịch của
Trung Quốc với Hoa Kỳ tăng theo cấp số nhân, buôn bán Hoa Kỳ - Nhật Bản
vẫn đứng đầu thế giới. Các nước ASEAN hiện là thị trường lớn thứ tư của
cường quốc này. Đã từ lâu Hoa Kỳ coi các nước ASEAN là một bên đối thoại
đồng thời là những bạn hàng quan trọng, một số nước đang là "đồng minh
chiến lược" trong khu vực của Hoa Kỳ.
Có thể nói, cho đến thời điểm hiện nay, việc thúc đẩy hợp tác kinh tế
với các nước Châu Á - Thái Bình Dương, giữ vững và không ngừng mở rộng
lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ trong khu vực, từng bước xây dựng “cộng đồng
Châu Á - Thái Bình Dương” là mục tiêu của chiến lược kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương mới của Hoa Kỳ. Trên thực tế, từ nhiều năm nay buôn bán của
Châu Á với Hoa Kỳ đã lớn hơn là buôn bán của EU với Hoa Kỳ. Trước đây
chỉ có mình Nhật bản nay đã có thêm các nền kinh tế NICs, ASEAN và Trung
Quốc đang vươn lên nhanh chóng, dần dần trở thành những nước có vị trí
hàng đầu trong thương mại quốc tế. APEC đang là một xu hướng chiến lược
quan trọng trong thập kỷ tới của Hoa Kỳ.
1.1.3.2. Chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ
Điểm nổi bật trong điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ những năm đầu
thế kỷ XXI là nhấn mạnh đến việc chấn hưng nền kinh tế trên cơ sở coi trọng
kinh tế đối ngoại nhằm củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo, "định hướng toàn cầu" 2 của Hoa Kỳ đối với nền kinh tế thế giới. Đứng trước những
khuynh huớng mới của nền kinh tế thế giới, kể từ năm 2000, chiến lược về
kinh tế, của Hoa Kỳ đã được sửa đổi, bổ sung với những hướng chính như sau
2 Thông điệp Liên bang của Tổng thống Bill Clinton đọc trước Quốc hội Hoa kỳ ngày 27.1.1998
[7, tr. 5]:
17
+ Xây dựng nền kinh tế Hoa Kỳ vững mạnh, duy trì vị trí lãnh đạo
của Hoa Kỳ trong nền kinh tế thế giới, coi đây là ưu tiên số một của chiến
lược toàn cầu mới của Hoa Kỳ;
+ Thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài, phát huy ưu thế về chính trị cuả Hoa
Kỳ trên thế giới nhằm thiết lập trật tự thế giới do Hoa Kỳ điều khiển.
Đối với lĩnh vực thương mại quốc tế Hoa Kỳ nhằm vào 3 mục tiêu cơ
bản [14,29, tr. 26]:
+ Khuyếch trương tự do hoá kinh tế, thúc đẩy thị trường mậu dịch tự do.
Hoa Kỳ luôn chú tâm thực hiện tự do công bằng nhằm hạn chế những rào cản
thương mại, chống lại sự không công bằng trong giới hạn nhập khẩu của các
bạn hàng của mình;
+ Thúc đẩy xuất khẩu bằng nhiều biện pháp khác nhau;
+ Ổn định đồng đôla, tăng cường sức mạnh của nó trên thị trường thế
giới.
Xét riêng trong khía cạnh nhập khẩu, mục đích của các chính sách của
Hoa Kỳ là phục vụ người tiêu dùng, phát triển các ngành kỹ thuật cao, từ đó
tối ưu hoá cơ cấu nền kinh tế. Cụ thể là đa dạng hoá nền kinh tế, làm tăng tính
năng động cho các ngành sản xuất, các doanh nghiệp của Hoa Kỳ, tăng cường
cơ hội cũng như phạm vi lựa chọn cho người tiêu dùng Hoa Kỳ; tăng sự cạnh
tranh giữa doanh nghiệp Hoa Kỳ với nước ngoài nhằm cải thiện công nghệ
quản lý và kỹ thuật, giảm giá bán cho người tiêu dùng; tạo đối trọng gây sức
ép để các nước mở cửa thị trường cho sản phẩm của Hoa Kỳ; đồng thời đây
cũng chính là công cụ gây áp lực trong quan hệ đối ngoại mà điển hình là biểu
hiện của sự trừng phạt hay trợ giúp kinh tế.
Trong quan hệ thương mại với các nước đang phát triển, Hoa Kỳ đã có
chính sách riêng với từng nhóm nước. Sự phân biệt đối xử của Hoa Kỳ đối
18
với các nhóm nước này thể hiện chủ yếu trong Danh bạ thuế quan HTS 3
hai cột của Hoa Kỳ (tương ứng với quan hệ bình thường hoặc chưa bình
thường của các nước với Hoa Kỳ). Theo cách nhìn nhận riêng của mình, Hoa
Kỳ chia các nước thành các nhóm ví dụ như: Nhóm T (kinh tế thị trường),
nhóm X (các nước XHCN cũ), nhóm Z (các nước bị Hoa Kỳ cấm vận).....[7,
tr.6; 29, tr.65]
* Nhóm thứ 1- các nước đang phát triển là thành viên của WTO
Trong các ứng xử thương mại với các nước này, Hoa Kỳ thường dựa trên
cơ sở đạo luật thực hiện những cam kết của Vòng đàm phán thương mại đa
biên Uruguay. Ở đó quy định tất cả các nước là thành viên WTO có quan hệ
thương mại với Hoa Kỳ đều được hưởng Quy chế tối huệ quốc (MFN) hay
Quy chế thương mại bình thường (NTR). Mức thuế dành cho hàng hoá từ tất
cả các nước này đều như nhau và chỉ khoảng 0-3%. Đây là một mức thuế thấp
hơn đáng kể so với mức thuế không được hưởng tối huệ quốc trung bình là 3-
40%. Có trường hợp Hoa Kỳ thay đổi hoặc bỏ mức thuế đối với một hàng hoá
cho một quốc gia nào đó, ngay lập tức sự thay đổi này sẽ được áp dụng cho
toàn bộ hệ thống quốc gia thành viên WTO. Ngoài ra, trong thương mại với
các nước này, Hoa Kỳ còn chấp nhận Hiệp định Định giá hải quan của WTO
làm cơ sở cho Luật định giá tính thuế hải quan của Hoa Kỳ.
* Nhóm thứ 2- các nước chưa là thành viên của WTO nhưng đã có Hiệp
định thương mại song phương với Hoa Kỳ
Trong đối sách của Hoa Kỳ, nhóm này bao gồm những nước có Hiệp
định thương mại hay thoả thuận song biên, quan hệ đang ở mức tiếp cận thị
trường lẫn nhau. Việt Nam hiện đang thuộc nhóm nước này. Những nguyên
tắc ứng xử của Hoa Kỳ đối với nhóm nước này trước đây cũng đã áp dụng đối
với Trung Quốc khi Trung Quốc còn chưa là thành viên WTO. Một số trong 3 HTS: Harmonized Taiff Schedule of the United State: Biểu thuế quan hài hoà của Hợp chủng quốc Hoa kỳ
19
các nước thuộc nhóm này hàng năm vẫn phải được gia hạn miễn từ điều khoản Jackson - Vanik 4 bởi Tổng thống Hoa Kỳ (trường hợp Trung Quốc
việc miễn trừ được thực hiện vào ngày 7/3 hàng năm, Việt Nam vào ngày 3/6
hàng năm). Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng ngay cả việc gia hạn này cũng chỉ
được thực hiện đối với một số nước và ngay cả những nước đã được gia hạn
cũng có thể không được gia hạn nữa tuỳ theo những nhận định chủ quan từ
phiá Hoa Kỳ. Có thể lấy một ví dụ rất gần là liên tục từ 1989 đến 1996, Quốc
hội Hoa Kỳ đưa ra điều luật không tán thành miễn trừ của Tổng thống, thực
chất là để ép Trung Quốc phải đáp ứng những điều kiện về nhân quyền, ngoài
vấn đề tự do di cư. Nói chung, chế độ đối xử này có thể coi là một chế độ
thương mại bình thường có điều kiện, là những bước đi tuần tự tiến đến tư
cách là thành viên đầy đủ của WTO.
* Nhóm thứ 3 - những nước không được hưởng MFN
Đối với các nước thuộc nhóm này, nếu muốn được hưởng MFN của Hoa
Kỳ phải tuân thủ hai quy định cơ bản:
Thứ nhất, phải tuân thủ Điều khoản Jackson - Vanik yêu cầu các nước
không được từ chối hay hạn chế quyền, cơ hội di cư của công dân nước họ.
Thứ hai, phải ký kết Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ
Hiện tại các nước Cuba, Lào, Bắc Triều tiên, Afganistan, Serbia
Mongtenego là các nước thuộc nhóm này trong đối sách của Hoa Kỳ
Libia, Iran, Irac là những nước đã được hưởng MFN song vẫn bị Hoa Kỳ
cấm vận trong quan hệ thương mại bằng các đạo luật khác.
4 Jackson - Vanik: - Điều luật sửa đổi Đạo luật Thương mại 1974 của Hoa kỳ - điều luật này từ chối dành đãi ngộ tối huệ quốc đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường nếu các nước này (a) từ chối quyền di cư đối với công dân nước họ, (b) đánh thuế di cư cao hơn mức thuế danh nghĩa và (c) áp dụng mức thu cao hơn mức danh nghĩa đối với công dân của họ muốn di cư. Tổng thống có thể miễn trừ điều khoản này nếu xác định được điều khoản đã thúc đẩy đáng kể các quy định về di cư tự do, và nếu Tổng thống được đảm bảo rằng các thông lệ về di cư của một nước sẽ dẫn đến mục tiêu đó. Điều luật này do thượng nghị sỹ Henry Jackson và hạ nghị sỹ Charles Vanik đề xuất, ban đầu nhằm vào thực hiện với Liên xô cũ.
* Nhóm thứ tư - những nước được hưởng ưu đãi đặc biệt của Hoa Kỳ
20
Một số nước mà Hoa Kỳ nhận thấy có tiềm năng được đối xử mức
thuế quan ưu đãi trên cơ sở đơn phương không yêu cầu có đi có lại. Tất nhiên
đối sách này được áp dụng cho các đối tượng nhất định trong một thời gian
nhất định (thường là xem xét lại hàng năm) và có các đạo luật cụ thể. Có thể
nêu ra một số ví dụ như: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) miễn thuế
quan với hơn 4400 sản phẩm của 150 quốc gia và vũng lãnh thổ đang phát
triển; sáng kiến Vịnh Caribbean (CBI) miễn hoặc giảm thuế quan cho các sản
phẩm của các nước tham gia khu vực chung Hoa Kỳ - Caribbean; Đạo luật ưu
đãi thương mại Andean (ATAP) ưu đãi thuế quan cho một số sản phẩm từ
Colombia, Bolivia, Peru, Ecuado... Ngoài ra Hoa Kỳ còn ký một số Hiệp định
thương mại tự do với một số nước như Israel, NAFTA, và Singapore.
Về phương diện xuất khẩu, các chính sách của Hoa Kỳ luôn thể hiện
chủ trương tạo ra một sân chơi bình đẳng với việc tự do hoá thương mại thế
giới. Chiến lược lâu dài này nhằm vào mục tiêu duy trì vị thế siêu cường của
Hoa Kỳ trong đó lợi ích kinh tế vừa là đích ngắm vừa là bệ đỡ cho vị trí số 1
về chính trị và quân sự. Trước đây, do có khả năng cạnh tranh cao về sản
phẩm, công nghệ, vốn cũng như kỹ năng quản lý, chưa bao giờ Hoa Kỳ phải
đặt ra những chương trình và chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu ra các thị
trường nước ngoài. Song những năm gần đây, cán cân thương mại của Hoa
Kỳ bị thâm hụt rất lớn, một năm lên tới hàng trăm tỷ USD. Cho nên từ cuối
đời Tổng thống Bush "cha" cho tới thời Bush đương nhiệm, ngoài những luật
lệ khuyến khích xuất khẩu, Hoa Kỳ còn nỗ lực giảm thâm hụt cán cân thương
mại bằng Chiến lược xuất khẩu quốc gia với một loạt chính sách và chương
trình hỗ trợ xuất khẩu. Thực tế, chiến lược này đã đem lại kết quả tích cực
cho Hoa Kỳ. Đến 2001, Hoa Kỳ đã giảm được tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ nghèo
đói xuống mức thấp nhất trong suốt 30 năm qua.
21
Nói tóm lại, chính sách trong thương mại quốc tế của Hoa Kỳ phản
ánh đường lối chính trị và ngoại giao của nước này đối với từng nhóm nước.
Bản thân nó luôn chứa đựng cả những mục đích phi kinh tế nhằm khẳng định
tầm vóc, khả năng chi phối thế giới của Hoa Kỳ, đồng thời ép buộc các quốc
gia muốn cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ phải tuân thủ các nguyên tắc do Hoa
Kỳ đặt ra, dù trực tiếp hay gián tiếp.
1.1.4. Lợi ích của quan hệ thƣơng mại với Hoa Kỳ trong quá trình hội
nhập của Việt Nam
Phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước trên thế giới nói
chung và với Hoa Kỳ nói riêng là yêu cầu khách quan của nước ta xuất phát
từ những cơ sở lợi ích thực tiễn sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam chủ trương "tích cực thâm nhập thị trường quốc tế,
chú trọng các trung tâm kinh tế...tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới"
[21,tr.99,200] là hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Với vai trò, vị thế của mình
trong nền kinh tế, thương mại thế giới, Hoa Kỳ đã trở thành một thị trường rất
quan trọng để Việt Nam hướng tới, trong hoàn cảnh từng bước thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thêm vào đó, thế giới ngày nay đã phát
triển tới mức không một quốc gia nào, dù theo thể chế chính trị nào, phát triển
hay đang phát triển có thể tồn tại cách biệt với thế giới bên ngoài, mỗi nước
đều là thành viên, là một bộ phận không thể tách rời của phân công lao động
quốc tế. Việt Nam chủ động, tích cực gia nhập ASEAN, ASEM, APEC, xúc
tiến gia nhập WTO và ký kết Hiệp định thương mại, phát triển quan hệ
thương mại với Hoa Kỳ là phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại.
Thứ hai, Hoa Kỳ ngày nay là cường quốc số một thế giới, chiếm ưu thế
vượt trội trong nhiều lĩnh vực, chi phối nhiều mặt đời sống toàn cầu. Nếu phát
triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ có hiệu quả thực sự, Việt Nam có thể
tận dụng quan hệ đó để phát triển quan hệ kinh tế, thương mại với các nước,
22
các khối kinh tế và các khu vực. Đồng thời, đây là cũng là bước chuyển
tiếp quan trọng trên con đường gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO,
tham gia sâu rộng hơn vào tiến trình hội nhập và phát triển cùng các nền kinh
tế trên thế giới.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế là quy luật khách quan cũng là cơ hội
được tận dụng để phát triển kinh tế nội địa. Việt Nam hoàn toàn có thể phát
huy được tiềm năng của mình trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, việc
tăng cường mậu dịch với Hoa Kỳ sẽ góp phần giúp cho Việt Nam có cơ hội
phát huy lợi thế trong cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu của mình một cách tối
đa.
Thư tư, Hoa Kỳ có thu nhập bình quân đầu người rất cao, mức sống và
chất lượng cuộc sống phát triển, nhu cầu tiêu dùng lớn. Thúc đẩy mậu dịch
với Hoa Kỳ, Việt Nam có cơ hội tiêu thụ nhiều chủng loại sản phẩm xuất
khẩu. Hoa Kỳ còn là một thị trường khó tính, nếu hàng hoá của Việt Nam vào
được thị trường này thì đây chính là dấu hiệu quan trọng cho thấy hàng hoá
của Việt Nam có thể vươn ra các thị trường khác trên thế giới. Ngược lại, thị
trường Việt Nam có thể có cơ hội tiếp cận với các mặt hàng công nghệ cao và
rất cao.
Thứ năm, có thể học hỏi những thành tựu khoa học nhất là khoa học ứng
dụng, thu hút công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại của Hoa Kỳ, tiếp thu và
vận dụng kinh nghiệm quản lý hiện đại, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là
những lĩnh vực mũi nhọn của Hoa Kỳ.
Thứ sáu, có cơ hội thu hút vốn đầu tư của Hoa Kỳ để xây dựng hạ tầng
cơ sở và các công trình có quy mô lớn trong một số ngành công nghiệp cơ
bản.
23
Thứ bảy, phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ chính là
góp phần thực hiện đường lối ngoại giao của Đảng ta, thể hiện tinh thần muốn
làm bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
1.2. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC VỀ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ TH-
ƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG CỦA VIỆT NAM
1.2.1. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong khu vực có quan hệ thƣơng
mại với Hoa Kỳ
Đối với rất nhiều quốc gia thực hiện chiến lược công nghiệp hoá theo
hướng xuất khẩu, Hoa Kỳ là một thị trường quan trọng. Tất cả những nước và
lãnh thổ phát triển nhất ở Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông (trong những thập niên 1960 và 1970), và Singapore, Thái Lan,
Malaixia (trong những thập niên 1970, 1980) đều đã dựa vào việc xuất khẩu
sang thị trường Hoa Kỳ để xây dựng nền tảng phát triển lâu dài. Xuất khẩu
vào Hoa Kỳ của những nước này trong thời kỳ "đang phát triển" chiếm 20-
50% tổng kim ngạch xuất khẩu của họ. Đây cũng là cơ hội cho những công ty
nhỏ và vừa ở các nước này phát triển, đóng góp một phần quan trọng vào sự
nghiệp công nghiệp hoá đất nước của các quốc gia này.
Qua số liệu thống kê về phát triển thị trường Hoa Kỳ trong thời kỳ từ
năm 1991-1998, ta thấy xuất khẩu của một số nước vào thị trường Hoa Kỳ
tăng như sau [48, tr.206]:
Các nước ASEAN: Malaixia: từ 6 lên 21 tỷ USD, tăng hơn 3 lần; Thái
Lan: từ 6 lên 14 tỷ USD, tăng hơn 2 lần; Philippines: từ 3 tỷ lên 12 tỷ USD,
tăng 4 lần; Indonexia: từ 3 tỷ lên 9.5 tỷ USD, tăng hơn 3 lần; Singapore: từ
10 tỷ lên 20 tỷ USD, tăng 2 lần;
24
Các nước khác: Trung Quốc: từ 19 tỷ lên 71 tỷ USD, tăng trên 3
lần; Hàn Quốc: từ 17 tỷ lên 24 tỷ USD, tăng 1,4 lần.
Bảng 3: Tỷ trọng của Hoa Kỳ trong thương mại, đầu tư các nền kinh tế Đông,
Đông Nam Á trong quá trình CNH, phát triển kinh tế trước khủng hoảng 1997
Thương mại
Đầu tư
1975
1985
1995
1975
1985
1995
Nhật
24,8
37,1
27,3
16,9
20,0
22,4
NIEs
Singapore
13,9
21,2
19,8
15,7
15,2
13,8
Hồng kông
26,4
30,8
21,8
11,8
9,5
7,7
Đài Loan
34,3
48,1
23,6
27,8
23,6
20,1
Hàn Quốc
28,7
35,6
19,2
25,2
21,1
22,3
ASEAN 4
Malaixia
16,1
12,8
20,7
10,7
15,3
16,2
Thai Lan
11,1
19,7
18,0
14,8
11,4
10,9
Phillipin
29,2
35,9
35,9
22,1
25,1
18,1
Indonexia
25,8
21,7
16,8
14,0
16,7
9,5
Nguồn: ADB: Key Indicators, 1993; 1996, Economic Statistics Anual
Để đạt được những con số trên, ngay từ những năm 60 - 80 thế kỷ XX,
trong chiến lược phát triển kinh tế thương mại của mình, các nước trên đều
tìm mọi biện pháp để tận dụng tối đa sự trợ giúp về nhiều mặt trong mối quan
hệ với Hoa Kỳ. Bởi vì các nước này đã xác định rằng Hoa Kỳ là cường quốc
thương mại, đầu tư, công nghệ, đào tạo kỹ thuật, là một thị trường khổng lồ
thu hút hàng hóa của họ, đồng thời cung ứng được những công nghệ cao mà
các nước này đang thiếu.
Hơn thế nữa, ngoài việc đóng vai trò rất lớn trong tăng trưởng kinh tế,
Hoa Kỳ còn có ảnh hưởng nhiều đến đời sống chính trị, xã hội của các quốc
gia Châu Á này. Tự xác định là những nước đi sau, các nước ASEAN cần
phải có môi trường an ninh để phát triển. Bản thân các nước này không có lực
25
lượng quân sự hùng mạnh để tự bảo vệ, nội lực nền kinh tế còn yếu, thiếu
vốn, thiếu công nghệ hiện đại, thiếu chất xám, tay nghề...Nhưng không thể
vừa chạy đua kinh tế vừa chạy đua vũ trang được. Giải pháp là phải tận dụng
nhiều nhất các quan hệ quốc tế có lợi cho mình, ưu tiên số 1 không ai khác là
Hoa Kỳ.
Xét về sự gắn kết chặt chẽ trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ để
phát triển, một ví dụ đầu tiên là Singapore. Singapore là quốc gia nghèo về tài
nguyên khoáng sản, chỉ có một ít than, chì, nham thạch và đất sét, không có
đến cả nước ngọt. Do vậy quốc gia này đã sớm tìm con đường vươn ra bên
ngoài với chiến lược mở cửa. Chiến lược này đã giúp cho Singapore "cất
cánh". Nhu cầu ngoài nước chính là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng kinh
tế của Singapore.
Đối với Hoa Kỳ, Singapore thi hành chính sách hợp tác toàn diện và
xem đây là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Trong thời kỳ chiến
tranh thế giới thứ 2, chính sách thân Hoa Kỳ đã giúp nước này nhận được các
khoản đầu tư khổng lồ. Năm 1980, có 1307 chi nhánh của các công ty xuyên
quốc gia của các nước phát triển hoạt động tại Singapore, trong đó Hoa Kỳ có
557 công ty. Suốt một thời gian dài Hoa Kỳ luôn chiếm trên 50% tổng kim
ngạch xuất khẩu của Singapore và mức thặng dư mậu dịch được tạo ra từ thị
trường Hoa Kỳ rất lớn.
Ngoài ra, nhằm thu hút các dòng đầu tư từ Hoa Kỳ và các đối tác phát
triển khác, Singapore đã sớm thiết lập thị trường tài chính. Năm 1968 thiết lập
thị trường ngoại hối, năm 1969 thiết lập thị trường vàng bạc, 1971 thiết lập thị
trường chứng khoán và trở thành một trong những trung tâm tài chính quan
trọng nhất ở Châu Á.
26
Đặc biệt trong những hoàn cảnh thay đổi gây khó khăn cho kinh tế
xã hội và chính trị, Singapore chủ trương tiếp tục duy trì và củng cố quan hệ
hợp tác toàn diện với nước đồng minh và bạn hàng truyền thống Hoa Kỳ.
Tương tự, đối với trường hợp Inđônêxia, thời kỳ 1965-1997 là giai đoạn
thực hiện cơ chế thị trường có điều tiết. Thời kỳ trật tự mới chuyển sang nền
kinh tế thị trường, phát triển chủ nghĩa tư bản Nhà nước, trả lại các cơ sở kinh
tế đã quốc hữu hoá cho chủ cũ, tích cực thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong thương mại quốc tế, với chủ trương đẩy mạnh ngoại thương, làm
động lực cho phát triển kinh tế, Chính phủ đã tích cực cải tiến các cơ sở tự do
thương mại, hướng về xuất khẩu, khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng
cường tập trung buôn bán với các nước tư bản phát triển mà một đối tác đặc
biệt quan trọng là Hoa Kỳ, khuyến khích các công ty trong nước và nước
ngoài đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu.
Với chính sách đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, trong thời gian này,
Inđonexia đã không ngừng mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia và đặc biệt là
sự phụ thuộc sâu sắc vào Hoa Kỳ. Nhờ vậy, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của
Inđônexia sang Hoa Kỳ luôn chiếm khoảng 13- 20% trong suốt thời kỳ 1976 -
1990. Các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu từ Hoa Kỳ là trang thiết bị máy móc,
dây chuyền sản xuất...
Nhìn chung, trong các thập kỷ từ 60-80 thế kỷ 20, các nước ASEAN
phát triển nhất như Singapore, Inđonexia, Thái Lan, Malaixia đều đã phụ
thuộc rất nhiều vào Hoa Kỳ. Bước sang những năm 1990, do những điều
chỉnh chính sách của Hoa Kỳ đối với ASEAN, quan hệ giữa Hoa Kỳ và
ASEAN không chỉ là quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ với từng nước thành
viên của ASEAN hoặc giữa Hoa Kỳ với tổ chức ASEAN, mà quan hệ giữa họ
đã được mở rộng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Trong thời kỳ này,
Hoa Kỳ không còn thực hiện việc can thiệp trực tiếp vào các vấn đề tranh
27
chấp ở khu vực này, hơn nữa các nước ASEAN cũng đã vươn lên tự giải
quyết các vấn đề của mình, nhờ đó, ASEAN có thể giảm bớt sự phụ thuộc
một chiều vào Hoa Kỳ.
Dưới tác động của Hoa Kỳ và theo xu hướng chung của thời đại, quá
trình tự do hoá thương mại và đầu tư của các nước ASEAN đã được thúc đẩy
nhanh. Ví dụ, năm 1996, Malaixia đã giảm thuế nhập khẩu đối với khoảng
700 mặt hàng. Philippin trong 4 năm gần đây đã áp dụng các biện pháp khắc
phục tình trạng đóng cửa hầu như hoàn toàn thị trường dịch vụ tài chính, thậm
chí đã cho các ngân hàng nước ngoài có khả năng bình đẳng trên thị trường
Philippin. Năm 1997, Inđônêxia đã hạ thuế quan 1700 loại sản phẩm trung
bình giảm từ 11,9% đến 13% trong đó mức thưế từ 0% đến 10% chiếm tới
50% biểu thuế quan.
Hoa Kỳ cũng đánh giá cao sáng kiến đẩy nhanh sự ra đời của khu vực
buôn bán tự do ASEAN tại cuộc họp cấp cao ASEAN ở Hà Nội tháng
12/1998, xem đây là một dấu hiệu rất quan trọng đối với thế giới ngay cả
trong bối cảnh khủng hoảng tài chính Châu Á. Phương hướng chính trong
hoạt động của Hoa Kỳ ở đây trong những năm tới là thực hiện chính sách tự
do hoá các luồng vốn trong nội bộ các nước thành viên của ASEAN.
Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho các nước ASEAN
tận dụng có hiệu quả thị trường Hoa Kỳ là việc được hưởng quy chế Tối huệ
quốc. Đây là yếu tố thuận lợi, có hiệu quả lớn trong quan hệ thương mại giữa
các nước ASEAN với Hoa Kỳ. Nhờ được hưởng quy chế tối huệ quốc mà
hàng hóa của ASEAN thâm nhập và cạnh tranh được với các hàng hóa nhập
từ các nước khác kể cả một số hàng hóa nội địa do Hoa Kỳ sản xuất. Với Hoa
Kỳ, khi họ dùng công cụ này, lợi nhuận thu được cho ngân sách từ thuế nhập
khẩu có giảm đi phần nào, nhưng họ cũng có lợi trong quan hệ kinh tế với các
bạn hàng. Cho đến nay, các nước thành viên ASEAN vẫn và sẽ tiếp tục nhận
28
được chế độ Tối huệ quốc của Hoa Kỳ, trừ Singapo. Từ tháng 7/1989
Singapo được coi là một trong năm con rồng ở châu Á, có sức mạnh kinh tế
sánh ngang với các quốc gia công nghiệp phát triển, nên Hoa Kỳ xoá bỏ chế
độ tối huệ quốc.
Nhìn chung, trong định hướng phát triển quan hệ thương mại quốc tế
nói chung và với Hoa Kỳ nói riêng, các nước đã thành công trong khu vực
thường tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
* Cải thiện tình trạng xuất khẩu với chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng hình thành những ngành xuất khẩu mũi nhọn, tăng tỷ trọng mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng sơ chế5. Trong giai đoạn phát triển đầu
tiên, các nước đều hướng một cơ cấu kinh tế lấy các ngành khai thác lợi thế tự
nhiên của đất nước làm chủ đạo; Giai đoạn thứ hai, vị trí chủ đạo chuyển
sang các nghành công nghiệp chế biến tận dụng lợi thế nhân công rẻ; Giai
đoạn thứ ba là phát triển các nghành công nghiệp có hàm lượng công nghệ
cao.
* Về cơ bản các nước đều có những bước cải cách tích cực hệ thống
chính sách thương mại, chính sách thuế và các thủ tục mang tính chất hành
chính với mục tiêu tạo sự cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế và
khuyến khích tăng trưởng xuất khẩu ở một số ngành đồng thời góp phần bảo
hộ thị trường nội địa,
* Xác định những mặt hàng chủ lực, có ảnh hưởng đáng kể trên thị
trường thế giới và Hoa Kỳ. Có thể nêu một vài thí dụ: trong những năm 70-
80, tuy vẫn còn là một nước xuất khẩu nông sản nhưng Malaixia đã chiếm tới
5 Theo số liệu tại ASia Monitor 11/2001 và tư liệu về các thành viên ASEAN: Cơ cấu hàng xuất khẩu của các nước ASEAN-5 có những chuyển biến rõ rệt trong giai đoạn từ 1970-2000, tỷ trọng xuất khẩu hàng chưa qua chế biến của các nước này những năm 1970 luôn từ 70-98%, đến những năm 1990 chỉ còn khoảng 20-30% (trừ Inđonexia: 53%), những năm 2000 còn 6-20% (Inđonexia: 27%). Tương ứng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến ngày một tăng.
60% lượng xuất khẩu dầu cọ của toàn thế giới: Năm 1994, Trung Quốc chỉ
29
xuất khẩu một mặt hàng bán dẫn cũng thu được 5,46 tỷ USD gấp 3 lần
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Hồng Kông chỉ cần xuất khẩu đồ chơi
cũng có được 3,8 tỷ USD bằng 2 lần tổng xuất khẩu của Việt Nam vv...
Hỗ trợ, tháo gỡ những vướng mắc cho doanh nghiệp trong quá trình
thực hiện xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Hoa Kỳ. Bao gồm cả lĩnh vực
tài chính lẫn kỹ thuật.
Khuyến khích, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện
xúc tiến thương mại và thực hiện chuyên môn hoá trong xuất khẩu sản phẩm
hàng hoá sang thị trường Hoa Kỳ.
1.2.2. Khả năng vận dụng của Việt Nam.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực đã thành
công trong việc phát triển quan hệ thương mại quốc tế nói chung và với Hoa
Kỳ nói riêng, có thể thấy: những thành tích đạt được thực chất chủ yếu là nhờ
sự nỗ lực của bản thân các nước là chính, đồng thời có vận dụng sáng tạo các
kinh nghiệm cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Đối chiếu với tình hình thực
tế của Việt Nam, chúng tôi thấy cần:
Thứ nhất, kiên trì đường lối phát triển kinh tế theo hướng mở cửa, hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới, bên cạnh chủ trương đa dạng hoá, đa
phương hoá các quan hệ quốc tế, cần có những chính sách cụ thể, thích hợp
với từng quốc gia và khu vực riêng biệt.
Thứ hai, xác định chiến lược phát triển dài hạn và có trọng điểm, khẩn
trương xây dựng chiến lược về phát triển quan hệ thương mại quốc tế nói
chung trong đó có chiến lược quan hệ với Hoa Kỳ nói riêng, làm cơ sở cho
các hoạt động phát triển quan hệ thương mại cụ thể.
Thứ ba, tận dụng một cách triệt để những lợi thế trong quan hệ thương
mại giữa các nước trong khu vực với Hoa Kỳ.
30
Thứ tư, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường để thiết lập quan
hệ xuất nhập khẩu các mặt hàng được ổn định, cụ thể theo từng khách hàng cụ
thể, tăng cường sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân, có chính sách hỗ trợ
về tài chính một cách hiệu quả.
Thứ năm, có thể kết hợp hài hoà giữa xuất khẩu và nhập khẩu nhằm tiếp
cận với "công nghệ nguồn" thông qua các hình thức phong phú đa dạng như
liên doanh liên kết, cho thuê hoặc xây dựng cơ sở 100% vốn của Hoa Kỳ tại
Việt Nam.
Thứ sáu, việc thành lập các tập đoàn kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ tạo
điều kiện vừa phát triển đa ngành trong tập đoàn, vừa thực hiện sự phân công
chuyên môn hoá ở từng đơn vị thành viên, giúp các đơn vị thành viên kết
thành sức mạnh tổng hợp hỗ trợ lẫn nhau, loại trừ tình trạng manh mún trong
quản lý sử dụng vốn, tạo khả năng huy động vốn đầu tư, nâng cao khả năng
cạnh tranh của các đơn vị thành viên, để có thể cạnh tranh với thị trường Hoa
Kỳ. Bên cạnh đó, cần phải coi trọng hiệu quả trong mối quan hệ hợp tác với
nước ngoài nói chung và Hoa Kỳ nói riêng, nhằm phát huy nội lực của đất
nước về lao động, tài nguyên, đất đai...
Thứ bảy, đổi mới và hoàn thiện công tác tổ chức, quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu, hình thành và phát triển hơn nữa chính sách thuế và phi thuế trong
hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần phát triển ngoại thương với Hoa Kỳ.
Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá đã trở thành những xu
hướng phát triển chủ yếu của thời đại, việc nắm bắt các cơ hội để chuẩn bị,
vận dụng và điều chỉnh là hết sức cần thiết. Điều này vẫn đúng trong trường
hợp đặc biệt là Hoa Kỳ. Qua việc tìm hiểu kinh nghiệm của các nước trong
khu vực nhằm phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, càng khẳng định
hơn rằng lợi ích của quan hệ nay sẽ đóng góp một phần quan trọng trong tiến
31
trình hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước thực hiện công nghiệp hoá hiện
đại hoá của Việt Nam.
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ
2.1. THỰC TRẠNG THƢƠNG MẠI HAI CHIỀU TỪ KHI HOA KỲ BỎ CẤM VẬN
ĐẾN TRƢỚC HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ (1994 - 2001)
Ngày 3-2- 1994, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã chính thức tuyên
bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Hoa Kỳ chuyển Việt Nam từ nhóm
Z sang nhóm Y ít hạn chế về thương mại hơn, miễn trừ hoàn toàn lệnh cấm
tàu biển và máy bay Hoa Kỳ vận chuyển hàng hoá vào Việt Nam, cho phép
tàu mang cờ Việt Nam vào cảng địa phận Hoa Kỳ.
Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton chính thức
tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Trong đó, ông
nhấn mạnh “việc bình thường hoá các quan hệ của chúng ta với Việt Nam
chưa phải là đã kết thúc sự nỗ lực của chúng ta”. Trong lĩnh vực kinh tế,
thương mại, Tổng thống Hoa Kỳ chủ trương: “sẽ bắt đầu bình thường hoá các
quan hệ thương mại của chúng ta với Việt Nam, nền kinh tế của họ hiện nay
đang tự do hoá và liên kết với nền kinh tế khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương. Chính sách của chúng ta là sẽ thực hiện các chương trình thích hợp
của chính phủ Hoa Kỳ để phát triển quan hệ thương mại vói Việt Nam phù
hợp với luật pháp Hoa Kỳ” [15. tr 1]. Với chính sách này của Hoa Kỳ, quan
hệ Việt Nam và Hoa Kỳ đã được mở sang một trang mới với nhiều nỗ lực
mang tính xây dựng nhằm phát triển các mối quan hệ hợp tác và cùng có lợi
giữa hai quốc gia .
Ngay sau khi quan hệ ngoại giao được bình thường hoá, quan hệ thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã có nhiều dấu hiệu khả quan (Xem thêm Phụ lục 1).
32
Kể từ năm 1998, hàng năm Tổng thống Hoa Kỳ ký miễn trừ không phải
áp dụng Điều khoản Jackson - Vanik đối với Việt Nam, một điều kiện cần để
chúng ta có thể tiếp cận với các đảm bảo về đầu tư và tín dụng xuất khẩu do
Chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ. Thương mại hai chiều giữa hai quốc gia cũng tăng
nhanh và đều cả trong xuất khẩu và nhập khẩu, hàng hoá trao đổi ngày càng
đa dạng và gia tăng giá trị. Theo số liệu của Bộ thương mại Hoa Kỳ, kim
ngạch mậu dịch Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1994 đã đạt 222,2 triệu USD so với
62 triệu năm 1993 (tăng hơn 30 lần). Năm 1995 kim ngạch 2 chiều đã tăng
lên 445,7 triệu USD (gấp 2 lần năm 1994). Năm 1998, Việt Nam đứng thứ 75
trong danh sách đối tác thương mại của Hoa Kỳ.
Bảng 4. Thương mại hai chiều Việt Nam - Hoa Kỳ trước Hiệp định thương mại
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Xuất khẩu
50,2
193,9
319,0
388,2
553,4
609,0
821,7
1052,6
Nhập khẩu
172,0
252,8
616,0
277,8
274,2
290,7
367,7
460,9
-121,8
-58,9
-297,0
110,4
297,2
318,3
453,9
591,7
Cán cân TM 2 chiều
-
-
4,4
4,2
5,9
5,3
5,7
7,0
% Tổng XK của VN
-
-
5,5
2,4
2,4
2,5
2,4
2,9
% Tổng NK của VN
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: VER, Stanley Foudation 2/2002
2.1.1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá thời kỳ 1994 - 2001
Chỉ 5 năm sau khi bình thường hoá quan hệ, kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng tăng lên 10 lần, từ 50 triệu USD năm 1994 lên
tới 500 triệu USD năm 1998. Năm 2000, xuất khẩu từ Việt Nam tiếp tục tăng,
đạt 827,4 triệu USD so với 601,9 triệu USD năm 1999 với mức tăng trưởng là
37,63%. Đây là một mức tăng cao đáng kể. Trung bình xuất khẩu của thế giới
33
vào thị trường Hoa Kỳ chỉ tăng trưởng ở mức 19,73% và toàn khu vực
ASEAN tăng 13,56%. Tất nhiên, mức tăng của chúng ta ở trên là được tính
trên cơ sở kim ngạch khởi đầu không cao, song đây cũng là một dấu hiệu tốt,
cho thấy những phản ứng tích cực từ phía thị trường Hoa Kỳ đối với các sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam và từ phía các doanh nghiệp Việt Nam trong
mối quan hệ thương mại của hai nước.
Nhìn tổng quan, từ 1996-2001, xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ
tăng tưởng bình quân khoảng 27% một năm, so với mức tăng 20% của tổng
kim ngạch xuất khẩu, rõ ràng là đã có những dấu hiệu đáng mừng. Mặc dù
vậy, cho tới năm 2001, nghĩa là trước thời điểm Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, một thị trường đầy tiềm năng như Hoa Kỳ chỉ
chiếm khoảng 7% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời, với
kim ngạch khoảng 1 tỷ USD năm 2001, hàng hoá từ Việt Nam chỉ chiếm
0,2% tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ từ các nước đang phát triển.
Xét về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ
trong thời kỳ 1994-2001 chủ yếu thuộc nhóm nông, lâm, thuỷ hải sản. Đặc
điểm nổi bật của nhóm hàng hoá này là thuế tối huệ quốc và phi tối huệ quốc
có mức chênh lệch không đáng kể. Trong nhóm này cà phê chiếm phần lớn
với kim ngạch 30 triệu USD năm 1994, 145 triệu năm 1995, 1996, 147 triệu
năm 1998. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và thủ công mỹ nghệ đã bắt đầu xâm
nhập và tăng trưởng nhanh tuy chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở mức giới thiệu sản
phẩm. Kim ngạch của nhóm hàng này năm 1995 đạt 20 triệu USD, trong đó
hàng dệt may chiếm chủ yếu, gần 17 triệu USD, con số này tăng lên mức 28
triệu năm 1998. Từ năm 1996, những mặt hàng giày dép đã nổi lên như một
điểm sáng với kim ngạch vượt nhóm hàng dệt may và đến năm 1997, kim
ngạch đạt 97 triệu, 1998 đạt 115 triệu. Nhóm hàng công nghiệp nặng và
nguyên liệu khoáng sản cũng đạt con số xuất khẩu lớn hơn kể từ năm 1996.
34
Hai năm 1994 - 1995 nhóm hàng này chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chủ yếu là xuất
khẩu thiếc, đến năm 1996, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu dầu thô sang Hoa
Kỳ đạt 81 triệu USD tuy nhiên năm 1999 lại có xu hướng giảm mạnh.
Bảng 5. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hoa Kỳ trước HĐTM
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Đơn vị: Triệu USD
Hàng sơ chế
247,1
251,7
390,4
399,3
592,7
819,8
Hải sản
56,8
94,3
139,5
300,9
478,2
34,1
Rau quả
18,8
26,4
28,8
52,9
50,1
10,0
Cà phê
109,4
104,6
142,5
100,2
113,0
76,1
Cao su thô
2,1
1,7
2,5
5,3
2,8
0,4
Xăng dầu
34,6
107,3
100,6
88,4
182,7
80,6
Sơ chế khác
34,6
17,9
27,5
32,0
29,6
12,4
Hàng chế tạo
136,4
162,9
209,6
228,6
232,8
71,9
Khoáng sản phi thép
1,6
3,3
4,8
6,6
9,1
0,9
Chế tạo thép
0,2
0,7
3,1
3,2
3,5
0,1
Thiết bị điện
0,2
0,3
0,6
0,6
1,3
0,1
Hàng gia dụng
0,4
1,1
3,6
9,1
13,4
0,3
Phục vụ du lịch
0,5
0,6
1,2
1,6
0,8
0,4
May mặc
26,0
28,4
36,1
47,2
48,1
23,7
Giày dép
97,6
114,9
145,7
124,8
132,1
39,1
1,1
Hàng chế tạo khác
1,7
0,9
1,5
14,5
2,9
Tổng Kim ngạch
319,0
388,2
553,4
608,9
821,6
1052,6
Nguồn: www.ustic.gov
Những thống kê về cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ
từ 1994 - 2001 cho thấy một trình độ phát triển kinh tế thấp của Việt Nam với
sự tập trung vào một số rất ít các mặt hàng, phần lớn là nông sản và nguyên
liệu thô, chưa chế biến hoặc có nguồn gốc từ tự nhiên. Điều đáng chú ý về cơ
35
cấu xuất khẩu này đó là một sự phân chia tỷ lệ rất khác so với cơ cấu xuất
khẩu của nhiều nước đang phát triển sang thị trường Hoa Kỳ, đặc biệt là các
nước Chấu Á. Nếu như các nước này chủ yếu xuất khẩu vào Hoa Kỳ những
mặt hàng công nghiệp chế tạo, thì đối với trường hợp Việt Nam hàng công
nghiệp chế tạo chỉ chiếm dưới 1/4 tổng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
Song xét ở góc độ khác, đặc điểm xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ thời
kỳ này có thể còn bị chi phối nhiều bởi mối quan hệ song phương căng thẳng
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhiều mặt hàng công nghiệp chế tạo xuất sang
Hoa Kỳ của Việt Nam chịu mức thuế suất gấp 5-10 lần so với mức thuế quan
Hoa Kỳ dành cho các nước khác. Trong khi đó, đối với các sản phẩm hàng
hoá từ Việt Nam sang thị trường Châu Âu, cơ cấu mặt hàng đã tập trung
nhiều vào các sản phẩm công nghiệp chế tạo có sử dụng nhiều sức lao động, bởi tại đây Quy chế tối huệ quốc đã được áp dụng cho Việt Nam từ 1990 6.
Bảng 6: Chênh lệch các mức thuế suất của Hoa Kỳ cho một số mặt hàng dệt may
Loại hàng
Phi MFN
Chênh lệch
MFN
Quần áo bằng vải bông
90,0
80,0
10,0
90,0
61,2
28,8
Áo khoác làm từ sợi nhân tạo không dệt kim, đan móc lọai khác
Áo khoác làm từ sợi nhân tạo có dệt kim
72,0
42,7
29,3
Áo sơ mi cotton cho nam
67,5
52,6
14,9
58,5
38,0
20,5
Áo khoác từ sợi nhân tạo, không dệt kim, đan móc, trên 36% len
54,5
38,5
16,
Bộ quần áo có đan móc, bằng len hoặc lông động vật
45,0
41,0
4,0
Áo khoác đan móc với trên 70% khối lượng là tơ tằm
45,0
39,1
5,9
Áo khoác đan móc với 70% khối lượng là tơ tằm
Đơn vị: %
6 Trong năm 2001, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang EU đạt 512 triệu USD so với con số 52 triệu USD sang Hoa kỳ, gấp 10 lần, trong khi Hoa kỳ là nước nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới
Nguồn: Bộ thương mại Việt Nam
36
Nhìn chung, kể từ sau khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận đối với Việt Nam,
thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn gặp nhiều trở ngại, chủ yếu là
do hai nước chưa ký được Hiệp định thương mại song phương và Hoa Kỳ
chưa dành Quy chế tối huệ quốc (MFN) và Quy chế về quan hệ buôn bán
bình thường (NTR) cho Việt Nam. Hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào thị
trường Hoa Kỳ vẫn phải chiụ mức thuế rất cao. Theo tính toán của các chuyên
gia Ngân hàng thế giới “tổng mức thuế đánh vào hàng hoá Việt Nam xuất
khẩu sang thị trường Hoa Kỳ sẽ giảm từ 35,0% xuống 4,9% nếu được hưởng
Quy chế tối huệ quốc, trong đó một số mặt hàng Việt Nam có khả năng xuất
khẩu nhiều như may mặc có thể giảm từ 68,9% xuống còn 13,4%, hàng dệt
may từ 55,1% còn 10,3%. Có thể một phần bởi các rào cản thương mại này
mà kim ngạch xuất khẩu của ta sang Hoa Kỳ còn rất nhỏ bé, thua kém rất
nhiều các nước trong khu vực, thậm chí là cả Campuchia. Số liệu năm 2000
cho thấy xuất khẩu của Thái Lan sang Hoa Kỳ đạt 16,4 tỷ USD, Philippin đạt
14 tỷ USD. Tỷ trọng của việc trao đổi hàng hoá giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ
chiếm 1% trong tổng giá trị buôn bán giữa ASEAN với Hoa Kỳ. Thị phần của
Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ là một con số hết sức
nhỏ bé, chỉ ở mức 0,04% những năm cuối thế kỷ XX. Thực chất cho tới năm
2001, thị trường Hoa Kỳ vẫn là một thị trường đóng đối với các sản phẩm
xuất khẩu từ Việt Nam.
2.1.2. Thực trạng nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 1994 -2001
Nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Hoa Kỳ là máy móc, thiết bị và
phân bón. Điều này phù hợp với nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam cũng như
đặc điểm cơ cấu xuất khẩu của Hoa Kỳ. Năm 1999 tổng kim ngạch nhập khẩu
hàng của Hoa Kỳ vào Việt Nam là 277,3 triệu USD, năm 2000 đạt 330,5 triệu
USD, mức tăng trưởng là 19,1%. Mức tăng trưởng này cao hơn cả mức tăng
trưởng trung bình xuất khẩu cuả Hoa Kỳ ra thế giới và cả vào khu vực
37
ASEAN. Điều này cho thấy được tiềm năng của thị trường Việt Nam đối
với các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ
Tính đến năm 2000, số lượng mặt hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt
Nam đã lên tới 96 mặt hàng, có thể chia thành 3 nhóm lớn theo kim ngạch
nhập khẩu của Việt Nam.
Bảng 7: Các mặt hàng nhập khẩu chính từ Hoa Kỳ vào Việt Nam
2000
2001
1999
1998
Thực phẩm
37,3
49,3
27,3
15,9
Sợi dệt
16,0
30,2
4,9
4,4
Phân bón
29,4
19,4
47,2
42,2
Các sản phẩm nhựa
16,4
19,8
10,2
4,7
Các sản phẩm giấy
7,6
17,6
8,4
5,5
Máy móc
141,7
126,9
92,0
102,6
Thiết bị vận tải
7,6
60,4
2,8
9,9
Các bộ phận giày dép
27,4
19,2
29,5
17,3
Thiết bị khoa học
10,7
16,0
8,9
12,0
Đơn vị: Triệu USD
Tổng Kim ngạch
274,2
290,6
367,7
460,8
Nguồn: Vụ Âu Mỹ, Bộ thương mại Việt Nam, 2001
Nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao nhất trong kim ngạch (trên 20 triệu
USD) là lò phản ứng hạt nhân và các dụng cụ, nhiên liệu liên quan, phụ tùng
máy móc, cơ khí... với 23,7% tổng giá trị nhập khẩu. Năm 2000, nhóm hàng
này tăng khá mạnh 28,4% so với mức 61 triệu USD năm 1999, đóng góp
phần đáng kể trong tăng trưởng xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Việt Nam.
Nhóm thứ hai (kim ngạch từ 1 đến 20 triệu USD) là máy và các dụng cụ
điện với tỷ trọng 9,2% tương ứng với 30,3 triệu USD. Nhóm hàng này tăng
mạnh nhất trong năm 2000 với mức tăng 50%. Có thể xem nhóm hàng này là
mũi nhọn trong chiến lược xuất khẩu hàng hoá của Hoa Kỳ sang Việt Nam.
38
Nhóm thứ ba (kim ngạch nhỏ hơn 1 triệu USD) có tỷ trọng 8,6%.
Nhóm này sụt giảm mạnh vào năm 2001.
Qua số liệu thực tế về tỷ trọng của các nhóm hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ
căn cứ vào sự phân nhóm đã được trình bày ở trên, có thể thấy hàng hoá nhập
khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt Nam chủ yếu là các hàng hoá mà Việt Nam không
có khả năng sản xuất hoặc sản xuất kém cạnh tranh và phần lớn là phục vụ
chủ trương và định hướng phát triển kinh tế của Việt Nam, cơ cấu của các
nhóm hàng trong kim ngạch nhập khẩu là hợp lý. Song cũng từ các số liệu
thực tế lại cho thấy một điều đáng lo ngại là tỷ trọng và sự tăng trưởng của
các mặt hàng trong từng nhóm đang có xu hướng tăng nhiều hơn về các hàng
hoá tiêu dùng và nguyên liệu phục vụ sản xuất xuất khẩu.
Xét về phương diện quy tắc đối xử của Việt Nam dành cho Hoa Kỳ có
thể nói là rất thuận lợi. Từ năm 1999, hàng từ Hoa Kỳ xuất khẩu vào Việt
Nam được hưởng thuế tối huệ quốc và được hưởng các điều kiện cân bằng
với hàng hoá xuất khẩu từ các nước khác vào Việt Nam.
Nhìn chung, có thể nhận định rằng: Việt Nam là nước có tiềm năng sản
xuất ra những sản phảm được người tiêu dùng Hoa Kỳ ưa thích, số lượng tiêu
thụ nhiều. Đồng thời Việt Nam cũng có nhu cầu lớn về các sản phẩm công
nghệ cao của Hoa Kỳ. Song trên thực tế kết quả mậu dịch hai chiều của 2
nước từ 1994 đến 2001 vẫn còn chưa tưng xứng với tiềm năng. Điều này
được hy vọng cải thiện sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức ký kết Hiệp
định thương mại song phương.
2.2. HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI SONG PHƢƠNG VIỆT NAM - HOA KỲ VÀ
QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ SAU KHI CÓ HIỆP ĐỊNH
2.2.1. Tổng quan về Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ
39
Ngay từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào tháng 8 năm 1995, cả
hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ đã có một nhận thức chung là cần thiết phải
bình thường hoá quan hệ kinh tế, thương mại. Theo hướng đó, từ năm 1996
hai bên bắt đầu đàm phán về Hiệp định Thương mại song phương. Qua 11
vòng đàm phán, ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
được ký kết sau khi được sự phê chuẩn của Quốc hội hai nước (Hạ viện Hoa
Kỳ ngày 6/9/2001, thượng viện Hoa Kỳ ngày 4/10/2001 và Quốc hội Nước
CHXHCN Việt Nam ngày 28/11/2001). Hiệp định thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ đã chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 10/12/2001.
Hiệp định bao gồm 7 chương. Các bộ phận cấu thành khác của Hiệp
định gồm có các Phụ lục A, B (B1, B2, B3, B4), C (C1, C2), D (D1, D2), E,
F, G, H, I và Thư trao đổi của Đại diện Thương mại hai nước.
Tiếp cận một cách tổng quát, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ đã được đàm phán và ký kết theo những nguyên tắc sau:
+ Tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, hợp tác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi;
+ Việt Nam là nước đang phát triển có trình độ phát triển thấp, đang
trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, do đó được hưởng sự hỗ trợ của Hoa
Kỳ; những nội dung mà Hoa Kỳ không đặt ra với các nước khác thì không
được đòi hỏi Việt Nam phải đáp ứng.
+ Quy chế đãi ngộ tối huệ quốc hai bên dành cho nhau không phải chỉ
đem lại lợi ích cho phía Việt Nam mà còn cho cả phía Hoa Kỳ, cho các công
ty Hoa Kỳ;
+ Việt Nam tôn trọng các luật lệ và tập quán quốc tế, sẽ từng bước điều
chỉnh, bổ sung các luật lệ, cơ chế của mình theo hướng đó, phù hợp với mức
độ phát triển của nền kinh tế, hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam;
+ Việt Nam chấp nhận, tuân thủ các quy định của Hiệp định chung về
Thương mại và Thuế quan và các Hiệp định có tính áp dụng chung của Tổ
chức Thương mại thế giới (GATT/WTO) nhưng sẽ thực hiện từng bước phù
40
hợp với sự phát triển của nền kinh tế có vận dụng những ngoại lệ dành
cho một nước đang phát triển có trình độ phát triển thấp;
Nhìn chung, Đây là một Hiệp định thương mại có tính tổng thể, bao
gồm cả thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, phát triển quan hệ đầu tư,
và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và các định chế liên quan khác. Trong phạm vi
nghiên cứu của Luận văn, chúng tôi xin chỉ đề cập tới các nội dung chủ yếu
trong lĩnh vực thương mại hàng hoá [26. 2-10, 56-57, 61-66, Pl.A,B,C,D,E]:
a. Về quy chế Tối huệ quốc và không phân biệt đối xử trong thương
mại hàng hoá:
Quy chế tối huệ quốc (quan hệ thương mại bình thường) được hai nước
thoả thuận "dành cho nhau ngay lập tức và vô điều kiện". Tuy nhiên, để hàng
hoá Việt Nam hưởng quy chế Tối huệ quốc, theo pháp luật Hoa Kỳ, hàng năm
Quốc hội Hoa Kỳ vẫn sẽ xem xét gia hạn miễn trừ điều luật bổ sung Jackson-
Vanik đối với Việt Nam cho tới khi Việt Nam gia nhập WTO. Việt Nam chỉ
được hưởng quy chế Tối huệ quốc vĩnh viễn khi đã là thành viên của WTO.
Trong Hiệp định, điều này được hàm ý tại Điều 8, Chương VII rằng: "Nếu
một trong hai Bên không có thẩm quyền pháp lý trong nước để thực hiện
nghĩa vụ của mình theo Hiệp định này, thì một trong hai Bên có thể đình chỉ
việc áp dụng Hiệp định này, hoặc bất kỳ bộ phận nào của Hiệp định, kể cả
quy chế tối huệ quốc, với sự thoả thuận của Bên kia. Trong trường hợp đó,
các bên sẽ tìm cách ở mức độ tối đa, có thể theo pháp luật trong nước, để
giảm đến mức tối thiểu những tác động bất lợi đối với quan hệ thương mại
sẵn có giữa hai Bên" [26, tr 66]. Đồng thời, vấn đề này cũng được phía Hoa
Kỳ đề cập cụ thể trong Thư trao đổi của Đại diện thương mại Hoa Kỳ gửi cho
Bộ trưởng Bộ Thương mại Việt Nam về Điều khoản Jackson-Vanik ngày
13/7/2000 [26].
b. Về thuế nhập khẩu hàng hoá:
41
- Thuế suất nhập khẩu tối huệ quốc (mức thuế trung bình khoảng
3%) sẽ được Hoa Kỳ áp dụng cho hàng hoá của Việt Nam, thuế suất này thấp
hơn nhiều so với mức thuế mà hàng hoá của Việt Nam đã phải chịu trước đây
(khoảng 40 - 50%).
- Đồng thời, trong quá trình thực thi Hiệp định, nếu Hoa Kỳ giảm thuế
do đàm phán trong khuôn khổ WTO cho các nước thứ 3 nào khác thì cũng
dành cho Việt Nam ưu tiên như vậy, dù vào thời điểm đó Việt Nam có thể
chưa là thành viên của WTO.
- Việt Nam cho hàng hoá nhập khẩu từ Hoa Kỳ hưởng mức thuế tối huệ
quốc. Thực tế, Hoa Kỳ đã được hưởng mức thuế này từ năm 1999.
- Ngoài ra, Việt Nam còn cam kết, sau khi Hiệp định có hiệu lực, từ 3
đến 6 năm tuỳ theo mặt hàng, Việt Nam sẽ giảm thuế đối với 224 mặt hàng và
giữ nguyên mức thuế hiện hành của 20 mặt hàng. Các mặt hàng còn lại Việt
Nam chưa cam kết.
Căn cứ vào những thoả thuận trong Hiệp định và thư trao đổi của Đại
diện Thương mại Hoa Kỳ thì ngay lập tức hàng dệt may của Việt Nam xuất
khẩu sang Hoa Kỳ cũng được hưởng mức thuế tối huệ quốc sau khi Hiệp định
có hiệu lực. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn áp dụng chế độ hạn ngạch hàng dệt may
đối với Việt Nam vì Việt Nam chưa phải là thành viên WTO. Hai bên còn phải đàm phán để ký một Hiệp định riêng về hàng dệt may 7.
c. Về Quy chế đối xử quốc gia trong thương mại hàng hoá:
Hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ đồng ý dành quy chế đối xử quốc gia
7 Theo Hiệp định về hàng dệt và hàng may mặc của WTO, từ 1.1.2005, mọi thành viên WTO sẽ được dỡ bỏ toàn bộ các loại hạn ngạch dệt may. Trong khi đó, hạn ngạch nhập khẩu của Hoa kỳ đối với hàng may mặc Việt Nam sẽ vẫn được duy trì theo BTA nếu Việt Nam chưa gia nhập được WTO. Vì vậy Việt nam phải xúc tiến để gia nhập WTO theo đúng kế hoạch, hoặc phải thông qua đàm phán song phương với Hoa kỳ để sửa đổi các điều khoản về hạn ngạch này.
cho hàng hoá nhập khẩu của nhau. Nói cách khác, hai Bên cam kết sẽ dành
42
cho hàng hoá của Bên còn lại sự đối xử tương tự như dành cho hàng hoá
của nước mình. Nghĩa vụ này bao gồm những cam kết cụ thể sau:
Các loại thuế và phí nội địa: Hai nước sẽ không được đánh vào sản
phẩm nhập khẩu từ Bên kia cao hơn mức đánh vào hàng hoá tương tự trong
nước.
Pháp luật trong nước: Sản phẩm nhập khẩu từ Bên kia được hưởng sự
đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho sản phẩm tương tự trong
nước theo quy định tại pháp luật trong nước liên quan đến việc bán, mua, vận
tải, phân phối, lưu kho hoặc sử dụng những hàng hoá đó.
Quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật: Các Bên không được dùng những quy
định và tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm cản trở thương mại hoặc bảo hộ sản xuất
trong nước. Các quy định và tiêu chuẩn này phải được áp dụng theo cách để
hàng nhập khẩu nhận được sự đối xử không kém thuận lợi hơn các sản phẩm
trong nước.
Mọi biện pháp vệ sinh hoặc vệ sinh thực vật chỉ được sử dụng khi cần
thiết nhằm bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ con người, động vật và thực vật, và
phải dựa trên cơ sở các nguyên lý khoa học.
d. Về quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu.
Về phía Hoa Kỳ, ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, Hoa Kỳ sẽ cho
phép mọi pháp nhân và thể nhân Việt Nam được kinh doanh xuất nhập khẩu
tại Hoa Kỳ mà không có bảo lưu gì.
Phía Việt Nam sẽ thực hiện từng bước theo lộ trình sau :
- Ngay sau thời gian hiệu lực của Hiệp định, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ được phép nhập khẩu tại Việt Nam các hàng hoá
để sử dụng và/hoặc có liên quan đến hoạt động sản xuất, xuất khẩu (trừ các
hạn chế quy định tại Phụ lục B và C).
- Ba năm sau ngày Hiệp định có hiệu lực, các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp của Hoa Kỳ có các hoạt động kinh doanh lớn trong lĩnh vực sản
43
xuất và chế tạo được phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu tại Việt Nam
(trừ các hạn chế quy định tại Phụ lục B, C và D),
- Ba năm sau khi Hiệp định có hiệu lực, các công dân và doanh nghiệp
Hoa Kỳ được phép tham gia liên doanh với các đối tác Việt Nam để tiến hành
kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu tại Việt Nam tất cả các mặt hàng (trừ các
hạn chế quy định tại Phụ lục B, C và D). Phần vốn góp của các công ty Hoa
Kỳ trong kinh doanh không vượt quá 49% vốn pháp định. Ba năm sau đó mức
góp vốn của Hoa Kỳ là 51%.
- Bảy năm sau khi Hiệp định có hiệu lực, các công ty Hoa Kỳ được
phép thành lập công ty 100% vốn để kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá, trừ các hạn chế qui định tại Phụ lục B, C và D;
e. Về hàng rào phi thuế quan:
Cả Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ loại bỏ tất cả hàng rào phi quan thuế, bao
gồm những hạn chế về xuất nhập khẩu, hạn ngạch, yêu cầu cấp phép. Tuy
nhiên phía Việt Nam cam kết thực hiện nghĩa vụ đó trong thời hạn từ 2 đến 7
năm tuỳ từng mặt hàng hoá ghi trong phụ lục B1, B2.
2.2.2. Ý nghĩa sự ra đời Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Việc ra đời Hiệp định thương mại song phương gia hai quốc gia đã đánh
dấu một thời kỳ phát triển mới trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, đưa việc
bình thường hoá quan hệ đối ngoại lên một tầm cao hơn: bình thường hoá
kinh tế, thương mại.
Các cam kết trong Hiệp định không chỉ tạo thuận lợi cho quan hệ kinh
tế, thương mại song phương, cải thiện khả năng tiếp cận thị trường của nhau,
mà chúng còn đặt ra những yêu cầu về cải tiến hệ thống chính sách, luật pháp
của Việt Nam. Muốn thực hiện tốt Hiệp định, việc hoàn thiện một khuôn khổ
pháp luật, một hệ thống toà án có khả năng giải quyết các tranh chấp kinh tế
thương mại phù hợp tiêu chuẩn quốc tế là cần thiết. Do đó, đây chính là động
44
lực, là chất xúc tác để chúng ta tiến hành công cuộc cải cách mạnh mẽ hệ
thống pháp luật, thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.
Xét ở khía cạnh khác, thực hiện Hiệp định nghĩa là Việt Nam mở cửa thị
trường cho thế giới vào cùng khai thác tiềm năng kinh tế của Việt Nam. Cũng
có nghĩa là Việt Nam được phép, được quyền trên cơ sở không phân biệt đối
xử đi khai thác thị trường thế giới, khai thác nền kinh tế thế giới như thu hút
đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút công nghệ, kiến thức quản
lý.v.v...
Các vấn đề
Lộ trình đã cam kết trong HĐTM
Thực hiện mục tiêu gia nhập WTO năm 2005
Định giá hải quan Áp dụng Hiệp định WTO về định
giá hải quan ngày 10.12. 2003
Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về định giá hải quan vào năm 2005
Thương mại nhà nước
Quy định những nghĩa vụ cơ bản tương tự như GATT điều XVII
Việt Nam đáp ứng được yêu cầu cơ bản của GATT vào năm 2005
Quyền sở hữu trí tuệ / TRIPS8
Thực hiện từng bước đối với hầu hết các nghĩa vụ TRIPS, kết thúc vào tháng 6/2004
Việt Nam đáp ứng được hầu hết các yêu cầu cơ bản của WTO về TRIPS vào năm 2005
Việt Nam đáp ứng được hầu hết các yêu cầu cơ bản về dịch vụ vào năm 2005
Quy dịnh hầu hết các nghĩa vụ theo GATS, 3 Phụ lục của GATS và Văn bản tham chiếu về viễn thông (Chương III, Phụ lục F)
Phụ lục của GATS9. GATS và văn bản tham chiếu về viễn thông
TRIMS 10
Việt Nam phải loại bỏ biện pháp TRIMS về cán cân thương mại
Việt Nam đáp ứng được hầu hết các yêu cầu cơ bản về TRIMS vào
8 TRIPS: Các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại: thương hiệu, chỉ dấu địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sơ đồ mạch tích hợp và việc bảo vệ bí mật thương mại. 9 GATS: Hiệp định chung về thương mại trong dịch vụ: đây là 1 kết quả của vòng Uruguay, có hiệu lực từ 1995. 10 TRIMS: Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại: Bao gồm cả mục tiêu xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, quy định mua nội địa hay quy định tỷ lệ nội địa hoá, các yêu cầu về nghiên cứu và phát triển và các điều kiện tương tự mà một doanh nghiệp phải tuân theo để được phép đầu tư vào nước khác
Bảng 8: Những yêu cầu cho việc gia nhập WTO đã được đáp ứng từ BTA
45
năm 2005
và ngoại hối vào tháng 12 năm 2001 và các biện pháp TRIMS khác vào tháng 12 năm 2006 hoặc vào thời điểm gia nhập WTO
Nguồn: www.usvtc.gov (trang web của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)
Hơn thế nữa, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết
trên nguyên tắc tuân thủ các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới WTO
áp dụng cho nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp. Theo Thứ Trưởng
Bộ thương mại Lương Văn tự thì ngay từ quỏ trỡnh đàm phán tiến tới ký kết
Hiệp định đã "tạo điều kiện cho các cơ quan hoạch định chính sách của ta
hiểu sâu hơn về bản chất của toàn cầu hoá và hội nhập, các nguyên tắc của WTO"11. Vì vậy, Hiệp định chính là một bước quan trọng để hội nhập sâu hơn
của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Thông qua Hiệp định Việt
Nam đã cam kết thực hiện nhiều điều kiện để tiến tới gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới. Bảng dưới đây sẽ cho thấy những hỗ trợ tích cực của
việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ đối với mục tiêu gia
nhập WTO
Tuy nhiên, không phải tất cả các cam kết trong Hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ đều thoả mãn các điều kiện của WTO. Một số nghĩa vụ
trong Hiệp định chỉ áp dụng một phần hoặc là cơ sở để đàm phán với các
thành viên WTO (Xem Phụ lục 2). Vì vậy để thực thi Hiệp định cũng như đẩy
nhanh tiến trình gia nhập WTO, đòi hỏi Việt Nam chúng ta phải nỗ lực thật
sự, phải cố gắng không ngừng. Thực hiện mở cửa nền kinh tế cũng là đặt nền
kinh tế của ta vào đường ray cạnh tranh chung trên toàn thế giới. Cuộc cạnh
tranh này rất khốc liệt. Muốn thắng trong cuộc cạnh tranh này, phải có một
nền kinh tế có sức cạnh tranh, phải có những hàng hoá có chất lượng cạnh 11 Phỏng vấn Thứ trưởng Lương Văn Tự về tác động của BTA, nhân kỷ niệm 10 năm quan hệ Việt Nam - Hoa kỳ, www.dei.gov.vn, cập nhật 13.6.2005
46
tranh và giá cả cạnh tranh, phải có những doanh nghiệp giỏi. Nếu chúng
ta làm được, chắc chắn chúng ta sẽ có những bước phát triển tốt.
2.2.3. Tình hình quan hệ thƣơng mại hai chiều sau Hiệp định thƣơng mại
Ngay sau khi Hiệp định thương mại giữa hai nước được ký kết, đã có
nhiều dấu hiệu khả quan trong cán cân thương mại. Giá trị của tự do mậu dịch
trong một năm đầu tiên thực hiện Hiệp định đã được khẳng định. Cả hai phía
đều có lợi.
Năm 2001, năm tiền đề của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
thương mại hai nước đều tăng trưởng khá mặc dù trong hoàn cảnh kinh tế,
thương mại toàn cầu đang chững lại. Việt Nam tăng 5 bậc từ 70 năm 2000
đến 66 năm 2001 trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ
Bảng 9: Thương mại hai chiều sau Hiệp định thương mại
2001
2002
2003
2005 (dự tính)
2004
Xuất khẩu
1053
2395
4555
5276
6100
Nhập khẩu
461
580
1324
2200
2804
3231
1815
592
3076
3296
Cán cân TM Nguồn: www.dataweb/usitc.gov , STAR Viet Nam. 12
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2002, kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng 504%,
trong đó hàng may mặc tăng gần 1800%. Thực tế là khoảng 90% gia tăng của
tổng kim ngạch xuất khẩu là do tăng trưởng kim ngạch sang Hoa Kỳ. Đến
tháng 12/2003, Hoa Kỳ trở thành thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt
Nam, chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu và đầu tư của Hoa Kỳ vào
Việt Nam (vượt qua con số chỉ tiêu mà các nhà hoạch định chiến lược của
12 Do các nguồn số liệu khác nhau có chênh lệch, nên tạm thời các cột năm 2002 và 2003 trong Bảng 6 chúng tôi sử dụng số liệu của STAR, các cột khác là thống kê của USITC.
Việt Nam đưa ra là 15-20% vào năm 2010), so với chỉ 5% năm 2002. Những
47
con số này là bằng chứng thuyết phục về tác động to lớn của Hiệp định
thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ. Theo số liệu của Tổng cục Hải
quan Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong năm
2003 tăng 63%, tăng nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ tăng 14% trong năm
2003 của tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra các nước khác trên thế
giới.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng mức tăng trưởng nhanh đột biến của
năm 2002 là dựa trên một mức xuất phát thấp của năm 2001, vì vậy có thể
chắc chắn rằng việc duy trì mức độ tăng trưởng này trong các năm từ 2003 là
khó có thể đạt được. Có thể nêu một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
+ Số lượng doanh nghiệp Việt Nam sản xuất xuất khẩu sang thị trường
Hoa Kỳ hiện nay hầu như đã tận dụng hết năng suất của họ
+ Giá hàng hoá Việt Nam tại Hoa Kỳ đã ở mức bão hoà, đã được giảm
đến mức không có lợi để sản xuất thêm
+ Sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường Hoa Kỳ đã gây ra một số bất lợi
đối với hàng hoá Việt Nam
+ Các rào cản thương mại chưa được gỡ bỏ vẫn đang là cản trở rất lớn
cho hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
+ Việt Nam chỉ không phải áp dụng hạn ngạch cho nhóm hàng hàng
may mặc (nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh trong năm 2002) cho đến
ngày 1-5-2003.
Thực tế cho thấy trong năm 2003, hàng Việt Nam xuất vào Hoa Kỳ chỉ
tăng 63%, (mặc dù vẫn tăng nhanh hơn rất nhiều nếu so với tốc độ tăng 14%
năm 2003 của tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam ra các nước khác trên
thế giới). Sự suy giảm này có nguyên nhân từ sự giảm sút nghiêm trọng trong
xuất khẩu hàng may mặc kể từ khi Hiệp định Dệt may Việt Nam – Hoa Kỳ có
hiệu lực, áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với phần lớn hàng may mặc xuất
48
khẩu sang Hoa Kỳ. Nếu như trong năm 2002 tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu hàng dệt may đạt mức 1800% thì năm 2003 chỉ tăng 162.7%. Năm
2004, giá trị hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt con số 5276 triệu
USD, tăng 127.0% so với 2003, phần của thị trường này chiếm 19.2% tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra các nước trên thế giới. Dự kiến năm
2005, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khoảng 120.0%, với tổng giá trị gần 6 tỷ
USD. Trong ba thỏng đầu năm 2005, kim ngạch 2 chiều đạt mức 1,7 tỷ USD,
trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ 1,5 tỷ USD, tăng 36,5% so với
cùng kỳ năm 2004.
Về cơ cấu hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, ngay sau khi Hiệp
định thương mại song phương có hiệu lực, các sản phẩm chế tạo đã chiếm
một tỷ lệ đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu, cơ cấu mặt hàng được cải
thiện tốt. Nếu như trước Hiệp định thương mại, các sản phẩm sơ chế luôn
chiếm từ 60-80% giá trị xuất khẩu thì từ 2002 con số này chỉ là 40%, đến năm
2003 còn 30%. Tương ứng, tỷ trọng của các mặt hàng chế tạo đã tăng lên.
Bảng 10: Sự thay đổi trong cơ cấu hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ sau
Trước Hiệp định TM
Sau Hiệp định TM
2000
2001
2002
2003
Giá trị* %
Giá trị*
Giá trị*
% Giá trị* %
%
Tổng KN XK
821.6
100
1052.6
100
2394.7
100
4554.8
100
Các SP sơ chế
592.7
819.8
994.2
1274.9
HĐTM
70
40
30
80
Các SP chế tạo
228.9
232.8
1400.5
3290.9
30
60
70
20
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ trang web www.ustic.gov. (*) Đơn vị: Triệu
USD
Hiện tại, có thể khẳng định các hàng may mặc và da giày vẫn là các
mặt hàng chủ lực. Năm 2002 giá trị hàng may mặc chiếm 40% tổng giá trị
49
xuất khẩu, con số tương ứng năm 2003 là 50%. Điều này cho thấy Việt
Nam đang có nhiều lợi thế trong xuất khẩu các sản phẩm chế tạo sử dụng
nhiều lao động này. Riêng đối với các sản phẩm dệt may, Uỷ ban Thương mại
Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) nhận định Việt Nam là một trong những nước hàng
đầu ở châu Á có khả năng cạnh tranh được với Trung Quốc. Hiệp hội nhập
khẩu dệt may Hoa kỳ cũng cho biết Việt Nam là sự lựa chọn thứ hai của họ
sau Trung Quốc khi tỡm kiếm nguồn cung cấp hàng từ chõu Á. Tuy nhiờn
trong năm 2005 hàng dệt may Việt Nam đang phải chịu sức ép rất lớn về hạn
ngạch, trong khi các đối thủ cạnh tranh thuộc WTO, đặc biệt là Trung Quốc,
đó được phép xuất khẩu không hạn chế vào thị trường Hoa kỳ. .
Chiếm vị trớ thứ hai trong danh sỏch cỏc mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam vào Hoa kỳ là thuỷ hải sản, chiếm 25% kim ngạch nhập khẩu
năm 2002 và 16% năm 2003. Dù vậy, trong năm 2004 riêng sản lượng tôm
đông lạnh xuất khẩu đó giảm hơn 40% và tiếp tục giảm trong những tháng
đầu năm 2005, tương tự với các loại cá da trơn do tác động của vụ kiện bán
phá giá.
Về nhập khẩu, lượng hàng hoỏ Việt Nam nhập khẩu từ Hoa Kỳ cũng đó
tăng nhanh sau khi Hiệp định thương mại được thực hiện. Chúng ta đó ngay
lập tức trở thành một trong số thị trường phát triển nếu không nói là nhanh
chóng nhất cho hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ. Kim ngạch tăng gần ba lần từ
461 triệu USD năm 2001 lên 1.324 triệu USD năm 2003. Tỷ trọng tăng gấp
đôi trong năm 2003 từ mức 2,3% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2002 lên
4,5% năm 2003. Tuy nhiên do tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu,
tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ này cũng chỉ chiếm 12% của tổng tăng trưởng
kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Nhìn từ góc độ khác, số liệu thống kê
cho thấy cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ đã được cải
thiện. Trước Hiệp định thương mại cơ cấu nhập khẩu phản ánh một trình độ
50
phát triển công nghiệp thấp. Tỷ trọng nhập khẩu các nhiên liệu và nguyên
liệu luôn chiếm xấp xỉ 60% từ 1995 đến 2001. Sau 2001, con số lớn này đã
thuộc về các hàng máy móc thiết bị với tỷ lệ 70% giá trị nhập khẩu. Một dấu
hiệu tốt nữa là kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng không tăng sau
Hiệp định, do vậy chiếm phần nhỏ trong cơ cấu , chỉ khoảng 3-4% giá trị
nhập khẩu.
Thặng dư thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2004 đã đạt mức 4.1 tỷ
USD và trước đó là 3.2 tỷ USD năm 2003 đã góp phần giảm đáng kể thâm
hụt thương mại của Việt Nam với các nước khác trên thế giới (7,8 tỷ USD
năm 2003). Tổng thâm hụt thương mại của Việt Nam trong năm 2003 chỉ còn
5,1 tỷ USD. Mặc dù con số thặng dư và thâm hụt thương mại không có tác
động lớn về kinh tế, nhưng việc mở rộng thương mại song phương giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ từ khi có Hiệp định thương mại đã phần nào cải thiện cán
cân tài khoản vãng lai của Việt Nam. Theo nhận định của các chuyên gia kinh
tế của Dự án STAR Việt nam thì thặng dư trong mậu dịch song phương của
Việt Nam và Hoa Kỳ còn có thể tăng lên trong tương lai do những cơ hội mở
rộng xuất khẩu hàng Việt Nam sang Hoa Kỳ lớn hơn nhiều so với cơ hôi tăng
xuất khẩu của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Giáo sư James Riedel - cố vấn kinh tế
cao cấp của Dự án STAR cho rằng xu hướng này 2 có nguyên nhân:
+ Thứ nhất, sự ra đời của Hiệp định dẫn đến giảm hàng rào thương mại
đối với hàng Việt Nam nhiều hơn là giảm hàng rào thương mại đối với hàng
Hoa Kỳ vào thị trường Việt Nam
+ Thứ hai, sự chênh lệch rất lớn về quy mô giữa hai nền kinh tế, GDP
Việt Nam chỉ tương đương 0.5% GDP của Hoa Kỳ
Tuy nhiên chắc chắn hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ vào Việt Nam cũng sẽ
tăng dần khi những cam kết từ phía Việt Nam được thực hiện dần trong
những năm tới.
51
Bảng 11. Thương mại với Hoa Kỳ so với tổng thương mại của Việt
% thay đổi
2002 (triệu $)
2003 (triệu $)
Nam
Xuất khẩu
Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
2.395
4.555
63%
Việt Nam xuất khẩu sang các nước khác
14.253
16.237
14%
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
16.674
20.176
21%
Tỷ trọng xuất khẩu sang Hoa Kỳ (%)
14,5%
19,5%
43%
Nhập khẩu
Việt Nam nhập khẩu từ Hoa Kỳ.
580
1.324
150%
Việt Nam nhập khẩu từ các nước khác
19.098
24.083
26%
Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam
19.556
25.227
29%
Tỷ trọng nhập khẩu từ Hoa Kỳ (%)
2,3%
4,5%
12%
Cán cân thƣơng mại
70%
Tổng cán cân thương mại của Việt Nam
(2.971)
(5.051)
42%
Thặng dư thương mại với Hoa Kỳ .
1.964
2.794
62%
Thâm hụt thương mại với các nước khác
(4.845)
(7.845)
Nguồn: Báo cáo thường niên của Dự án STAR, 2003
Nhìn chung, sau một thời gian ngắn thực hiện Hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ, kết quả thực tế cũng phần nào hạn chế bớt những nghi
ngại, định kiến ban đầu đối với doanh nghiệp Việt Nam về khả năng thâm
nhập và tăng trưởng xuất khẩu tại một thị trường mới, lớn, phức tạp như thị
trường Hoa Kỳ. Ở một mức độ nhất định, các doanh nghiệp Việt Nam đã ít
nhiều thể hiện được tính năng động, tận dụng tốt cơ hội tại thị trường Hoa Kỳ.
Nhiều người xem đây như là một kết quả ngoạn mục nằm ngoài những dự
đoán lạc quan nhất.
Trên cơ sở những diễn biến thực tế và số liệu thống kê về tình hình
ngoại thương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ từ năm 2001 đến 2004, Bộ thương
52
mại Việt Nam dự báo các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu Việt Nam -
Hoa Kỳ trong tổng giao dịch thương mại thế giới năm 2010, nghiã là thời
điểm mà có thể Việt Nam đã hoàn tất việc gia nhập WTO như trong Bảng 12.
Loại hàng
Kim ngạch với
Hoa Kỳ
Tổng kim ngạch với các nước trên TG (nghìn USD)
(nghìn USD)
KN với Hoa Kỳ trong tổng KN với TG ( % )
Bảng 12. Dự báo kim ngạch các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam với Hoa Kỳ và thế giới năm 2010
Xuất khẩu
58.100
7.048
12,1
+ Dầu thô
9.000
760
8,4
+ Cà phê
950
154
16,2
+ Đồ gỗ
1572
72
4,5
Nhập khẩu
50.000
5.590
11,1
+ Phân bón
1.020
3,2
0,3
+ Sắt thép
2.600
5,2
0,2
500
21,5
4,3
+ Máy móc, thiết bị
12,0
Tổng kim ngạch
108.000
13.037
Nguồn: Bộ thương mại Việt Nam, 2004
Còn với Hoa Kỳ thì sao?. Mặc dù có nhiều nhận định cho rằng Hiệp
định thương mại đã đem lại cho Việt Nam nhiều hơn vì cán cân thương mại
hai chiều nghiêng về phía Việt Nam. Song trên thực tế, hàng xuất khẩu Việt
Nam sang Hoa Kỳ cũng làm lợi cho kinh tế Hoa Kỳ nhiều, đặc biệt là người
tiêu dùng Hoa Kỳ, vì họ đã mua được sản phẩm với giá thấp hơn giá nhập
khẩu từ những thị trường khác (đây cũng là nguyên nhân chính khiến người
tiêu dùng Hoa Kỳ sử dụng hàng hoá của Việt Nam).
Để suy nghĩ thêm cho điều này, chúng ta có thể tham khảo quan điểm
của Hội đồng thương mại Hoa Kỳ - Việt Nam (US-Vietnam Trade Council)
trong một tổng kết được thực hiện vào 10/2002, về những kết quả mà Hiệp
53
định thương mại song phương đem lại cho từng nước. USVTC đã nhận
định như sau [63, tr.1]:
Hộp 1: Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, mỗi nước nhận được gì?
Hoa Kỳ nhận đƣợc Việt Nam nhận đƣợc
Thâm nhập thị trường các hàng hoá Hoa Kỳ đối xử thương mại
bình thường giống như hơn
công nghiệp và hàng hoá nông nghiệp Giảm được đáng kể thuế quan cho 130 quốc gia khác đã được
nhiều loại hàng hoá công nghiệp và Hoa Kỳ chấp nhận
nông nghiệp (khoảng 30-50%)
Dần dần gỡ bỏ các rào cản phi thuế của Việt Nam. Các doanh nghiệp Hoa
Kỳ được hưởng đầy đủ quyền lợi
thương mại
Được bảo đảm ở cấp WTO cho các sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ sau 18 tháng
kể từ khi HĐ có hiệu lực o Thâm nhập thị trường dịch vụ o Các doanh nghiệp Hoa Kỳ có thể tham gia thị trường tài chính, viễn
thông, phân phối, nghe nhìn, luật
pháp, kế toán, máy móc, máy tính,
nghiên cứu thị trường, xây dựng,
giáo dục, y tế, và dịch vụ du lịch.
Thực hiện từng bước sau 5 năm
54
Hoa Kỳ nhận đƣợc
Bảo đảm cho các dòng vốn đầu tư của Hoa Kỳ, không phân biệt đối xử. Các
nội dung mang tính địa phương, các
yêu cầu về thủ tục xuất khẩu được hạn
chế, nhiều giấy phép đầu tư được gỡ
bỏ
Tăng tính minh bạch của các luật, các văn bản pháp luật và các quy định đã
được Việt Nam ban hành và đang
soạn thảo
2.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUAN HỆ
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ TRONG THỜI GIAN QUA
2.3.1. Những đổi mới trong chính sách thƣơng mại quốc tế của Việt Nam
Để thấy rõ sự phát triển và những tác động của quan hệ thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ, cần phải phân tích sự đổi mới chính sách kinh tế của Việt
Nam nói chung và những đổi mới chính sách thương mại quốc tế nói riêng
trên con đường chủ động hội nhập vào khu vực và thế giới.
Kể từ năm 1994, trước tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế
có sự thay đổi, Nghị định 33/CP, ngày 19/4/1994 về quản lý Nhà nước về
hoạt động xuất nhập khẩu đã được Chính phủ ban hành nhằm bổ sung, sửa
đổi một số nội dung của Nghị định 114/HĐBT cho phù hợp với tinh hình mới.
Sau đó là Luật thương mại, Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Năm 2000, Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu
thời kỳ 2001-2010. Nội dung các văn bản trên quy định:
Nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với thương mại quốc tế: [11, C.I, Đ.3]
- Tuân thủ pháp luật và các chính sách có liên quan của Nhà nước về sản
xuất, lưu thông, xuất nhập khẩu và quản lý thị trường.
55
- Tôn trọng các cam kết đã ký với nước ngoài và tập quán thương
mại quốc tế.
- Bảo đảm quyền tự chủ của các doanh nghiệp và bảo đảm sự quản lý
của Nhà Nước
Kiên trì thực hiện tự do hóa thương mại quốc tế thể hiện qua chính sách
mặt hàng và đối tượng kinh doanh: [11, C.I, Đ.4]
- Tất cả các mặt hàng đều được xuất, nhập khẩu, trừ danh mục các hàng
hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu được công bố trong từng thời kỳ.
- Giảm dần số lượng mặt hàng xuất nhập khẩu theo hạn ngạch, dần tiến
tới xóa bỏ.
- Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được phép kinh doanh
xuất nhập khẩu.
Thực hiện chính sách khuyến khích, hỗ trợ đối với các doanh nghiệp để
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu: [11, C.V]
- Thưởng xuất khẩu các mặt hàng mới, thị trường mới.
- Ưu đãi thuế xuất nhập khẩu theo hướng tăng cường xuất khẩu.
- Hỗ trợ về vốn thu mua, dự trữ, vốn đầu tư nâng cao chất lượng các mặt
hàng xuất khẩu.
Hoàn thiện các cơ chế chính sách, công cụ quản lý, tổ chức và điều hành
xuất nhập khẩu: [10, P.III]
- Điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa được rõ,
trước hết là Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài và Luật
Khuyến khích Đầu tư trong nước. Về Luật Thương mại, cần mở
rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO.
- Ban hành các văn bản luật mới để điều chỉnh các quan hệ kinh tế
mới phát sinh trên phương diện quốc tế và quốc gia
- Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hoá - dịch vụ xuất khẩu cho
phù hợp với đòi hỏi của thị trường
- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại
56
Nhìn chung, có thể nói từ những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam
đã có những cải thiện đáng kể nhằm phát triển ngoại thương và thu hút đầu tư
nước ngoài. Đặc biệt sau năm 2000, Chính phủ đã thực sự cải cách mạnh mẽ
và dứt khoát. Đến năm 2001, tất cả các loại hình doanh nghiệp đều được
phép xuất khẩu hầu hết các loại hàng hoá hợp pháp mà không cần giấy phép.
Hơn thế nữa, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá còn được mở cho tất
cả các thương nhân (không chỉ dừng ở các doanh nghiệp). Phạm vi kinh
doanh xuất khẩu cũng không còn phụ thuộc vào ngành hàng ghi trong giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Kể từ tháng 1/2002 các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài cũng được xuất khẩu hàng hoá gần như thương nhân Việt
Nam
Thêm vào đó, Chính phủ Việt Nam cũng đã từng bước cải thiện và tăng
cường hiệu quả các biện pháp khuyến khích xuất khẩu. Từ 2001, Chính phủ
thực hiện chế độ thưởng theo kim ngạch xuất khẩu với diện mặt hàng ngày
càng mở rộng. Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu được ban hành vào quý IV
năm 2001. Để hạ giá thành và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu,
nhiều loại chi phí đã được xem xét miễn giảm. Ngày 26/7/2001, Chính Phủ ra
Quyết định số 908/QĐ-TTg về chế độ áp dụng thuế cho một số doanh nghiệp
vệ tinh cung ứng đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là bước đi quan
trọng nhằm thúc đẩy sự hình thành mối liên kết dọc giữa các doanh nghiệp
tham gia sản xuất hàng xuất khẩu .
Đồng thời công tác thị trường và xúc tiến thương mại cũng đã được Việt
Nam quan tâm đặc biệt. Đối với thị trường Hoa Kỳ, năm 2001, Chính phủ chỉ
đạo tổ chức các đoàn liên ngành đi khảo sát và quyết định thành chương trình
trọng điểm của Nhà nước. Chính phủ cũng cho phép thành lập Trung tâm giới
thiệu sản phẩm của Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Trong lĩnh vực nhập khẩu, nếu như trước đây hạn ngạch là một công cụ
bảo hộ quan trọng của Việt Nam, thì từ 2000 - 2002, số hàng hoá sử dụng rào
57
cản nhập khẩu bằng hạn ngạch đã giảm đi đáng kể. Đến ngày 31/12/2002,
Việt Nam chỉ còn sử dụng biện pháp hạn chế số lượng cho dầu mỏ và đường.
Nhờ có những cải cách mạnh mẽ trong chính sách, một nền kinh tế mở,
hướng ra bên ngoài đã thực sự được hình thành ở Việt Nam. Đặc biệt trong
những năm gần đây, hoạt động thương mại quốc tế ở Việt Nam đã được mở
rộng đáng kể. Cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu đều chiếm một tỷ trọng cao trong
GDP, từ năm 1997-2002, xuất khẩu luôn chiếm từ 35-47% GDP, nhập khẩu chiếm từ 45-50% GDP13. Các con số này cho thấy ngoại thương đã trở thành
một thành tố năng động nhất của nền kinh tế Việt Nam. Với tỷ trọng nhập
khẩu trên GDP trung bình hàng năm đạt gần 50% đã chứng minh ràng Việt
Nam là "một trong những nền kinh tế mở nhất trên thế giới" [20, 2003, tr 14].
Bàn riêng về những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong cải cách luật
pháp và năng lực thể thế, nhằm cải thiện quan hệ thương mại sau khi Hiệp
định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, phải kể đến
một loạt Luật, pháp lệnh và Nghị định đã được Chính phủ ban hành hoặc trình
Quốc hội thông qua trong một thời gian ngắn như: Luật cạnh tranh, Luật
doanh nghiệp nước ngoài, Luật tài chính quốc tế, Luật sửa đổi bổ sung Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Hải quan, Pháp lệnh chống bán
phá giá, Pháp lệnh bưu chính viễn thông, Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và
đối xử quốc gia... Đặc biệt trong kế hoạch năm 2005, Quốc hội Việt Nam sẽ
thông qua 27 Luật, đây là một trong những dấu hiệu thể hiện mạnh mẽ sự
quyết tâm cải tổ của Nhà nước Việt Nam để hội nhập quốc tế và phát triển nội
lực.
Tất cả những cố gắng, nỗ lực trên đây có thể xem là những thiện chí,
13 Nếu tính cả buôn lậu, con số thể hiện độ mở của của Việt Nam còn lớn hơn nhiều so với các số liệu thống kê chính thức
chủ động từ phía Chính phủ Việt Nam đối với những thoả thuận trong Hiệp
58
định thương mại. Song đây cũng là những động thái có tính bắt buộc khi
chũng ta đã chấp nhận tham gia vào cuộc chơi với Hoa Kỳ nói riêng và cuộc
chiến toàn cầu nói chung. Vấn đề của chúng ta vừa mang trong mình những
lợi ích chủ quan và cả những đòi hỏi khách quan của một xu thế phát triển tất
yếu.
2.3.2. Những nhân tố thúc đẩy từ phía Hoa Kỳ
Kể từ đầu thập kỉ 90, nhận thấy sự phát triển kinh tế và ổn định chính
trị - xã hội ở Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới,
cùng với bối cảnh mới trong khu vực, cũng như toàn cầu, chính quyền Hoa
Kỳ đã thực hiện việc điều chỉnh chính sách thương mại với Việt Nam.
Ngày 3/2/1994 Tổng thống Hoa Kỳ B.Clinton tuyên bố huỷ bỏ cấm vận
thương mại với Việt Nam. Tháng 10/1995 Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam và
Đại diện thương mại Hoa Kỳ thoả thuận hai bên tập trung thúc đẩy quan hệ
kinh tế - thương mại và chuẩn bị đàm phán Hiệp định Thương mại song
phương.
Vào ngày 13/7/2000, Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký một Hiệp định thương
mại song phương mang tính lịch sử, trong đó là cả quá trình thương thuyết
kéo dài 4 năm nhằm bình thường hoá quan hệ thương mại.
Sau khi lên cầm quyền, trên cơ sở thực tiễn quan hệ hai nước từ khi
bình thường hoá đến nay, chính sách của chính quyền W.Bush hầu như không
thay đổi so với trước. Song cũng như các nước ASEAN khác, Việt Nam được
coi trọng hơn về mặt chiến lược vì chính quyền Bush nhấn mạnh tính chất
“cạnh tranh” trong quan hệ với Trung Quốc. Mặc dù vậy, với sự thận trọng,
Hoa Kỳ tránh không làm cho quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng
khu vực xấu đi. Chính quyền Đảng Cộng hoà của Bush đang tiếp tục những
nỗ lực hợp tác kinh tế, thương mại từ chính quyền đảng Dân chủ của Clinton.
59
Tổng thống Bush ủng hộ quan điểm cho rằng mở rộng quan hệ trao đổi
thương mại sẽ góp phần thúc đẩy “cải cách kinh tế và chính trị” tại Việt Nam,
như Tổng thống Bush đã từng nêu: “Để cải thiện thành tích dân chủ, nhân
quyền cũng như điều kiện sống và làm việc, Hoa Kỳ không nên áp dụng các
lệnh cấm vận thương mại đơn phương, mà thay vì đó, thông qua các hiệp định
hợp tác đa phương”. Tháng 6/2001, Tổng thống Bush đã ký bản công bố 7749
và chuyển Hiệp định cho Quốc hội phê chuẩn. Trong bản công bố này Tổng
thống yêu cầu Cơ quan đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) cần quan tâm
đến ngày hiệu lực của Hiệp định. Trong tháng 10 và tháng 12/2001, Hoa Kỳ
và Việt Nam đã phê chuẩn và trao đổi thư về việc chấp nhận và áp dụng Hiệp
định.
Mặc dù Việt Nam chưa phải là đối tượng hàng đầu trong chính sách châu
Á - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, song một nước Việt Nam đổi mới, mở
cửa, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, hội nhập vào các nước khu vực Đông
Nam Á là không trái với tính toán chiến lược của Hoa Kỳ ở khu vực này. Việt
Nam không nằm ngoài mục tiêu mở rộng thị trường sang châu Á của Hoa Kỳ.
Hơn nữa, Việt Nam cùng các nước ASEAN khác đã nằm trong danh sách các nước BEM14, các thị trường xuất khẩu lớn của Hoa Kỳ. Việc bình thường hoá
quan hệ kinh tế thương mại với Việt Nam, Hoa Kỳ cũng có lợi ích cả về kinh
tế lẫn chính trị trong các vấn đề an ninh khu vực và phát triển quan hệ kinh tế
thương mại giữa hai nước. Hoa Kỳ có nhu cầu buôn bán với Việt Nam và đã
có những bước chuẩn bị với mục tiêu duy trì và mở rộng ảnh hưởng của mình
trong khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Tháng 4/ 2004, vị
tân đại sứ của Hoa kỳ tại Việt Nam M.Marine khi phát biểu trước Uỷ ban
14 BEM: Big Emerging Markets: các thị trường lớn đang nổi lên: đây là một sự phân loại được các cơ quan của Chính phủ Hoa kỳ áp dụng đối với các thị trường mà theo quan điểm của Bộ thương mại Hoa kỳ là có thể tương đương nhau về tỷ lệ tăng trưởng GDP, tăng trưởng nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ...
Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ đã nhận định rằng: "Rừ ràng, một Việt Nam
60
phồn vinh và năng động, có vai trũ lónh đạo đóng góp vào ổn định khu vực là hết sức phù hợp với lợi ích của đất nước và nhân dân Hoa Kỳ". [16,
tr.1]
2.4. VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ
THƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ
Chỉ sau khi Hiệp định thương mại song phương chính thức có hiệu lực
một thời gian rất ngắn, vụ tranh chấp cá da trơn đã gây ảnh hưởng xấu, làm
xáo trộn nhiều lĩnh vực sản xuất của Việt Nam. Với sự kiện này, một nhà
nghiên cứu kinh tế người nước ngoài đã bàn luận như sau: "Nước Hoa Kỳ đã
cho thấy rõ một điều: tự do thương mại của kẻ mạnh có nghĩa là sự tự do sử
dụng mọi thủ đoạn từ phía sau nhằm đảm bảo rằng thương mại được bảo hộ
tuỳ vào mệnh lệnh của lợi ích dành cho chính bản thân họ" [58, tr.1].
Thực ra, bản chất của các quy định pháp luật tinh vi sử dụng trong
thương mại quốc tế của Hoa Kỳ trước đây cũng đã bị nhiều nước như Nhật
Bản, EU kiện lên WTO, song vẫn chưa làm thay đổi được gì. Còn đối với
người Việt Nam, tuy đây không phải là lần đầu tiên phải đối mặt với một hiện
tượng tranh chấp thương mại. Theo nghiên cứu của chúng tôi thì từ 1990 đến
hết năm 2004, chúng ta đã gặp phải 9 vụ kiện và điều tra chống bán phá giá.
(Xem Phụ lục 3). Nhưng đối với các vụ kiện liên quan tới Hoa Kỳ gần đây,
15 Theo Đạo luật thương mại Hoa Kỳ năm 1998, có 6 tiêu chí để Bộ Thương mại Hoa kỳ xác định nền kinh tế một nước là nền kinh tế thị trường/ phi thị trường: (1) Mức độ tự do chuyển đổi của đồng tiền nước đó sang ngoại tệ khác; (2) Mức độ tự do khi đàm phán về mức lương giữa người lao động và Ban giám đốc; (3) Mức độ các liên doanh hoặc các hình thức đầu tư khác của Công ty nước ngoài được nước đó cho phép; (4) Mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của Chính phủ đối với các phương tiện sản xuất; (5) Mức độ kiểm soát của Chính phủ đối với sự phân bố các nguồn lực, kiểm soát giá và quyết định về giá/ sản lượng của doanh nghiệp; (6) Những yếu tố thích hợp khác. Theo chúng tôi những tiêu chí này khá mơ hồ, không rõ ràng, mang rất nhiều tính chủ quan.
quan điểm chính trị và thái độ mang tính áp đặt có chủ ý về một "nền kinh tế phi thị trường" 15 đã làm ảnh hưởng, gây bất lợi rất nhiều với chúng ta trong
61
quá trình điều tra 16. Có thể nói, chính sách thương mại quốc tế nói chung
hay việc giải quyết các tranh chấp thương mại nói riêng thường chịu ảnh
hưởng lớn bởi quan hệ chính trị của các nước đối tác. Điều này chắc chắn còn
là vấn đề đối với Việt Nam khi mà giữa Hoa Kỳ và chúng ta vẫn còn một
khoảng cách khá lớn về nhiều khía cạnh.
Đứng ở góc độ quản lý vĩ mô, đó là khoảng cách về chính sách phát
triển giữa một nền kinh tế thị trường phát triển nhất thế giới với một nền kinh
tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, có xuất phát
điểm thấp và đang trong thời kỳ đầu của tiến trình công nghiệp hoá. Là sự
cách biệt giữa một nền kinh tế giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt tiến trình tự do hoá
toàn cầu với một nền kinh tế đang bắt đầu tiếp cận với xu thế này. Thêm vào
đó là sự không đồng thuận trong các quan điểm chính trị và những ấn tượng
quá khứ - mặc dù đã được giải toả về cơ bản nhưng vẫn còn ảnh hưởng đáng
kể đến tiến trình phát triển quan hệ giữa hai nước.
Cụ thể hơn, trong các quan hệ kinh tế, thương mại, giữa Hoa Kỳ và
Việt Nam đang tồn tại những khác biệt sâu sắc trong quan niệm về “sự công
bằng”. Việt Nam hầu như không có quy chế quan hệ thương mại bình thường
(NTR) (hay còn gọi là quy chế tối huệ quốc - MFN), thực hiện chính sách
thương mại bình đẳng đối với các bạn hàng theo nguyên tắc không phân biệt
đối xử. Trái lại, Hoa Kỳ đặc biệt coi trọng việc sử dụng quy chế NTR để gây
áp lực đòi “công bằng” về mức độ mở cửa thị trường. Ngay cả khi Việt Nam
đã được hưởng NTR, điều đó cũng không đồng nghĩa với việc hàng hoá Việt
Nam sẽ hoàn toàn thuận lợi khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Ý chí và mục đích bảo
16 Hiệp định Chống bán phá giá của WTO quy định: nước nhập khẩu sẽ đánh thuế chống bán phá giá với hàng hoá của nước xuất khẩu nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa nước này. Khi nước xuất khẩu bị xác định là một "nền kinh tế phi thị trường" nước nhập khẩu sẽ lấy mức giá của nước thứ ba để so sánh nhằm xác định việc đánh thuế chống bán phá giá. Rõ ràng cách áp dụng như vậy là không công bằng, rất nhiều khả năng hàng hoá của Việt Nam bị coi là bán phá giá nếu Việt nam có lợi thế tuyệt đối / tương đối.
hộ thị trường nội địa của Hoa Kỳ đã và luôn thể hiện một cách tinh vi trong
62
các đạo luật, ví dụ điển hình là Đạo luật chống bán phá giá, Đạo luật
chống trợ cấp...
Một khác biệt quan trọng nữa là chính sách kinh tế của Hoa Kỳ không
chỉ bao hàm những yếu tố, công cụ thuần tuý kinh tế. Hoa Kỳ luôn luôn gắn
các quan hệ kinh tế với việc thúc đẩy dân chủ, truyền bá các "giá trị Hoa Kỳ"
ở nước đối tác. Những khác biệt có tính nguyên tắc nói trên sẽ chi phối toàn
bộ quá trình phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
Với thực tế đó, trong quá trình hoạch định chính sách thương mại với
Hoa Kỳ, Việt Nam cần phải chú trọng đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, việc xây dựng chính sách thương mại với Hoa Kỳ phải dựa
trên tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác, bảo đảm độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Đặc biệt Việt
Nam phải hoàn toàn tự chủ quyết định đường lối chính sách của mình trong
quan hệ với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một quốc gia phát triển nhất thế giới về mọi
mặt, ý đồ của Hoa Kỳ trong việc bình thường hoá với Việt Nam không chỉ
đơn thuần là đạt được lợi ích trong quan hệ thương mại với Việt Nam, mà còn
nhằm thông qua Việt Nam gây ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á, kiềm chế
ảnh hưởng của Trung Quốc, mở rộng ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương. Do vậy, Việt Nam cần có chính sách mềm dẻo, thích
ứng với tình hình tương quan lực lượng và luôn đảm bảo tính chủ động và
bình đẳng trong quá trình đàm phán các Hiệp định cụ thể tiếp theo, cũng như
đàm phán với Hoa Kỳ trong tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO).
Thứ hai, trong mục tiêu chiến lược của mình, Hoa Kỳ bao giờ cũng gắn
mục đích chính trị song song với hoạt động thương mại. Do vậy, không thể
loại trừ việc Hoa Kỳ sẽ có những tính toán chính trị, an ninh thông qua thực
63
hiện Hiệp định thương mại song phương. Nhiều nhận định cho rằng chính
sách thương mại hiện nay của Hoa Kỳ đang ngày càng triệt để hơn cái gọi là
"buôn bán bình đẳng" và đã có sự biến dạng trong nguyên tắc "có đi có lại".
Các hoạt động thương mại cụ thể gần đây với Nhật Bản, Trung Quốc...cho
thấy Hoa Kỳ đã bắt đầu giải quyết vấn đề theo kiểu có đi có lại một cách đầy
thực dụng và cứng rắn. Phải khẳng định rằng chính sách nhập khẩu của Hoa
Kỳ luôn có tính hai mặt. Một mặt là tính mở về sự tiếp cận thị trường, do Hoa
Kỳ muốn ép nước đối tác của mình mở cửa thị trường cho hàng hoá Hoa Kỳ
thì trước tiên họ phải mở cửa chính thị trường của mình. Mặt khác, tính đóng
thể hiện qua việc Hoa Kỳ thường lợi dụng chính công cụ tiếp cận thị trường
đó để phục vụ các lợi ích phi kinh tế và các mục đích khác của Hoa Kỳ đối
với các đối tác, tại các thời điểm hoàn toàn theo chủ quan từ phía Hoa Kỳ .
Hơn nữa, thị trường Hoa Kỳ cũng như bất kỳ thị trường rộng lớn nào
khác, đều có những bước thăng trầm, suy thoái và có những vấn đề riêng ở
từng thời điểm. Do vậy, Việt Nam không chỉ dựa vào quan hệ thương mại với
Hoa Kỳ, mà cần kiên trì và nhất quán thực hiện phương châm đa phương hoá,
đa dạng hoá các quan hệ thương mại. Nghĩa là Việt Nam cần phải tiếp tục mở
rộng quan hệ thương mại với nhiều đối tác khác nữa, chứ không chỉ chú trọng
đến quan hệ thương mại với Hoa Kỳ. Trong tương lai Việt Nam cần có chính
sách giữ thăng bằng trong quan hệ thương mại với tất cả các bạn hàng trên thế
giới. Nhất là trong bối cảnh như hiện nay, khi mà Hoa Kỳ đang mong muốn
mở rộng chiến tranh chống khủng bố sang một số nước. Mặt khác, cũng
không nên để hàng xuất khẩu của Việt Nam quá phụ thuộc vào mỗi một thị
trường Hoa Kỳ. Bài học rút ra từ thực tế Singapo là khi 40% hàng điện tử của
nước này xuất sang Hoa Kỳ và khi thị trường Hoa Kỳ có biến động đã kéo
theo sự mất ổn định của thị trường Singapo
64
Thứ ba, pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Việt Nam khác nhau rất nhiều. Hiểu được pháp luật Hoa Kỳ, nhất là nắm được hệ thống án lệ 17 của
họ trong tranh chấp hương mại hoàn toàn không phải là điều dễ dàng. Bên
cạnh đó, về cơ chế quản lý, có sự khác biệt giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Ví dụ
trong lĩnh vực bản quyền và xuất bản, tại Việt Nam, tất cả các xuất bản đều
cần có phép của Chính phủ. Vì vậy, Hoa Kỳ có thể buộc Chính phủ Việt Nam
có trách nhiệm đối với bất kỳ mọi vi phạm về bản quyền. Trong khi đó tại
Hoa Kỳ, xuất bản không đòi hỏi giấy phép của Chính phủ. Vì vậy, Chính phủ
Hoa Kỳ sẽ dễ dàng từ chối mọi trách nhiệm đối với việc vi phạm bản quyền ở
phía Hoa Kỳ. Hơn thế nữa, từ nay cho tới khi chúng ta gia nhập được WTO,
các tranh chấp của chúng ta chỉ có thể giải quyết được thông qua Hiệp định
thương mại song phương. Mà các quy định về giải quyết tranh chấp trong
Hiệp định không được đầy đủ, không có cơ chế hoặc cơ quan chức năng riêng
để giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả, công bằng. Vì vậy, khi xảy tranh
chấp, bất lợi chắc chắn nghiêng về phía Việt Nam. Số liệu thống kê thực tế
của WTO cho thấy xác xuất để các nước chưa phải là thành viên WTO bị áp
dụng thuế chống bán phá giá là rất cao một khi bị điều tra. Tiêu biểu là trường
hợp Nga 33/39 vụ điều tra bị áp thuế (từ 1995 - 2001), và Ucraina 53/62 vụ,
Trung Quốc 178/255 vụ (tỷ lệ này đã giảm đi đáng kể sau khi Trung Quốc gia
nhập WTO).
Thứ tư, người Hoa Kỳ luôn luôn phản đối và chưa bao giờ từng thực
hiện một Hiệp định thương mại toàn diện, xuất phát từ hai mối lo ngại: "các
bạn hàng buôn bán của chúng ta (Hoa Kỳ) sẽ có những tiêu chuẩn thấp hơn về
17 Hệ thống Pháp luật Hoa Kỳ là hệ thống luật Common Law với đặc điểm cơ bản là sự thiếu hệ thống hoá, bất thành văn, chủ yếu dựa vào tiền lệ xét xử (hay còn gọi là án lệ). Common Law bao gồm các nguyên tắc pháp lý hàm chứa trong các phán quyết của toà án. Toà án không chỉ là cơ quan xét xử mà còn là cơ quan làm Luật. Hơn nữa trong hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ không có sự phân biệt riêng rẽ giữa pháp luật thương mại và pháp luật dân sự. Vì vậy, các Luật sư ở Hoa kỳ có một vị trí không thể thiếu, họ là những người chủ yếu xác định các giá trị pháp lý.
môi trường và lao động, điều này sẽ mang lại cho họ một lợi thế không công
65
bằng ở thị trường của chúng ta" và"ngày càng nhiều người lao động của
chúng ta sẽ mất việc làm và phải làm lại từ đầu". Do vậy Hoa Kỳ sẽ "tìm cách
đưa ra những tiêu chuẩn về người lao động và môi trường trên khắp thế giới"
[19,tr.458] và coi đây là một phần tất yếu của tất cả các chương trình nghị sự
và các hoạt động cụ thể về buôn bán của Hoa Kỳ. Và tất nhiên Việt Nam
không thể là một trường hợp được loại trừ.
Thứ năm, trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, hiện nay chúng ta
đang ở thế xuất siêu. Với tiềm lực kinh tế của Hoa Kỳ, hiện tại có thể đây vẫn
chưa phải là vấn đề gây sự quan tâm nhiều lắm cho các nhà điều tiết chính
sách thương mại Hoa Kỳ, cũng như chưa cần có một đối sách cụ thể. Song
Việt Nam vẫn cần phải lường trước những khả năng Hoa Kỳ sẽ thực hiện sự
"công bằng" trong thương mại, hoặc các quyết định bất ngờ khác. Nhất là
trong điều kiện sự thâm hụt trong cán cân thương mại đã là một vấn đề cần
giải quyết tại Hoa Kỳ. Bài học từ trường hợp Singapore ở thập kỷ 90 đã cho
thấy chỉ cần Hoa Kỳ có nhận định về tiềm lực của một "con rồng Châu Á"
ngay lập tức họ thực hiện bãi bỏ Quy chế tối huệ quốc.
Tóm lại, trong quan hệ với Hoa Kỳ nói chung và ở lĩnh vực thương mại
nói riêng, chúng ta cần phải biết ứng xử theo cách mà người Hoa Kỳ vẫn
thường làm là "đối phó với một cơn bão xa có thể đổ vào bờ biển là khôn
ngoan hơn nhiều so với việc phớt lờ tiếng sấm cho đến khi những đám mây
đen phủ kín ở trên đầu" [19, tr.459]
66
CHƯƠNG 3
TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ
3.1. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM -HOA KỲ
Phải khẳng định rằng, sau những thuận lợi ban đầu, quan hệ thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ từ cuối năm 2003 cho đến nay đã có những dấu hiệu
chững lại và đang gặp nhiều vấn đề có tính sự vụ, phải giải quyết bằng các
biện pháp chấp nhận, thích ứng. Vậy những vấn đề gì phải đặt ra khi dự báo
triển vọng về quan hệ thương mại của hai nước?
Theo quan điểm của chúng tôi, với Việt Nam, Hoa Kỳ là một đối tác
mới mẻ trong giao lưu kinh tế. Mặt khác các mâu thuẫn từ phía Hoa Kỳ
thường nhạy cảm, gây nhiều tranh cãi hơn là đối với các bạn hàng khác.
Trước những gì còn mới, khác thường và nhất là để đạt được nó không dễ,
người ta thường kỳ vọng và trông đợi ở nó nhiều cái lớn lao. Khi gặp phải
những khó khăn nhất định ở vào các thời điểm nóng, chắc chắn vấn đề sẽ trở
nên bức xúc và mang nhiều tính quan niệm phức tạp hơn. Hơn thế nữa, từ
trước tới nay, Hoa Kỳ luôn là nước sử dụng nhiều các biện pháp hạn chế
thương mại. Riêng thuế chống phá giá cũng đã được Hoa Kỳ áp dụng với 41
quốc gia. Các nước Châu Á với khoảng 45% kim ngạch nhập khẩu của Hoa
Kỳ, thì chiếm 47% số vụ chống phá giá, Châu Âu có 21% kim ngạch nhập
khẩu thì là đối tượng của 30% vụ chống phá giá [20, 2003 tr.58]. Vì vậy, nếu
nhìn vào kinh nghiệm phát triển của các nước khác trong quan hệ thương mại
với Hoa Kỳ, có thể khẳng định quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn đang
diễn ra tốt đẹp, có tiềm năng đem lại những cơ hội phát triển lớn trong tương
lai. Chính vị tân Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam M.Marine cũng cho rằng “Việc
tiếp tục tăng cường mối quan hệ giữa Hoa kỳ và Việt Nam về cả chiều sâu lẫn
67
chiều rộng đang có triển vọng rất tươi sáng. Điều then chốt để tiếp tục
đạt được tiến bộ là phải kiên nhẫn, đồng thời phải có niềm tin trong quan hệ hợp tỏc với nhau” [16, tr.1] 18.
Vì vậy, vấn đề cần thiết ở thời điểm hiện nay là xác định rõ những cơ
hội và thách thức để có những định hướng đúng đắn, mang tính dài hạn, phát
huy tốt những kết quả đã đạt được, đồng thời hạn chế những trở ngại không
mong muốn.
3.1.1. Những cơ hội thuận lợi để phát triển quan hệ thƣơng mại Việt
Nam- Hoa Kỳ
Thứ nhất, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế và tự do hoá
thương mại đang phát triển mạnh mẽ, tạo những biến đổi sâu sắc trong kinh
tế, thương mại thế giới, thức đẩy việc hợp tác giữa các quốc gia, khu vực với
nhau. Dù trình độ phát triển có thể chênh lệch song các nước đều đang có
khuynh hướng ngày càng xích lại gần nhau hơn, phụ thuộc lẫn nhau. Trong
khi đó, Hoa Kỳ lại đang có chính sách hướng về các nước Đông Á nhằm củng
cố quan hệ cạnh tranh giữa ba trung tâm Hoa Kỳ - EU - Nhật bản, và ngược
lại Đông Á cũng luôn hướng về Hoa Kỳ để mở rộng thị trường. Sự ra đời
APEC là kết quả của xu thế tự do hoá thương mại và sự nỗ lực thúc đẩy để
gặp gỡ lẫn nhau của tất cả các nước thành viên trong đó có cả Hoa Kỳ và Việt
Nam
Thứ hai, việc ký kết Hiệp định thương mại song phương giữa Hoa Kỳ
và Việt Nam, Hiệp định dệt may đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong lịch sử
quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, tạo ra cơ sở pháp lý để cả hai bên đưa mối quan
hệ hợp tác kinh tế thương mại lên một tầm vóc mới nhằm khai thác nhiều hơn
tiềm năng của mỗi bên.
18 Đại sứ Hoa Kỳ M.Marine Phỏt biểu trước Phũng Thương mại Hoa kỳ tại Hà Nội vào tháng 4 năm 2004
68
Thứ ba, trong quan hệ thương mại hai chiều trên cơ sở cùng có lợi,
Việt Nam không có hàng cạnh tranh trực tiếp với Hoa Kỳ. Ví dụ như tôm của
Việt Nam chỉ có tôm sú không có tôm thẻ, ngược lại Hoa Kỳ không có tôm
sú, chỉ có tôm thẻ. Nông sản Hoa Kỳ có lúa mỳ, đậu tương, ngô thì Việt Nam
không có để xuất khẩu các mặt hàng đó nhưng lại có các loại hoa quả nhiệt
đới mà Hoa Kỳ không có, Việt Nam có lao động rẻ còn Hoa Kỳ có công nghệ
cao, dịch vụ tốt
Thứ tư, các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường Hoa
Kỳ là những mặt hàng Việt Nam đang có tiềm năng về nguồn lực phục vụ sản
xuất, khai thác để xuất khẩu như thuỷ hải sản, nông sản hoặc những mặt hàng
sử dụng lợi thế cạnh tranh về nhân công giá rẻ như dệt may, giày dép (hiện
nay Việt Nam được xem là có giá nhân công rẻ vào hàng bậc nhất trong khu
vực - xem Bảng 12)...Mặc dù hiệu quả xuất khẩu sang Hoa Kỳ những mặt
hàng này chưa cao song cũng đã tạo nên tiền dề thuận lợi để các doanh nghiệp
Việt Nam làm quen, tiếp cận thị trường Hoa Kỳ, tạo nền tảng để từng bước
mở rộng thêm các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ, đồng thời phần nào hình
thành nên thói quen tiêu dùng hàng Việt Nam của người dân nước này.
Nhật bản
13,00
Đài Loan
2,17
Singapore
2,67
Nam Triều Tiên
2,30
Hồng Kông
2,43
Malaixia
1,56
Thái Lan
0,86
Philipin
0,53
Indonexia
0,41
Việt Nam
0,16
Bảng 13: Giá thuê nhân công ở một số nước Châu Á Đơn vị: USD / người / ngày
69
Nguồn: Bộ Thương mại Việt nam, 2002
Thứ năm, xét về chủng loại mặt hàng, Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu
nguyên vật liệu, chưa có hàng công nghiệp. Một ví dụ cụ thể là nhóm hàng
thuỷ hải sản của chúng ta phần lớn là hàng thô, đông lạnh. Hoa Kỳ nhập về
rồi lại chế biến tiếp. Điều này vừa đem lại lợi ích cho Hoa Kỳ là giải quyết
vấn đề về nguyên liệu, vừa góp phần tạo thêm công ăn việc làm, thu nhập và
giá trị gia tăng cho các công ty của Hoa Kỳ
Thứ sáu, chúng ta hoàn toàn có cơ hội tăng trưởng kim ngạch xuất nhập
khẩu nhanh bởi xuất phát điểm của chúng ta là một con số quá nhỏ nếu so
sánh với các nước trong khu vực
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi cơ bản nêu trên, trong quan hệ thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ đang còn nhiều tồn tại và vấp phải không ít khó khăn,
thách thức
3.1.2. Những khó khăn và thách thức trong phát triển quan hệ thƣơng
mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
a. Những khó khăn của Việt Nam
Bàn về những yếu kém từ bên trong nền kinh tế, đầu tiên phải đề cập
đến các doanh nghiệp - chủ thể chủ yếu quyết định sự thành bại của quá trình
giao lưu thương mại, các đấu sĩ chính trên thương trường. Có thể khẳng định
rằng nội lực các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói chung và sang thị
trường Hoa Kỳ nói riêng còn rất thấp kém. Đa số có quy mô vừa và nhỏ, tiềm
lực về vốn và nhân lực rất hạn chế. Chúng ta là những người đến sau, muốn
chiếm được thị phần, tăng cường quy mô và giá trị xuất khẩu, điều trước tiên
là hàng hoá phải thể hiện được sức cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ. Vấn đề
cốt lõi trong cạnh tranh của hàng hoá là năng lực sản xuất, nội lực của các
doanh nghiệp. Trong khi đó, cơ cấu sản xuất các ngành sản xuất hàng xuất
70
khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ còn lạc hậu hơn rất nhiều so với một số
nước có cùng chủng loại mặt hàng khác, hàm lượng công nghệ kết tinh trong
sản phẩm thấp do trình độ kỹ thuật của các ngành sản xuất này còn ở mức
trung bình, thậm chí còn lạc hậu từ một đến hai thế hệ so với các nước đang
phát triển khác. Mặt khác, sự non trẻ và phần nào còn lúng túng trước những
định chế kinh tế thị trường của các doanh nghiệp của Việt Nam có thể cũng là
một yếu tố chính làm cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hầu như chưa có
tên tuổi trên thị trường Hoa Kỳ.
Mặt khác, hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung còn rất ít loại là
sản phẩm tinh chế và chế biến có tỷ lệ nội địa cao, còn phụ thuộc khá nhiều
vào nguồn nguyên liệu nước ngoài và phổ biến phải xuất khẩu gián tiếp qua
trung gian nước ngoài. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị
trường Hoa Kỳ như dệt may, giầy dép chủ yếu là chủng loại hàng gia công và
nguyên liệu. Đây là hai mặt hàng chiếm tới 60% kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang Hoa Kỳ hàng năm song hiệu quả xuất khẩu của chúng lại chưa
cao. Trên 80% khối lượng là hàng gia công cho nước ngoài và phần lớn lại
phải xuất khẩu gián tiếp qua các trung gian nước ngoài. Thực chất, cách làm
này chỉ tạo ra một lượng giá trị gia tăng thấp dựa trên giá nhân công về cơ bản
là rẻ mà thôi. Thực trạng hiện nay của ngành da giày là một ví dụ cho khuynh
hướng sản xuất hàng gia công giá rẻ, lợi ích thu lại thấp. Ngoại tệ trung bình
thu về chỉ xấp xỉ 18% kim ngạch xuất khẩu với đơn giá bình quân chỉ 5-10
USD/đôi. Do đó, mặc dù có đạt doanh thu xuất khẩu lớn nhưng hiệu quả thực
tế có được từ hai mặt hàng xuất khẩu chính này lại rất nhỏ. Điều này cũng
không khả quan hơn đối với các sản phẩm về nông sản và thuỷ sản.
Thêm vào đó, chất lượng sản phẩm hàng hoá xuất khẩu thấp chưa
đáp ứng được yêu cầu của thị trường Hoa Kỳ. Hầu các ngành hàng hàng nông
thuỷ sản và chế biến xuất khẩu đều chưa ổn định về chất lượng do máy móc
71
thiết bị chưa được hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, dẫn đến
điều kiện sản xuất, chế biến chưa đảm bảo tốt các tiêu chuẩn vệ sinh môi
trường, khả năng bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch thấp, tỷ lệ thất thoát sau
thu hoạch cao. Hơn nữa, phần lớn hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chưa đáp
ứng được các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam
chưa áp dụng các Bộ tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, tiêu chuẩn HACCP 19.... Cho nên, nhiều chủng loại hàng hoá của Việt Nam chưa đạt được tiêu
chuẩn theo quy định của Hoa Kỳ hoặc tương đương tiêu chuẩn của Hoa Kỳ
nên chưa có khả năng xuất khẩu sang thị trường này.
Nhìn từ góc độ phân phối, cho đến nay hệ thống các kênh phân phối
vào thị trường Hoa Kỳ vẫn còn bị phụ thuộc nhiều vào hệ thống kênh phân
phối của nước ngoài làm cho phương thức xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm cuả
Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ còn yếu kém, thiếu hiệu quả; các doanh
nghiệp cũng như sản phẩm hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chưa có vị trí
ổn định và phát triển được trên thị trường Hoa Kỳ.
Hơn nữa, năng lực cạnh tranh và khả năng tiếp thị của các doanh
nghiệp Việt Nam còn yếu. Hầu hết có quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý lẫn
công nghệ, lại hình thành và hoạt động quá lâu trong cơ chế bao cấp. Có thể
nói, Việt Nam chưa tạo ra được những cơ chế, biện pháp có hiệu lực nhằm
kích thích, thúc đẩy các doanh nghiệp gắn sự tồn tại và phát triển của mình
với việc cải tiến sản xuất kinh doanh, với khả năng cạnh tranh trên thương
trường, nhất là thương trường quốc tế. Ngoài ra, vấn đề tiếp thị và trình độ
marketing của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường nước ngoài còn
yếu. Cụ thể ở đây là khi thực hiện một dự án hợp tác thì phía các doanh
nghiệp Việt Nam thường không tham gia tích cực vào phần bán hàng và làm
nhiệm vụ marketing quốc tế. Đây là hạn chế nhất của doanh nghiệp Việt Nam, 19 Tiêu chuẩn HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point) - Phân tích và xác định các điểm nguy hại trọng điểm
72
vì như thế Việt Nam sẽ dần dần mất đi tính chủ động trên thị trường thế
giới cũng như không nắm được nhu cầu thị hiếu của khách hàng và điều đó
dẫn đến vai trò của doanh nghiệp Việt Nam bị chi phối trong các hình thức
hợp tác.
Đáng lo hơn, các doanh nghiệp Việt Nam thưòng thiếu thông tin thị
trường, ít hiểu biết về đối tác. Đây cũng là một nguyên nhân cho việc đến nay
các doanh nghiệp vẫn chỉ tập trung vào sản xuất một số ít mặt hàng đã xuất
khẩu được sang thị trường Hoa Kỳ, gây nên tình trạng nghèo nàn về chủng
loại hàng hoá xuất khẩu, không thích ứng kịp với thị hiếu tiêu dùng của Hoa
Kỳ, không tạo ra được thị trường cho các sản phẩm mới. Sự tập trung cao độ
này sẽ dễ dàng tạo ra các nguy cơ rủi ro cao khi có sự thay đổi trong các thoả
thuận, hợp đồng, môi trường thương mại song phương và các điều kiện khách
quan khác.
Một trở ngại nữa là hàng hoá của chúng ta phải cạnh tranh khốc liệt
với các sản phẩm cùng loại của các đối thủ mạnh như Trung Quốc và các
nước ASEAN khác. Áp lực này trên thị trường Hoa Kỳ đang ngày một gia
tăng khi mà hầu hết các nước này đã được hưởng chế độ GSP của Hoa Kỳ,
các ưu đãi của WTO trong khi Việt Nam vẫn còn chưa gia nhập được tổ chức
này.
Đối với các nước ASEAN nhiều nghiên cứu đã nhận định “hợp tác
ASEAN mang tính cạnh tranh nhiều hơn là bổ trợ nguồn lực giữa các nước
thành viên để cùng phát triển” [47.tr74]. Xuất phát từ thực tế là Việt Nam có
trình độ phát triển kinh tế thấp hơn các nước thành viên chủ chốt của ASEAN
như Singapore, Thái Lan, Malaysia, Inđônêxiavà Philipines, nên sức cạnh
tranh của hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Hoa
Kỳ đều thấp hơn các nước này. Cơ cấu sản xuất hàng hoá xuất khẩu sang Hoa
Kỳ và lợi thế cạnh tranh của Việt Nam với các nước này có nhiều nét tương
73
đồng, trong khi đó các nước này đã có trình độ công nghiệp hoá cao hơn
Việt Nam khoảng 10 năm. Rất nhiều công nghệ hiện đại đã được các nước
phát triển chuyển giao cho các nước này, trong khi Việt Nam mới chỉ được
chuyển giao công nghệ thế hệ trước như điện tử.
Đối với Trung Quốc, nước vừa mới là thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều
khó khăn hơn vì phải cạnh tranh với hàng của Trung Quốc trên cùng một thị
trường trong điều kiện xuất phát từ thực tế là Trung Quốc là nhà xuất khẩu
lớn các sản phẩm có hàm lượng lao động cao và hàng của họ được hưởng
nhiều chế độ ưu đãi hơn Việt Nam. Mặt khác, trong thời gian từ nay đến khi
Việt Nam được gia nhập WTO, hàng của Việt Nam sẽ phải tiếp tục cạnh tranh
trên thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện chưa được Hoa Kỳ dành cho hưởng
những ưu đãi như các nước đã là thành viên của WTO.
b. Những thách thức đối với Việt Nam từ phiá Hoa Kỳ
Việt Nam mới được hưởng quy chế tối huệ quốc chưa đầy đủ của
Hoa Kỳ nên còn nhiều bất lợi đối với hàng hoá xuất khẩu. Đây là lý do chính
mà quan hệ kinh tế, thương mại hai nước chưa bình thường, chưa tạo sân chơi
bình đẳng cho hàng hoá của Việt Nam vào Hoa Kỳ, trong khi hàng hoá của
Hoa Kỳ vào Việt Nam vẫn không bị phân biệt đối xử gì
Đặc biệt trong quan hệ thương mại, rào cản lớn nhất cần tháo gỡ là
các chính sách cũ để lại, Điều luật Jackson Vanik chưa được xóa bỏ hoàn
toàn, quyền sử dụng vốn vây Ngân hàng xuất nhập khẩu (EXIMBANK) và
bảo lãnh đầu tư cho các công ty Hoa Kỳ làm ăn với Việt Nam chưa được tạo
điều kiện thuận lợi về thủ tục
Việt Nam còn bị phân biệt đối xử trong các tranh chấp thương mại,
còn phải đối phó với một số vấn đề phát sinh từ bản chất cạnh tranh tự nhiên
74
của một số nhóm đặc quyền có ảnh hưởng ở Hoa Kỳ (như trường hợp vụ
kiện cá da trơn). Tuy nhiên đây là nước vấn đề đòi hỏi thời gian và kinh
nghiệm để chúng ta học được cách đối phó và xử lý những vấn đề tương tự
như những nước khác đã từng vượt qua sau thời gian giao thương ban đầu vói
Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ thường gắn những vấn đề không liên quan đến thương mại:
ví dụ như các vấn đề về nhân quyền, dân chủ, môi trường... làm áp lực trong
buôn bán thương mại. Điều này được thể hiện rõ trong đàm phán, ký kết Hiệp
định. Hoa Kỳ dùng con bài nhân quyền làm nền tảng cho sự hợp tác quốc tế.
Chính vì vậy, Việt Nam đã là thành viên của ASEAN nhưng hiện nay trong
một số quy chế của Hoa Kỳ, Việt Nam vẫn chưa được hưởng các chính sách
chung của Hoa Kỳ dành cho khối ASEAN
Tuy nhiên, vượt qua tất cả những trở ngại đó, dù sao thị trường Hoa Kỳ
vẫn là một thị trường lớn nhất và tương đối "mở" nhất cho hàng xuất khẩu
Việt Nam. Hoa Kỳ đã nhập khẩu từ Việt Nam nhiều hơn EU 50% những mặt
hàng chế tạo, kể cả dệt may
Nhìn chung, về nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, thách thức nêu
trên bên cạnh những nguyên nhân khách quan thì nguyên nhân chủ quan là do
Việt Nam chưa có được một chiến lược lâu dài, toàn diện về phát triển thương
mại với các quốc gia, khu vực trên thế giới nói chung và với Hoa Kỳ nói
riêng. Chậm trễ trong việc triển khai các chủ trương chính sách mới: năng lực
tổ chức thực hiện đường lối yếu kém cộng với những hạn chế vốn có của nền
kinh tế vừa thoát khỏi cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp tạo nên.
Chính những nguyên nhân chủ quan này cũng dẫn đến việc đối phó, xử lý khi
xẩy ra các nguyên nhân khách quan chưa được phù hợp, khéo léo, tăng thêm
trở ngại trong phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
75
3.2. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CHUNG
PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ.
3.2.1. Phấn đấu gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trƣờng Hoa Kỳ.
Để thực hiện tốt mục tiêu này, Việt Nam cần tích cực cải thiện tình trạng
xuất khẩu hiện nay vào Hoa Kỳ với những phương hướng chủ yếu sau:
a. Phát triển chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hình
thành những ngành xuất khẩu chủ lực, mũi nhọn quan trọng vào thị trường
Hoa Kỳ.
Như chúng tôi đã đề cập ở phần trên, kinh nghiệm các nước và lãnh thổ
đã và trải qua con đường tăng trưởng nhanh hướng vào xuất khẩu cho thấy có
một mô hình chung là trong giai đoạn phát triển đầu tiên, các nước đều lấy
các nghành khai thác lợi thế tự nhiên của đất nước làm chủ đạo; giai đoạn
tiếp sau, vị trí chủ đạo chuyển sang các nghành công nghiệp chế biến tận dụng
lợi thế nhân công rẻ; Giai đoạn thứ ba là phát triển các nghành công nghiệp có
hàm lượng công nghệ cao.
Nền kinh tế Việt Nam hiện đang còn ở một điểm xuất phát rất thấp. Xét
về cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, cơ cấu xuất nhập khẩu... thì nước ta đang
ở những bước đi đầu tiên trên con đường công nghiệp hoá. Tuy nhiên, trong
nền kinh tế cũng đã xuất hiện những điều kiện để chuyển mạnh sang giai đoạn
thứ hai, đó là: lực lượng lao động dồi dào với trình độ giáo dục phổ thông đủ
khả năng tiếp thu các kỹ thuật sản xuất công nghiêp không quá phức tạp; các
nghành công nghiệp, dịch vụ yểm trợ và cơ sở hạ tầng đã được phát triển một
bước ...Từ đó có thể thấy rằng cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian
trước mắt sẽ phải là sự kết hợp giữa các ngành khai thác lợi thế tự nhiên. Chủ
yếu là nông nghiệp và các ngành công nghiệp tận dụng nhân công.
76
b. Trong điều kiện Việt Nam ngày càng tham gia sâu sắc vào thị
trường khu vực và thế giới, việc cải cách hệ thống thuế để khuyến khích
xuất khẩu là hết sức cần thiết và phải được thực hiện nhanh chóng, hợp lý.
Mục tiêu của chính sách thuế ở nước ta đã được xác định là tạo sự cân bằng
trong cán cân thanh toán quốc tế đồng thời khuyến khích tăng trưởng xuất
khẩu ở một số ngành, góp phần bảo hộ thị trường nội địa.
Việc sử dụng đúng các chính sách khuyến khích về thuế có tác dụng căn
bản đối với quá trình tăng trưởng lâu bền ở nước ta trên hai khía cạnh đó là:
nâng cao tiết kiệm trong toàn bộ nền kinh tế (tăng khối lượng vốn đầu tư nội
địa) và thúc đẩy sự phát triển của những ngành ưu tiên. Trong giai đoạn tới ở
nước ta, sự khuyến khích về thuế cần được dành cho :
- Các ngành và doanh nghiệp đang sản xuất các sản phẩm xuất khẩu sang
thị trường Hoa Kỳ được ưu tiên.
- Các ngành và doanh nghiệp đang sản xuất các sản phẩm thay thế nhập
khẩu.
- Các ngành và doanh nghiệp đang tận dụng có hiệu quả các nguồn lực
sẵn có.
c. Bên cạnh việc thực hiện các chính sách về thuế, chính sách tín dụng
ưu đãi cũng là cần thiết bởi hiện nay, tình trạng không đủ vốn tài chính vẫn là
trở ngại lớn cho xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Theo Bộ Thương mại,
nhiều ngành xuất khẩu không phát triển hết công suất cũng do thiếu vốn;
nhiều tổ chức tư nhân và các doanh nghiệp nhỏ không được hoặc rất khó khăn
trong việc vay vốn;
Sở dĩ tình trạng này còn chưa được giải quyết là do các nguồn vốn tiết
kiệm và đầu tư nội địa của Việt Nam còn rất hạn chế. Căn cứ vào điều kiện
phát triển và mục tiêu kinh tế cụ thể của đất nước trong giai đoạn tới, có thể
nêu một vài đề xuất mang tính giải pháp cho vấn đề này như sau:
77
- Kiên trì nguyên tắc định hướng chính sách lãi suất trong giai đoạn
tới là không chỉ duy trì mức lãi suất dương mà còn phải giữ ở mức cao đủ
hấp dẫn huy động các khoản tiết kiệm trong dân cư.
- Thay đổi cơ cấu lãi suất cũng là một yêu cầu hết sức cấp bách. Một cơ
cấu lãi suất tín dụng ngắn hạn cao hơn dài hạn sẽ có thể làm méo mó các tín
hiệu thị trường đối với tiết kiệm và đầu tư. Hơn nữa, công cuộc cải tổ cơ cấu
theo định hướng xuất khẩu ở nước ta luôn cần đến một khối lượng khổng lồ
các khoản tín dụng dài hạn, nhưng cơ cấu lãi suất hiện tại không khuyến
khích người dân gửi tiết kiệm dài hạn. Nguồn vốn đầu tư dài hạn bị thiếu hụt
sẽ gây ra những tổn hại lớn trong quá trình tăng trưởng.
Khi đã có được nguồn tín dụng dành để thực hiện chính sách ưu đãi, việc
xác định đối tượng và mức độ ưu đãi cũng hết sức cần thiết. Hình thức ưu đãi
tín dụng có thể chủ yếu là ưu đãi về khối lượng và thời hạn tín dụng. Về
nguyên tắc, để không làm méo các quan hệ thị trường, việc cung cấp tín dụng
ưu đãi ít khi bao hàm sự ưu đãi lãi suất. Đối với trường hợp Việt Nam, điều
này còn được lý giải bằng việc khắc phục tình trạng bao cấp vốn - yếu tố đối
nghịch với các quan hệ thị trường, triệt tiêu các động lực cạnh tranh lành
mạnh và duy trì một hiệu quả đầu tư thấp. Tuy nhiên, việc xử lý vấn đề lãi
suất ưu tiên có thể cũng có những ngoại tệ, mục tiêu cuối cùng vẫn là tạo điều
kiện thuận lợi tối đa cho một số doanh nghiệp được xếp vào diện ưu tiên phát
triển, tham gia cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ.
Liên quan đến nhiệm vụ khắc phục tình trạng không đủ vốn ở Việt Nam
hiện nay còn là việc tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận đến các nguồn
vay nước ngoài. Hiện nay đã có nhiều ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh và
văn phòng đại diện ở Việt Nam. Điều đó hé mở cho các doanh nghiệp nước ta
khả năng tìm kiếm và mở rộng nguòn đầu tư. Song vì nhiều lý do, trong đó
đặc biệt là lý do thể chế (quy tắc bảo lãnh cho vay), cho đến nay kênh tín
78
dụng này nhìn chung vẫn còn khá "đóng cửa" với các doanh nghiệp Việt
Nam . Sự gợi ý ở đây là chính phủ cần hỗ trợ cho một số doanh nghiệp xác
định, sao cho họ nhanh chóng có đủ tư cách và các điều kiện cần thiết để vay
vốn nước ngoài.
d. Chính phủ nỗ lực đàm phán để Hoa Kỳ gỡ bỏ dần những ràng buộc,
hạn chế về hạn ngạch xuất khẩu, mở rộng thị trường hơn nữa cho Việt Nam
đối với các mặt hàng như Dệt may, giày dép, thuỷ sản, thủ công Mỹ nghệ ,
gạo...
e. Hỗ trợ, tháo gỡ những vướng mắc cho doanh nghiệp trong quá trình
thực hiện xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Hoa Kỳ. Bao gồm cả lĩnh vực
tài chính và kỹ thuật, Khuyến khích, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp thực hiện xúc tiến thương mại và thực hiện chuiyên môn hoá trong
xuất khẩu sản phẩm hàng hoá sang thị trường Hoa Kỳ.
3.2.2. Nỗ lực giải quyết những hạn chế nhập khẩu đối với hàng hoá của
Hoa Kỳ
Hướng thực hiện của mục tiêu là:
a. Khuyến khích nhập khẩu công nghệ của Hoa Kỳ : Công nghệ nguồn
đóng vai trò then chốt trong tiến trình thực hiện CNH - HĐH; tạo ra giá trị gia
tăng cao cho sản phẩm và nâng cao được sức cạnh tranh của chúng trên thị
trường Hoa Kỳ. Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam cũng đã
khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ
từ các chương trình hợp tác, nguồn vốn ODA của Hoa Kỳ để nhập khẩu máy
móc, thiết bị từ Hoa Kỳ nhằm chuyên môn hoá sản xuất, nâng cao chất lượng,
sức cạnh tranh của sản phẩm hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Trong
thực tế thì các doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nguồn vốn trong
các chương trình này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp.
79
b. Tiếp tục mở rộng thị trường cho hàng hoá của Hoa Kỳ vào Việt
Nam. Giá trị nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt Nam đến năm 2010 dự kiến
khoảng 15 -20% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam với cơ cấu hàng
hoá theo mục đích chính là phát triển nền sản xuất công nông nghiệp của Việt
Nam. Công nghệ, thiết bị nhập khẩu từ Hoa Kỳ phải là những công nghệ có
mức độ tự động hoá cao, đảm bảo tiêu chuẩn môi trường. Trước mắt cần ưu
tiên nhập khẩu thiết bị, công nghệ cho ngành chế biến nông sản như chế biến
các loại hoa quả nhiệt đới, chế biến thuỷ sản, viễn thông, dệt may, sản xuất
giày dép, ngành cơ khí sản xuất ra thiết bị, công cụ cho các ngành sản xuất
hàng xuất khẩu khác... thông qua việc tăng cường nhập khẩu từ Hoa Kỳ, Việt
Nam sẽ có những ưu đãi của Hoa Kỳ về hàng nhập khẩu và giá trị xuất khẩu
của Việt Nam sang Hoa Kỳ cũng sẽ được tăng cường, tạo sự cân bằng trong
quan hệ buôn bán song phương.
c. Bàn thêm về cải cách thuế trong ngọai thương, trong giai đoạn tơí,
nhiệm vụ đầu tiên và cơ bản của chúng ta là hoàn thiện biểu thuế XNK dựa
trên danh mục hàng XNK của hội đồng hợp tác Hải quan Thế giới - HS. Hàng
trong danh mục này được phân loại theo từng phần, chương, nhóm, mặt hàng
theo nguyên tắc phân loại cụ thể đảm bảo một mặt hàng chỉ được phân loại
vào một mã số và có môt mức thuế duy nhất trong biểu thuế nhằm đơn giản
hệ thống thuế thống qua việc thu gọn các mức thuế trong từng sắc thuế, dồn
các mức thuế không chênh lẹch nhau lắm về một mức, làm tăng khoảng cách
giữa các mức thuế trong cùng một sắc thuế. Đồng thời với việc thực hiện
danh mục biểu thuế theo HS, mức thuế suất thuế XNK của các mặt hàng trong
biểu thuế hiện hành cũng cần được xây dựng theo hướng phù hợp với tình
hình sản xuất kinh doanh, lợi thế cạnh tranh của đất nước vừa đáp ứng yêu
cầu bảo hộ, phù hợp với thông lệ quốc tế, thuận tiện cho viẹc thực hiện chắc
80
chắn hiệu quả thu dược sẽ cao hơn, đồng thời còn có tác dụng khuyến
khích hay kiềm chế phát triển rõ rệt hơn.
Ở Việt Nam hiện nay, trong cơ cấu của biểu hiện thuế nhập khẩu, mức
thuế suất thấp (0-5%) chủ yếu áp dụng cho các mặt hàng là nguyên liệu đầu
vào phục vụ sản xuất xuất khẩu. Các thuế suất cao hơn phần lớn áp dụng đối
với các mặt hàng trong nước đã sản xuất nhằm được bảo hộ các nhà sản xuất,
hoặc các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu. Các mức thuế suất trên
60% chủ yếu được áp dụng đối với các mặt hàng xa xỉ phẩm, đồ dùng thiết
bị... với mục đích điều chỉnh tiêu dùng.
Như vậy, biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam con nhiều hạn chế đó
là mức thuế quá nhiều, với 12 mức thuế suất dàn trải từ 0% đến 100%, mức
thuế chênh lệch giữa các nhóm hàng hoá lại quá lớn gây ra nhiều trở ngạicho
doanh nghiệp. Ngoài ra, trong thực tế có nhiều loại hàng hoá mới xuất hiện
với những cấu tạo đặc điểm, tính chất phức tạp, đa dạng nên viẹc áp dụng
biểu thuế XNKvẫn còn hiện tượng sai mức sai mức thuế hoặc áp không
thôngs nhất đối với cùng một mặt hàng nhập khẩu, việc khấu trừ thuế trên các
tờ khai Hải Quan tiếp theo, thời gian duy trì thuế bảo hộ đối với một số mặt
hàng quá cao vàkéo dài. Đây thực sự là những khó khăn cho các doanh
nghiệp nhập khẩu của Việt Nam .
Về nguyên tắc để thoả mãn đồng thời hai mục tiêu tăng trưởng lâu bền
và bảo hộ thị trường nội địa, giải pháp thuế quan cần được áp dụng là mức độ
đánh thuế hàng nhập khẩu phải mang tính chọn lọc và phân biệt cao. Đối với
các sản phẩm đang được khuyến khích thay thế nhập khẩu, rõ ràng là mức
thuế nhập khẩu cần đủ cao để bảo vệ các nghành công nghiệp non trẻ chưa đủ
sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Cần phân biệt rõ mức bảo hộ đối với
hàng tiêu dùng và hàng tư liệu sản xuất, giữa loại sản xuất tận dụng các nguồn
lực sẵn có trong nước với loại cần nhiều vốn và kỹ thuật công nghệ cao.Đối
81
với mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu, chế độ thuế quan sẽ có tác dụng tích
cực nếu thuế đánh vào các hàng nhập khẩu (chủ yếu là máy móc thiết bị)
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG
PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MAỊ VIỆT NAM - HOA KỲ.
3.3.1. Những quan điểm cơ bản về phát triển quan hệ thƣơng mại Việt
Nam - Hoa Kỳ
Phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ trước hết phải phù hợp và
góp phần thực hiện tốt chính sách phát triển thương mại quốc tế chung của
Việt Nam, nhằm thực hiện các mục tiêu CNH- HĐH, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội của Nhà nước, góp phần thực hiện định hướng xã hội chủ
nghĩa, giữ vững độc lập tự chủ, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc dân tộc.
Như vậy, phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ cũng giống như
phát triển quan hệ thương mại với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, đều phải
xuất phát trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Việc đổi mới, hoàn thiện và
phát triển thương mại quốc tế nói riêng hay việc chủ động tham gia các cuộc
chơi toàn cầu nói chung, trước hết là phải phục vụ lợi ích của quốc gia, dân
tộc bao gồm cả lợi ích chính trị kinh tế.
Hiệu quả của việc phát triển quan hệ thương mại Việt Nam với Hoa Kỳ
phải được xét trên các tiêu chí cơ bản như sau:
- Mức độ phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với
nội dung và các giai đoạn cụ thể của quá trình CNH, HĐH
- Trước mắt, hiệu quả kinh tế là mục tiêu phải được ưu tiên hàng đầu
nhằm tạo ra các điều kiện kinh tế tốt hơn, thúc đẩy các mục tiêu xã hội.
- Đảm bảo các điều kiện tiền đề cho việc phát triển hợp lý giữa các
vùng, các ngành hàng.
82
- Đảm bảo khai thác và phát huy sức mạnh tổng hợp của các hình
thức sở hữu: Nhà nước, tư bản tư nhân và cá thể.
Hoa Kỳ đã được chúng ta xác định là một đối tác cần thiết và quan
trọng trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đẩy mạnh tiến trình hội nhập và
phát triển của Việt Nam. Thúc đẩy quan hệ thương mại với Hoa Kỳ là sự
đóng góp tích cực vào quá trình đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế
của Việt Nam,
Mặt khác, tự do hoá thương mại nói chung và tự do hoá thương mại đối
với Hoa Kỳ nói riêng là một xu thế khách quan phù hợp với xu thế thương
mại toàn cầu và khu vực, là nhân tố hàng đầu thúc đẩy hội nhập kinh tế thế
giới. Nhà nước thống nhất quản lý các hoạt động thương mại quốc tế, đồng
thời từng bước mở rộng khu vực tư nhân tham gia xuất nhập khẩu vào thị
trường Hoa Kỳ, từng bước gỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan theo
yêu cầu của các Hiệp định song phương. Thực hiện chủ trương đa dạng hoá
các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải thống nhất rằng bảo hộ mậu dịch
vẫn là cần thiết và phù hợp với lợi ích quốc gia của Việt Nam hiện nay, đồng
thời điều này cũng là phổ biến trong thông lệ quốc tế. Chính sách bảo hộ mậu
dịch phải giải quyết thoả đáng lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng,
hỗ trợ cho các ngành sản xuất trong nước phát triển; đồng thời thúc đẩy người
sản xuất nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm của mình trên thị trường Hoa
Kỳ. Vì vậy, không thể bảo hộ tràn lan, bảo hộ với bất kỳ giá nào mà phải có
chọn lọc, bảo hộ có thời hạn và giới hạn đối tượng, tập trung vào những sản
phẩm có hiệu quả và có triển vọng. Bảo hộ theo quan điểm như vậy được thực
hiện song song và gắn liền với quá trình tự do hoá.
3.3.2. Một số kiến nghị và giải pháp
3.3.2.1 Kiến nghị và giải pháp về cơ chế chính sách và quản lý vĩ mô
83
Thứ nhất, cần cải thiện cơ chế, chính sách, hoàn thiện môi trường
pháp lý nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý vĩ mô của Nhà nước trong
quan hệ thương mại với Hoa Kỳ. Một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ,
vận hành hữu hiệu là một trong những yếu tố quyết định tạo nên môi trường
kinh doanh toàn diện, định hướng và hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam
cũng như đối với các doanh nghiệp của Hoa Kỳ.
Trên thực tế, sau khi Hiệp định thương mại song phương ra đời, Chính
phủ Việt Nam đã có những cải cách đáng kể về chính sách và pháp luật.
Trong đó đáng chú ý là Quyết định số 35/2002/QĐ-TTg về Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ. Kèm theo đó là các kế hoạch cụ thể của nhiều Bộ, ngành nhằm đáp ứng
các yêu cầu của Hiệp định. Nhiều văn bản pháp luật được gấp rút ban hành,
sửa đổi, bổ sung. Có thể nói những hoạt động trên đã có những tác động tích
cực nhất định đối với việc định hướng và thúc đẩy quan hệ thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ. Tuy nhiên có thể do tính chất cấp bách của việc thực hiện
Hiệp định mà những điều chỉnh này mới chỉ dừng lại ở tính chất tác nghiệp
[36, tr.154,155].
Điều cần thiết với Việt Nam để có sự phát triển ổn định trong quan hệ
thương mại với Hoa Kỳ là phải hoạch định được một chiến lược lâu dài. Có
nghĩa là phải nắm bắt xu thế, triển vọng từ đó có những định hướng và đối
sách rõ ràng. Ngay ở một nước mà tự do thị trường phát triển vào loại bậc
nhất thế giới như Hoa Kỳ, Chính phủ cũng luôn đóng vai trò rất quan trọng
trong việc điều tiết, "cân bằng" thị trường. Sự can thiệp này từ lâu đã là một
phần không thể thiếu để tạo ra những lợi ích thương mại quốc tế của Hoa Kỳ.
Đáng chú ý là mọi chính sách, pháp luật có liên quan tới trực tiếp tới
các đối tác nước ngoài muốn thiết lập quan hệ, muốn làm ăn kinh doanh trên
lãnh thổ của nước bản địa. Do đó việc hoàn thiện hệ thống chính sách, luật
84
pháp phải tính toán đầy đủ đến cả lợi ích của phía nước ngoài, đến những
nguyên tắc của pháp luật quốc tế. Một mặt nó phải tạo ra cơ sở vững chắc
theo hướng tăng cường hợp tác và hội nhập, mặt khác phải thích hợp với điều
kiện của Việt Nam, tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng nhưng chặt chẽ,
đảm bảo an toàn trật tự cho hoạt động kinh tế đối ngoại.
Cụ thể là trong pháp luật thương mại, cần bổ sung thêm các quy định rõ
ràng hơn về quản lý nhập khẩu. Sử dụng hợp lý các công cụ phi thuế quan
như hàng rào kỹ thuật, hạn ngạch, thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế chống phá
giá....Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân
sách. Khắc phục triệt để những bất hợp lý còn tồn tại trong chính sách bảo hộ
mà xuất phát chủ yếu là từ yêu cầu bảo hộ của các Bộ chuyên ngành và các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, phải xem xét lại về đối
tượng được bảo hộ theo hướng chú trọng bảo hộ nông lâm nghiệp. Biểu thuế
cần sửa đổi và công tác thu thuế cũng cần cải cách nhằm xoá bỏ phương thức
tính thuế theo giá tối thiểu.
Về nhập khẩu, Nhà nước có thể định hướng nhập khẩu công nghệ nguồn
từ Hoa Kỳ thông qua phương thức quản lý nhập khẩu hợp lý. Trước mắt ưu
tiên công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến...nhằm tạo điều kiện cho
các sản phẩm của Hoa Kỳ được tiêu thụ trên thị trường Việt Nam. Trong một
nền kinh tế thị trường mở cửa, tất nhiên tiềm lực kinh tế sẽ quyết định ai là
người đảm nhận tốt nhất công việc nhập khẩu này. Song, hiện tại việc duy trì
một số đầu mối xuất nhập khẩu trong khi các công cụ quản lý vĩ mô chưa
chưa hoàn thiện tuy có thể gây ra những bất cập nhất định, nhưng vẫn không
tai hại bằng hình thức độc quyền và cơ chế "xin - cho". Sự cạnh tranh luôn
kích thích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải năng động trong việc khai
thác các nguồn hàng, tìm kiếm thị trường, từ đó nâng cao hiệu quả xuất nhập
khẩu, nâng cao tác dụng của xuất nhập khẩu đối với sản xuất trong nước.
85
Cạnh tranh cũng sẽ kích thích sự hình thành các hiệp hội xuất nhập khẩu
theo ngành hàng. Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh của các hoạt động
xuất nhập khẩu, nhất là trên thị trường khó tính và đa dạng như thị trường
Hoa Kỳ.
Như vậy, xuất phát từ nhu cầu tự thân cũng như trong quan hệ quốc tế,
từ điểm nhìn hiện tại cũng như từ góc độ triển vọng, việc đẩy mạnh công tác
đổi mới cơ chế, chính sách như một khâu đột phát nhằm đảo ngược các xu
hướng kinh tế đang xấu đi, cũng như dỡ bỏ những cản trở trong quá trình hội
nhập kinh tế, phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ.
Thứ hai, cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu luôn thể hiện trình độ phát
triển và hiệu quả thương mại quốc tế của một quốc gia. Vì vậy cần quan tâm
phát triển và chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu sang thị trường
Hoa Kỳ.
Việc sớm xác định những mặt hàng xuất khẩu chủ lực là một nội dung
quan trọng của chính sách đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ nói
riêng và sang thị trường thế giới nói chung của Việt Nam. Việt Nam hiện
đang ở giai đoạn đầu của quá trình tham gia thương mại quốc tế, đó là xuất
khẩu sản phẩm thô và nguyên liệu là chủ yếu. Với cơ cấu này không thể là cơ
sở chắc chắn cho sự tăng trưởng bền vững, vì hầu hết giá cả các sản phẩm thô
và nguyên liệu trên thị trường thế giới có xu hướng giảm hoặc không ổn định.
Tình hình đối với thị trường Hoa Kỳ cũng vậy, trong những năm qua
mặc dù kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ ngày càng tăng nhưng
Việt Nam vẫn thiếu mặt hàng chủ lực khả dĩ có một ảnh hưởng đáng kể trên
thị trường Hoa Kỳ. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào
các điều kiện bên ngoài.
86
Nếu Việt Nam chỉ dựa vào những mặt hàng xuất khẩu như hiện nay
sang thị trường Hoa Kỳ thì sự tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường này sẽ
khó duy trì và mức độ đóng góp vào nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu chung của
Việt Nam cũng kém hiệu quả, không hỗ trợ được việc phát triển kinh tế một
cách bền vững. Ở đây, có vấn đề nan giải là nếu không đẩy mạnh xuất khẩu
các mặt hàng này thì Việt Nam không thể cải thiện được cán cân thương mại
với Hoa Kỳ vì những mặt hàng này chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối trong
kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ hàng năm của Việt Nam. Mặt
hàng dệt may, giày dép, thủy sản chiếm tới hơn 75% kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang Hoa Kỳ. Do vậy, biến động của kim ngạch xuất khẩu chủ yếu
là do biến động về kim ngạch xuất khẩu của những mặt hàng này. Còn nếu
đẩy mạnh xuất khẩu theo hướng này đến mức tối đa thì cơ cấu nền kinh tế
Việt Nam về cơ bản không được cải thiện và sẽ chịu những bất lợi trong
tương lai. Hơn nữa, nếu coi đây là những mặt hàng chủ lực thì khả năng
chiếm lĩnh vị trí ổn định và có trọng lượng trên thị trường Hoa Kỳ của Việt
Nam là hết sức mong manh. Bên cạnh đó, nhu cầu của thị trường thế giới
cũng có hạn, giá cả lại không ổn định.
Tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến và chế tạo là một giải pháp để đẩy
mạnh xuất khẩu. Mục tiêu đặt ra là phải tăng dần tỷ trọng hàng xuất khẩu đã
qua chế biến của Việt Nam sang Hoa Kỳ từ tỷ lệ 65/35 hiện nay lên 80/20
trong khoảng thời gian 5 năm tới, bằng cách đầu tư chế biến và chế biến sâu
hàng nông - lâm- sản, tăng cường các mặt hàng công nghiệp kỹ thuật cao, các
mặt hàng tinh chế nhằm tạo ra cơ cấu hợp lý.
Về cơ cấu nhập khẩu, thực tế hiện nay, công nghệ chế biến hàng hoá của
Việt Nam rất thấp kém và lạc hậu cả về quy mô, trình độ công nghệ và năng
lực quản lý. Do vậy cần:
87
- Nhập khẩu công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, tính tự động hoá
cao có công nghệ nguồn cao từ các nước Hoa Kỳ. Hạn chế nhập khẩu công
nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm môi trường.
- Nhập khẩu theo yêu cầu hiện đại hoá đối với các ngành công nghiệp
then chốt đang tác động đến toàn bộ hoặc một bộ phận quan trọng của nền
kinh tế như tin học, viễn thông, điện tử, chế tạo máy...
- Tiếp tục hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặc biệt là
những mặt hàng mà nền sản xuất trong nước đã đáp ứng được cả về thị hiếu,
chất lượng và giá cả.
Chính sách về cơ cấu nhập khẩu phải là công cụ thực hiện bảo hộ hợp lý
sản xuất trong nước thúc đẩy sản xuất thay thế hàng nhập khẩu. Tuy nhiên,
cần tính tới yếu tố mở cửa thị trường theo các cam kết tại Hiệp định thương
mại Việt - Hoa Kỳ và đàm phán gia nhập WTO.
Thứ ba, thực hiện đa dạng hoá các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu vào thị
trường Hoa Kỳ. Các hoạt động này chủ yếu có thể là:
+ Thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu (Quỹ HTXK) vào Hoa Kỳ, Quỹ mang
tính đặc thù với thị trường Hoa Kỳ với nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ các mặt
hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trước hết là nhóm hàng nông sản, hải
sản. Mở rộng và phát triển chủng loại mặt hàng xuất khẩu sang thị trường
Hoa Kỳ. Tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hoa
Kỳ.
Thời gian gần đây, Chính phủ Việt Nam cũng đã có những quy định cụ
thể về việc hỗ trợ lãi suất cho vay đối với một số mặt hàng xuất khẩu có khó
khăn; thưởng khuyến khích, động viên xuất khẩu; lập, sử dụng và quản lý
Quỹ HTXK...Tuy nhiên trong thực tế, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu sang
Hoa Kỳ, nhất là các doanh nghiệp tư nhân, vẫn còn gặp nhiều khó khăn về tài
88
chính, chưa đủ điều kiện để tăng khối lượng kim ngạch xuất khẩu, giữ
vững và mở rộng thị phần trên thị trường này. Theo kết quả thống kê gần đây
nhất cho thấy, số doanh nghiệp tư nhân được hưởng các loại dịch vụ do ngân
hàng quốc doanh cung cấp chỉ chiếm xấp xỉ 25%. Đây cũng là tỷ lệ doanh
nghiệp tư nhân được hưởng tín dụng xuất khẩu và tín dụng ưu đãi, chỉ có 5%
được hỗ trợ lãi xuất từ các ngân hàng thương mại và bảo lãnh tín dụng.
Khoảng 60% doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn phiền hà trong việc mua
ngoại tệ. Do vậy, thành lập Quỹ HTXK vào Hoa Kỳ, triển khai hoạt động Quỹ
bảo hiểm xuất khẩu là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm hỗ trợ,
khuyến khích và thúc đẩy các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường đặc
biệt này.
Quỹ HTXK sang Hoa Kỳ có thể được sử dụng dưới nhiều hình thức
khác nhau: cho vay, bù lãi suất dự trữ hàng hoá để xuất khẩu, cấp bù lỗ xuất
khẩu khi cần thiết, thưởng xuất khẩu, thưởng tìm kiếm và mở rộng mặt hàng
xuất khẩu, thưởng cho doanh nghiệp khi có mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch
lớn, ổn định trên thị trường Hoa Kỳ...Theo tinh thần đó, Quỹ HTXK sang Hoa
Kỳ sẽ có những chức năng sau.
- Hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lãi suất vay vốn của các doanh nghiệp
kinh doanh hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, trước mắt chủ yếu là
nhóm hàng nông sản và thuỷ sản xuất khẩu .
- Hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá sang thị trường
Hoa Kỳ khi gặp khó khăn về tài chính trong các trường hợp như: hàng hoá lần
đầu tiên xuất khẩu sang Hoa Kỳ và chưa ổn định, doanh nghiệp phải bù lỗ khi
xuất khẩu do những nguyên nhân bất khả kháng. (Ví dụ do biến động về tỷ
giá, thiên tai, phí vận tải, bến bãi)...
- Hỗ trợ khác cho doanh nghiệp xuất khẩu sang Hoa Kỳ theo quyết định
của Thủ tướng Chính phủ. Trong thời điểm hiện nay. Quỹ HTXK ở nước ta
89
chủ yếu mới chỉ hỗ trợ cho khâu mua để xuất khẩu mà chưa có chủ
trương cho vay để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, trong khi đó muốn có hàng
hoá để xuất khẩu, điều quan trong là phải tổ chức sản xuất. Vì vậy, Quỹ
HTXK sang Hoa Kỳ còn nhằm thể thực hiện nhiệm vụ ưu đãi xuất khẩu, bảo
lãnh tín dụng xuất, nhập khẩu nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư mua
trang thiết bị, máy móc, công nghệ từ Hoa Kỳ, sản xuất hàng xuất khẩu thực
hiện kinh doanh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ và từ đó mở rộng sang các
thị trường khác.
Thứ tư, tăng cường xúc tiến thương mại của Việt Nam đối với Hoa Kỳ.
Đây là một giải pháp rất quan trọng nhằm phát triển quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ. Các hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh sẽ
giúp cho các doanh nghiệp của cả hai bên có những cơ hôị thuận lợi trao đổi
buôn bán và đặc biệt là sẽ tạo ra được chỗ đứng vững chắc cho hàng hoá Việt
Nam trên thị trường Hoa Kỳ.
Ở góc độ vĩ mô, Chính phủ cần quy hoạch và kiện toàn lại hệ thống cơ
quan làm công tác xúc tiến thương mại Hoa Kỳ. Hệ thống xúc tiến thương
mại bao gồm:
+ Các cơ quan Chính phủ, đó là các cơ quan quản lý và các cơ quan
thực hiện.
+ Các cơ quan phi Chính phủ, gồm các phòng thương mại, các hiệp hội
ngành và các đơn vị, tổ chức tư nhân.
+ Các cơ quan bán Chính phủ, gồm các liên minh, các tổ chức kinh tế....
Hiện nay, đáng lưu tâm là vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại
trong cơ cấu quản lý Nhà nước là sự thiếu rõ ràng. Sự không rõ ràng này gây
ra nhiều khó khăn cho tác nghiệp của các đơn vị liên quan và làm giảm khả
năng gây ảnh hưởng của tổ chức này đối với các cơ quan thuộc Chính phủ.
90
Kết quả là các kiến nghị mà các đơn vị này đưa ra hiếm khi được tiếp thu
và thực hiện nghiêm túc. Vì vậy công tác tổ chức hoạt động xúc tiến thương
mại chưa thực sự hiệu quả.
Thêm vào đó, một trong những khâu yếu kém, là trở lực lớn đối với các
họat động xúc tiến thương mại với Hoa Kỳ là đội ngũ cán bộ, chuyên gia về
thị trường Hoa Kỳ của chúng ta thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Thiếu
những người tinh thông nghiệp vụ và dày dạn kinh nghiệm kinh doanh xuất
khẩu ở một thị trường khó tính như Hoa Kỳ. Thiếu những cán bộ thương mại
thành thạo ngoại ngữ, thuần thục tác phong làm việc với các phương tiện kỹ
thuật hiện đại mà Hoa Kỳ đang áp dụng. Đặc biệt là thiếu nghiêm trọng
những người có khả năng hoạch định chính sách, có kinh nghiệm về pháp
luật, tập quán kinh doanh trên thị trường Hoa Kỳ.
Vì vậy, để các hoạt động thương mại với thị trường Hoa Kỳ đạt được
hiệu quả và phát triển, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch tổng thể về đào tạo
và đào tạo lại đội ngũ cán bộ xúc tiến thương mại để có những chuyên gia có
bản lĩnh chính trị, có kiến thức XNK trong cơ chế thị trường, thông hiểu các
mặt hàng kinh doanh trên thị trường Hoa Kỳ. Tăng sự hiểu biết và thích ứng
với phong cách, tập quán kinh doanh của các doanh nghiệp Hoa Kỳ nhằm tiếp
cận và mở rộng thị trường trong các nước Hoa Kỳ.
Thứ năm, khuyến khích phát triển các hình thức xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Chúng tôi coi đây là giải pháp có sự liên quan
mật thiết với chính sách khuyến khích đầu tư. Với môi trường đầu tư cởi mở
và thông thoáng sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư Hoa Kỳ, nhất là các tập đoàn, công
ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam để sản xuất hàng xuất
khẩu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) góp phần đáng kể cho xuất khẩu nên
cần hết sức chú trọng cải thiện môi trường đầu tư một cách đồng bộ để tăng
91
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ nhất là trong lĩnh vực sản
xuất để xuất khẩu. Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng ở trong nước để
các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Bằng
các chính sách thích hợp mềm dẻo, chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn
xuyên quốc gia và của các nhà sản xuất "chìa khoá trao tay" của Hoa Kỳ (đặc
biệt là trong lĩnh vực điện tử, công nghệ thông tin và những ngành thu hút
nhiều lao động, sản xuất hàng xuất khẩu, do đó cũng là những ngành có khả
năng đạt và giữ chỉ số ICOR thấp; đa số những ngành trong số này là các
ngành sản xuất hàng xuất khẩu như dệt, giày da, may mặc, chế biến nông sản,
chế tạo hàng tiêu dùng.v.v...) để vừa đảm bảo thị trường xuất khẩu thông qua
hệ thống phân phối toàn cầu của Hoa Kỳ, vừa góp phần chuẩn bị tiền đề cho
thời kỳ sau là thời kỳ đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng chất
xám và hàm lượng công nghệ cao.
Chính phủ cũng cần có những chính sách khuyến khích, ưu đãi cụ thể, có
thể là thuế, với điều kiện là sản phẩm của các doanh nghiệp Hoa Kỳ đầu tư
phải được xuất khẩu 80% sang thị trường Hoa Kỳ. Các công nghệ sản xuất
được đầu tư phải là sản phẩm công nghiệp tiên tiến của Hoa Kỳ hoặc của các
trung tâm công nghệ như Hoa Kỳ, Nhật bản.. Nguyên liệu và nhân công là
của Việt Nam, chỉ nhập khẩu những nguyên liệu thật cần thiết phục vụ sản
xuất mà phía Việt Nam chưa sản xuất được. Không thu thuế suất chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài trong từ 3 -5 năm đầu tiên kể từ khi sản phẩm được xuất
khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
Ngoài ra Chính phủ cần tăng cường đầu tư, cải tạo và nâng cấp hệ thống
cơ sở hạ tầng: đường xá, bến cảng, thông tin bưu điện. Đặc biệt quan tâm tăng
cường đầu tư phục vụ hoạt động xuất khẩu như các cảng, kho ngoại quan, các
trung tâm thương mại ở nước ngoài, các hoạt động xúc tiến thương mại.
92
Có thể nói, trong môi trường kinh tế hiện đại thì cơ sở hạ tầng vật
chất, kỹ thuật là điều kiện tiên quyết, bởi kỹ thuật cao chỉ phát huy được trên
một hạ tầng thích hợp. Hơn nữa, sự biến động của các thị trường tiền tệ, tài
chính, kỹ thuật... đang diễn ra hết sức nhanh chóng và tác động qua lại với
nhau rất chặt chẽ, buộc các chủ thể kinh doanh phải ứng phó kịp thời và
chuẩn xác. Điều đó đòi hỏi phải có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại.
Không một đối tác nước ngoài nào chịu gánh những thiệt hai và những chi phí
trực tiếp do hạ tầng vật chất kỹ thuật yếu kém gây ra. Do đó, cơ sở hạ tầng
hoàn chỉnh và hiện đại là một trong những yếu tố chính thu hút các đối tác
nước ngoài hợp tác kinh doanh. Hiện nay, cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn
yếu kém, chưa phù hợp với các yêu cầu kinh doanh, chuyển giao kỹ thuật và
công nghệ hiện đại. Vì vậy, cần có những giải pháp phù hợp, kiến tạo cho
được một cơ sở hạ tầng vật chất thích hợp.
Tóm lai, có thể nói giải pháp khuyến khích các nhà đầu tư Hoa Kỳ đầu
tư sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam là giải pháp tối ưu nhất để Việt Nam
có thể nhập khẩu được công nghệ nguồn từ Hoa Kỳ, khai thác được tối đa
những lợi thế so sánh của mình, nâng cao hiệu quả các hoạt động xuất nhập
khẩu, cải thiện được cơ cấu hàng xuất khẩu một cách thích hợp và sử dụng có
hiệu quả những công nghệ hiện đại này, nâng cao được trình độ quản lý và
sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam, hiện đại hoá công nghệ.
3.3.2.2 Kiến nghị và Giải pháp đối với một số ngành hàng
a. Hàng dệt may
Theo dự báo thì trong hơn một thập kỷ nữa, hạt nhân của nhóm hàng sản
phẩm chế biến và chế tạo xuất khẩu sang Hoa Kỳ vẫn là các mặt hàng dệt
may, giày dép. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường khả năng
xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này. Vấn đề cơ bản là làm thế nào để
hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn khi xuất
93
khẩu sang Hoa Kỳ, giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm đạt từ 30-
40%. Để đạt được mục tiêu này, việc nâng cao năng lực nội sinh của các
doanh nghiệp và sức mạnh của các sản phẩm dệt may là điêù quan trọng nhất,
quyết định tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bền vững hàng dệt may Việt Nam
trên thị trường Hoa Kỳ. Thực tế đã chỉ ra rằng, còn có sự khập khiễng giữa
sản xuất vải và các nguyên phụ liệu với khâu gia công thành phẩm. Đã có kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng, sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam
mới chỉ sử dụng khoảng 15 -20% nguyên phụ liệu trong nước, còn lại là nhập
ngoại nên giá thành sản phẩm của Việt Nam cũng cao hơn 15 - 20% so với
sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Inđônêxia, Do đó, cũng có nhiều ý kiến
cho rằng, với hiện trạng ngành dệt may Việt Nam hiện nay thì việc Hoa Kỳ
còn có duy trì chế độ hạn ngạch là có lợi cho Việt Nam hơn là có hại vì nếu tự
do hoá, bãi bỏ hoàn toàn hoàn toàn hạn ngạch cho hàng dệt may thì hàng dệt
may Việt Nam chưa chắc có đủ sức cạnh tranh để tìm được chỗ đứng trên thị
trường này. Vì vậy, từ ngay bây giờ các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải
có một chiến lược phát triển đồng bộ gồm:
+ Đầu tư chiều sâu, cụ thể là đổi mới công nghệ và thiết bị trong lĩnh vực
dệt, có chính sách đầu tư cho công nghệ dệt vải và hoàn tất để có thể chủ
động cung cấp vải và phụ kiện cho ngành may mặc. Đồng thời, cần quan tâm
và đầu tư thích đáng cho công nghệ những công đoạn tạo ra giá trị gia tăng
lớn như khâu hoàn tất. Một nghiên cứu gần đây cho thấy, công đoạn hoàn tất
là công đoạn tạo ra giá trị tăng lớn nhất cho sản phẩm trong toàn bộ dây
truyền công nghệ, khoảng 40%. Vì vậy, muốn tạ ra giá trị gia tăng lớn thì
việc đầu tư thiết bị và công nghệ cho công đoạn này là một yếu tố không thể
không tính đến trong chiến lược phát triển của các doanh nghiệp như đã nêu
trên.
94
+ Cần có chính sách để phát triển ngành công nghiệp thiết kế mẫu
thời trang nhằm nghiên cứu mẫu mã sản phẩm và thị hếu người tiêu dùng ở
thị trường Hoa Kỳ. Một trong những yếu tố mà những nhà nhập khẩu hàng
dệt may Việt Nam chỉ đặt hàng dưới hình thức gia công là do các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam không có uy tín trong lĩnh vực này và ngành công
nghiệp thời trang mới trong giai đoạn phôi thai.
+ Tăng sự đa dạng về mẫu mã, chủng loại mặt hàng và tính phù hợp với
thị hiếu tiêu dùng của thị trường Hoa Kỳ là những điểm cần được các doanh
nghiệp chú ý, coi trọng vì cũng theo dự báo, trong thế kỷ này, lượng sản phẩm
dệt may tiêu thụ ở các nước đang phát triển sẽ lớn hơn ở các nước phát triển
do cung vượt cầu. Do vậy, đây cũng chính là những cơ hội kinh doanh mới
cho doanh nghiệp các nước nói chung và cho doanh nghiệp Việt Nam nói
riêng khả năng thâm nhập vào thị trường các nước đang phát triển khác.
Nhưng khi đó, lợi thế cạnh tranh do giá nhân công rẻ sẽ không còn là ưu thế
quan trọng nhất mà phải là sự đa dạng hoá về mẫu mã, chủng loại và phù hợp
với thị hiếu tiêu dùng.
b. Hàng nông hải sản
Đối với hàng nông hải sản, trước hết để có thể nâng cao sức cạnh tranh,
tăng giá trị của hàng hoá nông sản xuất khẩu, các doanh nghiệp cần phải đầu
tư phát triển thâm canh, đánh bắt, nuôi trồng tăng năng suất và đặc biệt là đầu
tư vào khâu công nghiệp chế biến để tăng chất lượng sản phẩm tạo ra những
sản phẩm sạch đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Công nghiệp chế
biến hàng nông sản của Việt Nam hiện nay rất thấp về mọi mặt như quy mô,
năng lực điều hành quản lý và trình độ công nghệ. Hiện nay, ngành công
nghiệp chế biến này mới chỉ đáp ứng được 3% đối với thịt, 7% đối với quả,
5% đối với rau và 60% đối với chè. Trong khi đó, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm
nông phẩm của thị trường Hoa Kỳ lại rất lớn và tăng mạnh trong những năm
95
gần đây, đặc biệt là đối với sản phẩm sạch. Hiện nay, Hoa Kỳ là thị
trường tiêu thụ sản phẩm sạch lớn nhất thế giới. Do vậy, vấn đề then chốt cần
giải quyết đó là công nghệ, từ khâu nuôi trồng, thu hoạch đến chế biến tất cả
đều phải đảm bảo tuyệt đối về chất lượng theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ. Giá
của các sản phẩm sạch thường tăng 20% so với các sản phẩm thường, góp
phần giải quyết được vấn đề chính trong xuất khẩu nông hải sản cũng như
xuất khẩu hàng hoá nói chung là không phải xuất khẩu được theo khối lượng
sản phẩm mà là theo giá trị tiền thu được. Hiện nay, nhiều mặt hàng nông hải
sản xuất khẩu của Việt Nam đã khai thác tối đa về sản lượng như gạo, cà phê,
cao su... Một hạn chế trong xuất khẩu hàng nông hải sản hiện nay là bên cạnh
một số ít sản phẩm xuất khẩu với khối lượng lớn thì còn nhiều sản phẩm chưa
đủ tiêu chuẩn xuất khẩu với quy mô lớn như rau, quả, thịt các loại nhuyễn thể
hai mảnh như Ngêu, Sò huyết, Hào, Vẹm... Như vậy, để có thể tăng nhanh số
lượng cũng như chủng loại hàng nông hải sản xuất khẩu sang thị trường Hoa
Kỳ, đạt giá trị gia tăng cao, ổn định và nâng cao vị thế, sức cạnh tranh hàng
nông sản của Việt Nam trên thị trường khó tính này thì nhiệm vụ cần thiết là
phải đầu tư công nghệ mới hiện đại, xây dựng các vùng nguyên liệu cây
trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế vùng sinh thái. Khả năng cạnh tranh của
hàng nông hải sản Việt Nam phải được xây dựng, củng cố trước hết từ lợi thế
so sánh của các vùng sinh thái.
c. Hàng giầy dép, đồ da
Đối với hàng giầy dép, đồ da cần thực hiện tốt ngay từ đầy việc cấp
chứng thư xuất khẩu và quản lý tốt các chứng thư này để ngăn ngừa các chành
vi gian lận thương mại như đã xảy ra. Các doanh nghiệp, cùng với sự hỗ trợ
của Nhà nước, tăng cường công tác tìm kiếm thêm các nhà nhập khẩu của
Hoa Kỳ để có thêm bạn hàng, nhập khẩu trực tiếp. Trước mắt, cần nâng cao
hiệu quả gia công xuất khẩu sang Hoa Kỳ, từng bước tạo tiền đề chuyển sang
96
xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua trung gian,
cần có những thoả thuận trực tiếp từ doanh nghiệp để dành quyền tự cung cấp
nguyên liêu, quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm để
từng bước giúp thị trường Hoa Kỳ làm quen với sản phẩm của các doanh
nghiệp Việt Nam .
Duy trì và phát triển nguồn nhân công có tay nghề cao, thường xuyên có
những mẫu mã sản phẩm mới, có sự sáng tạo mang phong cách riêng, đảm
bảo chất lượng, đáp ứng được những yêu cầu kỹ thuật, chất lượng, thị hiếu
của thị trường Hoa Kỳ. Xoá bỏ được những rào cản về sản xuất nguyên phu
liệu cung cấp cho ngành công nghiệp giày dép. Hiện nay, sản xuất cung ứng
trong nước mới chỉ đạt 20%. Sự đầu tư phát triển không cân đối, việc đầu tư
xây dựng sản xuất giày dép phần lớn ở công đoạn gia công mà chưa chú trọng
vào sản xuất nguyên phụ liêu, khâu này chiếm tới 67% giá thành của sản
phẩm. Nguồn nguyên phụ liệu da chủ yếu cho các doanh nghiệp sản xuất đều
phải nhập khẩu từ nước ngoài, chiếm 60%, thông qua các hợp đồng gia công
hoặc dưới hình thức nhập nguyên phụ liệu sản xuất xuất khẩu. Do đó sẽ làm
chi phí sản xuất tăng, giá thành cao, khả năng cạnh tranh kém. Đây là một
trong những nguyên nhân chính cần khắc phục trong sản xuất công nghiệp
ngành thuộc da. Sản phẩm da giầy Việt Nam muốn xuất khẩu vào thị trường
Hoa Kỳ một cách hiệu quả, có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực thì
phải đáp ứng được chất lượng và có nguồn hàng ổn định.
d. Nhóm hàng thủ công, mỹ nghệ
Là một nhóm hàng tạo ra giá trị gia tăng lớn, bên cạnh việc tạo ra những
hiệu quả kinh tế - xã hội khác. Hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất chủ yếu
bằng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, nguyên phụ liêu nhập khẩu
thường không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 5% giá trị hàng hoá được sản xuất
ra. Vì vậy, khác với nhiều loại sản phẩm khác, trong xuất khẩu thủ công hàng
97
thủ công mỹ nghệ sang thị trường Hoa Kỳ, mức ngoại tệ thực thu rất cao
từ 95 - 97%. Trong khi đó xuất khẩu một số loại hàng hoá khác như may mặc,
giày dép.. tuy kim ngạch lớn hơn những ngoại tệ thực thu lại thấp, chỉ chiếm
khoảng 25% giá trị xuất khẩu, vì nguyên phu liệu phục vụ sản xuất chủ yếu là
nhập khẩu từ nước ngoài. Có thể nói, đây là nhóm mặt hàng có giá trị gia
tăng cao nhất, ước tính khoảng 70- 80% trong các nhóm hàng xuất khẩu của
Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Do vậy, việc khai thác, tận dụng tiềm năng
sẵn có ở trong nước để đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ sang Hoa Kỳ được coi là một lợi thế, một ưu việt cần có sự đầu tư quan
tâm trong những năm tới.
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Hoa Kỳ sẽ
tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động thủ công chuyên
nghiệp và nông nhàn, góp phần giải quyết một trong vấn đề lớn nhất hiện nay
trong xã hội nước ta là nạn thất nghiệp . Theo tính toán tổng kết, cứ xuất
khẩu được 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì tạo được việc làm và thu
nhập cho khoảng 3000 - 4000 lao động, chủ yếu là lao động tại các làng nghề
ở nông thôn, trong khi chế biến hạt điều thì 1 triệu USD kim ngạch xuất khẩu
chỉ thu hút được khoảng 400 lao động.
Có thể khẳng định việc đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này sang Hoa Kỳ
sẽ tạo ra những hiệu quả kinh tế - xã hội rất lớn. Mặt khác, đó chính là thế
mạnh của Việt Nam, vì đây thực sự là nhóm hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng
rất lớn.
e. Nhóm hàng điện tử và tin học
Nhóm hàng điện tử và tin học hiện vẫn đang đạt giá trị gia tăng thấp mặc
dù có kim ngạch xuất khẩu khá lớn. Nguyên nhân chính là do hạ tâng cơ sở
vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp còn yếu kém, thiếu vốn đầu tư nên
hiện nay chỉ là ngành công nghiệp lắp ráp, tỷ lệ nội địa hoá còn thấp, các
98
doanh nghiệp cần có chính sách cụ thể để tập trung đầu tư cho những sản
phảm trong lĩnh vực này mà thực sự chứa đựng hàm lượng công nghệ và chất
xám cao như phần mềm tin học gồm cả phẩn mềm hệ thống và phầm mềm
ứng dụng, linh kiện điện tử, phụ tùng thay thế.... Đây là một nhóm hàng đang
có nhiều tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, nhất là trong bối cảnh
thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức,
Yêu cầu cấp bách đối với các doanh nghiệp hiện nay là đầu tư đào tạo,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là các kỹ thuật viên và công nhân làm
phần mềm; nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, tiếp nhận chuyển giao công nghệ trong
lĩnh vực sản xuất linh kiện vì hiện nay thị trường cung cấp linh kiện trên thế
giới rất phong phú. Tuy nhiên nếu các doanh nghiệp quá phụ thuộc vào việc
nhập linh kiện thì cũng có các khó khăn như: giá các linh kiện bị ảnh hưởng
rất lớn của những điều kiện tài chính toàn cầu nên giá thành của sản phẩm sẽ
cao, nguồn hàng không ổn định gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi bán
sản phẩm sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện giao thông, địa lý khó khăn,
vấn đề các công ty liên doanh độc quyền nội bộ về linh kiện nên các doanh
nghiệp lắp ráp đồ điện tử tin học khác bị thu hẹp dần sự tự do lựa chọn mặt
hàng hoặc bị ép giá.. Từ đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có biện pháp tăng
cường phương thức liên doanh và triển khai dần chế tạo các linh kiện, phụ
kiện và sản xuất với giá trị gia tăng từ 40% trở lên. Chính phủ cũng có thể tạo
thêm cơ hội xuất khẩu cho hàng điện tử tin học của các doanh nghiệp xuáat
khẩu sang Hoa Kỳ thông qua việc tham gia chương trình trả nợ của Việt Nam
3.3.2.3. Kiến nghị và giải pháp đối với các doanh nghiệp
a. Thứ nhất, tạo hiệu quả xuất khẩu, tăng giá trị gia tăng đối với các
mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá
sang thị trường Hoa Kỳ trong những năm qua cho thấy, nếu chỉ dựa trên lợi
thế cạnh tranh "tĩnh" như hiện nay thì vấn đề thúc đẩy xuất khẩu sang thị
99
trường Hoa Kỳ một cách có hiệu quả là không đơn giản. Vì một trong
những yếu tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng bền vững của hoạt động
xuất khẩu sang Hoa Kỳ là phải tạo ra lợi thế cạnh tranh "động" cho những mặt
hàng xuất khẩu sang thị trường này. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp
Việt Nam phải chủ động tạo ra lợi thế cho chính những mặt hàng đó. Có
nhiều quan điểm cho rằng, lợi thế về nguồn lao động dồi dào sẽ dần mất đi
khi xu hướng của thế giới chuyển dịch sang những ngành sản xuất có hàm
lượng công nghệ và chất xám cao. Vậy thì những mặt hàng đang có thế mạnh
về hàm lượng lao động cao hiện nay sẽ không còn tính cạnh tranh trong
tương lai. Vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là phải
làm gì để có thể biến đổi được các yếu tố nội tại theo hướng phù hợp với xu
thế phát triển của thế giới mà vẫn không mất đi cơ sở nền tảng của Việt Nam
vốn đang được coi là có nhiều lợi thế.
b. Thứ hai, các doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu và nắm bắt tốt các
thông tin về thị trường Hoa Kỳ qua nhiều nguồn khác nhau, tiếp cận với các
phương thức kinh doanh hiện đại. Từ đó, các doanh nghiệp sẽ có những
phương án kinh doanh phù hợp, giảm thiểu được rủi ro, phát huy lợi thế cạnh
tranh trong kinh doanh. Chỉ qua việc tìm hiểu và nắm vững thông tin, các
doanh nhân Việt Nam mới có điều kiện tốt để thiết lập những mối quan hệ
trực tiếp với mạng lưới phân phối mà đặc biệt là những kênh phân phối chủ
đạo của Hoa Kỳ, từng bước loại bỏ các khâu trung gian đang còn rất phổ biến
hiện nay, thực hiện xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ một cách trực tiếp.
Mặt khác, thị trường Hoa Kỳ là một thị trường có đặc tính cạnh tranh
mạnh mẽ, bắt buộc các doanh nghiệp muốn tham gia phải tự mình tạo ra lợi
thế cạnh tranh hơn các đối thủ khác. Điều đó đồng nghĩa với việc doanh
nghiệp phải chấp nhận vòng đời của một sản phẩm sẽ ngắn hơn, giá thành rẻ
và phương thức dịch vụ tốt hơn. Những kết quả này chỉ có được bằng biện
100
pháp liên tục cải thiện chất lượng sản phẩm, chú trọng việc tìm kiếm các
thông tin thay đổi về thị hiếu tiêu dùng, mẫu mã sản phẩm, kiểu dáng, thông
tin về đối thủ cạnh tranh....
Thực hiện tốt các điều khoản của hợp đồng đã cam kết. Phải quan tâm và
chú ý đến từng chi tiết khi ký kết hợp đồng để tránh xảy ra những tranh chấp,
tổn hại không đáng có. Thị trường Hoa Kỳ vốn là thị trường khó tính, Thực
hiện hợp đồng đã ký kết nếu để vi phạm hợp đồng, bị phạt sẽ có nguy cơ mất
khách. Sự quan tâm, tìm hiểu rõ những tập quán kinh doanh theo tính đặc thù
của từng thị trường các nước thành viên trong Hoa Kỳ là hết sức cần thiết.
Hoa Kỳ tuy là một thị trường thống nhất về mặt kỹ thuật, song thị trường này
trên thực tế là nhóm các thị trường quốc gia và khu vực, mỗi nước có một bản
sắc và đặc điểm riêng mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thường
không hay để ý tới. Mỗi nước trong Hoa Kỳ sẽ tạo ra các cơ hội khác nhau và
yêu cầu của họ cũng khác nhau. Hoa Kỳ đang áp dụng ưu đãi thuế quan với
hàng nhập khẩu từ Việt Nam với các mức từ 15% đến 25%. Hoa Kỳ có các
biểu thuế nhập khẩu chung áp dụng cho tất cả các hàng hoá nhập khẩu vào
thị trường các nước thành viên Hoa Kỳ. Thuế áp dụng theo từng tên gọi mặt
hàng. Cho nên, các doanh nghiệp cần chú ý để cùng một chủng loai mặt hàng
không bị đóng nhiều thuế khác nhau.
Thương mại điện tử đang trở thành một phương thức kinh doanh hiệu
quả và tiếp kiệm được các chi phí giao dịch. Hệ thống phân phối cũng thay
đổi cục diện khi thương mại điện tử, Internet ra đời và phát triển. Nhờ có hệ
thống mạng lưới này mà người mua và người bán dễ dàng tìm thấy nhau,
thông tin liên lạc nhanh chóng và tiện lợi. Do đó, các doang nghiệp cần nhanh
chóng khai thác cơ hội này để tìm kiếm bạn hàng trên thị trương Hoa Kỳ, thực
hiện công tác xúc tiến thương mại, khuyếch trương, quảng bá sản phẩm của
mình theo phương thức thương mại điện tử.
101
c. Thứ ba, thực hiện đầu tư hiệu quả vào công nghệ nhằm ổn định
và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh của
hàng Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Thị trường Hoa Kỳ là thị trường đòi
hỏi tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh y tế cũng như môi trường khắt
khe, giá cả cạnh tranh và phương thức kinh doanh rất linh hoạt. Do đó, các
doanh nghiệp Việt Nam muốn kinh doanh ở thị trường Hoa Kỳ cần phải
nhanh chóng nâng cấp hoặc trang bị công nghệ mới, sử dụng phương thức
"kiểm soát chất lượng hệ thống". Tranh thủ tận dụng tối đa nguồn vốn hỗ trợ
của Hoa Kỳ cũng như thu hút các nguồn vốn khác để đầu tư áp dụng công
nghệ mới, đặc biệt là các công nghệ của Hoa Kỳ. Thu hút nguồn vốn và công
nghệ của Hoa Kỳ chủ yếu thực hiện qua FDI để sản xuất và xuất khẩu sản
phẩm sang Hoa Kỳ. Cần nỗ lực đạt tới công nghệ cao và sản xuất các sản
phẩm có chất lượng cao nhất là hải sản, thực phẩm chế biến, giàu dép, sản
phẩm gỗ, sản phẩm nhựa... vì khu vực này đang có xu hướng tăng cường nhập
khẩu các loại sản phẩm này.
Mặt khác, các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất hàng xuất khẩu Việt
Nam cần tăng cường hơn nữa nhận thức và hiểu biết để áp dụng các tiêu
chuẩn về chất lưoựng sản phẩm hàng hoá như: HACCP (Hazard Analysis
Critical Control Point) - Phân tích và xác định các điểm nguy hại trọng điểm.
Đây là hệ thống kiểm tra chất lượng thực phẩm được rất nhiều nước và các tổ
chức trên thế giới công nhận và áp dụng. Ngoài ra còn hệ thống quản lý chất
lượng ISO 9000, hệ thông quản lý về môi trường ISO 14000 và các phương
pháp hiện đại như GMP (quy phạm sản xuất), SSOP/GHP (quy phạm vệ
sinh)... việc áp dụng các tiêu chuẩn HACCP, ISO 9000 và ISO 14000 trong
sản xuất hàng hoá, đối với các doanh nghiệp thì có thể đây chính là giấy thông
hành để các doanh nghiệp đưa hàng của mình vào thị trường Hoa Kỳ với
nguồn hàng ổn đình và đạt tiêu chuẩn thích hợp. Tạo thế chủ động trong sản
102
xuất và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo về thời gian hàng theo đúng hợp
đồng, tạo uy tín và lòng tin cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ, Đây là những yếu
điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam hay vấp phải trong kinh doanh với thị
trường Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc và đúng quy
trình của hệ thống kiểm tra chất lượng từ khâu sản xuất đến thu hoạch, chế
biến, bảo quản cho từng mặt hàng nông hải sản xuất khẩu, đặc biệt chú trọng
khâu bảo quản chế biến. Có những hướng dẫn cụ thể cho ngày từ những
người sản xuất, đánh bắt và nuôi trồng về những quy định mẫu mã, chất lượng
sản phẩm xuất khẩu. Từ đó sẽ dẫn đến việc hàng nông hải sản xuất khẩu đạt
chất lượng cao, tăng sức cạnh tranh và không bị ép giá bán.
Tổng kết lại, có thể khẳng định phát triển quan hệ thương mại Việt Nam
- Hoa Kỳ một mặt cần phát triển theo chiều rộng, mặt khác phải chú ý phát
triển theo chiều sâu nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả của hợp tác. Thiết
thực nhất là phải chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng cường xuất
khẩu các mặt hàng chế biến, mặt hàng thu hút nhiều lao động và có giá trị gia
tăng lớn. Khai thác các nguồn vốn đầu tư của Hoa Kỳ để tăng cường khả năng
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, đồng thời đẩy
mạnh xúc tiến thương mại cả tầm vĩ mô và vi mô.
Điều kiện để phát triển có hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam -Hoa
Kỳ là ổn định chính trị, kiên trì đường lối đổi mới, thực hiện cải cách bộ máy
nhà nước, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hoàn thiện hệ thống pháp luật
nhằm tăng sự hấp dẫn của môi trường thương mại, đầu tư.
Đường lối chính sách và các giải pháp phát triển quan hệ thương mại
Việt Nam -Hoa Kỳ suy cho đến cùng cũng là do con người thực hiện; bởi vậy
khâu then chốt quan trọng nhất là đầu tư đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
cán bộ ngang tầm với những yêu cầu cần thiết.
103
KẾT LUẬN
Trong luận văn, chúng tôi đã trình bày những nội dung cơ bản sau đây:
+ Phân tích làm rõ tầm quan trọng đối với Việt Nam trong phát triển
quan hệ thương mại với Hoa Kỳ đặc biệt là trong xu thế phát triển của thế giới
và trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Đồng thời nghiên cứu tìm hiểu kinh
nghiệm của một số nước trong khu vực đã mở rộng, phát triển quan hệ
thương mại với Hoa Kỳ và khả năng vận dụng vào Việt Nam .
+ Thực trạng quan hệ thương mại giữa hai bên từ khi Hoa Kỳ bỏ cấm
vận đến năm 2001 đã có chuyển biến nhưng diễn ra chậm chạp. Đặc biệt từ
khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết, cán cân thương
mại hai chiều đã có sự phát triển khởi sắc, tốc độ tăng cao song chưa ổn định.
Việt Nam đã xuất siêu, nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ.
+ Quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tác động nhiều mặt đến sự
phát triển kinh tế, thương mại của Việt Nam. Bên cạnh những triển vọng phát
triển quan hệ kinh tế của hai bên, cho đến nay vẫn còn nhiều thách thức to lớn
đòi hỏi Việt Nam phải xử lý linh hoạt, khéo léo và phù hợp với tiến trình hội
nhập nền kinh tế Việt Nam vào khu vực và trên thế giới.
+ Thông qua những phân tích thực trạng quan hệ thương mại với Hoa
Kỳ, luận văn khẳng định vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc hoạch
định chiến lược phát triển kinh tế- xã hội dài hạn nói chung và phát triển
thương mại nói riêng, đồng thời đổi mới chính sách, biết tận dụng những nhân
tố thúc đẩy và thời cơ để phát triển.
+ Trong điều kiện xuất phát điểm thấp của nền kinh tế Việt Nam, để
nâng cao hiệu quả trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, đòi hỏi phải nhanh
chóng tích cực chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu mặt hàng xuất
104
khẩu, mở rộng chủng loại mặt hàng và tăng giá trị gia tăng. Không ngừng
mở rộng quan hệ buôn bán theo chiều rộng đi đôi với phát triển quan hệ theo
chiều sâu, thực hiện phương châm đa dạng hoá các hình thức quan hệ thương
mại với Hoa Kỳ.
+ Những thành công của Việt Nam trong thời gian qua và kinh nghiệm
phát triển của các nước cho thấy chỉ có thực hiện chính sách mở cửa, tự do
hoá thương mại trên cơ sở vận dụng các công cụ của chính sách thương mại
quốc tế như thuế, tỷ giá hối đoái, tài chính tín dụng,.. đồng thời vận dụng
khôn khéo quy luật "lợi thế so sánh", phát huy nội lực để thúc đẩy thương mại
Việt Nam phát triển và nhanh chóng hội nhập với các nền thương mại trong
khu vực và thế giới.
+ Quá trình phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ chỉ ra rằng những
thành công đạt được chủ yếu nhờ sự nỗ lực chủ quan, tốc độ phát triển quan
hệ thương mại phụ thuộc vào tốc độ và khả năng trình độ, hoàn chỉnh của môi
trường pháp lý, đầu tư, tăng cường quản lý nhà nước về thương mại, cải cách
nền hành chính quốc gia về thương mại quốc tế trong quan hệ với Hoa Kỳ.
105
PHỤ LỤC 1
TIẾN TRÌNH QUAN HỆ VIỆT NAM - HOA KỲ TỪ 1994 ĐẾN NAY
3.2.1994 Tổng thống Hoa Kỳ gỡ bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam
28.1.1995 Hoa Kỳ và Việt Nam ký cam kết thiết lập quyền sở hữu và mở
văn phòng liên lạc tại thủ đô hai nước
15.5.1995 Việt Nam trao cho phái đoàn chính phủ Hoa Kỳ bộ tài liệu về
những người lính Hoa Kỳ bị mất tích
6.1995 Các cựu binh chiến tranh nước ngoài của Hoa Kỳ tuyên bố sẽ trợ giúp tiến trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam
11.7.1995 Tổng thống B.Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ với
Việt Nam
12.7.1995 Thủ tướng Việt Nam Vừ Văn Kiệt tuyên bố thiết lập quan hệ
ngoại giao với Hoa Kỳ.
6.8.1995 Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Warren Christopher thăm Hà nội và chính thức mở Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam. Việt Nam mở Đại sứ quán tại Hoa Kỳ
20.9.1995 Thượng nghị viện Hoa Kỳ không thông qua được Điều khoản S.AMDT.2723 với tỷ lệ phiếu 39-58 về: cấm hỗ trợ về tài chính cho Việt Nam trừ khi các điều kiện liên quan tới những binh lính Hoa Kỳ bị mất tích trong chiến tranh Việt Nam được giải quyết
5.1996 Hoa Kỳ đưa ra kế hoạch chi tiết cho Hiệp định thương mại 25.7.1996 Thượng nghị viện Hoa Kỳ không thông qua được Điều khoản S.AMDT.5027 với tỷ lệ phiếu 43-56 về: xoá bỏ quỹ dành cho Việt Nam nhằm trợ giúp kỹ thuật
7.4.1997 Bộ trưởng tài chính Hoa Kỳ và Bộ trưởng tài chính Việt Nam ký Hiệp ước tại Hà Nội về hoàn trả khoản nợ 145 triệu USD của Chính quyền miền Nam Việt Nam
10.4.1997 Thượng nghị viện Hoa Kỳ bổ nhiệm ông D.Peterson - cựu binh, cựu tù chiến tranh Việt Nam làm đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam
16.4.1997 Hoa Kỳ và Việt Nam ký cam kết bảo hộ về mặt luật pháp cho
các bản quyền tác giả
12.5.1997 Việt Nam và Hoa Kỳ trao đổi Đại sứ đầu tiên.
106
8.1997 Chính phủ Hoa Kỳ thông qua Đại diện Hoa Kỳ về phát triển quốc tế (USAID) bắt đầu chương trình luật thương mại
11.3.1998 Tổng thống Clinton miễn trừ Điều khoản Jackson - Vanik cho Việt Nam, mở đường cho OPIC, Ex-Im Bank, USDA, MARAD
26.3.1998 Bộ trưởng Trần Xuân Giá và Đại sứ P.Peterson ký Hiệp định
song phương OPIC cho Việt Nam
23.7.1998 Thượng viện Hoa Kỳ bỏ phiếu tỷ lệ 66-34 về việc tiếp tục chi ngân sách cho đại sứ quán tại Việt Nam để hợp tác giải quyết các vấn đề POW/MIA
30.7.1998 Các nghị sỹ quốc hội Hoa Kỳ thảo luận lại việc miễn trừ
30.9- 2.10.1998 Jackson-vanik cho Việt Nam với tỷ lệ phiếu bầu 260-163 Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm lần đầu tiên thăm chính thức Hoa Kỳ
10.1998 Hoa Kỳ và Việt Nam đồng ý đàm phán Hiệp định khoa học và
kỹ thuật
30.6.1999 Tổng thống Clinton gia hạn miễn trừ Điều khoản Jackson -
Vanik cho Việt Nam
25.7.1999 Tại Hà Nội, Việt Nam, Đại diện thương mại Hoa Kỳ Richard Fisher và Bộ trưởng thương mại Việt Nam Trương Đình Tuyển đồng ý thoả thuận một Hiệp định thương mại song phương có nguyên tắc
3.8.1999 Nhà trắng thông qua việc miễn trừ Jackson-vanik cho Việt
12- 13.9.1999
Nam với tỷ lệ phiếu 297-130 Thủ tướng Phan Văn Khải và Tổng thống Clinton đó cú cỏc cuộc tiếp xỳc riờng trao đổi một số vấn đề trong quan hệ song phương nhân nhân dịp tham dự Hội nghị Cấp cao APEC tại Auckland, Niu Dilân
9.12.1999 Ex-Im Bank và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thành Hiệp định khung cho phép Ex-Im Bank bắt đầu hoạt động tại Việt Nam
13.3.2000 Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ William Cohen trở thành Bộ trưởng quốc phòng đầu tiên của Hoa Kỳ tới thăm Việt Nam từ khi chiến tranh kết thúc
3.5.2000 Hoa Kỳ thông qua Nghị quyết 295 đề nghị Hà Nội gỡ bỏ tất cả
107
những luật pháp ngăn cản sự tự do ngôn luận. Điều này được đưa ra bởi Uỷ ban nghị viện Hoa Kỳ về ngoại giao 13.7.2000 Tại Uỷ ban thương mại Hoa Kỳ, Bộ trưởng thương mại Vũ Khoan và Đại diện thương mại Barshfsky ký một thoả thuận về quan hệ thương mại. Tổng thống B.Clinton công bố kết luận về Hiệp định thương mại song phương trong buổi lễ Kỷ niệm tại Vườn hồng - Nhà trắng
16 - 20.11.2000
26.7.2000 Các nghị sỹ quốc hội Hoa Kỳ thảo luận lại việc miễn trừ Jackson-vanik cho Việt Nam với tỷ lệ phiếu 332- 91 6.9.2000 Nhân dịp tham dự Hội nghị Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc tại New York, Chủ tịch nước Trần Đức Lương có cuộc gặp với Tổng thống Bill Clinton, chính thức mời Tổng thống thăm Việt Nam. Tổng thống B.Clinton thăm chính thức Việt Nam. Trong dịp này, hai nước ký Hiệp định về hợp tác khoa học-công nghệ và Bản ghi nhớ về hợp tác lao động và chứng kiến lễ ký 12 thư thoả thuận về đầu tư, buôn bán.
17.11.2000 Bộ Lao động Hoa Kỳ và Bộ Lao động Thương binh Xã hội
Việt Nam ký bản ghi nhớ về hợp tác lao động
1.6.2001 Tổng thống Bush gia hạn miễn trừ Điều khoản Jackson -
Vanik cho Việt Nam
22.6- 2.7.2001
8.6.2001 Tổng thống Bush đưa ra yêu cầu đối xử tối huệ quốc với Việt Nam và thực thi Hiệp định Thương mại trước Quốc hội Hoa Kỳ Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm thăm làm việc tại Hoa Kỳ nhằm trao đổi về hợp tác khoa học, công nghệ và giáo dục giữa hai nước nhân dịp tham dự Khóa họp về HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc tại New York.
17.7.2001 Uỷ ban tài chính Thượng nghị viện Hoa Kỳ cân nhắc và tổ chức thêm 1 buổi họp. BTA được đề nghị bỏ phiếu bằng miệng
26.7.2001 Các nghị sỹ Nhà trắng thông qua việc miễn trừ Jackson-vanik
cho Việt Nam với tỷ lệ phiếu 324-91
6.9.2001 BTA được các nghị sỹ Quốc hội Hoa Kỳ thông qua bằng hình
thức bầu miệng
108
3.10.2001 BTA được Thượng nghị viện Hoa Kỳ thông qua không có bổ
sung với tỷ lệ phiếu 88-12
16.10.2001 Tổng thống Bush ký Hiệp định thương mại song phương theo
Công Luật Hoa Kỳ số 107-52
28.11.2001 BTA được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn, tỷ lệ 278 - 85
7.12.2001 BTA được Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định công bố
9- 14.12.2001
theo luật của Việt Nam Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu phái đoàn cấp cao tới Washington,DC, New York, San Francisco, chứng kiến lễ phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ.
10.12.2001 BTA được công bố chính thức có hiệu lực trong một buổi lễ
kỷ niệm tại Blair House
3-6.3.2002 Hội thảo khoa học đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về chất
độc màu da cam tổ chức tại Hà Nội
8.4.2002 Bộ Tư pháp Việt Nam thông báo kết quả điều tra ban đầu về hệ thống văn bản pháp luật của các Bộ và các cơ quan Trung Ương: khoảng 150 văn bản mâu thuẫn với các điều khoản trong BTA
6-7.5.2002 Phó đại diện thương mại Hoa Kỳ tới Hà nội để mở văn phòng
Uỷ ban kết nối BTA
10.5. 2002 Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình thăm Hoa Kỳ 13.5. 2002 Tổng thống Hoa Kỳ ký công hàm yêu cầu Việt Nam đổi tên
các sản phẩm cá da trơn của mình
18.5. 2002 Thứ trưởng Bộ thương mại Lương Văn Tự dẫn đầu phái đoàn
thương mại tới Hoa Kỳ
1-8.6.2002 Thứ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc thăm Hoa Kỳ về việc
thực thi Hiệp định Thương mại song phương
3.6. 2002 Tổng thống Bush gia hạn miễn trừ Điều khoản Jackson -
Vanik Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm thăm Texas, Newyork, Massachusetts, Washington D.C
12- 22.6.2002 28.6. 2002 Nông dân nuôi cá da trơn Hoa Kỳ làm đơn thỉnh cầu chống
bán phá giá các sản phẩm cá từ Việt Nam
23.7. 2002 Nhà trắng thông qua việc miễn trừ Jackson-vanik cho Việt
109
Nam với tỷ lệ phiếu 338-91
8.8. 2002 Uỷ ban quốc tế Hoa Kỳ xem xét thấy có dấu hiệu ngành công nghiệp Hoa Kỳ đe doạ bị tổn hại do nhập khẩu cá philê đông lạnh từ Việt Nam
8.11. 2002 Bộ thương mại Hoa Kỳ xác định: Việt Nam là một nền kinh tế phi thị trường, nhằm mục đích chống bán phá giá và phải chịu trách nhiệm trước vụ kiện
3.4.2003 Nghị sỹ Chris Smith giới thiệu lại Đạo luật nhân quyền Việt Nam (H.R.1587) với Các nghị sỹ Quốc hội Hoa Kỳ 17.6.2003 Bộ thương mại Hoa Kỳ công bố xác định cuối cùng của mình sau khi điều tra vụ cá da trơn là người Việt Nam đã bán cá philê đông lạnh với giá thấp hơn giá hợp lý khoảng 36,84 - 63,88%
15.7.2003 Đạo luật nhân quyền Việt Nam được bổ sung vào Đạo luật Cấp phép quan hệ ngoại giao. Giấy phép được Nhà trắng thông qua vào ngày 15.7 và được chuyển tới Thượng nghị viện 17.7. 2003 Hiệp định Dệt may Việt Nam - Hoa Kỳ được Bộ trưởng Bộ thương mại Trương Đình Tuyển và Đại diện thương mại R.Burghardt ký chính thức tại Hà Nội, (ký tắt tại Oasinhtơn ngày 25.4.2003)
23.7. 2003 Uỷ ban thương mại Hoa Kỳ công bố xác định của mình là cá da trơn nhập khẩu từ Việt Nam đã làm tổn hại đến ngành công nghiệp cá da trơn của Hoa Kỳ, đề nghị Bộ thương mại Hoa Kỳ đánh thuế chống phá giá từ 36,84 - 63,88% 16.9. 2003 Bộ trưởng thương mại Trương Đình Tuyển thăm Hoa Kỳ 5.10. 2003 Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc thăm Hoa
Kỳ nhằm thúc đẩy đầu tư song phương
10.11.2003 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm VănTrà thăm Hoa Kỳ để thảo luận việc hợp tác thúc đẩy anh ninh khu vực 4.12. 2003 Phó thủ tướng Vũ Khoan thăm Washington, Việt Nam - Hoa Kỳ, chứng kiến lễ ký 5 văn bản, trong đó có Hiệp định Hàng khụng, Thoả thuận hợp tỏc phũng chống ma tuý. 12.12.2003 Phái đoàn đàm phán WTO của Việt Nam có những thảo luận
song phương với Hoa Kỳ trong một buổi làm việc tại Geneva
31.12.2003 Liên minh tôm miền Nam của Hoa Kỳ đệ đơn chống phá giá
110
kiện các nhà sản xuất Thái Lan, Trung Quốc Brazil, India, Ecuado và Việt Nam
4.3. 2004 Nghị sỹ Brownback công bố Nghị quyết 311 yêu cầu thả tự do Cha Nguyễn Văn Lý ngay lập tức, không điều kiện. Nghị quyết cho rằng việc giam cầm Cha Lý là vi phạm sự tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do di cư, liên kết, và thiếu công bằng ở Việt Nam, đề nghị Chính phủ Việt Nam xem xét sự việc lại trong điều kiện muốn hội nhập và thực hiện Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ
22- 30.4.2004
17- 21.5.2004
2.4. 2004 Quốc hội Hoa Kỳ thông báo bổ nhiệm người lãnh đạo và trợ giúp bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ là 2 đồng nhiệm Rob Simons và Lane Evans Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phúc Thanh thăm Hoa Kỳ, tham dự Lễ ra mắt của "Nhóm nghị sỹ Mỹ vỡ quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam". Hội nghị Uỷ ban hợp tác BTA lần 3 được tổ chức tại Washington. Thứ trưởng Lương Văn Tự dẫn đầu phái đoàn Việt Nam
3.6. 2004 Tổng thống Bush và gửi tới Thượng nghị viện bản gia hạn
7- 12.6.2004
hàng năm điều khoản Jackson-Vanik Bộ trưởng Trương Đình Tuyển gặp gỡ các nhà chính trị chủ chốt Hoa Kỳ để thảo luận việc gia nhập WTO của Việt Nam, Hiệp định dệt may, UB thương mại Hoa Kỳ điều tra việc xuất khẩu tôm, và việc thực hiện Hiệp định BTA
16.6. 2004 Việt Nam tiến hành vòng đàm phán thứ 8 để gia nhập WTO tại Geneva. Thực hiện đàm phán song phương với một số nước trong đó có Hoa Kỳ
23.6. 2004 Tổng thống Bush xác định Việt Nam là một nước nhận viện trợ mới cho kế hoạch 15 tỷ đôla chống lại dịch AIDS toàn cầu. Như một "nước trọng điểm" Hoa Kỳ có thể tăng mạnh hỗ trợ tài chính thông qua các tổ chức phi chính phủ nhằm cung cấp các dịch vụ AIDS tại Việt Nam
6.7. 2004 Bộ thương mại Hoa Kỳ bước đầu xác định thuế chống phá giá
cho tôm xuất khẩu từ Việt Nam.
19.7. 2004 Đạo luật Nhân quyền Việt Nam 2003 do Nghị sỹ Smith đề
111
xuất được Nghị viện Hoa Kỳ thông qua với tỷ lệ phiếu 323-45 Phó Uỷ ban thương mại Hoa Kỳ tới Hà nội thảo luận việc thực hiện BTA và gia nhập WTO của Việt Nam
22- 23.7.2004 15.9. 2004 Hoa Kỳ coi Việt Nam là một nước "quan tâm đặc biệt" trong
Đạo luật tự do tôn giáo Nghị sỹ Gary Locke dẫn đầu phái đoàn 25 người tới Việt Nam nhằm mở rộng cơ hội thương mại Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Nam thăm Hoa Kỳ
19- 26.9.2004 20- 24.9.2004 5.10. 2004 Thứ trưởng tài chính Việt Nam thăm Hoa Kỳ
25- 28.10.2004 20- 21.11.2004
Đoàn đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam gặp các thành viên Hoa Kỳ tại Washington Chủ tịch nước Trần Đức Lương tiếp xúc song phương với Tổng thống Hoa Kỳ George W.Bush nhân dịp tham dự Hội nghị Cấp cao APEC 12 tại Santiago (Chilê).
30.11.2004 Bộ thương mại Hoa Kỳ quyết định phạt thuế quan đánh vào tôm xuất khẩu từ Việt Nam trong tháng 7. Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam bán tôm với giá thấp hơn giá thị trường, và thấp hơn thuế chống phá giá từ 4,13 - 25,76%. Trừ khi quyết định này được xó bỏ, tôm xuất khẩu từ Việt Nam sẽ bị áp mức thuế mới tới 2.2005.
10.12.2004 Tổng thống Hoa Kỳ nhắc lại BTA 11.12.2004 Khai trương đường bay thẳng từ Hoa Kỳ tới Việt Nam 12.12.2004 Hội nghị gia nhập WTO của Việt Nam lần thứ 9
14- 16.3.2005
6.1.2005 Uỷ ban thương mại Hoa Kỳ bảo lưu kết luận sơ bộ hồi tháng 2 là nhập khẩu tôm làm tổn hại Hoa Kỳ với tỷ phiếu bầu lại 6-0, và tỷ lệ 4-2 đồng ý nhập khẩu tôm đóng hộp Vòng đàm phán song phương tiếp theo của Việt Nam - Hoa Kỳ về vấn đề gia nhập WTO của Việt Nam tổ chức tại Washington
4.2005 Thời hạn cuối cùng để Thượng nghị viện Hoa Kỳ phê chuẩn
Đạo luật tự do tín ngưỡng cho Việt Nam Thủ tướng Phan Văn Khải thăm chính thức Hoa Kỳ
19- 25.6.2005
13- Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 16 về việc gia nhập WTO
112
18.12.2005 của Việt Nam tổ chức tại Hồng Kông
113
PHỤ LỤC 2
NHỮNG YÊU CẦU "BTA CỘNG" ĐỐI VỚI VIỆC GIA NHẬP WTO
BTA Chỉ giới hạn khoảng 4% biểu thuế quan của VN 23.6% (chiếm 3.3% biểu thuế quan)
22.86% (chiếm 0.76 % biểu thuế quan)
Vấn đề Giới hạn mức thuế quan Thuế suất TB đơn giản với sản phẩm nông nghiệp Thuế suất TB đơn giản với sản phẩm phi nông nghiệp SPS
TBT
Nông nghiệp
Quy tắc xuất xứ
Các biện pháp khắc phục thương mại
Quy định các nguyên tắc chung về SPS Quy định các nguyên tắc chung về TBT Trừ thuế quan, không có thêm quy định nào về nông nghiệp Không có quy định về Quy tắc xuất xứ Quy định những nguyên tắc hạn chế về tự vệ . Không quy định về AD hoặc CVD
TRIPS
GATS
Quy định hầu hết nhưng không phải toàn bộ các nghĩa vụ theo TRIPS Quy định hầu hết nhưng không phải toàn bộ các nghĩa vụ theo GATS
TRIMS
Loại bỏ các biện pháp TRIMS không phù hợp các nguyên tắc của WTO WTO Các nước xin gia nhập giới hạn 100% biểu thuế quan 10.4-17.5% (phạm vi giới hạn thuế quan của 7 nước gia nhập gần đây) 4.8-8.9% (phạm vi giới hạn thuế quan của 7 nước gia nhập gần đây) Quy định thêm những nghĩa vụ cụ thể hơn Quy định thêm những nghĩa vụ cụ thể hơn Quy định phải có cam kết về hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu Quy định những nguyên tắc về ROO Hiệp định WTO về tự vệ, AD, SCM quy định nguyên tắc áp dụng các biện pháp khắc phục thương mại Các quy định bổ sung bao gồm MFN và chỉ dẫn địa lý Các quy định bổ sung bao gồm việc hình thành các điểm cung cấp thông tin và phụ lục GATS về vận tải đường không Các thành viên WTO có thể muốn Việt Nam đẩy nhanh lịch trình loại bỏ
114
vào năm 2006 từng bước
115
PHỤ LỤC 3
TỔNG HỢP CÁC VỤ TRANH CHẤP BỊ ĐIỀU TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM ĐẾN 2005
Nƣớc Mặt hàng Tiến trình điều tra Năm
1994 Colombia Gạo
Không đánh thuế vì mặc dù có bán phá giá ở mức 9.07% nhưng không gây tổn hại cho ngành trồng lúa ở Colombia
1998 EU Mì chính Đánh thuế bán phá giá ở mức 16.8%
1998 EU Giầy dép Không đánh thuế vì thị phần gia tăng
nhỏ so với Trung Quốc, Inđônexia
2000 Balan Bật lửa
Đánh thuế bán phá giá ở mức 0.09 Hoa Kỳ/ chiếc
2001 Canada Tỏi
Đánh thuế bán phá giá mức 1.48 đôla Canada / kg
2002 Canada Bát đầu điều tra từ tháng 4 năm 2002
Giày không thấm nước
EU Bật lửa Bát đầu điều tra từ tháng 6 năm 2002 2002
2002 Hoa Kỳ
Cá da trơn USTR xác định cá da trơn nhập khẩu từ Việt Nam đã làm tổn hại công nghiệp cá da trơn của Hoa Kỳ, đề nghị Bộ thương mại Hoa Kỳ đánh thuế chống phá giá từ 36.84% - 63.88%
2004 Hoa Kỳ
Tôm đông lạnh
Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam bán tôm với giá thấp hơn giá thị trường, và thấp hơn thuế chống phá giá từ 4.13% - 25.76%. Trừ khi quyết định này được xóa bỏ, tôm xuất khẩu từ Việt Nam sẽ bị áp mức thuế mới tới 2005.
116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nƣớc
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 về hội nhập
kinh tế quốc tế
2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/1/1996 của Bộ Chính trị:
Về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Bộ Thương mại - Kinh tế, thương mại thế giới và Việt Nam: Cục diện
năm 2003 và Dự báo năm 2004, 2004
4. Bộ Thương mại, Dự báo chiến lược thương mại Việt Nam đến năm 2010
- Hà nội, 2003.
5. Bộ Thương mại, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia "Thương mại Việt
Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế", 2003
6. Bộ Thương mại, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Tác động của toàn cầu hoá
và hội nhập kinh tế đến phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam, Hà nội, 2003
7. Bộ Thương mại, Thị trường Hoa Kỳ, Báo cáo chuyên đề, 2003
8. Bộ Thương mại. Tổng kết hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu các năm
1997, 1998, 1999, 2000,2001,2002,2003, 2004
9. Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020 - NXB Chính trị quốc
gia - 2001
10. Chính phủ, Chỉ thị số 22/2000/CT-TT ngày 27/10/2000 về Chiến lược
phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2010
11. Chính phủ, Nghị định số 33/CP ngày 19 tháng 4 năm 1994 về quản lý
Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu
117
12. Chính phủ, Nghị định 11/1999/NĐ-CP ngày 03/3/ 1999 Về hàng hóa
cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ
thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện
13. Chính phủ, Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 Quy
định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài
14. Cục Xúc tiến thương mại, Xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ - Một số
thông tin cần biết- H. 2003
15. Báo Nhân Dân, Tuyên bố của Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton về việc
bình thường hoá quan hệ của Hoa Kỳ với Việt Nam, số 234, 1995
16. Báo Thanh niên, Phỏng vấn đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam M.Marine, số
ngày 22-4-2004
17. Bạch Thụ Cường, Bàn về cạnh tranh toàn cầu, NXB Thông Tấn, 2002
18. Hoàng Thị Chỉnh, Xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ - Những vấn đề đặt ra và
giải pháp. Tạp chí Kinh tế phát triển, số tháng 1/2003
19. Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Trọng Điệp, Thông điệp Liên bang của
Tổng thống Bill Clinton đọc trước Quốc hội Hoa Kỳ ngày 27.1.1998.
NXB Thanh niên, 2001
20. Dự án STAR Việt Nam, Viện QLKTTW, Đánh giá tác động kinh tế của
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ các năm 2002,
2003, 2004, NXB Chính trị quốc gia, 2003, 2004
21. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, NXB Chính trị Quốc gia, 1996
22. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, NXB Chính trị Quốc gia, 2004
23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trungương lần thứ 4,
Khoá VIII
118
24. Đỗ Đức Định, Quan hệ kinh tế Việt Nam Hoa Kỳ - NXB Thế giới -
2000
25. Đinh Quý Độ. Chính sách kinh tế của Hoa Kỳ đối với khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương kể từ sau chiến tranh lạnh, NXB KHKT, HN, 2000
26. Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ về quan hệ thương mại , Tài liệu chụp nguyên gốc (Lưu hành nội
bộ- Bộ Thương mại), 2000.
27. Võ Đại Lược. Bối cảnh quốc tế và những xu hướng điều chỉnh chính sách
phát triển kinh tế ở một số nước lớn, NXB KHXH, Hà Nội, 2003
28. Nguyễn Đình Lương, Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ dưới tác động của
Hiệp định thương mại song phương, Tạp chí Quốc tế, số 11/2001
29. Nguyễn Thị Mơ, Chính sách xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ và những biện
pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ
sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, Hà Nội,
2002
30. Paul R.Krugman, Maurice Obstfeld, Kinh tế học quốc tế, Lý thuyết và
chính sách. Bộ 2 tập NXB Chính trị quốc gia, 1998.
31. Quốc hội, Luật số 03/1998/QH10, ngày 20/5/1998: Luật khuyến khích
đầu tư trong nước sửa đổi.
32. Quốc hội, Luật số 05/1997/QH9, ngày 10/5/1997 : Luật Thương mại.
33. Quốc hội, Luật số 13/1999/QH10, ngày 12/6/1999 : Luật doanh nghiệp.
34. Nguyễn Thiết Sơn, Chính sách và vai trò của Mỹ ở khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 1/2005
35. Nguyễn Thiết Sơn, Một năm thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ và những vấn đề - Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1/ 2003
36. Nguyễn Thiết Sơn. Việt Nam - Hoa Kỳ quan hệ thương mại và đầu tư,
NXB KHXH, 2004
119
37. Tổng cục Thống kê, Tư liệu kinh tế các nước trên thế giới - NXB
Thống kê, 2000
38. Lê Bàn Thạch, Trần Thị Tri, CNH ở NIEs Đông Á và bài học kinh nghiệm
đối với Việt Nam - NXB Thế giới, 2000
39. Thời báo kinh tế Việt Nam. Chuyên san Kinh tế Việt Nam và thế giới từ
năm 1998 đến 2002, 2002
40. Thông tấn xã Việt Nam, Quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập
WTO- Tình hình thế giới năm 2004 và dự đoán năm 2005, 2004
41. Thông tấn xã Việt Nam, Chuyên đề "Nước Mỹ với những điều chỉnh
chiến lược lớn", 2002
42. Võ Thanh Thu, Quan hệ Kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, 2003
43. Trần Nguyễn Tuyên, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, bước tiến
mới trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, Tạp chí Kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương, số 2 tháng 4/2004
44. Trần Văn Tùng - Tính hai mặt của toàn cầu hoá - NXB thế giới, 2000
45. Trường Đại học Ngoại thương, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế, Cơ hội và Thách thức. Tháng 2/1999.
46. Trung tâm Thông tin thư viện và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng Quốc
Hội, CD-ROM "Cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam", Phiên bản 3.0, 2003;
Phiên bản 3.0, 2004
47. Trung tâm Thương mại Quốc tế UNCTAD/WTO (ITC), Ban thư ký Khối
thịnh vượng chung (CS), Hướng dẫn doanh nghiệp về Hệ thống thương
mại thế giới, NXB Chính trị quốc gia, 2001
48. Trung tâm Tư vấn và Đào tạo kinh tế thương mại, Hợp tác thương mại
hướng tới thị trường Mỹ, NXB Giao thông Vận tải, 2001
49. Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, Điều tiết thị trường trong bối
cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội, 2004
120
50. Phan Tố Uyên, Thực trạng xuất khẩu sang thị trường Mỹ và những
vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Kinh tế phát triển
số tháng 2/2004
51. Viện Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế, Viện Hàn lâm Khoa học Nga,
Thế giới trong đầu thiên niên kỷ mới, Moscva, 2001
Tài liệu nƣớc ngoài, tài liệu điện tử
52. Chung T,K. VietNam, Productivity growth and Industrial Structure in the
Pacific Region. Japan Committee for pacific Economic Outlook., 2000
53. David Collahan, Between Two Warlds, Happers Collin, 1999.
54. Ha Joon Chang, Kicking away the ladder, Development Strategy in
Historical perspective, Anthern Press, London, 2002
55. International Monertary Fund (IMF). Word Economic Outlook.
Washington DC., Imk, 2003
56. Institute of Training and Technical Cooperation of the World Trade
Organization, World Trade Report, 2003
57. Jorgenson, Dale W, and Kevin J. Stiroh. Information Tecnology and
Growth. American Economic Review. May, 1999.
58. Ranja Sengupta - US-Vietnam Trade war over seafood: Free trade not so
free after- September 4, 2003
59. Shiumei Lin, Alexander Koff. US- Vietnam Bilateral Trade Agreement
Commitments Road map. January, 2001
60. Reuters, Summay of key Provisions of the US-Vietnam Bilateral Trade
Agreement (BTA), Washington D.C, 7/2003
61. Tarrant F. 2002. United State's agricultural Situation: Overview of US.
Horticultural and Tropical Products Division. USDA.2002
62. UNCTAD, Trade and Development Report, New York and Geneva, 1997
121
63. US-VN Trade Council, Who gets what?- an inventory of benefits
from the US - VN Trade Agreement , 2002 - www.usvtc.org
64. World Trade Organization- Legal texts, the results of the Uruguay Round
of Multilateral Trade Negotiations, 2002
65. www.dataweb/ustic.gov
66. www.usvtc.org
67. www.usembassy.state.gov/vietnam
68. www.whitehouse.gov.omb
69. www.cencus.gov
70. www.vietnamustrade.org
122