Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n --------(cid:1)(cid:1)(cid:2)(cid:3)(cid:3)--------
TRÇN MINH TH¾NG
QU¶N Lý QUü B¶O HIÓM THÊT NGHIÖP ë VIÖT NAM
Hµ Néi, N¡M 2018
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n --------(cid:1)(cid:1)(cid:2)(cid:3)(cid:3)--------
TRÇN MINH TH¾NG
QU¶N Lý QUü B¶O HIÓM THÊT NGHIÖP ë VIÖT NAM
Ng©n hµng (Kinh tÕ B¶o hiÓm) Tµi chÝnh ---- Ng©n hµng (Kinh tÕ B¶o hiÓm) Chuyªn ngµnh: Tµi chÝnh Chuyªn ngµnh: Ng©n hµng (Kinh tÕ B¶o hiÓm) Ng©n hµng (Kinh tÕ B¶o hiÓm) Tµi chÝnh Tµi chÝnh Chuyªn ngµnh: Chuyªn ngµnh:
M· sè: 62340201 62340201 M· sè: 62340201 62340201 M· sè: M· sè:
Ng−êi h−íng dÉn khoa häc:
1. PGS. TS. NGUYỄN VĂN ĐỊNH 2. TS. ĐỖ VĂN SINH
Hµ Néi, N¡M 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Tôi xin cam đoan các số liệu được sử dụng trong luận án tiến sĩ “Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam” hoàn toàn được thu thập từ thực tế, chính xác, đáng tin cậy, có nguồn gốc rõ ràng, được xử lý trung thực và khách quan.
Hà Nội, tháng năm 2018
Tác giả Luận án
Trần Minh Thắng
LỜI CẢM ƠN
Tôi chân thành biết ơn trường Đại học Kinh tế quốc dân, Viện Sau đại học, Khoa Kinh tế Bảo hiểm, TS. Nguyễn Thị Chính - Trưởng khoa, cùng các thầy cô tham gia giảng dạy chương trình nghiên cứu sinh. Chính những kiến thức cùng phương pháp nghiên cứu được tiếp thu trong thời gian học tập tại trường là hành trang quan trọng giúp tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin chuyển lời tri ân sâu sắc nhất đến tập thể giáo viên hướng dẫn, PGS.TS. Nguyễn Văn Định và TS. Đỗ Văn Sinh. Sự hướng dẫn tận tình, tâm huyết và rất trách nhiệm của các thầy đã giúp tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Lãnh đạo BHXH Việt Nam và các đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam, các đồng nghiệp trong ngành đã luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện trong quá trình thu thập dữ liệu, tư vấn và các gợi ý chính sách.
Xin cảm ơn tình cảm của những người thân, gia đình đã quan tâm, tạo mọi điều
kiện để tôi hoàn thành luận án.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả Luận án
Trần Minh Thắng
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC HÌNH PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP ....................................................................................................................... 19 1.1. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp ................................................................................. 19 1.1.1. Khái quát về bảo hiểm thất nghiệp .................................................................. 19 1.1.2. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp ............................................................................... 23
1.2. Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ................................................................... 27 1.2.1. Khái niệm quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ................................................. 27 1.2.2. Mục tiêu quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp .................................................... 28 1.2.3. Nguyên tắc quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ................................................ 29 1.2.4. Nội dung quản lý quỹ BHTN .......................................................................... 30
1.3. Những nhân tố chủ yếu tác động đến quản lý quỹ BHTN ............................. 42 1.3.1. Chính sách pháp luật ....................................................................................... 42 1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ................................................................................ 43 1.3.3. Tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ............... 44 1.3.4. Công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát ......................................................... 45 1.3.5. Tổ chức triển khai chính sách pháp luật về quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ........ 46 1.3.6. Chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp .. 47 1.3.7. Ứng dụng công nghệ thông tin ........................................................................ 47
1.4. Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ....................................................................................... 48 1.4.1. Quản lý quỹ BHTN ở một số nước trên thế giới ............................................. 48 1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................................ 57
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 59 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM ................................................................................................................... 60 2.1. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ............................................................ 60 2.1.1. Quá trình hình thành và mục đích sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ........................................................................................................................... 60
2.1.2. Cơ quan quản lý bảo hiểm thất nghiệp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ... 62
2.2. Thực trạng quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ........................... 68 2.2.1. Quản lý thu bảo hiểm thất nghiệp ................................................................... 68 2.2.2. Quản lý chi BHTN .......................................................................................... 76 2.2.3. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ............................................................. 84 2.2.4. Quản lý cân đối thu - chi quỹ BHTN .............................................................. 85 2.2.5. Quản lý hoạt động đầu tư quỹ BHTN ............................................................. 86
2.3. Đánh giá tình hình quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam .............. 86 2.3.1. Kết quả đạt được ............................................................................................... 86 2.3.2. Tồn tại, hạn chế ............................................................................................... 96 2.3.3. Đánh giá nhân tố tác động đến quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ............... 106
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 122 CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM .......................................................... 123 3.1. Định hướng, quan điểm tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ........... 123 3.1.1. Định hướng mục tiêu quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp .............................. 123 3.1.2. Quan điểm về tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ............................. 126
3.2. Giải pháp quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ........................... 131 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ............ 131 3.2.2. Giải pháp về kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý ............................................ 132 3.2.3. Giải pháp về quản lý thu bảo hiểm thất nghiệp............................................. 133 3.2.4. Giải pháp quản lý chặt chẽ các khoản chi bảo hiểm thất nghiệp .................. 135 3.2.5. Giải pháp đảm bảo cân đối thu - chi quỹ bảo hiểm thất nghiệp .................... 136 3.2.6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp137 3.2.7. Xây dựng và ứng dụng công nghệ thông tin đồng bộ trong quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ...................................................................................................... 138 3.2.8. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ...................................................................................................................... 139 3.2.9. Xây dựng cơ chế thưởng phạt nghiêm minh ................................................. 140
3.3. Kiến nghị ........................................................................................................... 141 3.3.1. Đối với Quốc hội và Chính phủ .................................................................... 141 3.3.2. Đối với cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội .................................... 143 3.3.3. Đối với các Bộ, ngành có liên quan ............................................................. 145 3.3.4. Đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam ................................................. 146 3.3.5. Đối với người sử dụng lao động .................................................................. 148 3.3.6. Đối với người lao động ................................................................................ 148
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .......................................................................................... 150 PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................... 151 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................... 152 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 153 PHỤ LỤC ................................................................................................................... 161
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH An sinh xã hội
BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
BHVL Bảo hiểm việc làm
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
CPS Khảo sát Dân cư Hiện thời
HĐLĐ Hợp đồng lao động
HĐLV Hợp đồng làm việc
ILO Tổ chức Lao động quốc tế
NSNN Ngân sách Nhà nước
TCTN Trợ cấp thất nghiệp
TTLB Thông tư liên Bộ
TTLT Thông tư liên tịch
UBND Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Tỷ lệ đóng góp BHTN/BHVL ở một số nước trên thế giới ....................... 24 Bảng 1.2: Quỹ BHTN và tính bền vững ở một số quốc gia trên thế giới ................... 49 Bảng 2.1: Tình hình lập và giao kế hoạch thu BHTN (2011 - 2015) ......................... 69 Bảng 2.2: Số người lao động tham gia BHTN (2011 - 2015) .................................... 71 Bảng 2.3: Số tiền thu BHTN (2011 - 2015) ................................................................ 73 Bảng 2.4: Tình hình lập và giao kế hoạch chi BHTN (2011 - 2015) ......................... 78 Bảng 2.5: Số người thụ hưởng các chế độ BHTN (2011-2015) ................................. 78 Bảng 2.6: Kết quả chi trả BHTN (2011 - 2015) ......................................................... 82 Bảng 2.7: Cân đối quỹ BHTN (2011 - 2015) ............................................................. 85 Bảng 2.8: Đánh giá sự phù hợp của chính sách pháp luật về BHTN ......................... 89 Bảng 2.9: Đánh giá của cán bộ BHXH về việc chấp hành pháp luật BHTN đối với đơn vị sử dụng lao động sau khi thanh tra, kiểm tra .................................. 92 Bảng 2.10: Đánh giá về thủ tục, hồ sơ tham gia BHTN ............................................... 93 Bảng 2.11: Đánh giá về thủ tục, hồ sơ hưởng chế độ BHTN ....................................... 94 Bảng 2.12: Đánh giá về sự chuyên nghiệp của cán bộ BHXH hiện nay ...................... 96 Bảng 2.13: Đánh giá của cán bộ BHXH về việc chấp hành chính sách, pháp luật về BHTN của người sử dụng lao động ........................................................... 97 Bảng 2.14: Đánh giá về tỷ lệ tham gia BHTN hiện nay ............................................... 98 Bảng 2.15: Kết quả phân tích hồi quy Logistic .......................................................... 111 Bảng 2.16: Kết quả kiểm định Hosmer-Lemeshow đánh giá sự phù hợp của mô hình Logistic ..................................................................................................... 112 Bảng 2.17: Kết quả phân tích hồi quy Logistic .......................................................... 118
DANH MỤC HÌNH Hình 1: Mô hình nghiên cứu dự kiến ....................................................................... 17 Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam ..................................................... 65 Hình 2.2: Số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHTN (2011 - 2015) ....................... 70 Hình 2.3: Số tiền nợ đọng BHTN (2011 - 2015) ........................................................ 74 Hình 2.4: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHTN (2011 - 2015) ............................. 76 Hình 2.5: Tình hình thực hiện kế hoạch chi BHTN (2011 - 2015) ............................. 83 Hình 2.6: Tình hình tham gia và thụ hưởng chế độ BHTN ........................................ 87 Hình 2.7: Đánh giá của cán bộ BHXH về công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật BHTN .......................................................................................... 91 Hình 2.8: Kênh tiếp cận thông tin của người sử dụng lao độngvà người lao động về chính sách pháp luật BHTN ........................................................................ 91 Hình 2.9: Tình hình chi trả và hưởng trợ cấp BHTN của cơ quan BHXH đối với người thất nghiệp......................................................................................... 95 Hình 2.10: Đánh giá của cán bộ BHXH về lý do người sử dụng lao động tham gia BHTN chưa đầy đủ cho người lao động ................................................... 100 Hình 2.11: Đánh giá của người lao động về chất lượng đào tạo nghề và sự hài lòng trong công tác tư vấn, giới thiệu việc làm ................................................. 105 Hình 2.12: Tỉ lệ tham gia BHTN ................................................................................. 109 Hình 2.13: Tỉ lệ tham gia BHTN theo khu vực làm việc ............................................ 110 Hình 2.14: Tỉ lệ tham gia BHTN theo thành thị (TT) và nông thôn (NT) .................. 110 Hình 2.15: Tỉ lệ tham gia BHTN theo trình độ học vấn ............................................. 111 Hình 2.16: Số lượng cán bộ BHXH được khảo sát theo tỉnh thành ............................ 116 Hình 2.17: Đánh giá của cán bộ cơ quan BHXH về mức độ ảnh hưởng của nhân tố chính sách pháp luật đến quản lý quỹ BHTN ........................................... 120 Hình 2.18: Đánh giá của người sử dụng lao động và người lao động về mức độ ảnh hưởng của nhân tố chính sách pháp luật đến quản lý quỹ BHTN............. 121
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là điều không thể tránh khỏi, để lại nhiều hệ lụy đến người lao động, gia đình họ và toàn xã hội như: mất cân đối về tài chính đối với người lao động; lãng phí nguồn nhân lực xã hội; tệ nạn xã hội gia tăng, thậm chí đe doạ đến sự ổn định thể chế chính trị của quốc gia,… Để đối phó và khắc phục hậu quả của tình trạng thất nghiệp, các chế độ trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp mất việc làm hay BHTN là những biện pháp hữu hiệu nhằm thay thế, bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi bị thất nghiệp và quan trọng hơn là hỗ trợ họ học nghề, giới thiệu việc làm để người thất nghiệp sớm quay lại thị trường lao động, có thu nhập và ổn định lại cuộc sống. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, BHTN là một trong những chính sách quan trọng góp phần giải quyết các vấn đề về thất nghiệp, việc làm và đảm bảo ASXH.
Tại Việt Nam, quyền lợi của người lao động cũng như tình trạng thất nghiệp luôn được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm trong từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Giai đoạn trước năm 2009, NSNN đã chi hàng trăm tỷ đồng mỗi năm để giải quyết cho hàng chục vạn người lao động thông qua các chế độ trợ cấp thôi việc, trợ cấp tạm ngừng việc, trợ cấp mất việc làm hay các chế độ trợ cấp đối với người lao động dôi dư khi sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước,... Để đảm bảo tốt hơn quyền lợi cho người lao động khi không may bị thất nghiệp và giảm gánh nặng cho NSNN, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI đã ban hành Luật BHXH, quy định chi tiết về BHTN có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Sau 5 năm triển khai thực hiện, BHTN được hoàn thiện hơn trong Luật Việc làm được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Trải qua quá trình hình thành và sửa đổi đến nay, BHTN đã từng bước đi vào cuộc sống và là “Phao cứu sinh” cho người lao động khi bị mất việc làm. Theo số liệu của BHXH Việt Nam đến năm 2015, cả nước đã có trên 10,3 triệu người lao động tham gia BHTN với số thu vào quỹ BHTN lên đến trên 9,7 nghìn tỷ đồng và đã chi trên 4,5 nghìn tỷ đồng cho hơn 545 nghìn người hưởng chế độ. Qua đó, quỹ BHTN không những đủ chi các chế độ mà còn kết dư trên 49 nghìn tỷ đồng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý quỹ BHTN vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập về chính sách như: người lao động có đóng BHTN nhưng không hưởng chế độ khi về hưu, chưa có quy định giới hạn về độ tuổi hưởng BHTN nên một số người lao động hết tuổi lao động nghỉ việc hưởng chế độ BHTN sau đó mới làm thủ
2
tục hưởng lương hưu, người lao động hưởng chế độ thai sản chủ động xin nghỉ việc để hưởng cả trợ cấp thai sản và TCTN,... Trong tổ chức thực hiện, tình trạng trục lợi quỹ BHTN vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây ảnh hưởng đến công tác quản lý và bảo toàn Quỹ BHTN, biểu hiện như: người lao động chủ động nghỉ việc hoặc bắt tay với người sử dụng lao động làm thủ tục để hưởng chế độ BHTN trong khi đơn vị vẫn bố trí được việc làm cho người lao động; người lao động nghỉ việc hưởng TCTN đồng thời vẫn đi làm và đóng BHXH, BHTN tại các địa phương khác nơi hưởng TCTN để tránh bị phát hiện; một số đơn vị có biểu hiện lách luật để trốn đóng BHTN bằng cách giao kết hợp đồng lao động với người lao động thời hạn dưới 03 tháng hoặc đóng chưa đầy đủ số người trong đơn vị, đóng không đúng mức lương của người lao động, nợ đọng tiền BHTN,… Thông tin việc làm còn hạn chế, việc đào tạo nghề còn bất cập về thời gian, kinh phí và ngành nghề đào tạo, chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Cơ chế phối hợp trong thực hiện chính sách và thanh tra, kiểm tra giữa các cơ quan, tổ chức chưa thực sự chặt chẽ,... Mặt khác, quỹ BHTN hiện nay chủ yếu hướng tới chi trả chế độ trợ cấp thất nghiệp với số chi tuyệt đối lớn hơn rất nhiều lần các chế độ khác, chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động chưa được chi trả, các chính sách BHTN mang tính chủ động nhằm hạn chế tình trạng sa thải lao động, hỗ trợ mức đóng BHTN hay nâng cao vai trò của thị trường lao động chưa được quan tâm đúng mức,... dẫn đến số tiền kết dư của quỹ BHTN hiện nay là khá lớn.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, “Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam” là đề tài được tác giả lựa chọn để nghiên cứu nhằm khắc phục những vấn đề hạn chế, bất cập, từ đó, góp phần quản lý quỹ BHTN chặt chẽ, hiệu quả và đúng pháp luật.
2. Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá đúng thực trạng quản lý quỹ BHTN và đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam chặt chẽ, hiệu quả và đúng pháp luật.
b. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa, bổ sung và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quỹ BHTN
và quản lý quỹ BHTN;
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý thu, quản lý chi, cân đối quỹ BHTN.
Đồng thời, làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp và đưa ra những kiến nghị nhằm quản lý quỹ BHTN
3
chặt chẽ, hiệu quả và đúng pháp luật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quản lý quỹ BHTN.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý sự nghiệp quỹ BHTN. Trong đó, chủ yếu nghiên cứu về quản lý thu, quản lý chi, cân đối quỹ BHTN ở Việt Nam.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu quản lý quỹ BHTN tại Việt Nam.
- Về thời gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu trong giai đoạn từ năm
2011 đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử để hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý quỹ BHTN.
- Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của thống kê như:
tổng hợp, phân tích, so sánh đánh giá và liên hệ.
- Trong quá trình nghiên cứu, Luận án kết hợp cả phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng. Để thực hiện các phương pháp này, tác giả sử dụng các nguồn dữ liệu thứ cấp và sơ cấp được thu thập như sau:
+ Nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập từ cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, Ngành có liên quan.
+ Nguồn dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua các phiếu khảo sát thực tế. Cách thức và phương pháp thu thập dữ liệu cho nghiên cứu là đặc biệt quan trọng vì nó ảnh hưởng đến chất lượng của số liệu và ảnh hưởng đến kết quả phân tích (Creswell, 2013). Do đó, để đảm bảo chất lượng dữ liệu cho nghiên cứu, tác giả thực hiện khảo sát với hai nhóm đối tượng chủ yếu: Nhóm thứ nhất, là người lao động trên toàn quốc, chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành phố có đông lao động, mật độ khu công nghiệp dày đặc như: thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Phòng,... Nhóm thứ hai, là các bộ quản lý quỹ BHTN trên toàn quốc và tập trung chủ yếu ở các địa bàn địa lý nêu trên, mà ở đó, cán bộ quản lý BHTN nhiều hơn so với các tỉnh khác.
4
Theo Privitera (2013) kích thước mẫu nghiên cứu phải đảm bảo hai khía cạnh sau: (1) đủ lớn và (2) đối tượng chọn mẫu phải đa dạng nhằm phản ánh đúng bản chất của thông tin. Số lượng phiếu khảo sát đối với người lao động là 2019 người ở các loại hình doanh nghiệp như: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số lượng phiếu khảo sát đối với cán bộ quản lý quỹ BHTN là 1021, chủ yếu làm công tác quản lý thu BHTN, chi trả chế độ BHTN ở các tỉnh/ thành phố trực thuộc trung ương và các quận/ huyện/ thị xã/ thành phố trực thuộc tỉnh. Sau khi loại bỏ các trường hợp không hợp lệ, tác giả thu về 1613 phiếu hợp lệ với nhóm thứ nhất và với nhóm thứ hai tác giả thu về 976 phiếu hợp lệ. Như vậy, kích cơ mẫu sử dụng cho các mô hình nghiên cứu có thể nói là đủ lớn để đảm bảo rằng các kết quả phân tích là đáng tin cậy.
Một số cán bộ cơ quan BHXH mặc dù đã được hẹn trước nhưng không gặp được trực tiếp vì nhiều lý do khác nhau, tác giả đã thực hiện khảo sát qua điện thoại. Tuy vậy, nhóm này chiếm tỉ lệ không nhiều và vẫn đảm bảo chất lượng về mặt số liệu.
Ngoài ra, để đảm bảo tính khách quan, tác giả thực hiện tiếp 1 đợt khảo sát thông qua phiếu khảo sát điện tử được tạo trên công cụ “Google docs forms” cho cả ba nhóm đối tượng là người lao động, chủ sử dụng lao động và cán bộ BHXH trên phạm vi cả nước để phân tích, đánh giá các nhân tố tác động đến công tác quản lý quỹ BHTN. Sau khi thu thập và xử lý dữ liệu, tác giả thu về 828 mẫu phiếu hợp lệ đối với người lao động, 359 mẫu phiếu hợp lệ đối với người sử dụng lao động và 404 mẫu phiếu hợp lệ đối với cán bộ BHXH.
Do đối tượng được khảo sát trải rộng trên toàn quốc nên khoảng thời gian cần
thiết để thực hiện kéo dài từ tháng 07/2016 đến tháng 04/2017.
- Các nguồn dữ liệu sau khi thu thập được phân tích trên bảng, biểu và sử dụng phần mềm SPSS (Phần mềm thống kê dành cho khoa học xã hội - Statistical Package for the Social Sciences) để phân tích, đánh giá cho nghiên cứu này.
5. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
5.1. Một số nghiên cứu trên thế giới
Bảo hiểm thất nghiệp không phải là vấn đề mới, từ những năm đầu của thế kỷ XX để góp phần giải quyết tình trạng mất việc làm trên thế giới, nhất là ở các nước công nghiệp, ILO Convention (1919), phê chuẩn Công ước thất nghiệp C2 vào năm 1919. ILO Convention (1934), Tổ chức này tiếp tục phê chuẩn Công ước số 44 vào ngày 04/6/1934 về bảo đảm tiền trợ cấp cho những người thất nghiệp. Trên cơ sở Công
5
ước này, nhiều nước đã ban hành chính sách về BHTN. ILO Convention (1952), Công ước An sinh xã hội C102 năm 1952; ILO Convention (1991), Công ước xúc tiến, hỗ trợ và bảo vệ phòng chống thất nghiệp C168 năm 1991. Những công ước này là định hướng cho các nước hoạch định chính sách tìm kiếm biện pháp phòng chống thất nghiệp để bảo vệ người lao động và gia đình họ. Để hoạch định và tổ chức thực hiện được những chính sách này là hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của từng nước.
Trên thế giới đã có nhiều nhà khoa học công bố những công trình nghiên cứu về
BHTN và các vấn đề liên quan.
- Wandner, S. A., & Stengle, T. (1997) đã chỉ ra thực tế là trong những năm gần đây, cứ mỗi tháng lại có khoảng 1/3 số người lao động thất nghiệp có trong danh sách những người nhận trợ cấp định kỳ theo thống kê của Khảo sát Dân cư Hiện thời (CPS). Những cá nhân này gọi là người thất nghiệp được bảo hiểm. Tỷ lệ những người đang nhận bảo hiểm được gọi là tỷ lệ người thụ hưởng thất nghiệp. Có rất nhiều cách tính tỷ lệ thụ hưởng thất nghiệp và mỗi cách tính lại có những ý nghĩa riêng. Mục đích của nghiên cứu này nhằm giới thiệu các tính chỉ tiêu, tỷ lệ người thụ hưởng thất nghiệp. Từ đó, để mọi người thảo luận và vận dụng trong thực tiễn.
CPS giới thiệu số liệu người thất nghiệp toàn cầu. Dựa vào khảo sát trên một số hộ gia đình, phương pháp này xác định tất cả những người thất nghiệp đang tìm kiếm việc làm trong một đơn vị thời gian nhất định trong tháng. Tất cả những người đang tìm việc làm, bất kể do bị mất việc hay bỏ việc, bất kể đó là công việc đầu tiên hay họ mới quay lại làm việc, bất kể họ có gắn bó với công việc đó hay không và bất kể thời gian thất nghiệp là một tuần hay vài năm, đều được CPS tính đến.
Ngược lại, khái niệm về người thất nghiệp được bảo hiểm dựa trên những nguồn thông tin hoàn toàn khác lại mang tính hạn chế hơn. Người thất nghiệp được bảo hiểm gồm tất cả những người tham gia vào hệ thống BHTN. Họ phải đáp ứng những điều kiện thụ hưởng ban đầu và đang yêu cầu hay đang được thụ hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 01 tuần thất nghiệp. Họ thường là những người lao động có gắn bó với công việc nhưng bị ép buộc phải thôi việc và có khả năng tìm kiếm việc khác. Họ có thể có tiền lương và vẫn được tính như một người thất nghiệp vì khoảng thời gian họ nhận trợ cấp thất nghiệp là hạn chế, đa số thường chỉ thất nghiệp trong khoảng dưới 06 tháng. Theo hồ sơ hành chính, số lượng người thất nghiệp được tính định kỳ theo tuần.
Trong thời kỳ khủng hoảng, người ta dường như đã không còn bận tâm về vấn đề người thụ hưởng chương trình định kỳ vì có quá nhiều sự thay đổi liên quan đến
6
thất nghiệp với tỷ lệ người thất nghiệp và người thụ hưởng gia tăng. Tuy nhiên, cùng lúc đó, trợ cấp từ các chương trình định kỳ được cho là ngày càng cao, và người ta lại đặt câu hỏi về việc liệu có bao nhiêu lao động thất nghiệp rời khỏi chương trình mà không nhận được trợ cấp thu nhập nào thêm? Mối bận tâm lúc này là liệu trợ cấp BHTN có đủ kéo dài để ngăn ngừa tình trạng kiệt quệ về tài chính và nếu có kéo dài thêm thì sẽ kéo dài đến bao lâu?
Các tác giả cho rằng tỷ lệ người thụ hưởng có những ý nghĩa khác nhau vì nó liên quan đến hai thước đo khác nhau. Tỷ lệ này có tác động tới bất cứ tranh cãi nào về tính hợp lý của chương trình BHTN và vì thế cần phải xem xét kỹ lưỡng khi đưa ra chính sách. Ngoài ra tài liệu này còn cho rằng không nên sử dụng tỷ lệ thụ hưởng như một công cụ phân tích chính sách khi khủng hoảng xảy ra bằng cách đưa ra những thước đo khác tỷ lệ thụ hưởng và cách sử dụng chúng trong tương lai.
Có thể thấy, nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến sự tác động của BHTN tới tình hình lao động việc làm, việc trở lại làm việc sau thất nghiệp, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp và tác động của BHTN đến an sinh xã hội. Tuy nhiên, nghiên cứu không đi sâu vào công tác quản lý và cân đối quỹ BHTN, cho dù tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ người thụ hưởng có ảnh hưởng đến quỹ và quản lý quỹ BHTN.
- Schwartz, J. (2009) phân tích mối tương quan giữa BHTN tại Mỹ và chu kỳ kinh doanh. Nghiên cứu thứ nhất xây dựng mô hình xác định mức điều chỉnh trợ cấp BHTN tối ưu nhất cho chu kỳ kinh doanh. Mô hình này hỗ trợ hiệu quả cho việc tăng cường trợ cấp BHTN cho người thất nghiệp lâu dài trong thời kỳ suy thoái. Tại Mỹ, cơ chế để bắt đầu mở rộng trợ cấp BHTN khi tỷ lệ thất nghiệp của một bang đạt tới một ngưỡng nhất định. Cơ chế này được xem là thiết kế không hiệu quả và việc mở rộng chỉ có thể được thực hiện ở một số ít bang trước khi xảy ra khủng hoảng. Tiểu luận thứ hai phân tích tính khả thi của các mô hình Markov Switching (MS) nhằm xác định ở chu kỳ suy thoái nào trong thị trường lao động có thể thực hiện mở rộng trợ cấp BHTN. Tăng cường trợ cấp trong thời kỳ suy thoái với mô hình MS dựa theo khoảng thời gian thất nghiệp trung bình liên kết chặt chẽ hơn với việc kéo dài thời gian đảm nhận một công việc tạm thời hơn là các chương trình hiện thời và các giải pháp đề xuất khác. Tiểu luận cuối cùng tập trung vào tác động của chương trình mở rộng tự động tại Mỹ tới hành vi tìm kiếm. Với chương trình này, có một sự không chắc chắn trong việc thụ hưởng trợ cấp của cá nhân người tham gia bởi việc mở rộng mang tính ngẫu nhiên và không chắc chắn vì phụ thuộc vào tỷ lệ thất nghiệp tại một bang. Tác giả sử dụng cách tiếp cận hồi quy gián đoạn để xác định ảnh hưởng của chương trình tới khoảng thời gian thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp ở quy mô hạt. Tác giả nhận thấy rằng việc mở
7
rộng trợ cấp có tác động đáng kể đến cả hai yếu tố trên, sự không chắc chắn ở chương trình này có thể tác động đáng kể đến tỷ lệ thất nghiệp ở hạt.
Kết luận của nghiên cứu này có thể sử dụng như nguồn tài liệu hướng dẫn các nhà hoạch định chính sách nhằm thiết kế một hệ thống BHTN tối ưu, xác định thời điểm suy thoái của thị trường lao động và hiểu rõ tác động của việc tăng cường trợ cấp một cách tự động trong thời kỳ suy thoái tới hành vi tìm hiểu của người dân. Tuy nhiên, các chuỗi nghiên cứu này chưa đề cập đến việc quản lý quỹ BHTN, mà chỉ đề cập đến thời kỳ suy thoái của thị trường lao động như một nhân tố tác động lớn đến quỹ và quản lý quỹ BHTN.
- Mullins, S. D. (2012) phân tích tác động của thất nghiệp tới việc mở rộng bảo hiểm thất nghiệp vào năm 2008. Robert J. Barro, báo Wall Street, 30/8/2010 đã từng đưa ra dự đoán rằng tỷ lệ thất nghiệp có thể xuống thấp hơn 6,8% thay vì 9,5% nếu trợ cấp thất nghiệp không được mở rộng đến 99 tuần.
Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp trung bình đạt 4,6% trong vòng 02 năm trước cuộc khủng hoảng năm 2008-2009 và sau đó vào mùa hè năm 2010, con số này đã tăng lên hơn gấp đôi. Robert Barro lúc đó đã nghiên cứu đánh giá liệu sự gia tăng tỉ lệ thất nghiệp này có tác động như thế nào tới sự thay đổi trong chính sách BHTN. Phân tích của ông gợi ý rằng: khủng hoảng không thực sự nghiêm trọng như những gì số liệu thống kê thất nghiệp đưa ra bởi vì hơn một nửa phần tăng trong tỷ lệ thất nghiệp kể từ khi khủng hoảng bắt đầu là do việc mở rộng BHTN. Barro tin tưởng rằng Chính phủ cần xem xét lại việc mở rộng BHTN.
Chương trình BHTN là một ví dụ hoàn hảo phản ánh chính sách của Chính phủ phải đối mặt với sự thỏa hiệp giữa công bằng và hiệu quả kinh tế (Okun 1975). Động cơ triển khai BHTN năm 1935 chính là từ lòng thương cảm nhằm mang đến sự trợ giúp tạm thời cho những người đang phải đối mặt với tổn thất về thu nhập trong thời kỳ suy thoái kinh tế lan rộng. Nhưng tất nhiên, việc gì cũng có hai mặt. Tính thiếu hiệu quả có thể được nhìn thấy khi trợ cấp này nhằm hỗ trợ người dân kéo dài tình cảnh thất nghiệp mà BHTN đang tìm cách để kéo họ ra??? Các nhà kinh tế học từ lâu đã chấp nhận rằng trợ cấp BHTN có thể dẫn đến việc kéo dài tình trạng thất nghiệp (Kartz và Meyer 1990; Chetty 2008). Một số chuyên gia khuyến nghị rằng tính thiếu hiệu quả có thể nghiêm trọng đến nỗi phải xem xét lại việc mở rộng trợ cấp thất nghiệp (Barro) hoặc hủy bỏ chương trình BHTN hiện thời, thay bằng tài khoản tiết kiệm tạm ứng cá nhân (Feldstein và Altman 1998).
Cuộc khủng hoảng hiện thời cùng với tình trạng thất nghiệp kéo dài (Farber
8
2011) và chính sách mở rộng trợ cấp thất nghiệp chưa từng có tiền lệ (Bộ Lao động Mỹ 2011) đã thu hút sự quan tâm trong những thảo luận về chính sách của Chính phủ. Trợ cấp BHTN có thể được đề xuất xóa bỏ nếu chính sách mở rộng trợ cấp này trong những năm vừa qua được xác định là làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Ở khía cạnh khác, nếu sự gia tăng này là không đáng kể, chính sách hạn chế trợ cấp có thể “trừng phạt” những cá nhân chịu tác động của khủng hoảng kinh tế nhưng lại “đút túi” một món lời nhỏ.
Nghiên cứu này cho thấy việc mở rộng chính sách BHTN, việc kéo dài thời gian nhận trợ cấp BHTN của người lao động bị thất nghiệp có tác động trực tiếp và làm gia tăng người bị thất nghiệp. Điều này đương nhiên ảnh hưởng đến quỹ và quản lý quỹ BHTN. Song nghiên cứu không đi sâu vào vấn đề chính mà luận án hướng tới.
- Carter, J., Bédard, M., & Bista, C. P. (2013) nghiên cứu so sánh kinh nghiệm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm việc làm khu vực Châu Á và trên thế giới. Trong nghiên cứu này đã trình bày tổng quan về các chương trình bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm việc làm đang được thực hiện tại 14 quốc gia, như một phương án hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm trong khi họ thay đổi công việc, và tìm kiếm việc làm mới. Các quốc gia được lựa chọn làm đối tượng cho nghiên cứu này không chỉ đa dạng về mặt địa lý, mà còn đang trong các giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau. Có hai quốc gia ở Bắc Mỹ (Canada và Hoa Kỳ), hai ở Nam Mỹ (Argentina và Chile), ba ở Châu Âu (Đan Mạch, Pháp, Đức), một ở Trung Đông (Bahrain), hai nước là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) (Thái Lan và Việt Nam), và bốn nước cuối cùng thuộc khu vực Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Mông Cổ và Hàn Quốc).
Nghiên cứu này thực chất chỉ là một bài báo nêu lên các đặc điểm chính và thực tiễn triển khai một số chương trình BHTN - có ba nước gọi là chương trình bảo hiểm việc làm - nhưng không đi vào nghiên cứu chi tiết tất cả các đặc điểm và đưa ra các số liệu cụ thể. Đồng thời, bài báo cũng nêu lên những bức tranh toàn cảnh vè BHTN ở 14 quốc gia đại diện cho các Châu lục khác nhau để dễ dàng so sánh. Vì thế, việc đi sâu vào nghiên cứu quỹ và quản lý quỹ BHTN chưa được thực hiện. Hơn nữa, báo cáo chỉ được trình bày dưới dạng liệt kê, phản ánh các vấn đề có liên quan đến BHTN ở từng nước để người đọc tự so sánh, tự liên hệ…
- Hu, Y. W., Impavido, G., & Li, X. (2009) đã nêu lên vấn đề về hệ thống hưu trí của Trung Quốc có sự phân hoá và phân cấp cao, với các tiêu chuẩn quản trị, thực tiễn quản lý quỹ hưu trí, quy định và giám sát của họ khác nhau đáng kể giữa các thành phần được hỗ trợ của hệ thống lương hưu Trung Quốc và các tỉnh. Báo này mô tả các thành phần chính của hệ thống, nhấn mạnh những tiến bộ đã đạt được cho đến
9
nay và xác định các điểm yếu còn lại liên quan đến công bố thông tin, khung quản trị và các tiêu chuẩn quản lý quỹ lương hưu. Tuy rằng, báo cáo này đề cập đến quản lý quỹ trong hệ thống hưu trí có tính tương đồng với vấn đề mà luận án đang nghiên cứu nhưng chỉ đề cập đến quản lý quỹ trên góc độ của một tổ chức, bộ máy quản trị quản lý quỹ hưu trí. Những vấn đề liên quan đến đối tượng tham gia, mức đóng, mức hưởng, các nhân tố tác động đến việc quản lý quỹ trong báo cáo chưa đề cập.
5.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Cả trước và sau khi chính sách pháp luật về BHTN ở Việt Nam được thực hiện (01/01/2009) đã có không ít những nghiên cứu liên quan đến vấn đề này của các nhà khoa học, các nhà quản lý:
- Đỗ Văn Sinh (2005) đã nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận về quỹ BHXH, quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam. Tác giả cũng đã chỉ ra những nhân tố tác động đến quỹ BHXH đó là: nhân tố chính sách, nhân tố tổ chức thực hiện, các nguồn tài chính vận động làm tăng quy mô quỹ BHXH, giảm quỹ BHXH. Và các nội dung quản lý quỹ BHXH. Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng quản lý quỹ BHXH trong giai đoạn nghiên cứu, cụ thể tập trung nghiên cứu quỹ hưu trí và trợ cấp giai đoạn từ năm 1995 - 2003 và quỹ khám chữa bệnh từ năm 1998 - 2003 về chính sách, mô hình quỹ, phương thức quản lý và hệ thống tổ chức bộ máy quản lý quỹ BHXH để tìm ra những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân. Xuất phát từ những thực trạng, tồn tại, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam gồm: hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về chế độ hình thành và sử dụng quỹ BHXH; Hoàn thiện hoạt động nghiệp vụ quản lý quỹ BHXH; Hoàn thiện hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán quỹ BHXH; Hoàn thiện hoạt động thông tin, tuyên truyền về chính sách BHXH; Các giải pháp điều kiện về mô hình tổ chức bộ máy, cán bộ, trang thiết bị cơ sở vật chất phục vụ quản lý quỹ BHXH;...
Nghiên cứu trên đã chỉ ra một số vấn đề liên quan đến quỹ và quản lý BHXH như: Đối tượng tham gia, đối tượng thụ hưởng, mô hình tổ chức thực hiện,... Tuy nhiên, nghiên cứu này được thực hiện trước khi Luật BHXH ban hành và là một trong những nghiên cứu có tính tương đồng về quỹ BHTN, quản lý quỹ BHTN. Do đó, công trình này sẽ được tác giả kế thừa những vấn đề liên quan để nghiên cứu trong luận án này.
- Nguyễn Văn Định (2008) nghiên cứu và đề xuất mô hình tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam. Nghiên cứu đã làm rõ những vấn đề lý luận về thất nghiệp, trợ cấp thất nghiệp và BHTN, đánh giá đúng thực trạng thất nghiệp ở nước ta, nhu cầu và
10
khả năng tham gia BHTN, xác định những nội dung liên quan đến BHTN và đề xuất mô hình tổ chức BHTN ở nước ta. Nghiên cứu sử dụng một số phương pháp như: tổng hợp, phân tích, so sánh và điều tra, khảo sát thực tế cụ thể ở Thủ đô Hà Nội với một số doanh nghiệp đại diện trên địa bàn. Tác giả đã làm rõ một số vấn đề về thất nghiệp, các biện pháp, chính sách khắc phục tình trạng thất nghiệp và nội dung cơ bản của BHTN, cùng với đó đề xuất hai mô hình tổ chức BHTN ở Việt Nam bên cạnh việc nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức BHTN tại các nước như: Cộng hòa Liên bang Đức, Trung Quốc, Thái Lan.
Nội dung của đề tài đề cập đến thực trạng thất nghiệp, nhu cầu và khả năng tham gia BHTN ở Việt Nam. Đề tài dựa trên các chính sách và một số biện pháp giải quyết tình trạng thất nghiệp ở nước ta những năm trước đó và đưa ra mô hình tổ chức BHTN ở Việt Nam. Theo mô hình tổ chức BHTN của tác giả thì BHTN Việt Nam phải tổ chức theo một hệ thống dọc với 3 cấp (cấp trung ương, cấp tỉnh/ thành phố, cấp huyện/ quận/ thị xã). Chính vì thế, nghiên cứu này đã kiến nghị nên gắn BHTN vào hệ thống BHXH hiện hành. Cơ quan BHXH các cấp vừa nắm đối tượng tham gia BHTN, vừa thực hiện công tác thu - chi BHTN và quản lý đối tượng hưởng trợ cấp BHTN… Điều đó cũng có nghĩa coi BHTN giống như một chế độ BHXH bắt buộc, nên khi tổ chức thực hiện phải đảm bảo tính thống nhất trong toàn hệ thống. Có thể nói đây là một đề tài được nghiên cứu khá toàn diện và hết sức công phu, đồng thời cũng rất phù hợp với Việt Nam khi tổ chức triển khai. Tuy nhiên, thực tế tổ chức triển khai chính sách BHTN ở nước ta lại khác. Bộ lao động thương binh và xã hội ngoài việc thực hiện chức năng là quản lý Nhà nước về BHTN, cũng tham gia quản lý sự nghiệp BHTN. Còn BHXH Việt Nam chỉ thực hiện các nghiệp vụ thu và chi trả trợ cấp BHTN cho người lao động.
Nghiên cứu trên đã chỉ ra một số vấn đề liên quan đến quản lý thu BHTN như: Đối tượng tham gia, hình thức triển khai, mức đóng góp BHTN; một số vấn đề liên quan đến quản lý chi trả chế độ như: Mức hưởng, Điều kiện hưởng, Thời gian hưởng và vấn đề về chi chế độ BHTN khác. Tuy nhiên, nghiên cứu này được thực hiện trước khi chính sách BHTN có hiệu lực và chưa đề cập đến quỹ BHTN cũng như quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam.
- Nguyễn Vinh Quang (2009) nghiên cứu các mô hình và kinh nghiệm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp trên thế giới với mục đích đưa ra các thông tin cô đọng và khái quát bức tranh về các mô hình BHTN điển hình trên thế giới tại các nước phát triển, các nước đang phát triển và các nước chuyển đổi. Về cơ sở lý thuyết, chuyên đề đưa ra một số định nghĩa về BHTN như: Trong Công ước 102/1952 về An sinh xã hội (Các
11
Tiêu chuẩn tối thiểu) và Công ước 168/1988 về thúc đẩy việc làm và bảo đảm người lao động chống lại thất nghiệp, ILO đã xác định: BHTN là một hình thức bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo chi trả một khoản trợ cấp tối thiểu trong một thời gian giới hạn cho những cá nhân bị thất nghiệp mà không do lỗi của họ, gây ra việc mất thu nhập mà họ và gia đình họ dựa vào đó; Từ điển bách khoa toàn thư Columbia định nghĩa: BHTN là loại hình bảo hiểm chống lại sự mất thu nhập trong khoảng thời gian một người lao động khoẻ mạnh bị thất nghiệp một cách không tự nguyện. Mục đích của hình thức bảo hiểm này là cung cấp một khoản trợ cấp tối thiểu cho người lao động bị thất nghiệp đến khi họ tìm lại được việc làm; Từ điển bách khoa toàn thư Britannica định nghĩa: BHTN là một loại hình BHXH được xây dựng nhằm đền bù cho người lao động trong một giai đoạn ngắn hạn do bị thất nghiệp không tự nguyện. Mục đích cơ bản của BHTN là cung cấp sự trợ giúp tài chính cho các lao động mất việc trong một khoảng thời gian đủ để cho phép họ tìm việc làm khác hoặc được thuê lại làm công việc cũ.
Trong chuyên đề này, tác giả tập trung nghiên cứu các yếu tố như: Đối tượng tham gia, nguồn đóng góp, điều kiện hưởng, trường hợp loại trừ, các hình thức cung cấp chế độ BHTN, mức hưởng, thời gian hưởng và cơ quan thực hiện. Các yếu tố này được đưa vào phân tích so sánh tại các nước phát triển bao gồm: các nước Bắc Âu, Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Hàn Quốc; Các nước đang phát triển bao gồm: các nước Mỹ Latinh, Thái Lan; Và tại các nước chuyển đổi bao gồm các nước Đông Âu và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, chuyên đề đã khái quát, đánh giá mô hình BHTN tại các nước và đưa ra bốn khuyến nghị: Thứ nhất, đối tượng tham gia nên mở rộng diện bao phủ chế độ BHTN; Thứ hai, thời gian hưởng nên quy định theo cả độ tuổi và thời gian đóng góp bảo hiểm thay vì chỉ dựa vào thời gian đóng bảo hiểm; Thứ ba, quản lý hành chính cần thiết lập một cơ chế phối hợp cụ thể giữa các cơ quan liên quan để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động và công tác quản lý đối tượng; Thứ tư, hình thức cung cấp chế độ cần được đa dạng hoá.
Nghiên cứu đã chỉ ra một số vấn đề liên quan đến quản lý thu BHTN, như: đối tượng tham gia, nguồn đóng góp; một số vấn đề liên quan đến quản lý chi BHTN, như: mức hưởng, điều kiện hưởng, thời gian hưởng; và một số vấn đề về tổ chức thực hiện chính sách BHTN. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa đề cập đến quỹ BHTN cũng như quản lý quỹ BHTN tại các nước trên thế giới và được thực hiện trước khi chính sách BHTN ở Việt Nam có hiệu lực thi hành.
- Phạm Trường Giang (2010) nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế thu Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam với mục đích nghiên cứu sự phối hợp giữa các bộ phận trong hệ thống thu BHXH từ đó phát hiện ra những hạn chế, bất cập nhằm đưa ra
12
những giải pháp hoàn thiện cơ chế thu BHXH ở Việt Nam.
Luận án đã hệ thống hoá cơ sở lý luận và làm rõ khái niệm, vai trò của thu BHXH từ đó đưa ra khái niệm về cơ chế thu BHXH, nội dung cơ bản của cơ chế thu BHXH. Trong quá trình phân tích thực trạng cơ chế thu BHXH ở Việt Nam, cơ chế thu BHXH được đánh giá phải đảm bảo qua 5 tiêu chí, cụ thể: tính minh bạch, tính thuận tiện, tính hiệu quả, tính kiểm soát, tính trôi chảy trong vận hành. Và một số chỉ tiêu cơ bản đánh giá cơ chế thu BHXH là: tỷ lệ lao động tham gia BHXH, kết quả cấp sổ BHXH, tỷ lệ nợ đóng BHXH, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch thu BHXH. Sau khi đánh giá các tiêu chí, tác giả đưa ra những kết quả đạt được và một số hạn chế về cơ chế thu BHXH như: Việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc còn chậm, sự phối hợp chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên, hoạt động thu nộp phí BHXH chưa thuận tiện, sự kiểm soát đối với hoạt động thu BHXH chưa chặt chẽ, tỷ lệ lao động tham gia BHXH thấp, ứng dụng CNTT trong hoạt động thu BHXH còn nhiều hạn chế. Với những hạn chế đó, tác giả đã đưa ra nhiều nhóm giải pháp, trong đó tập trung vào các giải pháp hoàn thiện cơ chế thu BHXH: Hoàn thiện các quy định về thu BHXH; Tăng cường quan hệ công chúng vào hoạt động BHXH; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; Ứng dụng CNTT và cải cách hành chính.
Đây là một công trình nghiên cứu công phu và có hệ thống về cơ chế thu BHXH. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ có tính tương đồng với luận án và được kế thừa để nghiên cứu về hoạt động thu BHTN do cơ quan BHXH thực hiện thu đồng thời với BHXH.
- Nguyễn Thị Chính (2010) nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến công tác tổ chức và hoạt động chi trả các chế độ BHXH cho người lao động, đánh giá thực trạng từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động chi trả các chế độ BHXH cho người lao động ở Việt Nam. Tác giả đã tiếp cận cơ sở lý thuyết khá chi tiết về BHXH trong đó có quỹ BHXH, nghiên cứu các kinh nghiệm về tổ chức chi trả các chế độ BHXH tại Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Pháp… và đưa ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thực trạng hệ thống tổ chức chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam được tác giả phân tích rất chi tiết, từ quy trình chi trả các chế độ BHXH đến phân tích các tồn tại của hoạt động chi trả các chế độ BHXH. Qua đó, tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam như: Giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức chi trả BHXH; Giải pháp hoàn thiện hoạt động chi trả BHXH; Hoàn thiện phương thức chi trả; Quản lý chặt chẽ nguồn kinh phí chi trả; Tăng cường phương tiện phục vụ công tác chi trả; Kiện toàn công tác cán bộ; Tăng cường kiểm tra, thanh tra trong các khâu chi trả; Quản lý chặt chẽ chi trả các chế độ
13
BHXH ngắn hạn; tăng lệ phí chi trả…
Nghiên cứu này đề cập sâu đến quản lý chi trả chế độ BHXH và quỹ BHXH, những vấn đề tương đồng với luận án đang nghiên cứu. Vì vậy, sẽ được kế thừa để nghiên cứu những vấn đề liên quan mà luận án đề cập.
- Lê Quang Trung (2011) nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực trạng tham gia BHTN của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong thời gian qua và khuyến nghị các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp này tham gia BHTN giai đoạn đến năm 2020. Qua nghiên cứu cơ sở lý thuyết, đề tài đưa ra một số khái niệm cơ bản và vai trò, đặc điểm phân loại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đặc biệt, đề tài chỉ ra các yếu tố tác động đến việc tham gia BHTN của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như: Các quy định của pháp luật về BHTN, việc tuyên truyền và nâng cao nhận thức về BHTN, việc tổ chức triển khai và thực hiện chính sách BHTN, vai trò của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện chính sách BHTN, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm hành chính về BHTN. Đồng thời đề tài nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và thực hiện chính sách BHTN của một số nước trên thế giới.
Nghiên cứu thực trạng tham gia BHTN của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đề tài rút ra một số tồn tại, đó là: về mặt nhận thức của người lao động, chủ sử dụng lao động và các cơ quan tổ chức có liên quan còn rất hạn chế. Mặt khác, còn tồn tại một số khó khăn trong công tác thu BHTN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi đơn vị lách luật về đối tượng tham gia hay nói cách khác là thiếu bình đẳng trong hỗ trợ doanh nghiệp lớn và nhỏ bởi giới hạn số lượng lao động để tham gia BHTN; hoặc trụ sở đơn vị không rõ ràng gây khó khăn cho cơ quan quản lý thực hiện thu BHTN. Để khắc phục những tồn tại đó, đề tài đưa ra bốn giải pháp nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia BHTN trong thời gian tới. Cụ thể, với giải pháp 1: Giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHTN, đề xuất mở rộng đối tượng tham gia BHTN, quy định trách nhiệm của chủ sử dụng lao động trong việc tham gia BHTN và các cơ quan thực hiện chính sách, đồng thời quy định về thanh tra, kiểm tra, rà soát tình hình tham gia BHTN; Giải pháp 2: giải pháp về tổ chức thực hiện, tăng cường thông tin tuyên truyền, tập huấn thực hiện chính sách; Giải pháp 3: giải pháp về thanh tra, kiểm tra và phát hiện các vi phạm, xử lý các vi phạm; Giải pháp 4: các giải pháp hỗ trợ khác.
Tuy nhiên, liên quan đến quỹ BHTN và quản lý quỹ BHTN lại được trình với nội dung rất hạn chế, có chăng chỉ đề cập đến các yếu tố có liên quan đến việc hình thành và sử dụng quỹ, như: chính sách, pháp luật, đối tượng tham gia, mức đóng, thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật…
14
- Trung tâm phát triển xã hội và môi trường vùng (CERSED) (2013) nghiên cứu, phân tích và đánh giá tình hình hoạt động của quỹ BHTN trong giai đoạn 2009 - 2012, xác định các yếu tố đầu vào, yếu tố đầu ra cũng như các yếu tố tác động tới tình hình hoạt động của quỹ. Đánh giá, dự báo tình hình phát triển của quỹ, tính bền vững của quỹ trong bối cảnh có những thay đổi của các yếu tố có liên quan. Và đề xuất mô hình chuyển đổi xây dựng quỹ bảo hiểm việc làm dựa trên quỹ BHTN.
Nghiên cứu phân tích thực trạng hoạt động quỹ BHTN giai đoạn 2009 - 2012. Cụ thể: Đối với hoạt động thu BHTN là thực trạng về đối tượng tham gia và thu BHTN. Đối với hoạt động chi là thực trạng về các hoạt động như chi trợ cấp thất nghiệp, chi tư vấn, giới thiệu việc làm, chi hỗ trợ đào tạo nghề, chi BHYT, chi phí quản lý. Qua đó, chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu BHTN gồm 3 yếu tố: đối tượng tham gia, mức hỗ trợ của Nhà nước, mức đóng. Và các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động chi của quỹ BHTN gồm 7 yếu tố: xác định nguyên nhân nghỉ việc, thời gian đăng ký thất nghiệp, trợ cấp thất nghiệp một lần, xác định mức trần hưởng và mức sàn hưởng, thời gian tính trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề và giới thiệu việc làm, chi khác. Đồng thời nghiên cứu cũng dự báo tình hình phát triển quỹ BHTN đến năm 2025 và đưa ra một số khuyến nghị.
Đây là một trong những nghiên cứu khá đầy đủ cả về hoạt động thu và chi trả trợ cấp thất nghiệp. Trên cơ sở đó, dự báo tình hình phát triển quỹ BHTN qua các nhân tố ảnh hưởng đến nó với thước đo cụ thể cho từng nhân tố. Tuy nhiên, dưới góc độ quản lý quỹ BHTN thì đề tài này lại chưa đề cập đến.
- Lê Thị Phương Thảo (2014) đã nghiên cứu và làm rõ thêm cả về lý luận và thực tiễn về BHTN, quản lý quỹ BHTN; Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý quỹ BHTN tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hưng Yên, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác quản lý quỹ BHTN tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hưng Yên.
Trong nghiên cứu này, tác giả đã đề cập đến cơ sở lý luận về quản lý quỹ BHTN, kinh nghiệm quản lý quỹ BHTN và bài học rút ra cho tỉnh Hưng Yên. Tuy nhiên, tác giả chưa làm rõ được những nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Đồng thời, chưa có bộ chỉ tiêu để đánh giá những nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN. Mặt khác, phần lý luận về quản lý quỹ BHTN trình bày còn sơ sài, chưa có tính hệ thống và phạm vi nghiên cứu ở một tỉnh…
- Trần Quang Lâm (2016) nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn về những nhân tố tác động đến nguồn thu của quỹ BHYT nói chung và ở Việt Nam nói riêng để đưa ra các
15
nhóm giải pháp phù hợp nhằm phát triển nguồn thu của quỹ BHYT.
Luận án đã bổ sung vào hệ thống cơ sở lý luận về quỹ BHYT và nguồn thu của quỹ BHYT. Đặc biệt, nghiên cứu đã phân tích và chỉ ra nhiều nhân tố tác động đến nguồn thu của quỹ BHYT, bao gồm: Chính sách pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội, công tác tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật, chất lượng KCB, tổ chức thu, đối tượng tham gia, mức đóng góp BHYT v.v... Nghiên cứu đã phân tích từng nhân tố và cho rằng, các nhân tố trên đều có tác động tổng hợp đến nguồn thu, nhưng số lượng đối tượng tham gia và mức đóng góp BHYT có tác động mạnh và trực tiếp đến nguồn thu của quỹ BHYT. Qua phân tích thực trạng ở Việt Nam, nghiên cứu lý giải các nhân tố có tác động mạnh nhất đến nguồn thu đó là: Chính sách pháp luật về BHYT. Do chính sách pháp luật được điều chỉnh kịp thời và hợp lý nên số đối tượng tham gia tăng nhanh, mức đóng cũng tăng nhanh từ đó làm tổng thu BHYT tăng, góp phần cân đối thu - chi quỹ BHYT; và Chất lượng KCB BHYT còn nhiều yếu kém, đây là nhân tố không chỉ tác động trước mắt, mà còn tác động rất lâu dài đến nguồn thu. Chính vì vậy, nghiên cứu này đã đưa ra các giải pháp chủ yếu tập trung vào hoàn thiện chính sách, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh BHYT…
Đây là một trong những nghiên cứu mà tác giả tổng quan do có tính tương đồng về quỹ BHYT, nguồn thu của quỹ BHYT với quỹ và quản lý quỹ BHTN. Do đó, nghiên cứu này sẽ được tác giả kế thừa để nghiên cứu về vấn đề mà luận án đang đề cập đến.
- Nguyễn Quang Trường (2016) quan điểm hiệu quả quản lý nhà nước về BHTN được thể hiện qua nhiều khía cạnh như: số người tham gia BHTN tăng lên hằng năm, quỹ BHTN phải an toàn và phát triển, trợ cấp bằng tiền cho người thất nghiệp và giải quyết tốt việc làm cho người thất nghiệp, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về BHTN và phân tích, đưa ra một số các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về BHTN, như: (i) trình độ phát triển của nền kinh tế, (ii) phạm vi bao phủ, (iii) chu kỳ kinh doanh, (iv) sự phát triển của thị trường lao động, (v) tập quán của dân cư, (vi) ý thức tuân thủ chính sách của người tham gia BHTN, (vii) mô hình quản lý BHTN. Một số hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHTN được tác giả đánh giá qua thực trạng về chính sách như: chưa cụ thể, rõ ràng trong việc xác định đối tượng, phạm vi tham gia BHTN, hay mức đóng, mức hưởng BHTN chưa thực sự hợp lý; tình trạng đơn vị sử dụng lao động nợ đọng tiền BHTN vẫn diễn ra làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động; tình trạng trục lợi quỹ BHTN xảy ra cả với người lao động và người sử dụng lao động,... Theo tác giả, quỹ BHTN có kết dư cao, được cơ quan BHXH quản lý tốt và dự báo quỹ vẫn đảm bảo an toàn đến năm 2020. Tuy nhiên, nếu chính sách trong thời gian tới có một số điểm thay đổi
16
mà không có phương án dự báo quỹ trong dài hạn thì có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối.
Qua phân tích thực trạng, tác giả đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHTN. Tuy nhiên, trong nghiên cứu, tác giả chưa có những lý giải, phân tích rõ nguyên nhân quỹ BHTN hiện nay ngày một thặng dư lớn. Do vậy, nghiên cứu này cũng sẽ được luận án kế thừa, phân tích và đánh giá nhằm làm rõ những vấn đề mà luận án đang đề cập.
Trên đây là tổng quan các công trình nghiên cứu mà tác giả cho là thiết thực, có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án. Còn nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu, sách, báo tạp chí có liên quan được tác giả đề cập trong phần tài liệu tham khảo.
5.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả nhận thấy còn nhiều
khoảng trống nghiên cứu liên quan đến quản lý quỹ BHTN, cụ thể:
Khoảng trống lý thuyết: khái niệm về bảo hiểm thất nghiệp, quỹ BHTN và quản lý quỹ BHTN, phân biệt quỹ BHTN với các quỹ BHXH, hệ thống chỉ tiêu liên quan đến quản lý quỹ BHTN, những nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN.
Khoảng trống về phương pháp nghiên cứu: Phần lớn các công trình nghiên cứu chủ yếu dựa trên nguồn số liệu thứ cấp, còn nguồn số liệu sơ cấp thông qua điều tra, khảo sát còn rất hạn chế. Các phương pháp áp dụng trong nghiên cứu chủ yếu là các phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, mô tả…
Khoảng trống về thực tế: Quản lý quỹ BHTN cần được phân tích toàn diện, chi
tiết, khách quan về tổ chức thực hiện trên phạm vi cả nước.
Quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam được nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ tổ chức thực hiện do cơ quan BHXH đảm nhiệm. Vì vậy, các giải pháp và kiến nghị của Luận án đều hướng tới hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN, kiến nghị sửa đổi chính sách, mô hình quản lý ở Việt Nam.
6. Khung lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở tổng quan nghiên và các khoảng trống trong các nghiên cứu trước,
tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu dự kiến như sau:
17
Hình 1: Mô hình nghiên cứu dự kiến
Trong mô hình nghiên cứu dự kiến, bảy nhân tố tác động tới quản lý quỹ BHTN bao gồm: Chính sách pháp luật, Tổ chức triển khai chính sách pháp luật, Tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật, Chất lượng nguồn nhân lực, Thanh tra, kiểm tra và giám sát, Ứng dụng công nghệ thông tin và Điều kiện kinh tế - xã hội.
Để đơn giản hoá trong việc phân tích thì hoạt động quản lý quỹ BHTN được giả sử ảnh hưởng bởi 3 nhóm nhân tố lớn: (i) Chính sách pháp luật, (ii) Chất lượng nguồn nhân lực và (iii) Điều kiện kinh tế - Xã hội. Cụ thể, chính sách pháp luật được thể hiện qua các chỉ tiêu như đối tượng tham gia và thụ hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp, quy trình tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN; Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua các tiêu chí như trình độ học vấn của cán bộ quản lý, kỹ năng giao tiếp, tác phong làm việc, am hiểu chính sách pháp luật và thành thạo tin học, ngoại ngữ; Điều kiện kinh tế - xã hội thể hiện qua các tiêu chí như cơ sở hạ tầng trong thực hiện quản lý quỹ BHTN, sự phù hợp của chính sách với mục tiêu và định hướng phát triển quốc gia và sự thúc đẩy sản xuất kinh doanh với việc trích nộp BHTN, thực hiện chính sách pháp luật về BHTN tạo đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
7. Những đóng góp mới của Luận án
18
- Về mặt lý luận và học thuật:
+ Luận án nghiên cứu và làm rõ các khái niệm về BHTN, quỹ và quản lý quỹ
BHTN;
+ Xác định những nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN, lý giải làm rõ nội
dung của từng nhân tố;
+ Xác định và lựa chọn các chỉ tiêu phục vụ công tác quản lý quỹ BHTN.
- Những đóng góp mới rút ra từ kết quả nghiên cứu:
+ Phân tích và làm rõ thực trạng quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam (2011 - 2015).
+ Phân tích những nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam bao gồm cả chính sách, pháp luật về BHTN; điều kiện kinh tế - xã hội; đối tượng tham gia và thụ hưởng chính sách; mức đóng góp, mức thụ hưởng; công tác tổ chức quản lý thu, chi và cân đối quỹ BHTN; công tác tuyên truyền và phổ biến chính sách pháp luật; công tác kiểm tra, thanh tra BHTN và sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan đến BHTN;… Đồng thời, tác giả đã tiến hành điều tra cả người thụ hưởng chính sách và những người trực tiếp tổ chức triển khai chính sách BHTN để từ đó xác định 3 nhân tố ảnh hưởng đến quản lý quỹ BHTN một cách khoa học, khách quan: chính sách pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội, chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan quản lý quỹ BHTN.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN, bao gồm cả các giải pháp về chính sách và tổ chức thực hiện chính sách BHTN ở Việt Nam.
8. Kết cấu Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục... Luận án
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Chương 2: Thực trạng quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
19
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
1.1. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Khái quát về bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp là một phạm trù kinh tế - xã hội gắn với sự ra đời của sản xuất hàng hoá và phân công lao động xã hội, giúp cho người lao động giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình khi bị mất việc làm, tái hoà nhập thị trường lao động.
- Theo ILO Convention (1952) và ILO Convention (1988): Bảo hiểm thất nghiệp là một hình thức bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo chi trả một khoản trợ cấp tối thiểu trong một thời gian giới hạn cho những cá nhân bị thất nghiệp mà không do lỗi của họ, gây ra việc mất thu nhập mà họ và gia đình họ dựa vào đó.
Bảo hiểm thất nghiệp thường chỉ đảm bảo cho những người lao động có thu nhập định kỳ, bởi vì theo lý thuyết những đối tượng này dễ gặp phải rủi ro thất nghiệp không tự nguyện. Vì vậy, người lao động tự tạo việc làm (hay còn gọi là lao động tự do) và các lao động thời vụ thường không được bao gồm trong các chương trình BHTN.
- Columbia Encyclopidia (2008) đưa ra khái niệm: Bảo hiểm thất nghiệp là loại hình bảo hiểm chống lại sự mất thu nhập trong khoảng thời gian một người lao động khoẻ mạnh bị thất nghiệp một cách không tự nguyện. Mục đích của hình thức bảo hiểm này là cung cấp một khoản trợ cấp tối thiểu cho người lao động bị thất nghiệp đến khi họ tìm lại được việc làm.
- Britiannica Encyclopidia (2008) cho rằng: Bảo hiểm thất nghiệp là một loại hình bảo hiểm xã hội được xây dựng nhằm đền bù cho người lao động trong một giai đoạn ngắn do bị thất nghiệp không tự nguyện. Mục đích cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp là cung cấp sự trợ giúp tài chính cho các lao động mất việc trong một khoảng thời gian đủ để cho phép họ tìm việc làm khác hoặc được thuê lại làm công việc cũ...
- Lê Thị Hoài Thu (2008) nghiên cứu dưới góc độ pháp lý, Bảo hiểm thất nghiệp (một dạng thuộc hệ thống chế độ BHXH) là tổng hợp những quy định của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực đảm bảo điều kiện vật chất cho người lao động đang có việc làm mà bị mất việc vì lý do khách quan,
20
cũng như trong lĩnh vực giúp người thất nghiệp trở lại với thị trường lao động.
- Bảo hiểm thất nghiệp là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động trong trường hợp bị mất việc làm và đang có nhu cầu tìm việc, đồng thời bao gồm một số biện pháp giúp họ trở lại với thị trường lao động (Nguyễn Tiệp, 2011).
Như vậy, khái niệm về BHTN ở các nước tuy câu chữ có khác nhau, song đều
thống nhất ở những khía cạnh chủ yếu sau:
+ BHTN là loại hình bảo hiểm độc lập với BHXH, nhưng lại có quan hệ chặt
chẽ với BHXH.
+ Mục đích của BHTN nhằm đảm bảo thu nhập tối thiểu cho người lao động khi họ bị mất việc làm, giúp họ và gia đình tiếp tục ổn định cuộc sống và sớm trở lại làm việc.
+ Nguyên nhân mất việc làm không phải lỗi của người lao động.
+ Phần thu nhập của người lao động bị mất đi do bị mất việc làm sẽ được
BHTN bù đắp, nhưng chỉ bù đắp trong một khoảng thời gian nhất định.
Tuy nhiên, các khái niệm trên chủ yếu chỉ đề cập đến việc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động bị thất nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định mà chưa đề cập đến việc bảo hiểm cho người lao động tránh khỏi tình trạng thất nghiệp bằng những biện pháp đảm bảo việc làm trong ngắn hạn hoặc dài hạn cho người lao động. Đây cũng là một trong những biện pháp ở một số nước trên thế giới áp dụng trong chương trình bảo hiểm việc làm nhằm hạn chế tối đa việc sa thải người lao động.
1.1.1.2. Bản chất của bảo hiểm thất nghiệp
Xuất phát từ những phân tích trên, theo tác giả: “Bảo hiểm thất nghiệp là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập trong một khoảng thời gian nhất định cho người lao động bị thất nghiệp, nhằm ổn định cuộc sống cho họ và gia đình, giúp người thất nghiệp sớm quay lại thị trường lao động và hạn chế tình trạng sa thải lao động bằng các biện pháp hỗ trợ của quỹ BHTN, từ đó góp phần đảm bảo ASXH.”
Dù khái niệm có khác nhau, song bản chất của BHTN thể hiện ở chỗ: BHTN là sự đảm bảo những khoản trợ cấp tối thiểu trong một khoảng thời gian nhất định để người lao động bị thất nghiệp ổn định cuộc sống.
BHTN là nhu cầu khách quan, đa dạng, phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội hoạt động theo cơ chế thị trường. Khi mối quan hệ thuê mướn lao động ngày càng phát
21
triển, kinh tế phát triển thì thị trường lao động cũng phát triển và có sự biến động không ngừng. Đặc biệt là những biến cố, rủi ro làm cho người lao động mất việc làm mà không phải do lỗi của họ, như: bị sa thải, chấm dứt quan hệ lao động,... thường xảy ra khi người sử dụng lao động chuyển đổi hoặc thu hẹp sản xuất kinh doanh và những biến động lớn như khủng hoảng nền kinh tế,...Do vậy, mối quan hệ trong BHTN phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHTN (người lao động và người sử dụng lao động), tổ chức quản lý BHTN (tổ chức nhận nhiệm vụ quản lý quỹ BHTN) và Nhà nước.
Nguồn tài chính để bù đắp một phần thu nhập tối thiểu cho người thất nghiệp trong khoảng thời gian nhất định, đồng thời đáp ứng nhu cầu của người thất nghiệp được đào tạo, học nghề và giới thiệu việc làm để có thể sớm quay trở lại thị trường lao động được cung cấp từ quỹ BHTN. Ngoài ra, quỹ còn có thể sử dụng vào mục đích hạn chế tình trạng sa thải lao động bằng các biện pháp hỗ trợ đào tạo, duy trì việc làm cho người lao động,... Quỹ được hình thành từ người lao động, người sử dụng lao động đóng góp và có thể được Nhà nước bảo hộ, hỗ trợ. Với tư cách là một trong những chính sách an sinh xã hội quan trọng, Nhà nước phải can thiệp và bảo vệ quyền lợi cho người lao động khi bị thất nghiệp. Do vậy, Nhà nước phải có trách nhiệm sử dụng ngân sách trong trường hợp sự đóng góp của các bên tham gia không đủ để bù đắp các khoản trợ cấp cho người thất nghiệp.
1.1.1.3. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp
- Bảo hiểm thất nghiệp cũng giống như nhiều loại hình bảo hiểm khác, đó là hoạt động dựa trên nguyên tắc “cộng đồng - lấy số đông bù số ít”, nghĩa là dùng số tiền nhỏ được đóng góp từ số đông người tham gia BHTN để chia sẻ, bù đắp cho số ít người thất nghiệp với số tiền lớn hơn so với số đóng góp của từng người khi thất nghiệp.
Bảo hiểm thất nghiệp có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia, đó là:
a. Bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi bị mất việc làm, giúp họ và gia đình ổn định cuộc sống
Thất nghiệp là rủi ro bị mất việc làm mà không một người lao động nào mong muốn. Khi bị thất nghiệp, thu nhập của người lao động bị mất toàn bộ. Vì thế, nếu họ có tham gia BHTN, họ sẽ được bù đắp một phần thu nhập bị mất đi từ quỹ BHTN chi trả do các bên tham gia đóng góp. Cho dù khoản thu nhập được bù đắp thấp hơn thu nhập của người lao động trước khi bị thất nghiệp, song vẫn góp phần ổn định cuộc
22
sống của họ và gia đình, đặc biệt là ổn định cuộc sống ngay sau những ngày bị thất nghiệp, cũng như thông qua các chế độ, giúp người thất nghiệp có những cơ hội về việc làm để trở lại thị trường lao động. Chính vì điều này, những hệ lụy mà tình trạng thất nghiệp gây ra sẽ được kiểm soát, xã hội vì thế sẽ đảm bảo ổn định bền vững, nhiều tệ nạn sẽ được đẩy lùi,...
b. Phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHTN
Trong thực tế, chỉ có một bộ phận người lao động bị mất việc làm trở thành thất nghiệp do các nguyên nhân khách quan và không ai mong muốn. Do đó, só người hưởng trợ cấp thất nghiệp tất yếu ít hơn số người tham gia đóng góp bắt buộc vào quỹ BHTN. Từ đó hình thành nguyên tắc BHTN là “lấy số đông bù số ít”. Nguyên tắc này thể hiện việc phân phối lại thu nhập giữa những người lao động có thu nhập khác nhau, giữa những người có thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa những người đóng góp đều đặn và không đều đặn vào quỹ BHTN. Như vây, vai trò BHTN không những phân phối lại thu nhập mà còn góp phần thực hiện công bằng xã hội.
c. Động viên người lao động hăng hái làm việc
Người lao động sẽ thực sự yên tâm do có chỗ dựa vững chắc khi được đảm bảo việc làm bằng các biện pháp hỗ trợ nhằm hạn chế việc bị sa thải và được chi trả các chế độ thất nghiệp nếu như tham gia BHTN và đủ điều kiện hưởng. Chính vì vậy, người lao động sẽ gắn bó với công việc, tích cực làm việc để tăng thêm nguồn thu nhập và cũng từ đó có điều kiện tăng mức đóng BHTN để lúc nào đó có thể sẽ được hưởng chế độ. Đó là quan hệ hai chiều mang tính chất tích cực của BHTN đối với người lao động.
d. Quỹ BHTN nhàn rỗi sẽ góp phần đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội
Các nguồn thu chủ yếu từ đối tượng tham gia đã tồn tích, hình thành quỹ BHTN, trong thời gian nhàn rỗi có thể đầu tư một phần vào các hoạt động kinh tế để sinh lời, tăng thêm nguồn thu cho quỹ BHTN. Khoản đầu tư này vừa góp phần phát triển sản xuất - kinh doanh, vừa đảm bảo an toàn cho quỹ BHTN khỏi bị mất giá để chi trả trợ cấp BHTN cho người lao động.
e. Cùng với các loại hình bảo hiểm khác, BHTN còn góp phần đảm bảo an sinh xã hội
Ngoài BHTN, trong điều kiện kinh tế thị trường còn có BHXH, BHYT, bảo hiểm thương mại,... Tất cả các loại hình bảo hiểm ngày nay đều đóng vai trò là trụ cột chính của hệ thống các chính sách, các chương trình đảm bảo an sinh xã hội quốc gia. Bởi các loại hình bảo hiểm đều dựa trên mối quan hệ đóng, hưởng, trên cơ sở hình
23
thành quỹ do các bên tham gia đóng góp. Vì thế, các rủi ro mà đối tượng gặp phải đều được quỹ bảo hiểm bù đắp, chi trả hoặc bồi thường. Từ đó, góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Ngày nay, chính sách BHTN ngày càng được thế giới khẳng định, quan tâm và đánh giá rất cao.
1.1.2. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm và nguồn hình thành quỹ BHTN
Để triển khai các chương trình BHTN hay BHVL, chính sách và pháp luật các nước đều quy định rõ nguồn tài chính để thực hiện. Hạt nhân tài chính BHTN hay BHVL chính là quỹ BHTN được hình thành từ các bên tham gia đóng góp (nếu như BHTN được triển khai độc lập với BHXH). Còn nếu trợ cấp thất nghiệp được coi là một trong các chế độ BHXH thì quỹ trợ cấp thất nghiệp có thể là một quỹ thành phần hoặc cũng có thể được hình thành, quản lý thống nhất, tập trung và gọi chung là quỹ BHXH. Nội dung được đề cập ở đây là quỹ BHTN và nguồn hình thành quỹ BHTN trong BHTN, không phải trong chế độ trợ cấp thất nghiệp.
Quỹ BHTN ra đời, tồn tại và phát triển gắn với sản xuất hàng hoá cũng như sự thuế mướn nhân công của giới chủ với mục đích chính là thay thế, bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải rủi ro mất việc làm và giúp họ được đào tạo, giới thiệu, tìm kiếm việc làm để sớm quay lại thị trường lao động. Chính vì vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu và quản lý đều cho rằng: Quỹ BHTN phải là một quỹ tiền tệ tập trung do các bên tham gia đóng góp. Song, Nhà nước cũng phải có trách nhiệm hỗ trợ và bảo hộ.
Theo ILO Convention (1952), ILO Convention (1988), khuyến nghị rằng các loại trợ cấp và chi phí quản lý chương trình BHTN/ BHVL phải có nguồn tài chính tập thể từ đóng bảo hiểm, hoặc từ thuế để tránh tạo ra gánh nặng đối với người lao động thu nhập thấp và đề xuất các quốc gia phải chịu trách nhiệm quản lý chương trình này hiệu quả, bao gồm cả tính toán cần thiết và đánh giá tài chính định kỳ. Kinh phí hoạt động của các chương trình này được đảm bảo từ nguồn đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và ngân sách Nhà nước. Trong một số trường hợp ngân sách chương trình được ba bên chia sẻ đóng góp theo thoả thuận (chi tiết tại Bảng 1.1).
24
Bảng 1.1: Tỷ lệ đóng góp BHTN/BHVL ở một số nước trên thế giới
Ghi chú
Quốc gia
Đơn vị
Người lao động
Nhà nước
Bahrain
%
1%
Người sử dụng lao động 1%
1%
70%
thường
%
Đan Mạch
Mức phí cố định, 30% chi phí
chi phí
thông Phí khoảng 70 - 80 USD
Đức
%
1,5%
1,5%
%
0,55%
Hàn Quốc
0,55% + 0,25% (<150) đến 0,65% (>1000)
Người sử dụng lao động chỉ đóng cho Quỹ đảm bảo Việc làm và Đào tạo phát triển kỹ năng nghề
Mỹ
%
3,2%
Dao động từ 1,4% đến 6,7% tuỳ từng bang
0,6% +
25%
Nhật Bản %
0,6%
0,35%
chi phí
Chỉ có người sử dụng lao động đóng góp cho "Hai dịch vụ"
Thái Lan %
0,5%
0,5%
0,25%
Việt Nam %
1%
1%
1%
Nguồn: Carter, J., Bédard, M., & Bista, C. P. (2013)
Nhìn chung, các quốc gia đã triển khai các chương trình BHTN/BHVL trong một thời gian dài thường có chi phí và mức đóng bảo hiểm cao hơn, đặc biệt tại các quốc gia Châu Âu, trong khi các nước mới triển khai các chương trình này thời gian gần đây có xu hướng áp dụng mức trợ cấp và chi phí thấp hơn. Bên cạnh phần đóng góp vào quỹ BHTN/ BHVL, một số quốc gia yêu cầu người sử dụng lao động đóng góp thêm vào các chương trình hỗ trợ việc làm như: Nhật Bản, Hàn Quốc... Các nước này ưu tiên các chương trình xúc tiến việc làm nhằm hỗ trợ người thất nghiệp có việc làm và duy trì việc làm dài hạn. Quỹ này phần lớn được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động, Nhà nước có thể hỗ trợ một phần. Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của quốc gia mà mỗi nước có quy định về đối tượng đóng góp, mức đóng góp và cách thức đóng góp vào quỹ khác nhau và được bổ sung bởi lãi đầu tư từ phần quỹ nhàn rỗi.
Các quốc gia trên sử dụng quỹ BHTN chi theo những nội dung chương trình BHTN/BHVL khác nhau, không chỉ giới hạn trong trợ cấp thất nghiệp và các chi phí quản lý tương ứng, mà còn gồm cả chi phí chương trình dịch vụ việc làm quốc gia,
25
hoặc chi phí của một loạt các chương trình phát triển kỹ năng nghề và các biện pháp hỗ trợ tái tìm việc làm, đôi khi còn gồm cả các chương trình khẩn cấp hoặc tạm thời.
Ở một khía cạnh khác, so sánh với quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ BHTN là quỹ ngắn hạn với mục tiêu quan trọng nhất là nhằm duy trì việc làm, hỗ trợ tư vấn giới thiệu việc làm, đào tạo tay nghề cho người lao động thất nghiệp để họ sớm tìm được việc làm; đồng thời hỗ trợ, bù đắp một phần thu nhập của người lao động trong thời gian thất nghiệp, được gắn liền với tác động của thị trường lao động như: thất nghiệp, chính sách việc làm và kỹ năng nghề,...; Do đó, quỹ BHTN phải được kết dư theo một tỷ lệ nhất định để thực hiện các chính sách thị trường lao động chủ động và các chính sách thụ động. Còn quỹ BHXH có trụ cột chính là bảo hiểm hưu trí, là quỹ dài hạn với mục tiêu chính là bảo đảm, thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi nghỉ hưu,... gắn liền với tác động sinh học của con người như: ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất,... Vì vậy, quỹ BHXH cần phải được đầu tư và kết dư lớn nhằm đảm bảo chi trả cho các chế độ hưu trí, tử tuất trong dài hạn.
Quy mô của Quỹ BHTN phụ thuộc chủ yếu vào nguồn hình thành và sử dụng quỹ BHTN. Khi đối tượng tham gia BHTN ngày càng tăng, mức đóng góp BHTN dựa trên tiền lương, tiền công và tỷ lệ đóng góp càng tăng thì nguồn hình thành quỹ BHTN càng lớn và ngược lại. Quỹ BHTN được sử dụng chủ yếu vào mục đích chi trả trợ cấp thất nghiệp và các hoạt động nhằm đưa người thất nghiệp mau chóng trở lại thị trường lao động, như: chăm sóc y tế, đào tạo nghề, tìm kiếm và giới thiệu việc làm, hoạt động quản lý quỹ,... Khi tỷ lệ thất nghiệp càng cao, mức hưởng, thời gian hưởng dài sẽ làm cho quỹ chi trả càng lớn, điều này đồng nghĩa với việc trong thời gian này quỹ BHTN sẽ không được bổ sung nguồn đóng góp từ các đối tượng này, ảnh hưởng đa chiều đến quỹ BHTN. Do vậy, khi quỹ BHTN được cân đối, nghĩa là trong một khoảng thời gian nhất định, nguồn hình thành quỹ BHTN đảm bảo để sử dụng chi trả trợ cấp và có kết dư thì quy mô quỹ ngày càng lớn và ngược lại.
1.1.2.2. Đặc điểm của quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Từ những vấn đề trên, theo tác giả: “Quỹ BHTN là quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia với mục đích sử dụng chủ yếu để bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập trong một khoảng thời gian nhất định cho người lao động bị thất nghiệp; đồng thời, hỗ trợ đào tạo, giới thiệu việc làm để người thất nghiệp sớm quay lại thị trường lao động và hạn chế tình trạng sa thải lao động.”
Quỹ bảo hiểm thất nghiệp là quỹ tài chính tập trung được thiết lập nhằm đảm bảo bù đắp một phần thu nhập cho người lao động bị thất nghiệp và có các đặc điểm
26
chủ yếu sau:
Thứ nhất, Nhà nước là chủ thể duy nhất quy định việc hình thành và sử dụng quỹ BHTN với mục đích đảm bảo an sinh xã hội. Với những đạo luật được ban hành, Nhà nước quy định về mức phí đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ và mang tính bảo vệ, không mang tính bồi hoàn. Cũng như quy định về mức hưởng, điều kiện hưởng đối với từng chế độ để chi trả cho người thất nghiệp. Để tổ chức thực hiện các quy định trên, Nhà nước phải có một tổ chức quản lý quỹ BHTN để thực hiện hoạt động thu và chi trả chể độ BHTN theo các tiêu chuẩn, định mức đảm bảo chính xác, công bằng, công khai, minh bạch và hiệu quả.
Thứ hai, Quỹ BHTN là một quỹ tiền tệ tập trung mang tính cộng đồng xã hội. Hoạt động theo nguyên tắc cộng đồng, lấy số đông bù số ít, dùng tiền đóng góp của nhiều người tham gia để bù đắp cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số tiền đóng góp của từng người khi họ bị mất việc làm. Mặt khác, hoạt động của quỹ BHTN là một loại hoạt động dịch vụ công, mang tính cộng đồng, tính xã hội rất cao, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Do quỹ BHTN được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động nên khoản phí mà người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHTN được tính vào chi phí sản xuất để hình thành giá thành sản phẩm, dịch vụ và được xã hội tiêu dùng, sử dụng. Như vậy, thông qua việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ mà mọi người trong xã hội đã gián tiếp đóng góp vào quỹ BHTN.
Thứ ba, Quỹ BHTN ra đời, tồn tại và phát triển luôn gắn với mục đích chủ yếu đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi bị thất nghiệp. Do đó, tỷ lệ hưởng và thời gian hưởng trợ cấp BHTN hàng tháng được quy định trên nguyên tắc đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và được cân đối với mức đóng góp BHTN trước đó của người lao động. Khi xác định mức hưởng trợ cấp BHTN, một mặt, căn cứ vào khả năng chi trả của quỹ, mặt khác, còn đảm bảo khuyến khích người lao động chủ động tìm kiếm việc làm nhằm thoát khỏi tình trạng thất nghiệp.
Thứ tư, Quỹ BHTN luôn chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, trong đó, sự phát triển nền kinh tế xã hội luôn là yếu tố quan trọng và có tác động tổng hợp. Khi nền kinh tế phát triển, cơ hội việc làm cao, lực lượng lao động được sử dụng nhiều, sản phẩm, dịch vụ, hàng hóa được tạo ra lớn, thu nhập người lao động cao, do đó, mức đóng góp vào quỹ BHTN luôn tăng trưởng đều. Như vậy, tỷ lệ nghịch với nó là tình trạng thất nghiệp ngày càng thấp đi, quỹ BHTN sử dụng để chi trả cho người thất nghiệp vì thế cũng giảm theo tương ứng. Nguồn kết dư quỹ BHTN có thể sẽ được Nhà nước sử dụng vào những mục đích xã hội khác nhằm ổn định, phát triển kinh tế và
27
nâng cao chất lượng cuộc sống,... Ngược lại, nền kinh tế kém phát triển dẫn đến dư thừa lực lượng lao động do thất nghiệp, quỹ BHTN sẽ không tăng nguồn thu mà gia tăng chi trả chế độ BHTN dẫn đến mất cân đối quỹ BHTN. Hơn nữa, Nhà nước phải chịu những hệ lụy của tình trạng thất nghiệp, làm mất ổn định xã hội, tệ nạn gia tăng như: trộm cướp, bệnh tật, chất lượng cuộc sống ngày càng đi xuống,...
1.2. Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Khái niệm quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Có nhiều khái niệm khác nhau về quản lý các tổ chức như:
Quản lý là nghệ thuật đạt mục đích thông qua nỗ lực của những người khác.
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.
Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những cộng sự khác nhau trong cùng một tổ chức.
Quản lý là quá trình phối hợp các nguồn lực nhằm đạt được những mục đích của tổ chức.
Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả và hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các nguồn lực của tổ chức.
Quản lý tổ chức là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra các nguồn lực và hoạt động của tổ chức nhằm đạt được mục đích của tổ chức với kết quả và hiệu quả cao trong điều kiện môi trường luôn biến động. (TS Đoàn Thị Thu Hà và TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền, 2005, tr. 25)
Từ những quan niệm trên cho thấy: Quản lý là một hoạt động liên tục và cần thiết khi con người kết hợp với nhau trong tổ chức. Sử dụng các nguồn lực, điều kiện để tác động tới hoạt động của con người, tạo nên sức mạnh gắn liền các hoạt động của các cá nhân với nhau trong một tổ chức nhằm đạt được mục tiêu chung.
Cùng với khái niệm về quỹ BHTN đã được làm sáng tỏ ở phần trên, theo quan
điểm của tác giả, quản lý quỹ BHTN được hiểu như sau:
“Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp là sự tác động của các chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong các hoạt động hoạch định, tổ chức, kiểm tra sự vận động của
28
quỹ nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo những nguyên tắc và phương pháp quản lý của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ nhất định”.
Như vậy, trên phương diện tổ chức thực hiện, quản lý quỹ BHTN được hiểu là sự tác động cơ quan quản lý quỹ BHTN đến đối tượng tham gia, thụ hưởng chính sách BHTN và các đối tượng khác có liên quan trong các hoạt động tổ chức thực hiện, kiểm soát quỹ BHTN để bảo toàn, tăng trưởng quỹ BHTN với mục đích cuối cùng là bảo đảm đầy đủ mọi quyền lợi cho người lao động bị thất nghiệp theo đúng quy định.
Một trong những tiêu chí chủ yếu đánh giá quản lý quỹ BHTN có hiệu quả, cả hai Công ước ILO (Điều 72 của Công ước số 102 và Điều 3, Điều 29 của Công ước số 168) đều khuyến cáo: Các quốc gia phải tham vấn và mời người sử dụng lao động và người lao động tham gia vận hành các chương trình này BHTN.
1.2.2. Mục tiêu quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Hầu hết các nước trên thế giới hiện nay, toàn bộ quá trình vận động của quỹ BHTN đều chịu sự quản lý của Nhà nước thông qua quyền lực của cả các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp bằng những nguyên tắc và định hướng cơ bản trong Hiến pháp mỗi quốc gia hay các đạo Luật nói chung về bảo hiểm thất nghiệp. Quản lý quỹ BHTN cũng dựa trên các nguyên tắc, định hướng và đều được thể chế trong các đạo Luật hướng dẫn tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN qua các cơ quan hành pháp và kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện thông qua các cơ quan tư pháp.
Tại Mỹ và Canada thực hiện quản lý quỹ BHTN/BHVL và có hệ thống giám sát hiệu quả trong suốt quá trình vận hành. Đối với Mỹ, hiệu quả của quản lý quỹ BHTN được dựa trên ba khía cạnh chính, đó là: hiệu quả thu phí, sự chính xác của trợ cấp và sự kịp thời của trợ cấp. Các nội dung này báo cáo chi tiết về các hoạt động như sự kịp thời của đợt chi trả trợ cấp đầu tiên, sự chính xác trong thanh toán, lý do chi trả và lượng chi trả vượt mức hay dưới mức, sự gian lận, khiếu nại và sự tuân thủ các quy định thực hiện chương trình BHTN. Còn ở Canada, trong đánh giá các biện pháp trợ cấp và hỗ trợ việc làm hay một số quốc gia trên thế giới gọi là các chính sách thị trường lao động chủ động lại coi các yêu cầu về tìm kiếm việc làm tích cực là phần quan trọng không thể thiếu trong trương trình BHVL chứ không phải là một phần trợ cấp nên phần hỗ trợ việc làm cần phải được đánh giá trong cùng hệ thống với trợ cấp việc làm. Các chính sách thị trường lao động chủ động chủ yếu do chính quyền các tỉnh quản lý trong quan hệ hợp tác với các liên bang và yêu cầu có đánh giá định kỳ. Kết quả đánh giá này có ý nghĩa quan trọng và là một trong những nội dung quan tâm hàng đầu về hiệu quả tổng thể của chương trình BHVL do một số nghiên cứu đánh giá
29
cho thấy tác động của các lớp đào tạo và các khóa vừa học vừa làm có vẻ khả quan trong trung hạn (sau hai năm) hơn là trong ngắn hạn. Nghiên cứu cũng cho thấy nhiều chương trình đào tạo có tác động không đáng kể hoặc thậm chí tiêu cực trong năm đầu nhưng lại có tác động tích cực đáng kể sau hai hoặc ba năm. Do vậy, quỹ BHVL cần phải được cân đối ở một tỷ lệ nhất định, kết dư từ 1,5 lần đến 2 lần so với chi phí của năm trước lền kề (kinh nghiệm Hàn Quốc) để sử dụng phòng ngừa sa thải lao động hàng loạt hay khủng hoảng kinh tế không nên để thặng dư lớn mà cần phải được sử dụng thực sự hiệu quả trong các chính sách thụ động và chủ động. Thực tế cho thấy, tại Canada các nguồn thu của quỹ duy trì ở mức cao hơn cần thiết để chi trả trợ cấp thất nghiệp hoặc để tích lũy mức dự trữ quỹ an toàn từ năm 1996 đến năm 2008 để sau đó Chính phủ đã quốc hữu hóa phần thặng dư của quỹ BHTN.
Do vậy, Quỹ BHTN không những phải được quản lý chặt chẽ từ đầu vào, bao gồm các hoạt động xác định đối tượng tham gia, thu phí đầy đủ, kịp thời; quản lý chặt chẽ trong việc thực hiện chi trả các chế độ, trợ cấp BHTN đúng đối tượng, đúng mức hưởng, mà còn phải định kỳ thực hiện việc cân đối thu - chi BHTN, dự báo và có những điều chỉnh phù hợp trong trung hạn, dài hạn để quản lý, sử dụng quỹ BHTN thực sự hiệu quả với mục tiêu cao nhất đảm bảo cho người lao động khi được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi trước và sau khi thất nghiệp, tái hòa nhập thị trường lao động và góp phần đảm bảo ASXH quốc gia.
1.2.3. Nguyên tắc quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Để hoạt động quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp đúng pháp luật, đúng mục tiêu
đề ra cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
Một là: Có đóng - có hưởng
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong hoạt động quản lý quỹ BHTN, trên cơ sở sử dụng nguồn đóng góp của các đối tượng tham gia để chi trả các chế độ BHTN cho người thất nghiệp nhằm đảm bảo sự duy trì ổn định và tồn tại của quỹ.
Không giống như các quỹ bảo hiểm có tính tương đồng như quỹ từ thiện và các quỹ cứu trợ xã hội, đối tượng không phải đóng góp vào quỹ nhưng vẫn được thụ hưởng các chế độ, phúc lợi của quỹ. Đối với quỹ BHTN thì người được thụ hưởng các chế độ phải trực tiếp có đóng góp vào quỹ theo các quy định của pháp luật.
Hai là: Lấy số đông bù số ít
Cũng giống như nguyên tắc của các quỹ bảo hiểm khác là lấy số đông bù số ít, chia sẻ với những người không may gặp rủi ro may. Tuy nhiên, bảo hiểm thất nghiệp
30
là một trong những chính sách an sinh xã hội của mỗi quốc gia nên đây là hoạt động chia sẻ rủi ro mang tính xã hội cao và được hưởng những chế độ về chăm sóc y tế cũng như được tiếp cận với cơ hội việc làm để sớm trở lại thị trường lao động.
Ba là: Cân đối thu - chi
Nguyên tắc này đòi hỏi hỏi hoạt động quản lý quỹ BHTN luôn được đảm bảo để chi trả kịp thời và đầy đủ các chế độ BHTN cho người thất nghiệp trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào của nền kinh tế - xã hội. Do vậy, quỹ phải được tính toán cân đối hằng năm, trung hạn và dài hạn để có những điều chỉnh, hoạch định chính sách phù hợp với từng thời kỳ. Đồng thời, quỹ BHTN phải thường xuyên được bổ sung các nguồn tài chính từ các hoạt động đầu tư sinh lời theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về mức độ hiệu quả cũng như rủi ro trong đầu tư tài chính. Mặt khác, Nhà nước hỗ trợ hợp lý và bảo hộ cho quỹ BHTN, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu chi trả cho các đối tượng được hưởng BHTN do BHTN là một trong những chính sách an sinh xã hội, góp phần đảm bảo sự ổn định chung của nền kinh tế, xã hội.
Bốn là: Công bằng, công khai, minh bạch
Hoạt động quản lý quỹ BHTN phải đảm bảo tính công bằng trên cơ sở xác định đúng đối tượng để thu phí BHTN kịp thời, đầy đủ để hình thành và ổn định quỹ BHTN; và sử dụng quỹ BHTN để chi trả chế độ đảm bảo đúng mức hưởng và thời gian hưởng cho đúng đối tượng thất nghiệp được kịp thời và đầy đủ. Mức đóng góp và thụ hưởng phải được thực hiện công bằng đối với mọi đối tượng, không có sự phân biệt đối xử làm mất đi tính bình đẳng. Đồng thời, công khai, minh bạch hoạt động quản lý quỹ BHTN và có sự thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát chặt chẽ của các chủ thể tác động đến hoạt động quản lý quỹ BHTN.
Năm là: Quản lý quỹ tập trung, an toàn và hiệu quả
Hoạt động quản lý quỹ BHTN phải được tập trung, không phân tán nhằm đảm bảo chi trả cho các đối tượng thụ hưởng chế độ được kịp thời và đảm bảo tập trung nguồn tài chính lớn để đầu tư, tăng trưởng quỹ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Khi được phép sử dụng quỹ theo quy định của pháp luật để chi tiêu, đầu tư phải được quản lý chặt chẽ, không để thất thoát, sử dụng tiết kiệm đảm bảo an toàn và đạt hiệu quả cao.
1.2.4. Nội dung quản lý quỹ BHTN
Do quỹ BHTN được hình thành từ sự đóng góp chủ yếu của các bên tham gia BHTN là: Người sử dụng lao động, người lao động nhằm mục đích đảm bảo một phần
31
1.2.4.1. Quản lý thu BHTN
thu nhập cho người lao động khi họ thất nghiệp nên hoạt động của quỹ phải dựa trên nguyên tắc quản lý thống nhất, dân chủ, công khai và hạch toán độc lập, tự thu, tự chi. Quỹ BHTN được sử dụng để: chi trả trợ cấp BHTN cho người lao động; chi cho các hoạt động tìm kiếm việc làm cho người thất nghiệp; chi cho công tác đào tạo, đào tạo lại, dạy nghề cho người thất nghiệp; chi phí cho hoạt động của bộ máy quản lý,... Vì vậy, quản lý quỹ BHTN chủ yếu tập trung vào các nội dung sau:
Quản lý thu BHTN được hiểu là quá trình tác động của cơ quan quản lý BHTN đối với mọi tổ chức, cá nhân có liên quan đến đóng góp BHTN theo trình tự bao gồm các nội dung: xây dựng kế hoạch thu, quản lý đối tượng tham gia, quản lý mức phí đóng góp và đánh giá kết quả thực hiện nhằm đạt được mục tiêu thu đúng, thu đủ, thu kịp thời mức phí đóng góp BHTN của đối tượng tham gia vào quỹ BHTN đúng theo quy định.
a. Xây dựng kế hoạch thu
Căn cứ vào đối tượng tham gia, mức phí đóng góp và tốc độ tăng trưởng qua các năm, cơ quan quản lý quỹ BHTN dự báo kế hoạch phát triển đối tượng tham gia, mức phí đóng góp trong kỳ tiếp theo phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội và có những giải pháp phù hợp khi nền kinh tế, xã hội biến động ảnh hưởng đến cơ cấu lao động nói chung và tình trạng thất nghiệp nói riêng.
Định kỳ hàng năm, hàng quý hoặc theo từng giai đoạn tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia mà tổ chức quản lý quỹ BHTN xây dựng và lập kế hoạch thu. Đồng thời, tổ chức thu và đánh giá tình hình hoàn thành kế hoạch thu.
Trên cơ sở kế hoạch đã được xây dựng, tổ chức quản lý quỹ BHTN giao kế hoạch cụ thể, chi tiết cho các tổ chức, đơn vị thực hiện thu. Bám sát, theo dõi các tổ chức, đơn vị thực hiện kế hoạch theo lộ trình đã đặt ra để đôn đốc, kiểm tra và có những giải pháp kịp thời khi kế hoạch bị các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến tiến độ cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm giảm đối tượng tham gia, giảm mức phí đóng góp BHTN, dẫn đến nguồn thu của quỹ BHTN không được đảm bảo.
b. Quản lý đối tượng tham gia
Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội và quy định của luật pháp để xác định rõ đối tượng tham gia và quản lý đối tượng tham gia BHTN. Đối tượng tham gia BHTN là người sử dụng lao động và người lao động. Trên thế giới, có nhiều quốc gia quy định riêng cho đối tượng người lao động tham gia BHTN như: Ở các nước Bắc Âu thì
32
hầu hết người lao động trong độ tuổi lao động bao gồm cả người tự tạo việc làm đều thuộc đối tượng tham gia. Đặc biệt, ở Bỉ còn bao gồm cả những người lần đầu tham gia thị trường lao động (sinh viên, học sinh vừa mới tốt nghiệp). Hình thức tham gia bắt buộc đối với lao động làm công ăn lương và tự nguyện đối với người lao động tự tạo việc làm. Hay ở Anh, người thất nghiệp ở độ tuổi 16, 17 nếu không đi học, có thể yêu cầu nhận trợ cấp tìm việc làm. Tại Thái Lan, đối tượng tham gia bao gồm người làm công ăn lương có độ tuổi từ 15 đến 60 trừ một số đối tượng đặc biệt như: Quan toà,, thẩm phán, người lao động trong doanh nghiệp nhà nước, người lao động làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp...
Sau khi xác định rõ đối tượng tham gia BHTN, tổ chức quản lý thu BHTN đưa các đối tượng vào quản lý để thực hiện thu phí đóng góp theo quy định. Riêng đối với các đối tượng thuộc diện tham gia BHTN, nhưng chưa tham gia hoặc trốn tránh nghĩa vụ tham gia thì cơ quan quản lý thu BHTN cần phải tiến hành đôn đốc, kiểm tra để khai thác, phát triển đối tượng nhằm đảm bảo đúng nguyên tắc thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, có như vậy mới đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động khi không may bị mất việc làm được BHTN chi trả trợ cấp để ổn định cuộc sống.
c. Quản lý mức phí đóng góp và phương thức đóng góp
Mức đóng góp cho quỹ BHTN phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, không là gánh nặng đối với doanh nghiệp và người lao động. Tỷ lệ đóng góp phải tính toán phù hợp, bảo đảm không ảnh hưởng đến cuộc sống của người lao động và cũng ít ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, để doanh nghiệp còn có thể cạnh tranh trong nền kinh tế. Mức đóng góp này thường quy định bằng tỷ lệ % so với tiền lương của người lao động. Một số nước trên thế giới quy định mức đóng góp BHTN như sau: Ở các nước Bắc Âu, mức đóng trung bình của người lao động từ 0,4% đến 1% thu nhập, trong đó người sử dụng lao động lại phải đóng nhiều hơn (1,5% quỹ lương). Ở các nước Đông Âu, mức đóng góp của chủ sử dụng lao động khoảng 3% quỹ lương (Ba Lan, Slovakia) và 7% quỹ lương (Bulgary, Hungary). Tuy nhiên, người lao động thường chỉ phải đóng khoảng 1% lương hàng tháng. Ở Thái Lan, mức đóng góp của người lao động là 0,5% tổng thu nhập hàng tháng, chủ sử dụng lao động là 0,5% quỹ lương và Chính phủ hỗ trợ 0,25% lương tháng của người lao động...
Căn cứ vào mức đóng góp của các đối tượng tham gia được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật, tổ chức quản lý thu BHTN thực hiện thu đúng, thu đủ, thu kịp thời mức phí đóng góp của các bên tham gia, tránh tình trạng trốn đóng, nợ đọng... làm ảnh hưởng đến nguồn thu của quỹ BHTN và phải có các biện pháp phù hợp, kịp thời cho các trường hợp làm trái quy định của pháp luật. Phương thức đóng góp
33
thường áp dụng theo tháng để phù hợp với việc trả lương hàng tháng cho người lao động. Đồng thời, thuận tiện cho công tác thu của cơ quan BHTN.
d. Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch thu BHTN
Định kỳ hàng quý, hàng năm, tổ chức quản lý quỹ BHTN phải thực hiện đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch thu BHTN trên cơ sở kế hoạch đã xây dựng và giao cụ thể cho từng tổ chức, đơn vị thực hiện thu. Đánh giá kết quả phải nêu ra được các mặt đã làm được, các mặt chưa làm được, các hạn chế và nguyên nhân trong quá trình tổ chức thực hiện và đề xuất các giải pháp thực hiện nhiệm vụ còn lại, khắc phục những hạn chế để hoàn thành kế hoạch kịp thời, đúng tiến độ theo quy định.
e. Một số chỉ tiêu sử dụng trong quản lý thu BHTN
1. Số đơn vị phải tham gia BHTN trong kỳ (1)
Chỉ tiêu phản ánh số lượng đơn vị phải tham gia BHTN trong kỳ theo quy định
của pháp luật
2. Số đơn vị chưa tham gia BHTN trong kỳ (2)
Chỉ tiêu phản ánh số lượng đơn vị chưa tham gia BHTN trong kỳ 3. Số đơn vị nợ đọng tiền BHTN trong kỳ (3)
Chỉ tiêu phản ánh số lượng đơn vị phải nộp số tiền BHTN theo quy định nhưng
chưa nộp tiền BHTN trong kỳ
4. Số lao động phải tham gia BHTN trong kỳ (4)
Chỉ tiêu phản ánh số lượng lao động phải tham gia BHTN trong kỳ theo quy
định của pháp luật
5. Số lao động chưa tham gia BHTN trong kỳ (5)
Chỉ tiêu phản ánh số lượng lao động chưa tham gia BHTN trong kỳ 6. Số tiền BHTN thu từ người lao động trong kỳ (6)
Chỉ tiêu phản ánh số tiền BHTN thu từ người lao động trong kỳ 7. Số tiền BHTN thu từ đơn vị sử dụng lao động trong kỳ (7)
Chỉ tiêu phản ánh số tiền BHTN thu từ đơn vị sử dụng lao động trong kỳ 8. Số tiền BHTN đơn vị sử dụng lao động nợ đọng trong kỳ (8)
Chỉ tiêu phản ánh số tiền BHTN đơn vị sử dụng lao động phải nộp theo quy
định nhưng chưa nộp tiền BHTN trong kỳ
KN )
9. Tỷ lệ đơn vị sử dụng lao động nợ đọng tiền BHTN trong kỳ (
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ % đơn vị sử dụng lao động nợ đọng tiền BHTN
34
1
=
×
N
100
K
trong kỳ và được tính dựa trên công thức:
D D
K
(9)
1D và
KD là số đơn vị sử dụng lao động nợ đọng tiền BHTN và tổng
Trong đó:
số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHTN trong kỳ.
KX )
10. Tỷ lệ nợ đọng tiền BHTN trong kỳ (
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ % nợ đọng tiền BHTN trong kỳ và được tính dựa
1
=
×
X
100
K
trên công thức:
O O
K
(10)
1X và
KX là số tiền BHTN nợ đọng và số tiền phải đóng BHTN trong kỳ.
Trong đó:
11. Tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch phát triển đối tượng tham gia BHTN trong kỳ
KH )
(
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch phát triển đối tượng tham
1
=
×
H
100
K
gia BHTN trong kỳ và được tính dựa trên công thức:
L L
K
(11)
1L và KL là số lao động tham gia BHTN kỳ báo cáo và kỳ kế hoạch.
Trong đó:
Nếu lấy tử trừ đi mẫu sẽ cho biết số lao động tham gia BHTN kỳ báo cáo so với
kỳ kế hoạch tăng lên (hay giảm đi) bao nhiêu người.
TH )
12. Tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch thu BHTN trong kỳ (
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch thu BHTN tại kỳ báo cáo so
=
×
H
100
T
với kỳ kế hoạch và được tính dựa trên công thức:
T 1 T K
(12)
1T và KT là số tiền thu BHTN kỳ báo cáo và kỳ kế hoạch.
Trong đó:
Nếu lấy tử trừ đi mẫu sẽ cho biết số tiền thu BHTN kỳ báo cáo so với kỳ kế
hoạch tăng lên (hay giảm đi) là bao nhiêu.
13. Tốc độ tăng trưởng số lao động tham gia BHTN trong kỳ ( Lt )
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng số lao động tham gia BHTN trong kỳ
và được tính dựa trên công thức:
L
L
1
0
=
×
t
100
L
35
− L
0
(13)
0L là số lao động tham gia BHTN kỳ báo cáo và kỳ gốc.
1L và
Trong đó:
14. Tốc độ tăng trưởng số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHTN trong kỳ ( Dt )
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng số đơn vị sử dụng lao động tham gia
0
=
×
t
100
D
BHTN trong kỳ và được tính dựa trên công thức:
− DD 1 D
0
(14)
1D và
0D là số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHTN kỳ báo cáo
Trong đó:
và kỳ gốc.
1D trừ đi
0D thì chỉ tiêu này sẽ cho biết số đơn vị sử dụng lao động
Nếu lấy
tham gia BHTN kỳ báo cáo so với kỳ gốc tăng lên (hay giảm đi) bao nhiêu đơn vị.
15. Tốc độ tăng trưởng số tiền thu BHTN trong kỳ ( Tt )
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng số tiền thu BHTN trong kỳ và được
1
=
×
t
100
T
tính dựa trên công thức:
− TT 0 T 0
(15)
1T và
0T là số tiền thu BHTN kỳ báo cáo và kỳ gốc.
Trong đó:
16. Mức đóng góp BHTN bình quân một lao động có quan hệ lao động trong
năm ( M )
Chỉ tiêu này phản ánh mức phí đóng góp BHTN bình quân 1 lao động có quan
M =
hệ lao động trong 1 năm và được tính dựa trên công thức:
T L
(16)
Trong đó: L là số lao động có quan hệ lao động tham gia BHTN bình quân năm, (chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy số lao động tham gia BHTN cuối năm cộng đầu năm chia đôi)
17. Tốc độ tăng trưởng mức đóng góp BHTN bình quân một lao động có quan
) hệ lao động trong năm ( Mt
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng mức đóng góp BHTN bình quân của 1
lao động có quan hệ lao động trong 1 năm và được tính dựa trên công thức:
0
=
×
t
100
36
M
0
− MM 1 M
(17)
0M mức đóng góp BHTN bình quân một lao động có quan hệ
1M và lao động trong năm kỳ báo cáo và kỳ gốc.
Trong đó:
(18) 18. Tổng thu BHTN năm ( TT )
1.2.4.2. Quản lý chi chế độ BHTN
Chỉ tiêu này bao gồm toàn bộ số tiền thu BHTN từ các nguồn (người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước hỗ trợ) và thu khác (lãi đầu tư quỹ nhàn rỗi, viện trợ…).
Quản lý chi chế độ BHTN là việc dùng quỹ BHTN để chi trực tiếp đến người thụ hưởng chế độ (không đề cập đến việc sử dụng để chi hoạt động bộ máy, hoạt động đầu tư,…) và được hiểu là quá trình tác động của cơ quan quản lý BHTN đối với mọi tổ chức, cá nhân có liên quan đến thụ hưởng chế độ BHTN theo trình tự bao gồm các nội dung: lập dự toán chi, quản lý đối tượng thụ hưởng, quản lý quá trình hưởng bao gồm mức hưởng trong khoảng thời gian hưởng và đánh giá kết quả thực hiện nhằm đạt được mục tiêu chi đúng, chi đủ, chi kịp thời theo nguyên tắc có đóng, có hưởng.
a. Lập dự toán chi chế độ BHTN
Căn cứ vào đối tượng thụ hưởng, mức hưởng BHTN và các khoản chi chế độ BHTN khác, cùng với tốc độ tăng trưởng qua các năm, cơ quan quản lý quỹ BHTN lập dự toán chi trả các chế độ BHTN cho đối tượng thụ hưởng trong kỳ tiếp theo phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Nhận định những bất ổn có thể xảy ra để có những giải pháp phù hợp khi nền kinh tế, chính trị - xã hội bị tác động mạnh làm gia tăng tình trạng thất nghiệp, chi trả trợ cấp và các chế độ tăng đột biến dẫn đến quỹ BHTN có nguy cơ bị mất cân đối.
Định kỳ hàng năm, hàng quý hoặc theo từng giai đoạn tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia mà tổ chức quản lý quỹ BHTN xây dựng và lập dự toán chi phí để thực hiện chi trả các chế độ BHTN.
Trên cơ sở kế hoạch đã được xây dựng, tổ chức quản lý quỹ BHTN giao kế hoạch cụ thể, chi tiết cho các tổ chức, đơn vị thực hiện chi trả chế độ BHTN. Luôn luôn bám sát, theo dõi các tổ chức, đơn vị thực hiện kế hoạch theo lộ trình đã đặt ra để đôn đốc, kiểm tra và có những giải pháp kịp thời khi kế hoạch bị các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến tiến độ cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm gia tăng đối tượng thụ hưởng, tăng mức chi trả trợ cấp thất nghiệp cũng như chi trả các chế độ BHTN khác, dẫn đến quỹ BHTN có nguy cơ bị mất cân đối.
37
b. Quản lý đối tượng thụ hưởng BHTN
Đối tượng thụ hưởng BHTN chủ yếu là người lao động bị mất việc làm không phải do lỗi của họ và phải tham gia đóng góp BHTN trong một khoảng thời gian xác định trước khi bị mất việc làm. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội mà các nước có những quy định khác nhau. Ở các nước Bắc Âu thường quy định phải có một thời gian làm việc và đóng BHTN tối thiểu từ 6 đến 12 tháng, phải đăng ký với cơ quan hỗ trợ, tìm kiếm việc làm mới và chờ một khoảng thời gian từ 1 đến 2 tuần trước khi được quyền hưởng trợ cấp thất nghiệp. Ở Thái Lan, người thất nghiệp sẽ được hưởng chế độ nếu đã đóng BHTN từ 6 tháng trở lên trong 15 tháng trước khi bị mất việc làm và phải thoả mãn một số các điều kiện theo quy định.
Khi xác định điều kiện thụ hưởng BHTN, cơ quan quản lý phải xác định đúng, đủ thời gian người lao động đã tham gia BHTN, mức đóng góp BHTN trước đó (quá trình làm việc có đóng BHTN), điều kiện làm việc của người lao động... tránh tình trạng xác định sai, không đúng đối tượng được thụ hưởng hoặc lạm dụng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia và quỹ BHTN.
c. Quản lý mức hưởng và thời gian hưởng BHTN
Trên thực tế, mức hưởng và thời gian hưởng chế độ BHTN được qui định trong luật và các văn bản hướng dẫn dưới luật của mỗi quốc gia. Về cơ bản, việc quy định mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp BHTN phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và được cân đối với mức đóng góp BHTN trước đó của người lao động. Nếu quy định tỷ lệ % hưởng trợ cấp BHTN quá thấp (mức trợ cấp quá thấp), thời gian được hưởng quá ít sẽ làm mất ý nghĩa của BHTN. Nếu quy định mức trợ cấp BHTN quá cao, thời gian hưởng trợ cấp kéo dài sẽ ảnh hưởng đến việc cân đối tài chính giữa thu và chi BHTN, dễ gây tâm lý ỷ lại trông chờ vào sự trợ giúp của BHTN, chấp nhận tình trạng thất nghiệp để hưởng trợ cấp mà không tích cực tìm việc làm. Ở các nước Bắc Âu, hầu hết mức hưởng thường từ 50% - 75% lương bình quân do chính phủ quy định và thời gian hưởng giới hạn trong khoảng từ 06 tháng đến 02 năm tuỳ thuộc vào độ tuổi và thời gian tham gia BHTN của người lao động. Người thất nghiệp ở Đức được chi trả trợ cấp thất nghiệp bằng 67% lương của người lao động nếu đang nuôi con chưa trưởng thành, nếu không có con thì trợ cấp là 60% thu nhập ròng trước khi mất việc và được trả trợ cấp từ 6 tháng đến 18 tháng tuỳ thuộc vào thời gian và tuổi của người được hưởng.
Ngoài tiền trợ cấp BHTN, quỹ BHTN còn được sử dụng để chi hỗ trợ, khuyến khích người lao động tìm kiếm việc làm nhằm thoát khỏi tình trạng thất nghiệp hoặc
38
chi cho đào tạo, nâng cao tay nghề cho người bị thất nghiệp. Ở một số nước trên thế giới còn quan tâm đến sức khoẻ của người bị thất nghiệp qua việc chi trả các dịch vụ y tế, khám bệnh, chữa bệnh hay chi tiền hỗ trợ BHYT cho người bị thất nghiệp...
d. Tổ chức đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch chi chế độ BHTN
Định kỳ hàng quý, hàng năm, tổ chức quản lý quỹ BHTN phải đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch chi BHTN trên cơ sở kế hoạch đã xây dựng và giao cụ thể cho từng tổ chức, đơn vị thực hiện chi. Đánh giá kết quả phải nêu ra được các mặt đã làm được, các mặt chưa làm được, các hạn chế và nguyên nhân trong quá trình tổ chức thực hiện, đề xuất các giải pháp thực hiện nhiệm vụ còn lại, khắc phục những tồn tại, hạn chế để hoàn thành kế hoạch kịp thời, đúng tiến độ theo quy định. Thực hiện đầy đủ việc hạch toán kế toán, thanh toán và báo cáo quyết toán đầy đủ, kịp thời, đúng quy định của pháp luật.
e. Một số chỉ tiêu sử dụng trong quản lý chi chế độ BHTN
1. Số lao động bị thất nghiệp hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp trong kỳ (1)
Chỉ tiêu phản ánh số lượng lao động bị thất nghiệp hưởng chế độ trợ cấp thất
nghiệp trong kỳ
2. Số lao động bị thất nghiệp được tư vấn giới thiệu việc làm trong kỳ (2)
Chỉ tiêu phản ánh số lượng lao động bị thất nghiệp được tư vấn, giới thiệu việc
làm trong kỳ
3. Số lao động bị thất nghiệp được đào tạo nghề trong kỳ (3)
Chỉ tiêu phản ánh số lượng lao động bị thất nghiệp được đào tạo nghề trong kỳ 4. Số lao động bị thất nghiệp được cấp thẻ BHYT trong kỳ (4)
Chỉ tiêu phản ánh số lượng lao động bị thất nghiệp được cấp thẻ BHYT trong kỳ 5. Số tiền chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người thất nghiệp trong kỳ (5)
(6)
Chỉ tiêu phản ánh số tiền chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người thất nghiệp trong kỳ 6. Số tiền chi trả tư vấn giới thiệu việc làm cho người thất nghiệp trong kỳ
Chỉ tiêu phản ánh số tiền chi trả tư vấn giới thiệu việc làm cho người thất
nghiệp trong kỳ
7. Số tiền chi trả đào tạo nghề cho người thất nghiệp trong kỳ (7)
Chỉ tiêu phản ánh số tiền chi trả đào tạo nghề cho người thất nghiệp trong kỳ
CH )
8. Tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch chi BHTN trong kỳ (
39
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch chi tiền BHTN tại kỳ báo
=
×
H
100
C
cáo so với kỳ kế hoạch và được tính dựa trên công thức:
K
(8)
C 1 C KC là số tiền chi BHTN kỳ báo cáo và kỳ kế hoạch.
1C và
Trong đó:
Nếu lấy tử trừ đi mẫu sẽ cho biết số số tiền chi BHTN kỳ báo cáo so với kỳ kế
hoạch tăng lên (hay giảm đi) là bao nhiêu.
9. Tốc độ tăng trưởng số tiền chi BHTN trong kỳ ( Ct )
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng số tiền chi BHTN trong kỳ và được
0
=
×
t
)%100 (
tính dựa trên công thức:
C
− CC 1 C
0
(9)
1C và
0C là số tiền chi BHTN kỳ báo cáo và kỳ gốc.
Trong đó:
1.2.4.3. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
10. Tổng chi BHTN năm ( CT ) (10) Chỉ tiêu này bao gồm toàn bộ số tiền chi BHTN cho các chế độ BHTN (trợ cấp thất nghiệp, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, y tế…) và chi khác (chi phí quản lý bộ máy, chi đầu tư,…).
1.2.4.4. Quản lý cân đối quỹ BHTN
Trong quá trình tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN, ngoài những mặt tích cực trong công tác quản lý thu, chi trả chế độ BHTN thì các bên có liên quan vẫn có thể nhận thức và chấp hành chính sách pháp luật BHTN chưa đúng theo quy định. Do vậy, công tác thanh tra, kiểm tra cần phải được thực hiện kịp thời để phát hiện, đôn đốc, xử phạt các đối tượng chưa tham gia BHTN, tham gia BHTN sai đối tượng hoặc tham gia với mức phí đóng góp không đúng, không đủ, các trường hợp tham gia với mục đích trục lợi quỹ BHTN nhằm hạn chế tối đa những tác động xấu ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu và gián tiếp ảnh hưởng đến quỹ BHTN. Hoặc kịp thời phát hiện, xử phạt các đối tượng trục lợi quỹ BHTN qua giả mạo hồ sơ thụ hưởng, mức hưởng không đúng quy định hay tổ chức chi trả sai đối tượng, sai mức hưởng,... nhằm hạn chế tối đa những tác động xấu ảnh hưởng trực tiếp đến việc gia tăng đột biết chi trả các chế độ BHTN và gián tiếp ảnh hưởng đến quỹ BHTN.
Cân đối quỹ BHTN là sự tương quan hợp lý về lượng giữa các khoản thu và chi của quỹ BHTN được đảm bảo trong một thời kỳ nhất định (có thể trong trung hạn và dài hạn). Đây là một trong những hoạt động quan trọng trong quản lý quỹ BHTN do cân đối
40
quỹ BHTN không những phụ thuộc vào quản lý nhà nước thông qua chính sách pháp luật, mà còn phụ thuộc vào quản lý sự nghiệp thông qua tổ chức thực hiện chính sách pháp luật. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách cần phải có những điều chỉnh phù hợp trong những thời kỳ nhất định vừa để thúc đẩy nền kinh tế - xã hội, vửa phải đảm bảo đầy đủ, kịp thời quyền lợi cho người tham gia và thụ hưởng chế độ BHTN.
a. Quản lý cân đối quỹ BHTN được thực hiện qua hai nội dung sau:
Dự báo về nguồn hình thành quỹ trong thời kỳ nhất định hay nói cách khác là trong trung hạn và dài hạn được thực hiện trên cơ sở dự báo về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia theo từng thời kỳ dự báo để xác định đối tượng tham gia, mức đóng góp vào quỹ BHTN của các bên tham gia, cũng như các nguồn thu hợp pháp khác và sự hỗ trợ của Nhà nước nếu có vào quỹ BHTN.
Dự báo về nguồn chi từ quỹ trong cùng thời kỳ hoặc xa hơn thời kỳ dự báo về nguồn hình thành quỹ cũng trên cơ sở về tình hình ổn định kinh tế - xã hội có biến động về lực lượng lao động trong thời kỳ dự báo, số người hưởng và mức hưởng các chế độ BHTN phải được đảm bảo ở thời kỳ của người thụ hưởng chế độ ổn định cuộc sống.
Thông qua hoạt động quản lý cân đối quỹ BHTN nhằm dự báo tình hình hoạt động thu, chi trong khoảng thời gian nhất định để điều chỉnh chính sách thu, chi trả chế độ BHTN trong trung hạn và dài hạn. Thực tế trên thế giới, rất nhiều quốc gia đã bị mất cân đối quỹ BHTN trong những khoảng thời gian nhất định, có quốc gia bị thâm hụt quỹ BHTN do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế, phải chi trả trợ cấp thất nghiệp với số tiền cao hơn nguồn thu BHTN,..., nhưng cũng có những quốc gia thặng dư quỹ BHTN lớn theo từng năm do tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHTN cao, tính chủ động của chính sách thị trường lao động chưa đem lại hiệu quả hay tỷ lệ thất nghiệp thấp,... Điển hình như: Canada, Pháp, Đức và hầu hết các bang của Mỹ phải dựa vào các khoản vay và hỗ trợ từ chính phủ liên bang để trả các khoản trợ cấp theo quy định do những năm gần đây, quỹ BHTN bị thâm hụt vì suy thoái kinh tế toàn cầu. Một số quốc gia khác lại tiếp tục thặng dư và tăng trưởng quỹ lớn do số người thất nghiệp có bảo hiểm ít cùng với các quy định chặt chẽ về điều kiện hưởng trợ cấp như: Bahrain, Chile, Mông Cổ, Thái Lan và cả Việt Nam,... Đối với Hàn Quốc, Quỹ BHVL được dành riêng ra một quỹ dự phòng để đối phó với tình trạng sa thải hàng hoạt hoặc các hình thức khác để đảm bảo việc làm dựa trên mức dự trữ cuối năm của các Dự án đảm bảo việc làm và đào tạo phát triển kỹ năng nghề bằng hoặc cao hơn mức kinh phí trong năm, nhưng không quá 1,5 lần mức kinh phí đó. Và mức dự trữ cuối năm của trợ cấp thất nghiệp bằng 1,5 lần hoặc cao hơn mức kinh phí trong năm nhưng không vượt quá 2 lần mức kinh phí đó.
41
b. Một số chỉ tiêu sử dụng trong quản lý cân đối thu - chi quỹ BHTN
1. Phát sinh tăng quỹ trong năm (QT) (1)
Chỉ tiêu này phản ánh tổng số tiền BHTN phát sinh tăng trong năm theo quy
định vào quỹ BHTN từ các nguồn thu, đầu tư và các nguồn thu khác.
2. Phát sinh giảm quỹ trong năm (QC) (2)
Chỉ tiêu này phản ánh tổng số tiền BHTN phát sinh giảm trong năm theo quy định từ quỹ BHTN cho các khoản chi trả chế độ BHTN, chi phí quản lý bộ máy và các khoản chi khác
3. Số dư quỹ năm trước chuyển sang (QO) (3)
Chỉ tiêu này phản ánh số tiền kết dư quỹ BHTN từ năm trước chuyển sang năm
sau liền kề
4. Số dư quỹ chuyển năm sau (QN) (4)
1.2.4.5. Quản lý hoạt động đầu tư quỹ BHTN
Chỉ tiêu này phản ánh số tiền kết dư quỹ BHTN chuyển sang năm sau liền kề và bằng số dư quỹ năm trước chuyển sang cộng phát sinh tăng quỹ trừ phát sinh giảm quỹ trong năm
Nguyên tắc cơ bản trong quản lý đầu tư quỹ BHTN cũng giống các quỹ bảo hiểm khác, đó là: an toàn, hiệu quả và đảm bảo khả năng thanh toán. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố tác động nên quỹ BHTN luôn phải đối mặt với nguy cơ rủi ro như: việc tính toán mức đóng - mức hưởng chưa khoa học, những biến động đặc biệt dẫn đến việc bội chi quỹ, bị giảm giá trị do lạm phát thông thường, do lạm phát từ các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị trong và ngoài nước tác động...
Thực trạng này đòi hỏi quỹ BHTN phải chú trọng đến hoạt động đầu tư tăng trưởng để tránh bội chi. Sự xoay vòng bảo tồn và tăng trưởng quỹ là một đặc trưng cơ bản của hoạt động BHTN trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động đầu tư luôn là yêu cầu cần thiết, khách quan, đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của quỹ BHTN.
Những nhà quản lý BHTN phải phân tích các cấu trúc thị trường vốn trong nước có liên quan tới các phương thức đầu tư ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; tỷ lệ lãi suất dự báo,... Phần quỹ kết dư phải được đầu tư có thời hạn phù hợp với yêu cầu chu chuyển tiền mặt của tất cả các nội dung hợp lại với nhau. Phần thu được từ đầu tư phải được bổ sung vào quỹ BHTN. Ngoài ra, hoạt động đầu tư cũng cần được cân nhắc đó là lợi ích xã hội và kinh tế.
42
Hình thức đầu tư có thể bao gồm: Vốn vay (chứng khoán có thu nhập ổn định), cổ phần, chứng khoán quốc gia... Tiền gửi ngân hàng là một khoản đầu tư thích hợp (khi có tiền mặt trong tay) để trang trải những hoạt động hàng ngày của hệ thống. Mức cần thiết đòi hỏi cho những hoạt động có thể dự tính từ chu trình tiền mặt đã xảy ra trước đây trong hệ thống. Quỹ có thể được gửi vào ngân hàng trong khi chờ đợi đầu tư hoặc tái đầu tư trong những phương thức đầu tư thích hợp hơn với một tỷ lệ lãi suất thích hợp.
1.3. Những nhân tố chủ yếu tác động đến quản lý quỹ BHTN
1.3.1. Chính sách pháp luật
Đây là nhân tố chủ yếu và có tác động tổng hợp đến quản lý quỹ BHTN. Bởi lẽ, chính sách BHTN là một chính sách xã hội, nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô. Chính sách này do nhà nước ban hành và luôn được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nội dung chính sách thể hiện rõ quan điểm, định hướng của đảng cầm quyền, quá trình thực thi chính sách lại phụ thuộc rất lớn vào thể chế chính trị của quốc gia và mô hình tổ chức BHTN của quốc gia đó.
Mỗi điều chỉnh về chính sách BHTN sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến đối tượng quản lý và mức thu - chi BHTN. Sự điều chỉnh chính sách thường theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, tăng mức đóng, mức hưởng từ đó sẽ trực tiếp làm gia tăng phạm vi quản lý và khối lượng công việc của tổ chức quản lý BHTN. Cụ thể:
- Về đối tượng tham gia và thụ hưởng chế độ BHTN: Đây là một trong những nhân tố định lượng quan trọng, quyết định đến nguồn hình thành quỹ BHTN cũng như việc chi trả chế độ BHTN. Nó chính là một trong những nội hàm chủ yếu của nhân tố chính sách pháp luật tác đông trực tiếp đến quỹ BHTN. Bởi lẽ, khi điều chỉnh chính sách theo từng thời kỳ về đối tượng tham gia, điều kiện thụ hưởng của người thất nghiệp, số lượng tham gia BHTN và người thụ hưởng chế độ sẽ tăng, giảm tương ứng. Khi người tham gia BHTN ngày càng tăng lên, thì số người thụ hưởng ngày càng giảm đi, nó không chỉ làm tăng nguồn thu, mà còn đảm bảo dễ dàng san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính theo quy luật số đông bù số ít trong bảo hiểm khi thụ hưởng chế độ.
- Về mức phí đóng góp và mức thụ hưởng chế độ BHTN: Nhân tố định lượng này cũng thể hiện rất rõ trong chính sách pháp luật về BHTN và nó được điều chỉnh theo đà phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mức phí đóng góp càng cao thì nguồn thu vào quỹ BHTN càng lớn, tương ứng với việc khi người thất nghiệp hưởng chế độ
43
cũng sẽ được hưởng tỷ lệ tương ứng với mức đóng góp trước khi thất nghiệp và ngược lại. Do vậy, nó có tác động trực tiếp tới hoạt động quản lý quỹ BHTN nói chung và ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý thu, chi BHTN nói riêng. Mức phí đóng góp được thu chủ yếu từ người sử dụng lao động, người lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước (nếu có). Còn mức hưởng trợ cấp BHTN thì chỉ dành riêng cho người lao động bị thất nghiệp. Đa số người sử dụng lao động sẽ đại diện cho người lao động trích từ tiền lương của người lao động và quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động để nộp cho tổ chức quản lý thu BHTN. Tuy nhiên, nếu mức phí đóng góp không đúng và đầy đủ theo pháp luật quy định sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu vào quỹ BHTN và gián tiếp đến mức hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động nếu họ bị thất nghiệp. Việc xác định và điều chỉnh mức phí đóng góp, mức hưởng BHTN luôn là vấn đề khó khăn, phức tạp đối với những nhà hoạch định chính sách. Bởi ngoài việc phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, khả năng tích luỹ, tiêu dùng của xã hội, mức sống dân cư, thu NSNN... còn phụ thuộc rất nhiều vào sự phân công lao động xã hội, khoa học công nghệ thay thế lao động thủ công hay sự chuyển dịch cơ cấu, phân bổ lao động, đòi hỏi trình độ lao động ngày càng cao.
1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Một trong những tác động chủ yếu đến quản lý quỹ BHTN là điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Các chỉ tiêu như: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP) và thu nhập GDP bình quân đầu người thể hiện sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Nó tác động trực tiếp đến đối tượng tham gia và thụ hưởng chế độ BHTN như: khi nền kinh tế ổn định, phát triển thì lực lượng lao động sẽ có cơ hội việc làm, tình trạng thất nghiệp vì thế sẽ thấp hơn nhiều so với lực lượng lao động. Hay nó tác động trực tiếp đến mức phí đóng góp và các khoản thụ hưởng chế độ như: thu nhập bình quân tăng thì mức phí đóng góp tăng, mức hưởng chế độ BHTN cũng được tăng lên theo mức phí đóng góp,... Đồng thời, gián tiếp tác động đến sự hỗ trợ của Nhà nước (nếu có) vào quỹ BHTN. Như vậy, điều kiện kinh tế - xã hội không chỉ tác động đến đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN mà còn tác động đến mức phí đóng góp và các khoản thụ hưởng chế độ BHTN. Mặt khác, chính sách pháp luật về BHTN cũng phải được nghiên cứu, điều chỉnh phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Khi điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia ổn định và phát triển, sự chuyển dịch và phân bố lao động diễn ra nhanh, các khu công nghiệp và các loại hình dịch vụ phát triển đa dạng,... nguồn lực lao động sẽ tăng lên nhanh chóng. Mặt khác, thu hút được các nhà đầu tư quan tâm, nguồn lực đầu tư vào quốc gia đó được tăng lên, thị trường lao động có nhiều cơ hội việc làm, mức thu nhập bình quân đầu người ngày
44
một tăng lên, tình trạng thất nghiệp giảm đi. Khi đối tượng thất nghiệp giảm, đối tượng tham gia BHTN và mức phí đóng góp vào quỹ BHTN ngày một tăng lên làm cho quỹ BHTN ngày một tăng trưởng theo từng thời kỳ. Ngược lại, nếu điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia kém phát triển, thị trường lao động sẽ phân bổ không đều, dư thừa lao động, mức thu nhập bình quân đầu người sẽ ngày một thấp đi, các cơ sở kinh doanh ngày một thu hẹp làm cho nguồn thu vào quỹ BHTN giảm, chi trả chế độ BHTN cho người thất nghiệp ngày một tăng lên sẽ làm cho quỹ BHTN đứng trước nguy cơ mất cân đối.
Vì vậy, mỗi quốc gia không những có nhiều giải pháp điều tiết nền kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ mà còn phải nghiên cứu, điều chỉnh chính sách BHTN cho phù hợp cả về phạm vi đối tượng tham gia, đối tượng thụ hưởng lẫn mức phí đóng góp và chi trả các chế độ BHTN đảm bảo cho quỹ BHTN được ổn định và tăng trưởng trong trung hạn và dại hạn.
1.3.3. Tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
Nhận thức của đối tượng tham gia BHTN sẽ quyết định việc tham gia, thực hiện chính sách pháp luật BHTN. Do vậy, tuyên truyền, phổ biến chính sách phấp luật về BHTN đối với đối tượng tham gia, đặc biệt là người lao động và người sử dụng lao động phải được quan tâm đúng mực, thực sự đi sâu vào nhận thức của đối tượng tham gia.
Công tác tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật không những giúp các đối tượng tham gia thấy được những nội dung và vai trò quan trọng của BHTN, mà còn bổ sung thêm các thông tin đầy đủ cho họ, để họ có thể hiểu được chế độ, quyền lợi khi không may mất việc làm. Đồng thời, họ còn có thể tuyên truyền, phổ biến cho các đồng nghiệp hoặc người thân nắm rõ hơn quyền lợi của mình khi không may bị mất việc làm và làm thế nào để có thể quay lại thị trường lao động trong thời gian sớm nhất.
Làm tốt công tác tuyên truyền còn giúp các cấp, các ngành, các cơ quan BHTN, các đoàn thể chính trị xã hội, nhận thức rõ hơn vai trò và trách nhiệm của mình trong quá trình triển khai chính sách BHTN. Đặc biệt là nâng cao được tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, các cấp nói riêng, để họ tích cực phối hợp với cơ quan BHTN tìm giải pháp phát triển đối tượng cũng như hạn chế tối đa tình trạng trốn đóng, nợ đọng tiền đóng BHTN của người lao động.
Do đó, để mở rộng đối tượng tham gia BHTN, thực hiện đúng quy định về chế độ đối với người tham gia, thụ hưởng thì công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách
45
pháp luật về BHTN luôn là một nhân tố quan trọng, không được xem nhẹ. Nó gián tiếp tác động đến nguồn thu của quỹ BHTN và sử dụng quỹ BHTN để chi trả chế độ cho người thất nghiệp.
1.3.4. Công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát
Đây là một trong những nội dung quan trọng trong công tác quản lý nói chung và trong tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN nói riêng. Thực hiện hiệu quả công tác này sẽ nâng cao tính nghiêm minh thực thi chính sách pháp luật đối với các bên tham gia và phát hiện được những khuyết tật của chính sách pháp luật vê BHTN. Điều này thể hiện ở chỗ: Đối tượng tham gia có thực hiện đúng các quy định của chính sách pháp luật không? Chính sách pháp luật còn phù hợp với điều kiện thực tế hay không; Những điểm bất hợp lý của chính sách được phát hiện trong quá trình tổ chức triển khai,... Trên thế giới, Canada và Mỹ có hệ thống giám sát chương trình BHTN/BHVL hiệu quả trong quá trình vận hành. Hệ thống BHTN ở Mỹ làm việc hiệu quả từ năm 1999, hệ thống này giám sát toàn diện các hoạt động BHTN theo các khía cạnh chính sau: tính chính xác của trợ cấp, sự kịp thời của việc hưởng trợ cấp và đảm bảo tính hiệu quả trong thu phí. Theo đó, các báo cáo chi tiết về các hoạt động này được thể hiện qua các tiêu chí như sự kịp thời chi trả trợ cấp đầu tiên, chi trả đúng, đầy đủ, lý do chi trả vượt mức, số tiền chi trả vượt mức, sự gian lận, các trường hợp chi trả thấp hơn quy định, các quyết định từ chối chi trả trợ cấp, khiếu nại, sự tuân thủ các quy định của người sử dụng lao động,...
Do vậy, quá trình quản lý các hoạt động thu BHTN, chi trả chế độ BHTN có thể
bộc lộ những khiếm khuyết ở các khía cạnh sau:
- Hiểu không đúng, không đây đủ chính sách pháp luật về BHTN từ đó dẫn đến
thu không đúng đối tượng, không đầy đủ, không kịp thời.
- Cố tình hiểu sai chính sách pháp luật nhằm trục lợi BHTN hoặc bao che cho
những hành vi trốn đóng, nợ đọng BHTN của các đơn vị sử dụng lao động.
- Giả mạo hồ sơ, cấu kết để thực hiện các hành vi hưởng chế độ BHTN không
đúng quy định pháp luật.
- Tổ chức triển khai thực hiện quản lý quỹ BHTN chưa phù hợp thực tế, cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, cố tình làm sai các quy định, tạo điều kiện cho đối tượng tận dụng kẽ hở để trục lợi quỹ BHTN.
- Chế tài xử phạt chưa nghiêm minh, còn nhẹ chưa đủ sức răn đe, dẫn tới các
hiện tượng vi phạm pháp luật BHTN...
46
Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát tình hình thực hiện chính sách pháp luật về BHTN sẽ làm cho quỹ BHTN được ổn định, cân đối, hạn chế tối đa tình trạng lạm dụng, trục lợi. Nhân tố này không chỉ được minh chứng trong lĩnh vực BHTN mà còn ở tất cả các lĩnh vực khác như BHXH, BHYT hay thu NSNN v.v...
1.3.5. Tổ chức triển khai chính sách pháp luật về quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Tổ chức triển khai chính sách pháp luật về quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp phải được tổ chức thống nhất, xuyên suốt trong bộ máy hoạt động quản lý, đảm bảo thực thi đúng chính sách pháp luật, thuận lợi, hiệu quả đến chủ thể và khách thể tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN. Có nhiều yếu tố tác động đến công tác tổ chức triển khai quản lý quỹ BHTN, tuy nhiên trong nghiên cứu này tập trung đề cập đến các nội dung về tổ chức quản lý, phân cấp quản lý và quy trình thực hiện các nghiệp vụ trong triển khai chính sách pháp luật về quản lý quỹ BHTN.
Tổ chức triển khai chính sách pháp luật trong quản lý thu, chi BHTN liên quan đến khá nhiều quy trình nghiệp vụ, như: xây dựng kế hoạch, khai thác, phát triển đối tượng, quản lý đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN, quản lý tiền thu BHTN, chi trả trợ cấp BHTN. Ngoài ra, nó còn liên quan đến sự phối hợp giữa tổ chức quản lý quỹ BHTN với các cấp chính quyền địa phương trong quá trình thu, chi, quản lý đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN. Nếu quản lý thu và quản lý chi BHTN không có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không thực hiện đúng quy định của pháp luật hoặc không cùng một tổ chức quản lý quỹ BHTN sẽ có nguy cơ quỹ BHTN mất cân đối trong cả ngắn hạn và dài hạn như thu không đủ bù chi, kết dư quỹ BHTN lớn do không thực hiện hết các chức năng về chính sách BHTN chủ động,...
Công tác đào tạo, nâng cao tay nghề là một trong những chế độ BHTN mà người bị thất nghiệp được hưởng. Để ổn định sản xuất kinh doanh, hạn chế việc thay đổi nhân lực hay tình trạng thất nghiệp nói chung và phòng tránh người thất nghiệp tái thất nghiệp nói riêng thì việc đào tạo, nâng cao tay nghề là hết sức cần thiết. Mong muốn này là hoàn toàn tự nhiên, khách quan và chính đáng. Chính vì vậy, việc quản lý chất lượng đào tạo, nâng cao tay nghề cần phải được quan tâm, đa dạng, phong phú ngành nghề đào tạo để đáp ứng mong muốn của người thất nghiệp cũng như đáp ứng thị trường việc làm sẽ góp phần củng cố niềm tin cho người lao động cũng như người bị thất nghiệp yên tâm quay lại thị trường lao động với việc làm phù hợp, thu nhập ổn định và cao hơn.
Tư vấn giới thiệu việc làm và thông tin thị trường lao động hết sức cần thiết và tương đối nhạy cảm với tình hình kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Phân tích, nghiên cứu thị trường việc làm trong mỗi thời kỳ, đáp ứng nhu cầu của người lao động cũng
47
như tình hình phát triển kinh tế nhà nhiệm vụ trọng tâm của nhà quản lý. Do đó, tăng cường quản lý về tư vấn giới thiệu việc làm và thông tin thị trường lao động giúp cho người lao động, người sử dụng lao động yên tâm sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định xã hội.
1.3.6. Chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Con người luôn được coi là yếu tố quyết định đối với sự thành công trong quản lý. Nói cách khác là hiệu quả quản lý quỹ BHTN cao hay không là do những người thực hiện việc quản lý quỹ BHTN với những nhiệm vụ được giao. Chất lượng nguồn nhân lực sẽ đảm bảo sự thông suốt trong trong việc triển khai thực hiện các khâu của công việc quản lý quỹ BHTN. Ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ được phân công như tổ chức thu, chi thì công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật của cán bộ nhân viên tổ chức quản lý quỹ BHTN với đối tượng tham gia và thụ hưởng chế độ BHTN là hết sức quan trọng. Nếu không đạt hiệu quả cao trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHTN đến người tham gia và thụ hưởng chế độ thì nhận thức và hiểu biết của đối tượng tham gia và thụ hưởng sẽ không chính xác, đôi khi là sai lệch. Do đó, nguồn thu của quỹ BHTN sẽ bị ảnh hưởng cũng như việc chi trả chế độ BHTN cho người bị thất nghiệp cũng liên đới bị ảnh hưởng theo.
Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng trong quản lý quỹ BHTN đạt hiệu quả cao, duy trì sự ổn định và phát triển quỹ, nhằm hướng đến cái chung là đảm bảo an sinh xã hội cho mỗi quốc gia. Vì vậy, chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan quản lý quỹ BHTN cần phải coi trọng và luôn được quan tâm đúng mực.
1.3.7. Ứng dụng công nghệ thông tin
Ngày nay, công nghệ thông tin đang được các nước phát triển trên thế giới ứng dụng rất hiệu quả trong các hoạt động quản lý. Nó không những đảm bảo độ chính xác mà còn bảo mật thông tin.
Khi ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung quản lý xuyên suốt từ đối tượng tham gia BHTN đến đối tượng hưởng chế độ BHTN sẽ giúp cho cơ quan quản lý đối tượng kịp thời nắm bắt diễn biến của đối tượng. Kịp thời phát hiện các trường hợp trốn đóng, chậm đóng, đóng không đúng đối tượng hay kịp thời phát hiện các trường hợp dừng hưởng chế độ BHTN. Từ đó, quỹ BHTN sẽ gia tăng nguồn thu và hạn chế, kiểm soát các trường hợp chi không đúng, lạm dụng, trục lợi làm ảnh hưởng đến quỹ BHTN, nguy cơ mất cân đối.
48
Ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình quản lý thu và chi trả chế độ BHTN có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ bùng nổ thông tin như hiện nay. Nhờ phát triển công nghệ thông tin mà nhiều nước trên thế giới đã và đang quản lý đối tượng, trích nguồn thu từ người lao động cũng như chi trả chế độ BHTN rất chính xác và kịp thời. Mặt khác, quá trình đào tạo nghề, tư vấn giới thiệu việc làm được gắn kết chặt chẽ trong mỗi quốc gia qua hệ thống thông tin đã đa dạng hóa và đáp ứng đa số nhu cầu việc làm cho người thất nghiệp. Đồng thời, giúp cho người thất nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận việc làm để quay trở lại thị trường lao động...
Đây cũng là nhân tố có tác động trực tiếp đến quản lý quỹ BHTN và tính hiệu
quả trong quản lý quỹ BHTN.
1.4. Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.4.1. Quản lý quỹ BHTN ở một số nước trên thế giới
Quỹ BHTN cũng như các quỹ bảo hiểm khác, cần phải được quản lý chặt chẽ, hiệu quả và có tính bền vững nhằm đáp ứng mục tiêu cuối cùng là đảm bảo một phần thu nhập cho người lao động bị mất việc làm hay thực hiện các chính sách thị trường lao động chủ động. Một trong những thước đo tính bền vững đầu tiên và rõ ràng nhất của một chương trình BHTN/BHVL là sự sẵn sàng và khả năng của người đóng BHTN nhằm đảm bảo có đủ kinh phí cho các khoản chi nhất định và có thể dự toán được. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Quỹ BHTN ở một số quốc gia đã bị thâm hụt do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Chẳng hạn như: Canada, Pháp, Đức và hầu hết các bang của Mỹ phải dựa vào các khoản vay và hỗ trợ từ chính phủ liên bang để trả các khoản trợ cấp theo quy định. Trái ngược ở một số quốc gia khác, Quỹ BHTN lại tiếp tục thặng dư và tăng trưởng nhanh do các quy định về điều kiện hưởng BHTN chặt chẽ hoặc các chính sách thị trường lao động chủ động không hiệu quả,... Điển hình ở một số nước như: Bahrain, Mông Cổ, Thái Lan, Việt Nam,... Ở một số chương trình khác thì các nguồn thu được duy trì ở mức cao hơn mức cần thiết để chi trả các trợ cấp thất nghiệp hoặc để tích lũy mức dự trữ quỹ an toàn.
49
Bảng 1.2: Quỹ BHTN và tính bền vững ở một số quốc gia trên thế giới
Phương thức thu BHTN
Quỹ BHTN và tính bền vững
Quốc gia
Có thặng dư lớn trong quỹ BHTN.
Bahrain
Người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước đóng 1% mức lương. Mức phí bằng 3% mức lương có bảo hiểm được chia sẻ đều cho người sử dụng lao động và người lao động.
Đức
Năm 2010, BA đạt mức thu 37,1 tỷ EUR và chi phí là 45,2 tỷ EUR. Mức thâm hụt 8,1 tỷ EUR đã được bù đắp bằng hỗ trợ từ Nhà nước ở mức 5,2 tỷ EUR và 2,9 tỷ EUR rút ra từ quỹ dự trữ. Thâm hụt quỹ BHTN trong những năm qua ngày càng tăng.
Pháp
Trung Quốc
Đến cuối năm 2007, Quỹ BHTN đã gấp 4,5 lần tổng chi phí năm 2007. Thặng dư quỹ BHTN chủ yếu tập trung ở các vùng phát triển mạnh và ở các thành phố lớn, trung bình.
Hàn Quốc
Nhật Bản
Bắt đầu từ năm 2011, mức phí BHVL không căn cứ vào tổng tiền lương mà căn cứ vào tổng chi trả trợ cấp cho tất cả đối tượng có bảo hiểm, tạo điều kiện cho phí BHVL dựa vào chi trả trợ cấp thực tế. Quỹ BHVL vận hành theo phương thức rất ổn định, tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức 3% thay vì tỷ lệ thất nghiệp trước đó do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cuối năm 2009, tài khoản UI đã có số dư quỹ ở mức 44,3 nghìn tỷ Yên (575 triệu USD), dự tính đạt 72 nghìn tỷ (940 triệu USD) vào cuối năm 2010. Số dư quỹ theo dự toán trên bằng khoảng ¼ tổng chi trợ cấp BHTN hằng năm.
Thái Lan
Người sử dụng lao động đóng 4% và người lao động đóng 2,4% mức lương được bảo hiểm. Người sử dụng lao động đóng 2% và người lao động đóng 1% mức lương. Chính quyền tỉnh có thể điều chỉnh mức đóng góp và Hội đồng Nhà nước phê duyệt. Quỹ BHTN được bao cấp bởi Chính quyền địa phương trong trường hợp cần thiết. Người sử dụng lao động và người lao động đóng góp 0,55% thu nhập của người lao động với trợ cấp thất nghiệp. Người sử dụng lao động đóng thêm 0,25% tổng tiền lương nếu sử dụng dưới 150 lao động và ở mức 0,65% nếu sử dụng trên 1000 lao động đối với chương trình thúc đẩy thị trường lao động. Mức phí bằng 1,2% mức lương bảo hiểm được chia đều cho người lao động và người sử dụng lao động, và 1/4 chi phí là đóng góp từ kho bạc nhà nước. Đối với chương trình “Hai dịch vụ”, chỉ có người sử dụng đóng góp 0,35% mức lương. Mức phí: Người sử dụng lao động và người lao động đóng 0,5% mức lương. Mức lương tối đa để tính bảo hiểm là 15.000 THB/tháng; Chính phủ góp 0,25% mức lương của người lao động.
Mức trợ cấp thất nghiệp bằng 50% mức lương (trợ cấp tối đa không quá 7.500 THB/tháng) áp dụng với lao động bị buộc thôi việc, và thời hạn hưởng trợ cấp chỉ có 6 tháng. Do đó, ngay cả khi tỷ lệ thất nghiệp tăng cao hơn trước, hệ thống BHTN của Thái Lan gần như không có nguy cơ bị thâm hụt mà có thặng dư quỹ từ năm 2004.
Nguồn: Carter, J., Bédard, M., & Bista, C. P. (2013)
1.4.1.1. Ở CHLB Đức
50
Chương trình BHTN ở Đức được triển khai từ năm 1927 và được cải cách vào năm 1969 thông qua Luật xúc tiến việc làm. Đến năm 2006, Luật tiếp tục mở rộng các dịch vụ cơ bản cho người thất nghiệp, với các chính sách giúp người thất nghiệp trở lại thị trường lao động và giảm mức trợ cấp nếu người thất nghiệp tái vi phạm việc không thực hiện các nghĩa vụ của mình. Luật cũng cho phép một số trường hợp tự nguyện tham gia BHTN. Đối tượng tham gia BHTN là hầu hết người lao động làm công ăn lương, tuy nhiên, công chức nhà nước và những người có thu nhập dưới 400/EUR/ tháng không thuộc diện tham gia BHTN mà tham gia chương trình Hỗ trợ thất nghiệp. Những người làm công việc chăm sóc cho người phụ thuộc, người tự tạo việc làm đạt tối thiểu 15 giờ/ tuần, người làm việc ngoài nước Đức ở quốc gia không thuộc liên minh Châu Âu có thể tự nguyện tham gia BHTN. Ngoài các chế độ cơ bản, Quỹ BHTN còn chi trả trợ cấp ngắn hạn hay còn gọi là chương trình chia sẻ việc làm, được áp dụng nếu có cắt giảm lớn trong sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp này doanh nghiệp có thể phải chuyển một số nhân công tạm thời sang làm việc bán thời gian. Trợ cấp BHTN ngắn hạn sẽ bù lại một phần thu nhập bị mất do giảm giờ làm và có thể lên tới 60% số tiền lương ròng, hoặc bằng 67% trong trường hợp gia đình người lao động có con nhỏ. Người sử dụng lao động vẫn trả lương đầy đủ cho người lao động và khai nhận trợ cấp ngắn hạn tại văn phòng việc làm địa phương.
Cơ quan Việc làm liêng bang với khoảng 119 nghìn nhân viên vào năm 2010, quản lý tất cả các trường hợp trợ cấp, bồi thường cho thu nhập bị thiệt hại như trợ cấp BHTN, hỗ trợ thất nghiệp, trợ cấp ngắn hạn, bồi thường trong trường hợp người sử dụng lao động mất khả năng thanh toán. Cơ quan này cũng cung cấp kinh phí cho đào tạo, giới thiệu việc làm, hướng nghiệp, tư vấn sử dụng lao động, xúc tiến đào tạo nghề, xúc tiến hội nhập lao động đối với người khuyết tật, trợ cấp duy trì và tạo việc làm. Các văn phòng việc làm địa phương chịu trách nhiệm thu phí BHTN và chuyển vào tài khoản của một trong mười văn phòng việc làm liên bang thuộc 10 vùng kinh tế. Các văn phòng làm việc liêng bang chịu trách nhiệm chi trả trợ cấp BHTN và hỗ trợ thất nghiệp cho cá nhân, và trả hỗ trợ ngắn hạn cho doanh nghiệp.
Các chính sách chống thất nghiệp và hỗ trợ các nhóm đặc biệt được thực hiện
như sau:
- Trợ cấp thôi việc và khi chủ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán: Nếu một công nhân bị thôi việc do yêu cầu trong hoạt động doanh nghiệp thì có quyền hưởng trợ cấp thôi việc được tính bằng nửa tháng lương cho mỗi năm làm việc. Và trợ cấp
51
được chi trả khi người sử dụng lao động mất khả năng thanh toán; phần này cũng do văn phòng việc làm liên bang quản lý
- Liên kết với các chính sách thị trường lao động chủ động: Chương trình xúc tiến việc làm hướng tới mục tiêu đạt tỷ lệ có việc làm cao bằng cách cải thiện khả năng kiếm việc cho những người thất nghiệp và kết nối cung cầu trên thị trường lao động. Trong đó, BHTN là một phần của chương trình xúc tiến việc làm. Các văn phòng việc làm liên bang và địa phương cung cấp các dịch vụ cho cả người sử dụng lao động và người lao động như giới thiệu việc làm, đào tạo nghề, tư vấn khởi nghiệp, hỗ trợ đi lại và các chế độ ưu đãi với người sử dụng lao động như trợ cấp thuê nhân công đang thất nghiệp, hỗ trợ tuyển dụng.
Mặc dù vậy, BHTN ở Đức cũng có những ưu điểm và hạn chế nhất định như:
- Về ưu điểm: Chương trình trợ cấp ngắn hạn của hệ thống BHTN có vai trò quan trọng trong duy trì việc làm ở thời kỳ suy thoái kinh tế năm 2008 và tiếp tục có tác động tích cực rõ rệt đối với tỷ lệ có việc làm của năm 2010.
- Về hạn chế: Mặc dù mức thu phí cao, song quỹ BHTN Đức vẫn bị thâm hụt và
1.4.1.2. Ở Nhật Bản
cần sự hỗ trợ từ ngân sách của chính phủ.
Năm 1947, Nhật Bản ban hành một bộ luật thiết lập nên chương trình BHTN bắt buộc dựa vào hệ thống BHXH do Nhà nước quản lý. Sau nhiều lần sửa đổi đến năm 1974, Luật BHVL quy định hệ thống BHTN đổi thành BHVL với một số chương trình hỗ trợ mới. Những thay đổi tiếp theo trong Luật BHVL vào năm 2001 và năm 2003 chủ yếu nhằm mỏ rộng diện bao phủ, làm rõ các điều kiện hưởng trợ cấp và chống sử dụng sai quỹ BHVL.
Ở Nhật Bản, BHVL có các chương trình trợ cấp và hỗ trợ toàn diện được xem
xét dựa trên quá trình làm việc trước đó, bao gồm:
- Trợ cấp thất nghiệp nhằm đảm bảo điều kiện sống cho người lao động và
khuyến khích họ trợ lại công việc;
- Hàng loạt các dịch vụ hỗ trợ người thất nghiệp trở lại làm việc, giúp doanh nghiệp giữ lại nhân công hoặc thuê nhân công đang thất nghiệp và giúp lao động nâng cao kỹ năng làm việc. Chương trình hỗ trợ trở lại làm việc thuộc về gói trợ cấp thất nghiệp cùng với phần “Hai dịch vụ”, tất cả trong hệ thống BHVL. Kinh phí vận hành phần “Hai dịch vụ” do các chủ doanh nghiệp đóng góp vào quỹ BHVL. Đối với sinh viên mới tốt nghiệp tìm việc khó khăn, Hello Work (là trung tâm dịch vụ việc làm) sẽ
52
sắp xếp để họ gặp các chuyên gia tư vấn việc làm. Và để ứng phó với áp lực của quá trình già hóa dân số đối với quỹ hưu trí, Nhật Bản có một số chương trình trợ cấp khuyến khích sử dụng lao động lớn tuổi (trên 60 tuổi). Chương trình này hướng dẫn các doanh nghiệp quản lý việc làm để họ có thể thiết lập một hệ thống việc làm liên tục cho người lao động cho tới 65 tuổi và thậm chí tới 70 tuổi;
- Trợ cấp tìm việc làm (trợ cấp BHTN);
- Trợ cấp xúc tiến việc làm;
- Trợ cấp giáo dục đào tạo;
- Trợ cấp tiếp tục làm việc (danh cho người làm công việc chăm sóc người già,
trẻ nhỏ và gia đình);
- Ngoài ra, BHVL còn có chương trình hỗ trợ thất nghiệp dành cho những
người không đủ tiêu chuẩn hưởng trợ cấp tìm việc làm.
Cơ quan quản lý BHVL ở cấp trung ương do Cục an ninh việc làm, Bộ Y tế - Lao động và Phúc lợi quản lý. Còn ở cấp tỉnh, có 47 Sở Lao động quản lý BHVL dựa vào 545 văn phòng làm việc địa phương còn được gọi là các trung tâm Hello Work và đóng vai trò là tuyến đầu trong giới thiệu việc làm, quản lý BHTN. Cục an ninh việc làm sẽ là cơ quan thu toàn bộ phí BHXH vào quỹ BHVL với mức đóng góp 1,2% tiền lương được chia đều cho người lao động và người sử dụng lao động. Nhà nước dùng ngân sách kho bạc quốc gia để bổ sung cho quỹ BHVL với hạn mức bằng 1/4 tổng chi phí của hệ thống BHVL. Riêng đối với Hai dịch vụ chỉ có người sử dụng lao động đóng góp ở mức 0,35% tiền lương của người lao động. Hello Work tiếp nhận, xét duyệt và chi trả trợ cấp. Chức năng của Hello Work bao gồm:
- Giới thiệu việc làm: tiếp nhận nhu cầu tuyển người của các doanh nghiệp, tổ chức gặp và tư vấn cho người cần tìm việc để giới thiệu kết nối việc làm, giới thiệu cơ hội đào tạo nghề. Lao động có bảo hiểm hay không có đều được tiếp cận dịch vụ này.
- Quản lý hệ thống BHTN: tiếp nhận đăng ký, xét duyệt và chi trả trợ cấp
thất nghiệp.
- Hướng dẫn quản lý việc làm: dịch vụ này dành cho các chủ doanh nghiệp sử
dụng lao động lớn tuổi và lao động là người khuyết tật.
- Ngoài ra họ còn đến các doanh nghiệp để hướng dẫn tuyển dụng, đảm bảo sự phù hợp giữa cung và cầu về lao động, khuyến nghị về đào tạo nâng cao tay nghề khi cần thiết.
53
Một trong những điểm nổi bật của BHVL ở Nhật là sự gắn kết chặt chẽ giữa trợ cấp thất nghiệp với chính sách thúc đẩy việc làm. Trong gói hỗ trợ theo BHVL, ngoài trợ cấp thất nghiệp, còn có hàng loạt các trợ cấp và dịch vụ nhằm khuyến khích người lao động sớm trở lại làm việc và nâng cao năng lực tìm việc như: chế độ đào tạo nghề suốt đời, đào tạo nâng cao kỹ năng, trợ giúp tự tạo việc làm, hội chợ việc làm, tư vấn việc làm,…
- Trợ cấp xúc tiến việc làm cung cấp khoản tiền thưởng tái làm việc cho các lao động tìm được việc làm khi còn đến 1/3 thời gian hoặc hơn 45 ngày trong thời hạn hưởng trợ cấp. Khoản trợ cấp một lần được tính toán dựa trên mức trợ cấp cơ bản hằng ngày cho đến mức tối đa là 5.885 JPY hoặc 4.770JPY đối với lao động từ 60 tuổi đến 64 tuổi. Đồng thời, trợ cấp xúc tiến việc làm cũng chi trả một phần chi phí di chuyển đến nơi ở khác. Trường hợp người đủ điều kiện hưởng trợ cấp sẽ được Hello Work giới thiệu tham gia khóa đào tạo nghề, được hỗ trợ 20% học phí (tối đa 100.000 JPY) và vẫn được hưởng trợ cấp BHTN đến khi kết thúc khóa đào tạo, ngay cả khi khóa đào tạo kéo dài hơn so với thời gian hưởng trợ cấp.
- Hỗ trợ việc làm dành cho người lao động cao tuổi là các khoản hỗ trợ giúp người lao động tiếp tục làm việc hoặc tái làm việc sau 60 tuổi. Chương trình hỗ trợ 15% lương cho các lao động lớn tuổi khi họ bị giảm lương tới 25% so với mức lương khi họ chưa đến 60 tuổi.
Chính sách thị trường lao động còn thể hiện trong hợp phần Hai dịch vụ trong hệ thống BHVL. Hai dịch vụ có chức năng kép đó là: (i) Ổn định việc làm là nói đến các biện pháp nhằm phòng tránh thất nghiệp, ổn định việc làm và tạo việc làm; (ii) Phát triển kỹ năng là nói đến các biện pháp phát triển nguồn nhân lực trong suốt thời gian đi làm thông qua các chương trình đào tạo nghề, hỗ trợ kinh phí đào tạo và đào tạo lại cho nhân công và các biện pháp khác.
Hệ thống BHVL ở Nhật Bản có nhiều chính sách chủ động và đạt được những
thành quả nhất định, song cũng còn những hạn chế, thể hiện ở những điểm như sau:
- Về ưu điểm: Có nhiều chương trình và các chế độ trợ cấp thu nhập tạm thời giúp thúc đẩy quá trình tái làm việc và tuyển dụng người thất nghiệp, bên cạnh các biện pháp xúc tiến việc làm hay đào tạo nghề… Ngoài ra, Nhật Bản cũng quan tâm đến người lao động cao tuổi, những người bị giảm lương khi ở tuổi 60 trở lên bằng cách tạo ra các chế độ trợ cấp để duy trì lao động cao tuổi đến 65 tuổi (một số trường hợp đến 70 tuổi). Nhật Bản cũng có một số hỗ trợ và chương trình khuyến khích tuyển dụng lao động là người khuyết tật.
54
1.4.1.3. Ở Hàn Quốc
- Về hạn chế: Tỷ lệ bao phủ thực tế của BHVL so với tổng số lao động thất nghiệp ở mức thấp, chỉ đạt khoảng 19,8% vào năm 2010. Một số ý kiến cho rằng phức tạp trong áp dụng Luật BHVL và Luật về thu bảo hiểm lao động.
Luật BHVL được thông qua năm 1993 nhưng BHVL được áp dụng năm 1995. Chương trình lấy tên BHVL nhằm nhấn mạnh vào sự phối hợp giữa các chính sách ASXH và thúc đẩy thị trường lao động. Mục tiêu của BHVL gồm hai phần: (i) chống thất nghiệp, phát triển việc làm và phát triển kỹ năng nghề; (ii) trợ cấp tài chính và hỗ trợ việc làm cho người thất nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, chương trình có 4 hợp phần gồm:
- Ổn định việc làm;
- Phát triển kỹ năng nghề;
- Trợ cấp thất nghiệp;
- Trợ cấp thai sản.
Ba hợp phần đầu tập trung giải quyết thất nghiệp và hỗ trợ việc làm được chia thành nhiều phần nhỏ như: Hỗ trợ việc làm cho người cao tuổi, trợ cấp đào tạo, trợ cấp tìm việc, trợ cấp thúc đẩy việc làm được cộng thêm vào trợ cấp tìm việc, gồm các khoản như phụ cấp đào tạo, hỗ trợ di chuyển.
Đối tượng tham gia liên tục được sửa đổi và mở rộng với tất cả người lao động làm công ăn lương (trừ lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, nghề cá, hoặc giúp việc gia đình), không kể quy mô doanh nghiệp đều phải tham gia BHVL. Lao động là người nước ngoài được tham gia BHVL. Người tự tạo việc làm, chủ doanh nghiệp nhỏ dưới 50 nhân công có thể tự nguyện đăng ký tham gia BHVL.
Bộ Việc làm và Lao động giám sát và chỉ đạo các Văn phòng Đảm bảo việc làm là nơi xử lý các đề nghị hưởng trợ cấp và chi trả các khoản trợ cấp. Tổ chức Dịch vụ Bồi thường và Phúc lợi của người lao động Hàn Quốc là đơn vị chịu trách nhiệm thu phí BHVL đối với trợ cấp thất nghiệp do người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng 0,55% tiền lương của người lao động. Còn đối với trợ cấp phát triển kỹ năng nghề và chương trình ổn định việc làm chỉ có người sử dụng lao động đóng góp từ mức 0,25% tiền lương (doanh nghiệp dưới 150 lao động) đến 0,65% tiền lương (doanh nghiệp trên 1.000 lao động). Văn phòng Đảm bảo việc làm thực hiện chi trả mức trợ cấp BHTN bằng 50% mức lương trung bình của 3 tháng gần nhất, tối thiểu bằng 90% mức lương tối thiểu và tối đa là 40.000 KRW/ ngày. Trường hợp người thất
55
nghiệp sớm tìm được việc làm, họ nhận được 50% khoản trợ cấp còn lại theo chế độ đã được duyệt như là phần thưởng tái làm việc. Ngoài ra, họ còn được gia hạn hưởng trợ cấp nếu không tìm được việc làm trước khi hết hạn hưởng trợ cấp BHTN với mức trợ cấp bằng 70% mức trợ cấp lúc trước nhưng không quá 60 ngày với những điều kiện nhất định hoặc trường hợp đặc biệt.
Các chính sách chống thất nghiệp và hỗ trợ các nhóm đặc biệt được thực hiện
như sau:
- Trợ cấp thôi việc theo Luật Tiêu chuẩn Lao động quy định bắt buộc trả trợ cấp thôi việc khi chấm dứt hợp đồng lao động do sa thải hay về hưu được áp dụng với tất cả doanh nghiệp có từ 5 công nhân trở lên và mức trợ cấp có thể lên tới 1 tháng lương cho mỗi năm làm việc liên tục.
- Liên kết với các chính sách thị trường lao động chủ động tại Hàn Quốc có hai chương trình thị trường lao động chính thuộc hệ thống BHVL đó là: (i) Chương trình phát triển kỹ năng nghề bao gồm trợ cấp đào tạo nghề tại doanh nghiệp, trợ cấp đào tạo nghề tại các trung tâm cho người đang tìm việc, trợ cấp đào tạo cho người đang làm việc, trợ cấp đào tạo nghề nói chung; (ii) Chương trình ổn định việc làm hỗ trợ tạo việc làm cho người thất nghiệp, hỗ trợ khởi nghiệp, hỗ trợ lương hưu để duy trì nhân công, hỗ trợ tạo điều kiện việc làm cho người cao tuổi và người khuyết tật.
Hằng năm, quỹ BHVL dành ra một quỹ dự phòng để đối phó với tình trạng sa thải hàng loạt hoặc các hình thức khác để đảm bảo việc làm. Mức tối ưu của quỹ dự phòng được quy định đối với mức dự trữ cuối năm của các Dự án đảm bảo việc làm và đào tạo phát triển kỹ năng nghề bằng hoặc cao hơn mức kinh phí trong năm, nhưng không vượt quá 1,5 lần mức kinh phí đó. Và mức dự trữ cuối năm của trợ cấp thất nghiệp bằng 1,5 lần hoặc cao hơn mức kinh phí trong năm nhưng không vượt quá 2 lần mức kinh phí đó.
1.4.1.4. Ở Trung Quốc
Ngoài ưu điểm, BHVL ở Hàn Quốc còn có hạn chế ở các chương trình về thúc đẩy thị trường lao động thường xuyên điều chỉnh, áp dụng theo các mô hình mới khiến cho việc thực hiện, kiểm soát trở thành nhiệm vụ khó khăn.
Chương trình BHTN được thiết lập năm 1986, chủ yếu tập trung vào lao động ở các thành phố và các doanh nghiệp nhà nước. Và BHTN được thể chế ở trong Luật BHXH có hiệu lực từ ngày 01/7/2011. Nguồn hình thành quỹ BHTN chủ yếu từ đối tượng tham gia BHTN mở rộng tới tất cả các doanh nghiệp ở thành thị và các cơ quan
56
nhà nước (công chức được bảo hiểm theo Luật Công chức), người lao động di cư từ nông thôn có giao kết hợp đồng lao động với doanh nghiệp và cả những người tự tạo việc làm, người có công việc linh hoạt cũng có thể tự nguyện tham gia BHTN và đóng toàn bộ phí. Quỹ BHTN được sử dụng để đảm bảo mức sống tối thiểu của người thất nghiệp, hướng chương trình BHTN theo mục đích xúc tiến tìm kiếm việc làm, củng cố mối liên hệ với các dịch vụ tìm lại việc làm thông qua đăng ký tìm việc, cung cấp thông tin việc làm và hướng nghiệp, đào tạo nghề, đóng BHYT cho người thất nghiệp và trợ cấp mai táng một lần cho gia đình người thất nghiệp bị chết. Đến cuối năm 2007, Quỹ BHTN đã gấp 4,5 lần tổng chi phí năm 2007. Thặng dư quỹ BHTN chủ yếu tập trung ở các vùng phát triển mạnh và ở các thành phố lớn, trung bình.
Bộ Nguồn nhân lực và Dịch vụ xã hội, dưới quyền Hội đồng Nhà nước giám sát chương trình BHTN trên phạm vi cả nước. Quản lý và chi trả trợ cấp BHTN được phân quyền cho cơ quan BHXH ở cấp tỉnh. Phí BHTN được giao cho cả cơ quan thuế hoặc cơ quan BHXH thu và chuyển vào tài khoản đặc biệt trong ngân hàng thương mại Nhà nước.
Các chính sách chống thất nghiệp và hỗ trợ các nhóm đặc biệt được thực hiện
như sau:
- Trợ cấp thôi việc theo Luật hợp đồng lao động năm 2008 quy định bắt buộc về trợ cấp thôi việc ở mức tối đa bằng ba lần lương bình quân hằng tháng với tối đa 12 năm làm việc. Trợ cấp BHTN vẫn được trả bình thường dù có hay không có trợ cấp thôi việc.
- Liên kết với các chính sách về Thị trường lao động chủ động: Năm 2002 Hội đồng Chính phủ triển khai một hệ thống các biện pháp tổng thể về kinh tế xã hội trong đó có nhấn mạnh một số nội dung: Mở rộng cơ hội việc làm thông qua nhiều kênh khác nhau; Phát triển và mở rộng cơ chế hỗ trợ và khuyến khích và thiết lập dịch vụ việc làm, đẩy mạnh chức năng giới thiệu việc làm, tạo điều kiện cho đào tạo và đào tạo lại. Năm 2008, Luật xúc tiến việc làm được thông qua và tập trung vào các chính sách việc làm chủ động của Trung quốc nhằm giải quyết tình trạng thất nghiệp, tạo việc làm và mở rộng ASXH và Quỹ BHTN có thể được sử dụng nhằm tài trợ cho hoạt động dạy nghề và tư vấn hướng nghiệp cho người thất nghiệp.
Y. Jun (2008) Viện trưởng Viện nghiên cứu Lao động, Bộ Nhân lực và Dịch vụ
xã hội Trung Quốc đã có một số đánh giá như sau:
- Về ưu điểm: Chính sách BHTN đã “Đảm bảo mức sống tối thiểu cho người thất nghiệp, khuyến khích họ tìm lại việc làm và duy trì ổn định xã hội một cách hiệu
57
quả”; “Thúc đẩy một cách hiệu quả việc cải cách các doanh nghiệp nhà nước và xúc tiến thiết lập nền kinh tế thị trường”; và “Tối ưu hóa cơ cấu việc làm và hợp lý hóa việc phân bổ lực lượng lao động”.
- Về hạn chế: Chính sách BHTN có “Phạm vi bao phủ hẹp”; “Mức trợ cấp thấp” mặc dù “Quỹ BHTN có số tiền khổng lồ”; “Ít vai trò trong xúc tiến tái làm việc,… ít vai trò trong ổn định việc làm và ngăn ngừa thất nghiệp”; và “Hệ thống hiện tại không đáp ứng được các yêu cầu đặc thù ở các khu vực khác nhau”.
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Qua nghiên cứu chính sách và Quỹ BHTN ở một số nước trên thế giới, có thể thấy nội dung chính sách và tổ chức thực hiện ở mỗi nước rất khác nhau, bao gồm cả chính sách thị trường lao động chủ động và thụ động, do điều kiện kinh tế - xã hội, thời điểm triển khai của mỗi nước khác nhau dẫn đến Quỹ BHTN hình thành và sử dụng có những thâm hụt và thặng dư cũng khác nhau. Tuy nhiên, những bài học kinh nghiệm rút ra sau đây có thể được xem xét, nghiên cứu áp dụng trong quá trình quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam:
Thứ nhất, cần phải quản lý chặt chẽ nguồn thu của quỹ BHTN thông qua việc xác định đúng đối tượng tham gia BHTN, thu phí đóng đầy đủ, kịp thời, hạn chế thất thoát nguồn thu theo đúng quy định của pháp luật. Có quản lý nguồn thu quỹ BHTN chặt chẽ mới đảm bảo chi trả chế độ cho người thất nghiệp đầy đủ, đúng nguyên tắc có đóng, có hưởng và cân đối thu - chi quỹ BHTN trong trung hạn và dài hạn.
Thứ hai, cần phải quản lý chặt chẽ quá trình chi trả chế độ BHTN thông qua việc xác định đúng đối tượng thụ hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng chính xác, chi trả chế độ đầy đủ, kịp thời đúng quy định của pháp luật. Không để tình trạng chi sai, chi không đúng hoặc chi không kịp thời chế độ BHTN, ảnh hưởng đến quyền lợi của người thất nghiệp. Quản lý tốt công tác này quỹ BHTN sẽ được giữ vững khi không bị thất thoát do sử dụng chi sai, không đúng quy định và đánh giá được đúng chính sách để thực hiện cân đối thu - chi quỹ BHTN.
Thứ ba, thực hiện cân đối thu - chi quỹ BHTN định kỳ hằng năm, kiểm soát phát sinh tăng, giảm của quỹ BHTN và đưa ra những dự báo trong trung hạn, dài hạn để từ đó đưa ra những chính sách điều chỉnh, sửa đổi phù hợp, đảm bảo quyền lợi của người lao động cả trước và sau khi thất nghiệp, góp phần vào đảm bảo ASXH cho quốc gia.
Thứ tư, tổ chức quản lý quỹ BHTN cần đặc biệt chú trọng đến những nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung chính sách về BHTN cho phù hợp với tình hình thực tế và và
58
phù hợp với cuộc cách mạng 4.0. Theo đó, nghiên cứu mở rộng đối tượng tự nguyện tham gia BHTN phù hợp nhằm tăng nguồn thu cũng như đảm bảo ASXH. Hoặc sửa đổi, bổ sung chính sách BHTN khi giảm tỷ lệ đóng đối với chế độ BHTN và tách đóng bổ sung để chi trả chế độ về chính sách thị trường lao động nhằm hạn chế tình trạng sa thải lao động. Xây dựng cơ chế tài chính sao cho hạn chế và khắc phục được sự ảnh hưởng của các nhân tố từ môi trường kinh tế, giảm thiểu được sự gia tăng thất nghiệp, lạm phát không thể ảnh hưởng tới quỹ BHTN cũng như việc chi trả các chế độ. Như vậy, sẽ chủ động hơn trong việc quản lý quỹ BHTN. Đặc biệt, cần nghiên cứu, áp dụng và triển khai hiệu quả các chính sách thị trường lao động chủ động do hiện nay Quỹ BHTN ở Việt Nam chủ yếu mới chỉ thực hiện chi trả trợ cấp BHTN, mang tính thụ động, chưa có những chính sách thị trường lao động chủ động trong sử dụng Quỹ BHTN dẫn đến Quỹ BHTN liên tục thặng dư lớn qua các năm. Theo đó, cần quy định rõ trong chính sách pháp luật về kết dư quỹ BHTN nên tách ra một tỷ lệ nhất định để hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm và giới thiệu chuyển tiếp việc làm cho các lao động ở những độ tuổi cao khó khăn trong tiếp cận công việc mới, nhất là trong thời đại công nghệ phát triển nhanh chóng như hiện nay.
Thứ năm, ngoài việc thống nhất và cụ thể hóa các chính sách pháp luật về BHTN, Việt Nam cần chú trọng đến tính nghiêm minh của chính sách, pháp luật đã ban hành thông qua việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách cũng như chấp hành chính sách pháp luật về BHTN của đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ. Mặt khác, hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật cũng cần phải được quan tâm đúng mực, thực hiện phong phú, đa dạng các hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách đến đối tượng tham gia để người tham gia hiểu và chấp hành chính sách, pháp luật.
Thứ sáu, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, xây dựng quy trình thực hiện thống nhất, tập trung để kiểm soát chặt chẽ từ đối tượng tham gia đến các đối tượng thụ hưởng chính sách BHTN. Đặc biệt là việc thực hiện chi trả các chế độ về chính sách thị trường lao động hiện nay cơ quan BHXH thực hiện chi trả kinh phí còn hoạt động đào tạo, nâng cao tay nghề, giới thiệu việc làm do Trung tâm dịch vụ việc làm đảm nhiệm. Từ đó, giảm thiểu tối đa thời gian, chi phí đi lại và thủ tục khi giải quyết các chế độ BHTN của người hưởng chế độ BHTN.
59
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nội dung chương 1 đã trình bày những nét khái quát về BHTN, quỹ BHTN và quản lý quỹ BHTN, bao gồm khái niệm, đặc điểm và vai trò của BHTN, quỹ BHTN và quản lý quỹ BHTN, những nội dung chủ yếu của quản lý quỹ BHTN. Đồng thời, đã làm rõ hơn khái niệm về BHTN và đi đến khẳng định: (i) Quỹ BHTN là một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia với mục đích sử dụng chủ yếu để đảm bảo việc làm cho người lao động nhằm hạn chế việc sa thải và bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập trong khoảng thời gian nhất định cho người lao động bị thất nghiệp, đồng thời, hỗ trợ đào tạo, giới thiệu việc làm,... nhằm đưa người thất nghiệp sớm quay lại thị trường lao động; (ii) Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp là sự tác động của các chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý và khách thể quản lý trong các hoạt động hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra sự vận động của quỹ BHTN nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo những nguyên tắc và phương pháp quản lý của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ nhất định. Từ những luận điểm được đưa ra, tác giả đề xuất hệ thống chỉ tiêu đánh giá quản lý quỹ BHTN, trong đó, một trong những tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý quỹ BHTN là người sử dụng lao động và người lao động cùng tham gia, giám sát quỹ BHTN nhằm đảm bảo công khai, minh bạch theo đúng những nguyên tắc đã đề ra.
Nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN có nhiều; Song, những nhân tố chủ yếu tác động đến quản lý quỹ BHTN phải kể đến đó là: Chính sách pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội, công tác tuyên truyền, tổ chức phổ biến chính sách pháp luật về BHTN, công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát, chất lượng nguồn nhân lực hay ứng dụng công nghệ thông tin… Luận án đã phân tích từng nhân tố và cho rằng, các nhân tố trên đều có tác động tổng hợp đến quản lý quỹ BHTN. Ngoài ra, chương 1 còn nghiên cứu quản lý quỹ BHTN ở một số nước trên thế giới nhằm đưa ra những bài học kinh nghiệm áp dụng cho Việt Nam.
Những vấn đề lý luận được hệ thống hoá trong chương 1 là tiền đề để phân tích thực trạng quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm quản lý quỹ BHTN chặt chẽ, hiệu quả và đúng pháp luật trong các chương tiếp theo.
60
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM
2.1. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành và mục đích sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
Sau năm 1986, nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Trong thời kỳ đầu, để thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành nhiều quyết định về chính sách khi sắp xếp lại tổ chức, lao động theo nguyên tắc đảm bảo chất lượng, hiệu quả công việc, phát huy năng lực, hiệu suất của từng người. Khi đó, đối với những người tự nguyện xin nghỉ việc sẽ được trợ cấp một lần theo nguyên tắc “cứ mỗi năm công tác trong cơ quan Nhà nước được hưởng bằng một tháng lương và các khoản phụ cấp, trợ cấp (nếu có)”. Các trường hợp dôi dư không tự nguyện xin nghỉ sẽ được nghỉ tạm thời tối đa 12 tháng và được hưởng 75% lương kèm phụ cấp và trợ cấp khác để tìm kiếm việc làm.
Để xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung bao cấp, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 176/HĐBT ngày 9/10/1989 về sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh nhằm giải quyết cho hàng chục vạn người lao động dư thừa trong khu vực Nhà nước với nhiều chế độ, chính sách được áp dụng như: chế độ trợ cấp thôi việc và chế độ trợ cấp tạm ngừng việc…
Ngày 23/6/1994, Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật Lao động có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ lao động ở nước ta. Quá trình thực hiện Bộ luật này được sửa đổi, bổ sung 3 lần vào những năm 2002, 2006, 2007 để giải quyết chế độ, hỗ trợ cho những người đang làm việc trong các thành phần kinh tế mà mất việc làm, bị thôi việc, cụ thể như sau:
- Trợ cấp mất việc làm khi người lao động làm việc đủ 12 tháng trở lên bị mất việc làm do doanh nghiệp thay đổi cơ cấu, công nghệ… với mức trợ cấp cứ mỗi năm làm việc được trả một tháng lương (tối thiểu là 3 tháng) do doanh nghiệp tự chi trả.
- Trợ cấp thôi việc áp dụng đối với người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức từ 1 năm trở lên bị người sử dụng lao động chấm dứt HĐLĐ hoặc người lao động chủ động chấm dứt HĐLĐ trong một số trường hợp. Mức trợ cấp thôi việc cho người lao động căn cứ vào mức đóng góp của người lao
61
động cho tổ chức, doanh nghiệp và phụ thuộc vào hai yếu tố: thời gian làm việc thực tế và mức lương của người lao động. Mỗi năm làm việc người lao động được hưởng mức trợ cấp là nửa tháng lương và phụ cấp (nếu có). Nguồn kinh phí chi trả trợ cấp thôi việc do doanh nghiệp, tổ chức tự chi trả.
- Chế độ trợ cấp đối với lao động dôi dư khi sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước
giải quyết cho các trường hợp:
+ Người lao động dôi dư đang thực hiện HĐLĐ không xác định thời hạn có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên và đủ tuổi theo quy định thì ngoài việc được nghỉ hưu nhưng không trừ phần trăm lương hưu do nghỉ trước tuổi còn được hưởng thêm trợ cấp 3 tháng tiền lương đang hưởng cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi và trợ cấp 5 tháng tiền lương đang hưởng cho 20 năm đầu công tác có đóng BHXH. Từ năm thứ 21 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng BHXH được trợ cấp thêm 1/2 tháng tiền lương đang hưởng.
+ Người lao động dôi dư đang thực hiện HĐLĐ có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm nếu chấm dứt HĐLĐ thì được hưởng trợ cấp mất việc làm được tính theo số năm thực tế làm việc trong khu vực nhà nước, cứ mỗi năm được trợ cấp 1 tháng tiền lương đang hưởng và trợ cấp 70% tiền lương cho những tháng còn lại chưa thực hiện hết HĐLĐ đã giao kết nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Để thực hiện chi trả chế độ chính sách đối với lao động dôi dư thì Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư được hình thành trên cơ sở ngân sách nhà nước, nguồn viện trợ của tổ chức, cá nhân và các nguồn khác.
Trước yêu cầu cấp thiết cần phải có chính sách BHTN đối với người lao động ở nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật BHXH, trong đó quy định về chính sách BHTN. Đây là khung pháp lý quan trọng để triển khai BHTN ở Việt Nam có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009. Sau 4 năm thực hiện, ngày 16/11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Việc làm, trong đó quy định về BHTN đã được sửa đổi thay thế trong Luật BHXH như: mở rộng đối tượng tham gia, điều kiện hưởng BHTN và chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động,... và được thực hiện bắt đầu từ ngày 01/01/2015.
Luật Việc làm cũng quy định rõ: (i) Quỹ BHTN được hình thành từ các khoản đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước hỗ trợ do ngân sách trung ương đảm bảo; từ tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ và các nguồn thu hợp pháp khác. (ii) Quỹ BHTN sử dụng vào các mục đích như: Chi trả trợ cấp thất nghiệp; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động; Hỗ trợ học nghề; Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; Đóng bảo hiểm y tế
62
cho người hưởng trợ cấp thất nghiệp; Chi phí quản lý bảo hiểm thất nghiệp thực hiện theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội; Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng Quỹ.
2.1.2. Cơ quan quản lý bảo hiểm thất nghiệp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
2.1.2.1. Quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp
Ở Việt Nam hiện nay, BHTN và Quỹ BHTN được điều tiết và tác động bởi hai mặt đó là quản lý nhà nước (bao gồm các hoạt động xây dựng, ban hành khung pháp lý về BHTN bởi Quốc hội, Chính phủ) và quản lý sự nghiệp (bao gồm các hoạt động tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN do cơ quan BHXH đảm nhiệm), cụ thể:
Theo Nghị định số 14/2017/NĐ-CP ngày 17/2/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực, trong đó có: việc làm, dạy nghề, lao động, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp),... trong phạm vi cả nước.
Theo đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ngoài nhiệm vụ: Trình Chính phủ các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội; Ban hành thông tư, quyết định, chỉ thị và các văn bản khác về quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực do Bộ quản lý; Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước, Bộ còn thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể liên quan đến lĩnh vực việc làm và BHTN như sau:
- Hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về chính sách việc làm, chính sách phát triển thị trường lao động, chỉ tiêu tạo việc làm mới và khuyến khích tạo việc làm mới; về tuyển dụng và quản lý lao động Việt Nam và lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; về chính sách việc làm đối với đối tượng đặc thù, lao động dịch chuyển; về lao động bị mất việc làm trong sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước;
- Hướng dẫn cơ chế thực hiện các dự án của Chương trình mục tiêu quốc gia về
việc làm theo thẩm quyền;
- Quy định cụ thể điều kiện thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức dịch vụ
việc làm;
- Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các hoạt động giao dịch việc làm;
- Tổ chức hệ thống thông tin thị trường lao động; thu thập, cung cấp cơ sở dữ
liệu về thị trường lao động cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu;
- Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về bảo
63
hiểm thất nghiệp.
- Tổ chức, kiểm tra và chủ trì, phối hợp với Bộ, ngành liên quan hướng dẫn về
chính sách, chế độ dạy nghề và học nghề;
- Xây dựng quy hoạch mạng lưới trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề; quy định cụ thể điều kiện thành lập, tổ chức và hoạt động của cơ sở dạy nghề; điều lệ mẫu trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề; quy chế mẫu trung tâm dạy nghề; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề;
- Quy định danh mục nghề đào tạo; chương trình khung trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề; quy chế tuyển sinh, thi, kiểm tra, công nhận tốt nghiệp, cấp bằng, chứng chỉ nghề; mẫu bằng, chứng chỉ nghề;
- Quy định nguyên tắc, quy trình và tổ chức việc xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng
nghề quốc gia; quản lý việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia;
- Quy định tiêu chuẩn, quy trình kiểm định chất lượng dạy nghề;
- Quyết định thành lập trường cao đẳng nghề; công nhận hiệu trưởng trường cao
2.1.2.2. Quản lý sự nghiệp về bảo hiểm thất nghiệp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp
đẳng nghề tư thục theo thẩm quyền.
Theo quy định tại Điều 59 Luật Việc làm đã nêu rõ: Quỹ bảo hiểm thất nghiệp được hạch toán độc lập. Tổ chức bảo hiểm xã hội thực hiện việc thu, chi, quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Hoạt động đầu tư từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp phải bảo đảm an toàn, minh bạch, hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết. Chính phủ quy định chi tiết tỷ lệ hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; việc quản lý, sử dụng Quỹ; tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp.
Ngày 05 tháng 01 năm 2016, Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2016/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Theo đó, BHXH Việt Nam là cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ, có chức năng tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; tổ chức thu, chi chế độ bảo hiểm thất nghiệp; quản lý và sử dụng các quỹ: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế. Và chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; của Bộ Y tế về bảo hiểm y tế; của Bộ Tài chính về chế độ tài chính đối với các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế. Đồng thời, Nghị định cũng quy định một số nhiệm vụ liên quan đến BHTN của Bảo hiểm xã hội Việt Nam như sau:
- Tổ chức thu BHTN của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, người sử dụng lao động và người lao động; tổ chức chi trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm,
64
đóng BHYT cho người được hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định của pháp luật.
- Quản lý và sử dụng các quỹ BHXH, BHYT bao gồm: quỹ hưu trí, quỹ tử tuất; quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; quỹ ốm đau, thai sản; quỹ BHXH tự nguyện; quỹ BHTN; quỹ BHYT theo nguyên tắc tập trung thống nhất, công khai, minh bạch, đúng mục đích theo quy định của pháp luật; tổ chức hạch toán các quỹ BHXH, BHYT thành phần theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức ký hợp đồng với các tổ chức làm đại lý thu BHXH, BHYT và đại lý
chi các chế độ BHXH, BHTN theo đúng quy định của pháp luật.
- Kiểm tra việc ký hợp đồng, việc đóng, trả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động, cá nhân, cơ sở khám, chữa bệnh; từ chối việc đóng và yêu cầu chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế không đúng quy định của pháp luật.
Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, giám sát hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và tư vấn về chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, cụ thể như sau:
- Chỉ đạo xây dựng và thông qua chiến lược phát triển ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam, kế hoạch dài hạn, năm năm, hàng năm về thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, đề án bảo toàn và tăng trưởng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; giám sát, kiểm tra Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam (sau đây gọi là Tổng Giám đốc) thực hiện chiến lược, kế hoạch, đề án sau khi được phê duyệt;
- Giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thu, chi, quản lý và sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế. Kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách của Nhà nước về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế để bảo đảm an toàn quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
65
BAN THU
HỘI ĐỒNG QUẢN LÝ BHXH VIỆT NAM
CÁC ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC
VỤ TÀI CHÍNH - KẾ TOÁN
PHÒNG QUẢN LÝ THU
BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
CÁC PHÒNG NGHIỆP VỤ
PHÒNG KẾ HOẠCH - TÀI CHÍNH
TỔ QUẢN LÝ THU
BẢO HIỂM XÃ HỘI CẤP TỈNH
CÁC TỔ NGHIỆP VỤ
TỔ TÀI CHÍNH
- KẾ TOÁN
BẢO HIỂM XÃ HỘI CẤP HUYỆN
Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam
Nguồn: Chính phủ (2016), Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017a, 2017b)
Theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam từ cấp trung ương đến cấp huyện, các đơn vị thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến thu BHTN như Ban Thu, Phòng Quản lý
66
thu, Tổ quản lý thu và các nhiệm vụ liên quan đến chi BHTN như Vụ Tài chính - Kế toán, Phòng Kế hoạch - Tài chính, Tổ Tài chính - Kế toán, cụ thể như sau:
a. Phòng Quản lý thu thuộc BHXH cấp tỉnh
- Chủ trì, phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ có liên quan xây dựng và phân bổ chỉ tiêu kế hoạch thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp hàng năm cho Bảo hiểm xã hội huyện và Phòng Quản lý thu trên cơ sở kế hoạch được Bảo hiểm xã hội Việt Nam giao.
- Tổ chức thực hiện thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo kế hoạch đã được phê duyệt; quản lý các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của các tổ chức và cá nhân; quản lý hệ thống đại lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo phạm vi được giao.
- Quản lý, kiểm tra, đối chiếu danh sách các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; thẩm định và tổng hợp số thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
- Tổ chức thẩm định hồ sơ đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp.
b. Phòng Kế hoạch - Tài chính thuộc BHXH cấp tỉnh
- Chủ trì, phối hợp với các đơn vị trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh xây dựng kế hoạch và phân bổ dự toán chi quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và kinh phí chi hoạt động quản lý bộ máy đã được phê duyệt cho Bảo hiểm xã hội huyện; phối hợp với Phòng Quản lý thu xây dựng và phân bố chỉ tiêu kế hoạch thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp hàng năm; xây dựng các văn bản liên quan đến chi tiêu trong nội bộ đơn vị.
- Tổ chức cấp kinh phí chi trả cho đối tượng hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; thực hiện cấp ứng kinh phí khám, chữa bệnh và quyết toán kinh phí khám, chữa bệnh với các cơ sở khám, chữa bệnh ký hợp đồng khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo quy định.
- Thẩm định quyết toán thu, chi của các Bảo hiểm xã hội huyện; thực hiện chế độ, định mức chi tiêu tài chính; quản lý, sử dụng và hạch toán, kế toán các nguồn kinh phí, tài sản theo quy định.
c. Tổ Quản lý thu thuộc BHXH cấp huyện
- Tổ chức thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn theo quy định của pháp luật và theo phân cấp quản lý của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
67
- Kiểm tra, đối chiếu danh sách các đối tượng tham gia và tổng hợp báo cáo số
thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
d. Tổ Kế toán - Chi trả và Giám định bảo hiểm y tế
- Tiếp nhận khoản kinh phí từ Ngân sách Nhà nước chuyển sang để đóng, hỗ trợ
đóng cho các đối tượng tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
- Tổ chức thực hiện công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định; từ chối việc đóng hoặc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp không đúng quy định.
e. Các Phòng/ Tổ nghiệp vụ
Các Phòng/ Tổ nghiệp vụ khác trực thuộc BHXH cấp tỉnh/ cấp huyện thực hiện
chức năng nhiệm vụ theo quy định được phân công.
Tổ chức thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề
Ngày 21 tháng 11 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 196/2013/NĐ-
CP quy định thành lập và hoạt động của Trung tâm dịch vụ việc làm, cụ thể như sau:
a. Hoạt động tư vấn, bao gồm:
+ Tư vấn học nghề cho người lao động về lựa chọn nghề, trình độ đào tạo, nơi
học phù hợp với khả năng và nguyện vọng;
+ Tư vấn việc làm cho người lao động về lựa chọn công việc phù hợp với khả năng và nguyện vọng; về kỹ năng thi tuyển; về tự tạo việc làm, tìm việc làm trong nước và ngoài nước;
+ Tư vấn cho người sử dụng lao động về tuyển dụng lao động; về quản trị và
phát triển nguồn nhân lực; về sử dụng lao động và phát triển việc làm;
+ Tư vấn về chính sách, pháp luật lao động cho người lao động, người sử dụng
lao động.
b. Giới thiệu việc làm cho người lao động, cung ứng và tuyển lao động theo yêu
cầu của người sử dụng lao động, bao gồm
+ Giới thiệu người lao động cần tìm việc làm với người sử dụng lao động cần
tuyển lao động;
+ Cung ứng lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động;
+ Tuyển lao động thông qua thi tuyển để lựa chọn những người đủ điều kiện,
đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động;
+ Giới thiệu, cung ứng lao động cho đơn vị, doanh nghiệp được cấp phép đưa
68
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
c. Thu thập, phân tích, dự báo và cung ứng thông tin thị trường lao động.
d. Tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực tìm kiếm việc làm và đào tạo kỹ
năng, dạy nghề khác theo quy định của pháp luật.
e. Hỗ trợ người lao động trong trường hợp chuyển từ nghề này sang nghề khác, di chuyển từ địa phương này sang địa phương khác, di chuyển ra nước ngoài làm việc và các hỗ trợ khác theo quy định của pháp luật.
g. Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về lao động, việc làm.
h. Thực hiện các chương trình, dự án về việc làm.
i. Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật.
k. Thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
2.2. Thực trạng quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
2.2.1. Quản lý thu bảo hiểm thất nghiệp
2.2.1.1. Xây dựng kế hoạch thu BHTN
Quản lý thu BHTN bắt đầu thực hiện từ năm 2009 và được thực hiện đồng thời với thu BHXH, BHYT thông qua đơn vị sử dụng lao động. Các đơn vị sử dụng lao động đăng ký và nộp hồ sơ tham gia BHTN cho người lao động với cơ quan BHXH theo phân cấp quản lý. Hằng tháng, khi có phát sinh tăng, giảm lao động, quỹ lương, đơn vị sử dụng lao động kịp thời nộp hồ sơ đến cơ quan BHXH để đối chiếu số tiền phải đóng BHTN và trích nộp tiền BHTN kịp thời theo đúng quy định vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH qua ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước tại địa phương. Bằng công cụ quản lý ứng dụng phần mềm, cán bộ của cơ quan BHXH được giao nhiệm vụ quản lý đơn vị sử dụng lao động kiểm tra đối chiếu danh sách đối tượng tham gia nhằm đảm bảo nguyên tắc thu đúng, thu đủ, thu kịp thời. Với những nỗ lực không ngừng của Ngành BHXH cho thấy kết quả về số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHTN từ năm 2011 đến năm 2015 tăng 142.370 đơn vị; Số người lao động tham gia BHTN từ năm 2011 đến năm 2015 tăng trên 2,3 triệu người tương ứng với số tiền thu BHTN tăng 5,2 nghìn tỷ đồng (không bao gồm NSNN hỗ trợ). Cũng chính vì điều này, nguồn thu của quỹ cũng tăng trưởng hằng năm, đảm bảo cho việc chi trả cho người hưởng chế độ BHTN.
Hằng năm, việc xây dựng kế hoạch thu phải nắm rõ tình hình thực tế, tốc độ phát triển của số đơn vị, số lao động và quỹ lương trên toàn quốc nhằm giao kế hoạch thu sát với tình hình thực tế đảm bảo việc tổ chức thực hiện công tác thu BHTN được
69
thuận lợi, khai thác tối đa tiềm năng về đối tượng tham gia và mức đóng, giảm tỷ lệ nợ đọng BHTN. Do vậy, khi xây dựng kế hoạch thu, nếu không nắm vững sẽ làm cho công tác thu gặp nhiều khó khăn, nặng nề do phải chạy theo chỉ tiêu kế hoạch quá cao, dẫn tới việc không hoàn thành được kế hoạch được giao.
Căn cứ vào các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc giao dự toán thu, chi của BHXH Việt Nam, BHXH Việt Nam xây dựng kế hoạch thu BHTN ngày càng bám sát với thực tế đối với các tỉnh, thành phố và có tính khoa học hơn. Để thực hiện được điều này, BHXH Việt Nam đã và chỉ đạo BHXH các tỉnh thành phố đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thu của năm trước, phân tích các yếu tố tăng, giảm số đối tượng tham gia đóng BHTN; quỹ lương và mức lương bình quân tham gia BHTN theo các mức đóng và theo từng khối quản lý. Phối hợp với các Sở, ban, ngành liên quan xác định số đơn vị và số lao động thuộc diện bắt buộc tham gia BHTN, nhưng thực tế chưa tham gia, nêu rõ nguyên nhân, dự báo những khó khăn, thuận lợi và các biện pháp khắc phục để hoàn thành kế hoạch giao. Đồng thời, đánh giá tình hình nợ đọng và xử lý nợ BHTN đối với các đơn vị, tổ chức trốn đóng, trây ỳ để đưa ra những giải pháp hoặc đề xuất các cấp có thẩm quyền nhằm hạn chế và kiểm soát tình hình nợ tiền BHTN. Dự báo, tốc độ phát triển đối tượng tham gia, số thu được điều chỉnh theo chính sách pháp luật và những tiềm năng chưa được khai thác, BHXH Việt Nam giao kế hoạch cho BHXH các tỉnh, thành phố để triển khai thực hiện.
Bảng 2.1: Tình hình lập và giao kế hoạch thu BHTN (2011 - 2015)
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Stt Cơ quan lập kế hoạch 2013 2011 2012 2014 2015
1 Chính phủ 5.718 6.783 8.538 11.714 8.712
2 BHXH Việt Nam 5.718 8.404 9.850 11.714 9.312
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016)
Có thể nhận thấy rằng, số thu được BHXH Việt Nam tính toán, giao cho BHXH các tỉnh, thành phố thực hiện bằng hoặc cao hơn số kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ giao qua các năm, dựa vào những dự báo tốc độ phát triển đối tượng tham gia, số thu được điều chỉnh theo chính sách pháp luật và những tiềm năng chưa được khai thác sát với thực tế.
Trên cơ sở kế hoạch đã được xây dựng, và được giao chi tiết, cụ thể cho BHXH các tỉnh, thành phố để tổ chức thực hiện quản lý thu đảm bảo hoàn thành kế hoạch được giao. BHXH các tỉnh, thành phố và quận, huyện thường xuyên bám sát, theo dõi các tổ chức, đơn vị để thực hiện kế hoạch theo lộ trình đã đặt ra để đôn đốc, kiểm tra
70
2.2.1.2. Quản lý đối tượng tham gia BHTN
và có những giải pháp kịp thời khi kế hoạch bị các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến tiến độ cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm giảm đối tượng tham gia, giảm mức phí đóng góp BHTN, dẫn đến nguồn thu của quỹ BHTN không được đảm bảo.
a. Quản lý đơn vị sử dụng lao động tham gia BHTN
Nhìn vào hình dưới đây cho thấy, số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHTN năm 2012 tăng 29 nghìn đơn vị, tương ứng 7,9% so với năm 2011; qua các năm 2013 và 2014 vẫn tiếp tục tham gia theo chiều hướng tăng lên, trung bình tăng khoảng 3% so với năm trước. Tuy nhiên, đến năm 2015, số đơn vị sử dụng lao động là 262.171 đơn vị, tăng hơn 124 nghìn đơn vị so với năm 2014, tương ứng tăng hơn 90%. Nguyên nhân chủ yếu do: năm 2015 là thời điểm chính sách BHTN được áp dụng theo Luật Việc làm, theo đó, đối tượng tham gia đã được mở rộng hơn. Cụ thể, bỏ quy định người sử dụng lao động tham gia BHTN có sử dụng từ 10 lao động trở lên được quy định tại Luật BHXH năm 2008. Vì vậy, nhiều đơn vị vừa và nhỏ, đặc biệt là các đơn vị sử dụng dưới 10 lao động đã tham gia BHTN để đảm bảo quyền lợi cho người lao động được thể hiện qua khối loại hình đơn vị sử dụng tăng cao như: doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hợp tác xã và hội nghề nghiệp, tổ hợp tác. Có thể thấy rằng, với sự nỗ lực cố gắng của ngành BHXH, cùng với nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động được nâng lên, nên số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHTN hằng năm đều tăng, điều này tác động trực tiếp đến nguồn thu của quỹ BHTN cũng được tăng lên hằng năm.
Hình 2.2: Số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHTN (2011 - 2015)
Nguồn: Dựa trên số liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016)
71
b. Quản lý người lao động tham gia BHTN
Theo bảng số liệu dưới đây cho thấy, số người lao động tham gia BHTN từ năm
2011 đến 2015 tăng 2,3 triệu người, tốc độ tăng bình quân hằng năm đạt 5,9%.
Cùng với quá trình cải cách kinh tế, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài không ngừng phát triển, tạo ra nhiều chỗ làm việc mới và thu hút thêm nhiều lao động. Do vậy, số người tham gia BHTN ở các khu vực kinh tế này cũng tăng đáng kể. Trái ngược với các thành phần kinh tế này là các doanh nghiệp nhà nước hằng năm đều giảm do chuyển đổi cơ chế quản lý, các doanh nghiệp Nhà nước được đẩy mạnh cổ phần hóa, chuyển đổi hình thức sở hữu, bán, khoán, cho thuê. Năm 2015 giảm 2,5% số người tham gia BHTN ở loại hình doanh nghiệp nhà nước so với năm 2011.
Bảng 2.2: Số người lao động tham gia BHTN (2011 - 2015)
Đơn vị: nghìn người
Năm
Stt Đối tượng 2011 2012 2013 2014 2015
1 Doanh nghiệp nhà nước 1.252 1.207 1.195 1.172 1.143
2 DN có vốn đầu tư nước ngoài 2.258 2.477 2.764 3.090 3.455
3 DN ngoài quốc doanh 2.401 2.451 2.542 2.708 3.340
4 HCSN, đảng, đoàn thể, LLVT 1.890 1.983 2.047 2.106 2.192
5 Khối xã, phường, thị trấn 13 14 15 16 15
6 Tổ chức nước ngoài, quốc tế 7 1 1 0 0
7 Hợp tác xã 28 26 25 25 43
8 Ngoài công lập 115 104 96 97 100
9 Hội nghề nghiệp, tổ hợp tác 4 4 4 4 17
10 Tổ chức, cá nhân khác 2 2 2 4
7.968 8.269 8.691 9.220 10.309 Tổng cộng
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016)
Như đã phân tích ở trên về quản lý đơn vị sử dụng lao động tham gia BHTN, do số đơn vị sử dụng lao động hằng năm đều tăng, và tăng mạnh vào năm 2015 dẫn đến
72
2.2.1.3. Quản lý mức đóng, phương thức đóng BHTN
số lượng người lao động tham gia BHTN cũng tăng trưởng qua các năm. Tương ứng với số đơn vị thì số lao động tham gia BHTN năm 2015 cũng tăng mạnh so với năm 2014 và các năm về trước là bởi năm 2015 đối tượng tham gia được mở rộng hơn theo Luật Việc làm. Một trong những nhân tố tác động là chính sách BHTN được áp dụng theo Luật Việc làm, theo đó, đối tượng tham gia đã được mở rộng hơn. Cùng với sự nỗ lực cố gắng của ngành BHXH, nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động ngày càng được nâng lên, việc tham gia BHTN cho người lao động theo quy định được chính người lao động và chủ sử dụng lao động quan tâm số lao động tham gia BHTN hằng năm đều tăng, điều này tác động trực tiếp đến nguồn thu của quỹ BHTN cũng được tăng lên hằng năm.
a. Quản lý tiền lương, quỹ lương làm căn cứ đóng BHTN
Số tiền thu BHTN từ người lao động, người sử dụng lao động và ngân sách nhà nước hỗ trợ được thể hiện rõ qua Bảng dưới đây. Có thể nhận thấy rằng, số thu BHTN từ người lao động và người sử dụng lao động được tăng lên qua các năm, từ năm 2011 đến năm 2015. Riêng năm 2015 NSNN không hỗ trợ do số dư quỹ năm 2015 cao hơn 2 lần tổng các khoản chi các chế độ BHTN và chi phí quản lý BHTN của năm 2014. Tốc độ tăng số tiền thu bình quân giai đoạn này đạt 21,3% (không bao gồm NSNN hỗ trợ). Như đã phân tích ở trên, đối tượng tham gia ở khối loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hội nghề nghiệp, tổ hợp tác tăng mạnh nên số tiền thu BHTN ở các khối loại hình này cũng tăng tương ứng. Cụ thể ở 2 khối loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2015 có tốc độ tăng trên 30% so với năm 2014 và số thu năm 2015 tăng hơn gấp đôi so với năm 2011. Ngoài ra, khối hợp tác xã và hội nghề nghiệp, tổ hợp tác năm 2015 tăng trưởng đột biến so với năm 2014 lần lượt là 83% và trên 300%. Một trong những nguyên nhân chính tác động đến số thu tăng mạnh ở các khối loại hình này là chịu sự tác động trực tiếp từ việc tăng lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định. Mặt khác, đối tượng tham gia BHTN qua các năm tăng tập trung ở các khối loại hình này kéo theo nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động ngày càng nâng cao cũng tác động đến số thu hằng năm tăng trưởng đều. Đây cũng là yếu tố trực tiếp tác động đến nguồn thu của quỹ BHTN và chịu sử ảnh hưởng bởi đối tượng tham gia và các quy định về mức đóng BHTN.
73
Bảng 2.3: Số tiền thu BHTN (2011 - 2015)
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Stt Đối tượng 2011 2012 2013 2014 2015
1 Doanh nghiệp nhà nước 695 842 954 1.003 1.017
2 DN có vốn đầu tư nước ngoài 1.345 1.784 2.254 2.795 3.650
3 DN ngoài quốc doanh 1.176 1.513 1.773 2.095 2.810
4 HCSN, đảng, đoàn thể, LLVT 1.208 1.565 1.881 2.009 2.101
5 Khối xã, phường, thị trấn 5 6 8 9 8
6 Tổ chức nước ngoài, quốc tế 7 1 2 0 0
7 Hợp tác xã 11 14 16 18 33
8 Ngoài công lập 49 59 65 71 78
9 Hội nghề nghiệp, tổ hợp tác 2 2 2 2 10
10 Tổ chức, cá nhân khác 1 1 2 3
11 Ngân sách hỗ trợ 2.249 2.888 3.478 3.992
6.747 8.675 10.434 11.996 9.710 Tổng cộng
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016)
b. Quản lý tình hình nợ đọng BHTN
Hiện nay, ngoài công tác phát triển đối tượng, thu tiền đóng BHTN của đối tượng tham gia theo quy định, thì việc xác định số nợ và thu hồi nợ tiền BHTN cũng đang là một trong những vấn đề cấp bách, được đặt lên hàng đầu cần được quan tâm và kiểm soát chặt chẽ. Một mặt đảm bảo nguyên tắc thu đúng, thu đủ, tránh thất thoát và trốn đóng, nợ đóng BHTN, một mặt đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho người lao động khi không may họ bị mất việc làm được giải quyết chế độ ngay và đủ thời gian tham gia BHTN. Tuy nhiên, tình trạng nợ đọng vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, là vấn đề bức xúc trong công tác quản lý thu BHTN.
74
Hình 2.3: Số tiền nợ đọng BHTN (2011 - 2015)
Nguồn: Dựa trên số liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016)
Dễ thấy, từ năm 2011 đến năm 2013, luỹ kế qua mỗi năm số tiền nợ BHTN tăng lên. Năm 2013 là năm có số tiền nợ đọng BHTN cao nhất trong 5 năm với 584.502 tỷ đồng, tăng 68,1% so với năm 2011. Tuy nhiên, từ năm 2014 trở lại đây, cơ quan BHXH đã thực hiện nhiều biện pháp và nhiều hình thức để kiểm soát tình hình nợ đọng BHTN. Vì vậy, số tiền nợ BHTN đã được giảm dần qua các năm. Đến năm 2015, số nợ này chỉ còn 311 nghìn tỷ đồng, giảm 42,7% so với năm 2013 và là năm có số nợ thấp nhất trong giai đoạn này.
Để tình trạng nợ đọng tiền BHTN vẫn diễn ra trong những năm qua phải kể đến
một số nguyên nhân như:
- Số lượng doanh nghiệp phá sản ngày càng nhiều. Từ năm 2011 trở lại đây bình quân có tới hơn 50.000 doanh nghiệp giải thể và ngưng hoạt động. Điều này gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội như: người lao động mất việc làm, doanh nghiệp nợ ngân hàng, nợ bảo hiểm thất nghiệp, nợ viễn thông, nợ tiền điện, nước...
- Nhận thức của người sử dụng lao động còn hạn chế trong việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với người lao động trong vấn đề BHXH nói chung và BHTN nói riêng. Tình hình nợ đóng, trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN vẫn là phổ biến, bao gồm nhiều loại hình doanh nghiệp, từ các doanh nghiệp nhà nước tập trung ở các ngành giao thông, xây dựng, các tập đoàn đang cơ cấu lại doanh nghiệp đến các đơn vị ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài. Nợ trong thời gian dài với số tiền lớn làm ảnh hưởng tới các chế độ của người lao động.
75
- Cơ quan BHXH cùng các cơ quan chức năng tuy đã nắm bắt được các hành vi vi phạm chậm nộp, trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN với nhiều thủ đoạn và đã thực hiện nhiều biện pháp nhưng tình trạng nợ đọng vẫn còn xảy ra do cơ chế thu hồi nợ này vẫn chưa đủ sức răn đe, chưa nghiêm khắc nên việc thu hồi nợ còn nhiều khó khăn.
- Ngân sách nhà nước chuyển tiền hỗ trợ BHTN từ năm 2014 trở về trước vào quỹ BHTN cũng chưa kịp thời và đầy đủ. Đáng nói, số tiền BHTN ngân sách nhà nước chậm chuyển cao hơn số tiền đơn vị sử dụng lao động nợ, nguyên nhân tiền ngân sách nhà nước hỗ trợ BHTN căn cứ trên số tiền BHTN của người lao động và người sử dụng lao động đã đóng được quyết toán vào thời điểm hết năm tài chính. Trên cơ sở hết năm tài chính, cơ quan BHXH quyết toán với cơ quan tài chính để chuyển tiền ngân sách nhà nước hỗ trợ vào quỹ BHTN vào thời điểm năm sau liền kề. Do vậy, số tiền BHTN ngân sách nhà nước chuyển chậm hơn đơn vị sử dụng lao động tại thời kỳ báo cáo.
2.2.1.4. Tổ chức đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch thu BHTN
Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến nguồn thu của quỹ BHTN. Nếu như tình trạng nợ đọng kéo dài, đơn vị sử dụng lao động trốn đóng BHTN thì tiền thu vào quỹ BHTN sẽ không kịp thời và đầy đủ, dẫn đến quỹ BHTN bị thất thoát nguồn thu, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động và hoạt động chi trả chế độ BHTN của quỹ BHTN. Do vậy, quản lý tình hình nợ đọng tiền BHTN là một trong những nhiệm vụ quan trọng, không riêng trách nhiệm của cơ quan BHXH mà còn là trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động, nhận thức của người tham gia và toàn bộ hệ thống quản lý nhà nước.
Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHTN hằng năm là một trong những tiêu chí quan trọng, được quan tâm để tổ chức thực hiện đảm bảo hoàn thành kế hoạch được giao và cũng là một trong những tiêu chí đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ của một năm. Ngay từ đầu năm, Thủ tướng Chính phủ đã giao kế hoạch thu cho BHXH Việt Nam. Căn cứ vào tình hình thực tế, các chính sách thay đổi và dự báo tình hình tổ chức thực hiện của các địa phương, BHXH Việt Nam phân bổ, giao kế hoạch thu BHTN cụ thể cho từng tỉnh, thành phố để tổ chức thực hiện. Việc điều chỉnh kế hoạch thu thường được điều chỉnh trong quý 4 hằng năm để đảm bảo cho các tỉnh, thành phố thực hiện đảm bảo kế hoạch được giao cũng như Chính phủ điều chỉnh kế hoạch (nếu có).
Nhìn vào hình dưới đây ta thấy, hằng năm Chính phủ giao kế hoạch thu BHTN đều tăng. Do ngân sách nhà nước không hỗ trợ trong năm 2015 (như đã phân tích ở phần trên) nên số thu BHTN tuyệt đối thấp hơn năm 2014. Mặc dù trong những năm qua, Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như điều chỉnh về chính sách, biến
76
động về kinh tế, các doanh nghiệp thay đổi mô hình,... Song, về tổ chức thực hiện, BHXH Việt Nam đã từng bước thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp: cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, kiến nghị về chính sách, tích cực phối hợp thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc BHXH các tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện... Do vậy, hằng năm BHXH Việt Nam luôn hoàn thành và vượt chỉ tiêu thu BHTN do Chính phủ giao qua các năm. Năm 2011, BHXH Việt Nam thực hiện vượt trên 10%, năm 2012 và 2013 vượt khá cao với trên 20%. Riêng năm 2014 chỉ vượt 2% và đến năm 2015 vượt hơn 10%.
Hình 2.4: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHTN (2011 - 2015)
Nguồn: Dựa trên số liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016)
2.2.2. Quản lý chi BHTN
Bảo hiểm thất nghiệp được bắt đầu chi trả theo Luật BHXH từ năm 2010. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, người thất nghiệp sau khi đăng ký thất nghiệp với Trung tâm dịch vụ việc làm, nếu đủ điều kiện sẽ được Sở Lao động Thương binh và Xã hội ra quyết định hưởng BHTN. Cơ quan BHXH căn cứ quyết định hưởng BHTN thực hiện kiểm tra hồ sơ và chi trả trợ cấp BHTN trực tiếp cho người thất nghiệp hoặc qua thẻ ATM hoặc thông qua Bưu điện. Đồng thời, căn cứ vào các quyết định hưởng chế độ như hỗ trợ tìm việc làm, hỗ trợ học nghề hoặc hỗ trợ đào tạo, nâng cao tay nghề và danh sách cấp thẻ BHYT cho người thất nghiệp, cơ quan BHXH kiểm tra, đối chiếu danh sách đối tượng hưởng chế độ để thực hiện chi trả cho tổ chức, đơn vị lập danh sách người thất nghiệp hưởng các chế độ BHTN đảm bảo nguyên tắc chi đúng đối tượng, đủ số lượng, đúng thời gian tạo điều kiện cho người thất nghiệp nhận được tiền trợ cấp thất nghiệp
77
2.2.2.1. Lập dự toán chi chế độ BHTN
sớm nhất nhằm ổn định cuộc sống. Để người thất nghiệp tiếp cận được quyền lợi và hưởng chế độ BHTN, Cơ quan BHXH phối hợp cùng cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội theo chức năng nhiệm vụ thực hiện chi trả các chế độ cho người thất nghiệp. Qua đó, từ năm 2011 đến năm 2015, đã có trên 2,2 triệu người nộp hồ sơ hưởng BHTN và có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, trên 435 nghìn người được giới thiệu việc làm. Tổng số tiền chi trả trợ cấp thất nghiệp trên 15,4 nghìn tỷ động cho hơn 2,6 triệu lượt người; tổng số tiền hỗ trợ học nghề trên 52,8 tỷ động cho hơn 46 nghìn lượt người; tổng số tiền đóng BHYT trên 716 tỷ động cho hơn 1 nghìn lượt người.
Lập dự toán chi chế độ BHTN hằng năm cũng cần đòi hỏi phải nắm rõ tình hình kinh tế - xã hội, tình trạng thất nghiệp, cơ cấu lao động, nhu cầu việc làm của thị trường lao động, mức hưởng và số lao động, quỹ lương,... trên toàn quốc nhằm lập dự toán chi sát với tình hình thực tế đảm bảo công tác chi chế độ BHTN được thuận lợi, chi đúng đối tượng, đúng mức hưởng và kịp thời cho người lao động bị thất nghiệp. Do vậy, khi lập dự toán chi chế độ BHTN, nếu không nắm vững sẽ làm cho công tác chi gặp nhiều khó khăn, nặng nề do phải chạy theo chỉ tiêu kế hoạch quá cao, dẫn tới việc không hoàn thành được kế hoạch được giao.
Căn cứ vào các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc giao dự toán chi chế độ BHTN của BHXH Việt Nam, BHXH Việt Nam lập dự toán chi BHTN đối với các tỉnh, thành phố qua đánh giá tình hình thực hiện chi BHTN của năm trước (chi tiết số lượt người hưởng trợ cấp thất nghiệp, số tiền của đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp 3 tháng, 6 tháng,...) trên cơ sở phân tích tình hình biến động tăng, giảm đối tượng, những nguyên nhân chính tác động đến việc tăng, giảm đối tượng; nêu rõ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp trên địa bàn. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong quá trình phối hợp với ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, Trung tâm dịch vụ việc làm khi thực hiện chính sách BHTN tại địa phương. Mặt khác, căn cứ vào đối tượng tham gia BHTN ước thực hiện, kết hợp với số liệu dự báo về tình hình phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương, số liệu của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, Trung tâm dịch vụ việc làm để dự kiến số đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp 3 tháng, 6 tháng, hỗ trợ học nghề và tư vấn tìm việc làm để phục vụ lập dự toán chi BHTN. Dự toán chi BHTN theo các nội dung chi đóng BHYT; trợ cấp thất nghiệp: chi tiết số người, số tiền của đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp 3 tháng, 6 tháng, trợ cấp thất nghiệp một lần; hỗ trợ học nghề; tư vấn tìm việc làm và mức chi bình quân theo từng nhóm đối tượng để giao kế hoạch cho BHXH các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện.
78
Bảng 2.4: Tình hình lập và giao kế hoạch chi BHTN (2011 - 2015)
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Stt
Cơ quan lập kế hoạch
2013
2011
2012
2014
2015
1
Chính phủ
630
1.032
3.495
3.525
4.408
2
BHXH Việt Nam
630
1.032
3.495
3.525
4.058
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016)
Thực hiện theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ giao kế hoạch chi BHTN cho BHXH Việt Nam hằng năm thì số chi của năm sau luôn cao hơn năm trước do mức đóng của người tham gia tăng cao và số lượt người hưởng BHTN hằng năm cũng tăng lên. BHXH Việt Nam tính toán và giao kế hoạch chi cho BHXH các tỉnh, thành phố thực hiện hằng năm bằng với số kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ giao. Riêng chỉ có năm 2015, BHXH Việt Nam lập kế hoạch chi thấp hơn số kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ giao, đạt 92,1%.
2.2.2.2. Quản lý người thụ hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp
Trên cơ sở kế hoạch đã được xây dựng, và được giao chi tiết, cụ thể cho BHXH các tỉnh, thành phố để tổ chức thực hiện quản lý chi đảm bảo hoàn thành kế hoạch được giao. BHXH các tỉnh, thành phố và quận, huyện thường xuyên bám sát, theo dõi các đối tượng hưởng chế độ để thực hiện kế hoạch theo lộ trình đã đặt ra, thường xuyên kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm, để thu hồi số tiền đã chi do lạm dụng, trục lợi. Có những giải pháp kịp thời khi kế hoạch bị các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến tiến độ cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến việc chi BHTN tăng cao dẫn đến quỹ BHTN không được đảm bảo.
Bảng 2.5: Số người thụ hưởng các chế độ BHTN (2011-2015)
Đơn vị: người
Năm
Stt
Nội dung
2011
2012
2014
2015
2013
Số người nộp hồ sơ hưởng BHTN
295.416 432.356 464.573 516.483 527.332
1
Số người có quyết định hưởng TCTN
289.181 421.048 454.839 514.853 526.309
Số người được tư vấn giới thiệu việc làm 215.498 342.145 397.338 457.273 463.859
2
Số người được giới thiệu việc làm
17.240
70.656 106.600 125.736 115.199
3 Số người được hỗ trợ học nghề
1.036
4.763
10.610
19.796
24.363
4 Số người được cấp thẻ BHYT
473.777 342.959 270.830
Nguồn: BHXH Việt Nam (2011 - 2016, Cục việc làm (2011 - 2016)
79
a. Tiếp nhận và giải quyết hưởng chế độ BHTN
Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ, Trung tâm dịch vụ việc làm thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được giao nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp, kiểm tra hồ sơ và thực hiện các thủ tục giải quyết các chế độ bảo hiểm thất nghiệp đối với người thất nghiệp đến đăng ký.
Số người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp và số người có quyết định hưởng các chế độ BHTN tăng kéo theo các khoảng chi chế độ BHTN năm sau đều cao hơn năm trước. Một trong số nguyên nhân chính là do số người tham gia BHTN ngày càng tăng. Thêm vào đó, tình hình kinh tế tại một số địa phương còn nhiều khó khăn, các doanh nghiệp thu hẹp quy mô sản xuất vẫn tiếp diễn, việc cắt giảm lao động do doanh nghiệp áp dụng tự động hóa, áp lực công việc ngày càng tăng, dự án đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam kết thúc,…
Từ năm 2011 đến năm 2015, Trung tâm dịch vụ việc làm các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã tiếp nhận được trên 2,2 triệu lượt người nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Số lượt người có quyết định hưởng TCTN tăng hàng năm, tương ứng 98,7% số người nộp hồ sơ đề nghị hưởng BHTN. Số người có mức hưởng TCTN cao tập trung chủ yếu ở các địa phương là trung tâm kinh tế của cả nước như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương.
b. Tư vấn, giới thiệu việc làm cho người bị thất nghiệp
Trong 5 năm (2011 - 2015), các Trung tâm dịch vụ việc làm đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho 1,8 triệu lượt người, tương ứng 85% so với số người có quyết định hưởng TCTN. Trong đó, năm 2011, có 215.498 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm; Năm 2012, số lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm là 342.145 người, tăng 58,8%; Năm 2013, có 397.338 lượt người, chỉ tăng 16,1% so với năm 2012; Năm 2014, có 457.273 lượt người, tăng 15,1% so với năm 2013. Năm 2015, có 463.859 lượt người, tăng 4,4% so với năm 2014. Tổng số lượt người được giới thiệu việc làm là 435.431 người (bằng 19,7% so với số người có quyết định hưởng TCTN). Số người được tư vấn, giới thiệu việc làm tuy hàng năm có tăng lên nhưng có thể nhận thấy tỷ lệ tăng hàng năm so với người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp lại giảm đi chủ yếu là do số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp ngày càng tăng chậm.
- Việc tư vấn, giới thiệu việc làm tại các địa phương được chia thành 2 giai đoạn: (i) Tư vấn lần đầu về việc làm, chính sách BHTN cho 100% người thất nghiệp được thực hiện ngay khi người thất nghiệp đến Trung tâm dịch vụ việc làm để nộp hồ sơ đề nghị
80
hưởng bảo hiểm thất nghiệp. (ii) Tư vấn trong quá trình hưởng BHTN được thực hiện hằng tháng trong quá trình Trung tâm dịch vụ việc làm theo dõi về việc thông báo tìm kiếm việc làm của người lao động đang hưởng BHTN để tư vấn, giới thiệu việc làm.
- Các phương thức tư vấn, giới thiệu việc làm phong phú và đa dạng, bao gồm: tư vấn trực tiếp, tư vấn trực tuyến qua mạng Internet, thư điện tử, các công cụ giao tiếp trên mạng máy tính, tổng đài tư vấn,… Thông tin việc làm được thu thập cả trong và ngoài địa bàn từ các doanh nghiệp, người sử dụng lao động đến đăng ký tuyển dụng tại trung tâm, sàn giao dịch việc làm, đăng ký trực tuyến trên website, sau đó thống kê và lập bảng danh sách việc làm trống để giới thiệu đến người lao động.
Nhìn chung, các Trung tâm dịch vụ việc làm đã chú trọng và có nhiều biện pháp thiết thực để đẩy mạnh hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm cho người thất nghiệp ngay từ khi người lao động đến nộp hồ sơ. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất cho người thất nghiệp tiếp cận một cách dễ dàng về thông tin thị trường lao động, cũng như hỗ trợ tích cực giúp người sử dụng lao động tiếp cận với người thất nghiệp để tuyển dụng.
c. Hỗ trợ học nghề cho người bị thất nghiệp
Hầu hết những người thất nghiệp có nguyện vọng học nghề đều được cơ quan lao động tổ chức để hỗ trợ học nghề theo đúng quy định của pháp luật. Những ngành nghề người lao động đăng ký học là các nghề về ẩm thực, thẩm mỹ, tin học văn phòng, sửa chữa, lắp ráp máy vi tính, điện dân dụng, điện công nghiệp, thiết kế quảng cáo, lái xe,...
Nếu như Trung tâm việc làm phối hợp chặt chẽ với tổ chức hỗ trợ học nghề hoặc các cơ quan liên quan đặc biệt là cơ sở dạy nghề thì tổ chức hỗ trợ học nghề cho người thất nghiệp ở các địa phương sẽ tăng cao. Những địa phương có số người được hỗ trợ học nghề cao đa số là các địa phương có liên kết đào tạo rất chặt chẽ với cơ sở đào tạo nghề hoặc gắn việc đào tạo nghề cho người thất nghiệp vào bộ phận đào tạo nghề tại Trung tâm. Một số địa phương có số người có quyết định hỗ trợ học nghề nhiều là TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng, Hà Nội,...
Chi phí đào tạo được đưa ra tương đối thấp như: Các nghề có mức học phí tương đối thấp so với mức hỗ trợ học nghề bao gồm: May: 500.000 đồng/tháng, Tin học văn phòng: 300.000-500.000 đồng/tháng; sửa chữa ô tô, xe máy: 500.000 đồng/tháng; Hay các nghề có mức phí cao hơn như: Lái xe B2: 1,8 triệu đồng/tháng;công nghệ ô tô, điện tử, điện lạnh trình độ trung cấp nghề: 1,2-1,5 triệu đồng/tháng; kỹ thuật trang điểm: 1,1- 1,3 triệu đồng/tháng;… Như vậy, với mức hỗ trợ học nghề hiện nay có thể học được các nghề sơ cấp để người lao động có thể tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo việc làm. Tuy nhiên, đây là chi phí học nghề của các cơ sở dạy
81
nghề công lập, tại trung tâm dịch vụ việc làm nơi mà có giảng viên cơ hữu hưởng lương từ ngân sách nhà nước, cũng như được Nhà nước đầu tư trang thiết bị giảng dạy.
Nhìn chung, số lượng người được hỗ trợ học nghề có xu hướng tăng qua từng năm nhưng tỷ lệ số người được hỗ trợ học nghề so với số người có nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp còn khá thấp. Nếu như năm 2011, số người được hỗ trợ học nghề chỉ đạt 1 nghìn người, chiếm tỷ lệ 0,4% so với số người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp. Năm 2013, tỷ lệ này là 0,2% thì đến năm 2014 tăng lên 3,8%. Và đến năm 2015, số người được hỗ trợ học nghề tăng lên là 24 nghìn người, chiếm tỷ lệ 4,6% so với số người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp. Có thể kể đến một vài nguyên nhân chủ yếu như: người thất nghiệp chủ yếu là lao động phổ thông mà nhu cầu tuyển lao động phổ thông ở nước ta khá lớn, mức hỗ trợ học nghề và thời gian ngắn, khó khăn cho người thất nghiệp khi tham gia các khoá đào tạo trên 6 tháng, người lao động nghỉ việc có xu hướng chuyển về địa phương của mình để tìm việc làm mới nhằm giảm chi phí sinh hoạt, đoàn tụ gia đình nên không có nhu cầu học nghề;...
d. Cấp thẻ BHYT cho người bị thất nghiệp
Số người được chi trả đóng BHYT, chăm sóc sức khoẻ cho người thất nghiệp giảm đều từ năm 2013 đến 2015. Cao nhất là năm 2013 với số người được chi trả để đóng BHYT là 473.777 người thì năm 2014 giảm hơn 130 nghìn người còn 342.959 và giảm hơn 70 nghìn người, còn 270.830 người đến năm 2015.
2.2.2.3. Quản lý số tiền chi các chế độ bảo hiểm thất nghiệp
• Có thể nhận thấy rằng, các chế độ BHTN đều rất quan trọng đối với người thất nghiệp, song người thất nghiệp vẫn quan tâm đến chế độ trợ cấp thất nghiệp nhiều nhất do nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người thất nghiệp khi có tiền trang trải cuộc sống sau khi bị mất việc làm.
Chi BHTN được BHXH các tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện từ ngày 01/01/2010 trở đi, thông qua nhiều hình thức khác nhau như: chi trả trực tiếp tại BHXH cấp huyện, cấp tỉnh, chi trả thông qua hợp đồng đại diện chi trả cấp xã, chi trả thông qua tài khoản ngân hàng ATM và chi trả thông qua hệ thống bưu điện cấp xã.
Thời gian đầu triển khai thực hiện chi trả các chế độ BHTN còn xảy ra tình trạng chậm trễ. Hiện nay, thời gian chi trả đã rút xuống còn 5 ngày làm việc kể từ ngày Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố nhận được các quyết định hưởng TCTN do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chuyển sang. Do sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan bảo hiểm xã hội và Trung tâm dịch vụ việc làm tỉnh, thành phố nên việc tổ chức chi trả các
82
chế độ BHTN đã nhanh chóng và thuận tiện hơn trước. Kết quả chi trả BHTN từ năm 2011 - 2015 như sau:
Bảng 2.6: Kết quả chi trả BHTN (2011 - 2015)
Năm Đơn vị tính Đóng BHYT Trợ cấp thất nghiệp theo tháng Hỗ trợ học nghề
2011
2012
2013
2014
2015 Người Triệu đồng Người Triệu đồng Người Triệu đồng Người Triệu đồng Người Triệu đồng 410.134 1.075.302 583.645 2.314.686 582.067 3.361.617 517.569 4.177.298 545.000 4.539.668 489 629 2.259 2.156 7.793 3.961 10.845 12.595 24.818 33.506 - 44.805 - 111.442 473.777 155.431 342.959 197.717 270.830 206.741
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016)
Từ bảng số liệu trên, dễ dàng nhận thấy về cơ cấu chi trả chế độ BHTN không cân xứng, cụ thể: Nếu như chế độ trợ cấp thất nghiệp theo tháng trong 5 năm, tổng số tiền chi lên đến 15,4 nghìn tỷ đồng thì tổng số tiền chi hỗ trợ học nghề chỉ là 52,7 tỷ đồng và tổng số tiền đóng BHYT là trên 714 tỷ đồng. Những số liệu chi hỗ trợ học nghề và đóng BHYT là rất nhỏ so với số tiền chi trợ cấp thất nghiệp phần nào đó thể hiện những người thất nghiệp đang rất chú trọng vào chế độ trợ cấp thất nghiệp, là những khoản tiền bù đắp một phần thu nhập khi họ không may mất việc làm và chưa thực sự quan tâm đến các chế độ khác. Mặt khác, cũng theo bảng số liệu trên dễ thấy số tiền chi trả trợ cấp thất nghiệp năm sau luôn cao hơn năm trước mặc dù số người hưởng không có sự thay đổi nhiều. Điều này cho thấy, mức đóng của người lao động được hưởng trước khi thất nghiệp cao do Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng qua các năm và sự điều chỉnh tiền lương của người lao động dẫn dẫn đến số chi năm sau luôn cao hơn năm trước. Chi tiết thực hiện chi trả chế độ BHTN cụ thể như sau:
- Số tiền chi trả trợ cấp thất nghiệp cao nhất ở năm 2015 với trên 4,5 nghìn tỷ đồng, nhưng tốc độ tăng cao nhất lại ở năm 2012 chiếm 115,3% so với năm 2011. Và giảm dần qua các năm như: năm 2013 tăng 45,2% so với năm 2012, năm 2014 tăng 24,3% so với năm 2013 và năm 2015 chỉ còn 8,7% so với năm 2014.
- Tỷ lệ thuận với số người được chi trả hỗ trợ học nghề thì số tiền chi hỗ trợ học nghề cũng tăng đều qua các năm. Nhưng do số người được chi trả thấp nên số tiền chi trả chỉ với 629 triệu đồng ở năm 2011 và gấp hơn 3 lần chi trả ở năm 2012 so với năm
83
2011. Năm 2014 số tiền chi trả gấp hơn 3 lần so với năm 2013 và đến năm 2015 thì gấp hơn 2 lần so với năm 2014.
2.2.2.4. Tổ chức đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch chi chế độ BHTN
- Số tiền chi trả để mua thẻ BHYT cho người thất nghiệp cũng tăng lên hàng năm do mức lương cơ sở được điều chỉnh tăng. Mặt khác, tuy số người được chi trả để mua thẻ BHYT giảm nhưng số tháng thất nghiệp kéo dài cho người thất nghiệp dẫn đến việc số tiền mua thẻ BHYT tăng tuyệt đối. Xét về tốc độ tăng trưởng về số tiền mua thẻ BHYT thì hằng năm giảm tương đồng với số người được chi trả mua thẻ BHYT, cụ thể: năm 2012 tốc độ chi tăng 148,7% so với năm 2011, đến năm 2013 tốc độ chi giảm chỉ còn 39,5% so với năm 2012, năm 2014 tốc độ chi còn 27,2% so với năm 2013 và năm 2015 tốc độ chi chỉ còn 4,6% so với năm 2014.
Tình hình thực hiện kế hoạch chi BHTN hằng năm là một trong những tiêu chí quan trọng được quan tâm nhằm tổ chức thực hiện đảm bảo hoàn thành kế hoạch cũng như đánh giá nhiệm vụ công tác trong năm. Căn cứ vào kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ giao cho cơ quan BHXH, BHXH Việt Nam phân bổ, giao dự toán chi BHTN cho các tỉnh, thành phố thực hiện căn cứ trên tình hình kinh tế - xã hội, tình trạng thất nghiệp, cơ cấu lao động, nhu cầu việc làm của thị trường lao động, mức hưởng và số lao động, quỹ lương,... Trong quá trình thực hiện kế hoạch, và điều chỉnh của Thủ tướng Chính phủ (nếu có), BHXH Việt Nam có thể điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp, đảm bảo hoàn thành kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Hình 2.5: Tình hình thực hiện kế hoạch chi BHTN (2011 - 2015)
Nguồn: Dựa trên số liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016)
84
Từ hình trên nhận thấy, số chi thực hiện năm trước luôn cao hơn năm sau và cao hơn số chi Thủ tướng Chính phủ giao. Nhưng 3 năm trở lại đây tỷ lệ hoàn thành kế hoạch chi gần trở về đạt kế hoạch được giao. Một phần đối tượng thụ hưởng chế độ BHTN đã được kiểm soát, quản lý chặt chẽ. Mặt khác, công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện thường xuyên để phát hiện ra những trường hợp sai phạm, trục lợi quỹ BHTN và tiến hành xử lý, thu hồi số tiền đã chi. Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa cơ quan BHXH với Trung tâm Dịch vụ Việc làm cũng ngày càng chặt chẽ, thông tin được chia sẻ thường xuyên làm cho công tác quản lý đối tượng, quản lý chi BHTN ngày càng chặt chẽ và hiệu quả.
2.2.3. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
Theo các quy định của luật, cơ quan BHXH phải tiến hành kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật về BHTN tại các đơn vị, tổ chức và cá nhân tham gia BHTN. Qua đó, phát hiện các trường hợp sai phạm để có các biện pháp thích hợp, kịp thời xử lý trong quá trình tổ chức thực hiện thu BHTN. Đối với các trường hợp có sai phạm lớn, kiến nghị với các cơ quan chức năng có thẩm quyền xử lí theo quy định của pháp luật. Kiến nghị, đê xuất với các cấp có thẩm quyền để rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về BHTN nhằm hoàn thiện chính sách và hạn chế tối đa những lỗ hổng cho những hành vi vi phạm.
Hằng năm, xây dựng kế hoạch kiểm tra và thực hiện kế hoạch, đồng thời, tổ chức kiểm tra đột xuất hoặc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền để thanh tra, kiểm tra tình hình chấp hành chính sách pháp luật về tham gia BHTN cho người lao động tại các tổ chức, đơn vị. Qua báo cáo của BHXH Việt Nam về công tác thanh tra, kiểm tra tại các tổ chức, đơn vị thì tình trạng đóng không đúng mức lương, nợ đọng tiền BHTN và đặc biệt là trốn đóng BHTN ngày càng được thực hiện với nhiều hình thức tinh vi, gây khó khăn trong công tác thanh tra, kiểm tra để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động.
Công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan BHXH các cấp ngày càng được hoàn thiện và bài bản cùng với trình độ của cán bộ ngày càng được nâng cao nên tình hình thực hiện đạt được những hiệu quả nhất định. Cụ thể: Định kỳ hàng tháng, hàng quý hoặc đột xuất, cơ quan BHXH tiến hành kiểm tra tại các đơn vị có sử dụng lao động, kiểm tra các hợp đồng ngắn hạn, thời vụ, các hợp đồng dài hạn, kiểm tra số lao động đang làm việc với bảng lương, bảng chấm công và số lao động báo đóng BHTN trên danh sách tham gia, kiểm tra tổng quỹ lương làm căn cứ đóng, mức lương thực tế trong bảng lương, mức lương kê khai đóng BHTN với cơ quan BHXH hàng tháng,… nếu phát hiện có sai phạm thì tiến hành lập biên bản giữa các bên, và gửi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý nghiêm theo quy định.
85
2.2.4. Quản lý cân đối thu - chi quỹ BHTN
Bảng 2.7: Cân đối quỹ BHTN (2011 - 2015) Đơn vị: tỷ đồng
Năm Phát sinh tăng quỹ trong năm Phát sinh giảm quỹ trong năm Số dư chuyển năm sau Số dư năm trước chuyển sang
2011 2012 2013 2014 2015 8.994 15.587 23.236 31.870 41.454 7.843 10.460 12.734 14.612 12.864 1.250 2.811 4.100 5.028 5.137
15.587 23.236 31.870 41.454 49.181 Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016)
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy: số thu hàng năm đều cao hơn nhiều lần số chi, kết dư quỹ BHTN cuối năm 2015 là 49.180 tỷ đồng, bảo đảm cân đối thu chi cho nhiều năm tiếp theo. Kết quả thực hiện BHTN theo quy định tại Luật BHXH đến năm 2014 và Luật việc làm trong năm 2015 là khả quan, cụ thể: Số phát sinh tăng quỹ trong các năm đều tăng lên từ năm 2011 đến 2014 theo Luật BHXH, năm 2015 theo Luật Việc làm số phát sinh tăng quỹ trong năm giảm vì NSNN không hỗ trợ do số dư quỹ năm 2015 vượt 2 lần tổng các khoản chi các chế độ bảo hiểm thất nghiệp và chi phí quản lý bảo hiểm thất nghiệp của năm 2014. Trong khi đó, mặc dù số phát sinh giảm quỹ trong năm để thực hiện chi trả các chi phí theo quy định hằng năm tăng lên nhưng chỉ bằng 0,4 lần số phát sinh tăng quỹ trong năm 2015. Thậm chí con số này chỉ bằng 0,16 lần trong năm 2011. Do đó, quỹ BHTN hằng năm đều tăng trưởng, cụ thể: Năm 2012 số dư quỹ là 23.235 tỷ, tăng 49,1% so với năm 2011, năm 2013 với cách tính tương tự, tốc độ tăng là 37,2% so với năm 2012, năm 2014 là 30,1% so với năm 2013 và năm 2015, tốc độ tăng là 18,6% so với năm 2014.
Mặt khác, theo phân tích ở trên, đối tượng tham gia BHTN hằng năm tăng, mức đóng BHTN cũng tăng lên theo quy định của pháp luật, do đó, kết quả thu BHTN ở nước ta trong giai đoạn 2011 - 2015 cũng tăng nhanh tương ứng. Nguyên nhân của vấn đề này là chính sách pháp luật đã có nhiều lần điều chỉnh để mở rộng đối tượng tham gia; tăng mức đóng BHTN thông qua việc điều chỉnh mức lương cơ sở, mức lương tối thiểu vùng; công tác quản lý thu BHTN luôn chặt chẽ: phát hiện nhiều trường hợp trốn đóng, đóng chưa đúng tiền lương để đề nghị truy thu đảm bảo quyền lợi cho người lao động, tỷ lệ nợ đọng BHTN giảm qua các năm. Đồng thời, ngoài việc chế độ và quyền lợi của người thất nghiệp được chi trả kịp thời và đầy đủ thì công tác quản lý chi cũng luôn được giám sát chặt chẽ, chi đúng đối tượng, hạn chế nhiều trường hợp lạm dụng, trục lợi quỹ qua công tác thanh tra, kiểm tra và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý. Ngoài ra, chính sách pháp luật không quy định hưởng chế độ BHTN đối với
86
người lao động có quá trình tham gia BHTN nghỉ hưu hoặc chết, dẫn đến trường hợp người lao động đóng BHTN thời gian dài nhưng không được hưởng chế độ. Do vậy, số thu phát sinh tăng quỹ trong năm lớn hơn nhiều số chi phát sinh giảm quỹ trong năm. Chính vì điều này đang làm cho quỹ BHTN ngày càng kết dư lớn.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể chúng ta thấy, Quỹ BHTN chủ yếu chỉ sử dụng để chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người thất nghiệp với số tiền rất lớn so với hỗ trợ học nghề hay đóng BHYT cho người thất nghiệp. Mặc dù chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động được thiết lập trong Luật Việc làm, nhưng việc tiếp cận chính sách này của các doanh nghiệp thực sự khó khăn nên chưa có số liệu cụ thể về việc chi trả chế độ này. Thiết nghĩ, chính sách BHTN ở Việt Nam hiện nay mang tính thụ động, chủ yếu chỉ sử dụng để chi trả trợ cấp thất nghiệp mà chưa sử dụng vào các chính sách thị trường lao động chủ động khác như một số nước trên thế giới. Điển hình như công tác đào tạo nghề, giới thiệu việc làm và thông tin về thị trường lao động, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trước khi sa thải lao động chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế,... Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc quỹ BHTN nước ta đang thặng dư lớn qua các năm.
2.2.5. Quản lý hoạt động đầu tư quỹ BHTN
Theo Luật Việc làm, quỹ BHTN được hạch toán độc lập, tổ chức BHXH thực hiện thu, chi, quản lý và sử dụng quỹ BHTN. Hoạt động đầu tư từ quỹ BHTN phải đảm bảo an toàn, minh bạch, hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết thông qua các hình thức: Mua trái phiếu, tín phiếu, công trái của Nhà nước; trái phiếu của ngân hàng thương mại do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ; Đầu tư vào các dự án quan trọng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Cho ngân sách nhà nước, Ngân hàng phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội, ngân hàng thương mại do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ vay. Tuy nhiên, quỹ BHTN là một quỹ ngắn hạn và các hình thức đầu tư hạn chế và đặc biệt là dự phòng cho tương lai nếu khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra nên hoạt động đầu tư quỹ BHTN hiện nay ở Việt Nam chưa thực sự được chú trọng, số tiền thu về từ hoạt động này vào quỹ BTHN không đáng kể so với số tiền kết dư quỹ BHTN.
2.3. Đánh giá tình hình quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
2.3.1. Kết quả đạt được
Với những nỗ lực không ngừng của ngành BHXH trong thực hiện chính sách BHTN nói chung và quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam nói riêng từ năm 2009 đến nay, BHXH Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định trong quản lý quỹ BHTN, thể hiện qua các số liệu như sau:
87
- Nguồn thu vào quỹ BHTN được hệ thống BHXH Việt Nam quản lý thu chặt chẽ, hiệu quả, đúng pháp luật thể hiện ở chỗ: Số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHTN từ năm 2011 đến năm 2015 tăng 142.370 đơn vị, số người lao động tham gia BHTN từ năm 2011 đến năm 2015 tăng trên 2,3 triệu người (tốc độ tăng trưởng đạt 29,4%) tương ứng với số tiền thu BHTN tăng 5,2 nghìn tỷ đồng (không bao gồm NSNN hỗ trợ).
- Sử dụng quỹ BHTN để chi trả chế độ cho người thất nghiệp kịp thời, đầy đủ và đúng pháp luật, cụ thể: Đã có trên 2,2 triệu người nộp hồ sơ hưởng BHTN và có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, trên 435 nghìn người được giới thiệu việc làm. Tổng số tiền chi trả trợ cấp thất nghiệp trên 15,4 nghìn tỷ động cho hơn 2,6 triệu lượt người; tổng số tiền hỗ trợ học nghề trên 52,8 tỷ động cho hơn 46 nghìn lượt người; tổng số tiền đóng BHYT trên 716 tỷ động cho hơn 1 nghìn lượt người.
Vì vậy, số dư quỹ BHTN năm 2015 là trên 49.180 tỷ đồng, đảm bảo chi trả chế độ BHTN cho người lao động trong trung hạn, có thể dài hạn hay dự phòng khi khủng hoảng kinh tế xảy ra. Đạt được những thành công đó phải kể đến những ảnh hưởng chủ yếu từ các yếu tố sau:
a. Về chính sách pháp luật:
Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đã trải qua hai giai đoạn thay đổi lớn, cụ thể: chính sách pháp luật về BHTN được thực hiện theo Luật BHXH có hiệu lực thi hành từ năm 2009 đến năm 2014, từ năm 2015 đến nay, chính sách pháp luật về BHTN được thực hiện theo Luật Việc làm. Mỗi giai đoạn đều có những thay đổi căn bản và tác động trực tiếp đến nguồn thu của quỹ BHTN hay sử dụng quỹ BHTN để chi trả chế độ. Nó làm cho đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN, mức đóng góp, thụ hưởng chế độ BHTN thay đổi về quy mô, dẫn đến quỹ BHTN cũng tương ứng thay đổi theo.
Hình 2.6: Tình hình tham gia và thụ hưởng chế độ BHTN
Nguồn: Dựa trên số liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016)
88
- Giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2014 với việc quy định đối tượng tham gia là người lao động làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng với người sử dụng lao động có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Đồng thời, với việc Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng, mức lương cơ sở tăng hằng năm và Nhà nước hỗ trợ 1% mức đóng thì đối tượng và mức đóng vào quỹ BHTN cũng tăng lên hằng năm như: số lao động tham gia BHTN năm 2011 là 7.968 nghìn người, đến năm 2014 là 9.220 nghìn người, tốc độ tăng trưởng bình quân gần 5%/ 1 năm. Tương ứng với số tiền thu BHTN năm 2011 là 6.747 tỷ đồng, đến năm 2014 là 11.996 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân 21%.
Giai đoạn từ năm 2015 đến nay, với việc mở rộng đối tượng tham gia BHTN tương tự như những năm trước nhưng người lao động ký hợp đồng từ 3 tháng trở lên và bỏ quy định người sử dụng từ 10 lao động trở lên. Mặc dù Chính phủ có điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng nhưng theo Luật Việc làm và các văn bản hướng dẫn thì năm 2015 NSNN không hỗ trợ do số dư quỹ năm 2015 cao hơn 2 lần tổng các khoản chi các chế độ BHTN và chi phí quản lý BHTN của năm 2014, chính vì những điều chỉnh lớn này đã ảnh hưởng đến quỹ BHTN cụ thể như: năm 2015 đối tượng tham gia là 10.309 nghìn người, tăng trưởng 11,8% so với năm 2014 và hơn gấp đôi so với những năm về trước tăng trưởng bình quân gần 5%/ 1 năm. Tuy nhiên, số tiền thu BHTN năm 2015 chỉ 9.710 tỷ đồng, thấp hơn 2014 khoảng 1,4 nghìn tỷ đồng do NSNN không hỗ trợ. Nếu chỉ tính số tiền tham gia của người sử dụng lao động và người lao động đóng thì hằng năm, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 21,3%/ 1 năm.
- Về đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp cũng có sự điều chỉnh căn bản theo Luật BHXH và Luật Việc làm, cụ thể: thời gian hưởng trợ cấp là 3 tháng nếu có đủ từ 12 tháng đến dưới 36 tháng đóng BHTN, là 6 tháng nếu có đủ từ 36 tháng đến dưới 72 tháng đóng BHTN, là 9 tháng nếu có đủ từ 72 tháng đến dưới 144 tháng đóng BHTN và 12 tháng nếu có từ đủ 144 tháng đóng BHTN trở lên đối với Luật BHXH. Còn đối với Luật Việc làm thì thời gian hưởng được tính theo số tháng đóng BHTN, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng trợ cấp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp nhưng không quá 12 tháng. Và giới hạn mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định hoặc không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định… (Thắng, 2015). Tuy nhiên, đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp theo tháng không có biến động lớn và giữ mức ổn định, hay nói cách khác tỷ lệ thất nghiệp được kiểm soát. Riêng chỉ
89
có số tiền chi trả trợ cấp thất nghiệp theo tháng tăng lên do cách tính hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng được tính bình quân 6 tháng lương liền kề trước khi nghỉ việc, không tính cả quá trình tham gia BHTN và do mức lương làm căn cứ đóng BHTN tăng hằng năm theo quy định nên mức hưởng cũng vì thế tăng theo.
Qua khảo sát của tác giả đối với cán bộ BHXH, người sử dụng lao động và người lao động về chính sách pháp luật BHTN hiện nay đã thực sự phù hợp hay chưa? Sự phù hợp đó được thể hiện trong các quy định về đối tượng tham gia, thụ hưởng, mức đóng góp, mức hưởng và thời gian hưởng bảo hiểm thất nghiệp có phù hợp với điều kiện của người lao động và bối cảnh kinh tế - xã hội hiện tại hay không? Đối tượng bắt buộc tham gia đã đáp ứng nhu cầu thực tiễn? Cần bổ sung hay loại bỏ nhóm đối tượng nào? Mức đóng góp đã phù hợp với thu nhập của người lao động? Mức hưởng đã đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu trong thời gian thất nghiệp hay thời gian hưởng hiện tại dài hay ngắn để người thất nghiệp tìm kiếm việc làm, đào tạo nâng cao tay nghề?... Bảng khảo sát dưới đây sẽ trả lời cho câu hỏi:
Bảng 2.8: Đánh giá sự phù hợp của chính sách pháp luật về BHTN
Đối tượng điều tra
Phù hợp
1. Cán bộ cơ quan BHXH Số đối tượng điều tra 404 Rất phù hợp 211 Số người đánh giá Chưa phù hợp 4 181 Không phù hợp 8
2. Người sử dụng lao động 359 77 270 8 4
3. Người lao động 828 322 484 16 6
Nguồn: Tài liệu điều tra của tác giả.
Kết quả cho thấy những đánh giá của cán bộ cơ quan BHXH, người sử dụng lao động và người lao động đều cho rằng, chính sách pháp luật về BHTN hiện nay là phù hợp với tỷ lệ của cán bộ cơ quan BHXH là 97% (trong đó rất phù hợp chiếm 52,2%), tỷ lệ của người sử dụng lao động là 96,7% (trong đó rất phù hợp chiếm 21,5%) và tỷ lệ của người lao động là 97,4% (trong đó rất phù hợp chiếm 38,9%). Thiết nghĩ, sau khi chính sách pháp luật về BHTN theo Luật Việc làm được điều chỉnh bổ sung với chính sách pháp luật về BHTN theo Luật BHXH đã khắc phục được cơ bản những khuyết tật và đã thực sự đi vào cuộc sống. Vấn đề đặt ra ở chỗ cơ quan tổ chức thực hiện chính sách pháp luật quản lý quỹ BHTN ra sao và đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN chấp hành như thế nào để chính sách pháp luật thực sự là chỗ dựa vững chắc cho người lao động khi bị thất nghiệp. Tuy nhiên, đây chỉ là những đánh giá trên phương diện về mức đóng, mức hưởng và các chế độ hiện tại đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của người lao động khi thất nghiệp, không đánh giá về mô hình, quy mô của
90
chính sách pháp luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay.
b. Về tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật:
Để chính sách pháp luật bảo hiểm thất nghiệp thực sự đi vào cuộc sống, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật bảo hiểm thất nghiệp phải có vai trò hết sức quan trọng và phải được tiên phong. Đây là nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu mỗi khi có sự điều chỉnh về chính sách. Không những vậy, đây còn được coi là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và phải có bài bản, dễ hiểu, dễ nhận thức đến đối tượng tham gia.
Có làm tốt công tác này, đối tượng tham gia sẽ có được đầy đủ thông tin, chính xác về nội dung chính sách và mới nhận thức sâu rộng về quyền lợi, nghĩa vụ của mình khi tham gia BHTN. Khi đó, căn cứ vào các quy định, chủ sử dụng lao động và người lao động sẽ tự giác tham gia BHTN, đóng BHTN đúng mức lương, đúng phương thức đóng và hạn chế được tình trạng trốn đóng, chậm đóng hay đóng không đúng quy định về BHTN. Mặt khác, đối với các trường hợp đang hưởng trợ cấp thất nghiệp, khi nhận thức đầy đủ về chính sách pháp luật sẽ tự giác khai báo việc làm, dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp đúng quy định sẽ hạn chế được tình trạng chi trợ cấp sai đối tượng, quỹ BHTN cũng vì thế mà thất thoát,... Đặc biệt, giúp người lao động và người sử dụng lao động hiểu rõ tính nhân đạo, nhân văn của chính sách và sự ổn định của nền kinh tế, xã hội... Trên cơ sở đó, các chuyên đề luôn được BHXH Việt Nam tổ chức tuyên truyền cùng với nhiệm vụ tuyên truyền hằng năm từ cấp Trung ương đến cấp huyện để tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHTN cho đơn vị sử dụng lao động và đặc biệt là người lao động thông qua tờ rơi, pano, đối thoại doanh nghiệp,…
Đánh giá điều này qua khảo sát của tác giả cho thấy kết quả đáng khích lệ trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật BHTN, tuy nhiên, vẫn còn những con số cần quan tâm để có những điều chỉnh sao cho công tác này luôn đạt hiệu quả cao:
- Khảo sát cán bộ cơ quan BHXH về công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật BHTN được dựa trên các tiêu chí như: Có nhiều kênh tuyên truyền tiếp cận đến các đối tượng lao động khác nhau hay không, nội dung tuyên truyền có đầy đủ, chi tiết, dễ hiểu; hình thức tuyên truyền tạo hứng thú cho đối tượng lao động hay không? Kết quả cho thấy: có 281 ý kiến cho rằng công tác tuyên truyền tốt, chiếm đến 69,6%, 28 ý kiến cho rằng công tác tuyên truyền, phổ biến là rất tốt chiếm 6,9%, tổng số ý kiến đánh giá tốt chiếm 76,5%, thể hiện ở hình dưới đây:
91
Hình 2.7: Đánh giá của cán bộ BHXH về công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật BHTN
Nguồn: Dựa trên điều tra của tác giả
- Kiểm chứng nhận định này, tác giả khảo sát người sử dụng lao động và người
sử dụng lao động cho kết quả như sau:
Hình 2.8: Kênh tiếp cận thông tin của người sử dụng lao độngvà người lao động về chính sách pháp luật BHTN
Nguồn: Dựa trên điều tra của tác giả
+ Đối với người sử dụng lao động khi được hỏi về hình thức tiếp cận chính sách pháp luật BHTN thì có 259 lượt lựa chọn kênh tiếp cận thông tin là từ Cơ quan BHXH tuyên truyền chiếm 38.9%, tiếp đến là tìm hiểu thông tin qua Internet với 151 lượt chọn chiếm 22.7%, còn lại là một số hình thức khác.
92
+ Đối với người lao động khi được hỏi về hình thức tiếp cận chính sách pháp luật BHTN thì chỉ có 285 người chiếm tỷ lệ 16,7% tiếp cận thông qua cơ quan BHXH tuyên truyền. Còn lại người lao động được cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tuyên truyền chiếm tỷ lệ 26,5%, tiếp cận qua internet chiếm 26,1%, tự nghiên cứu là 10,8%.
c. Về thanh tra, kiểm tra, giám sát:
Công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát là một trong những nội dung trong hoạt động quản lý và vai trò ngày càng được nâng cao hơn. Các quy định về khiếu nại, tố cáo, xử lý tranh chấp và xử lý vi phạm, chế tài phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát BHTN đã khá rõ. Khi vai trò của nó được thể hiện rõ rệt, người sử dụng lao động đã có nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về trách nhiệm của mình là phải tham gia BHTN cho người lao động mà họ sử dụng. Cũng vì thế mà đối tượng tham gia BHTN ngày càng tăng lên năm sau cao hơn năm trước, tình trạng trốn đóng, châm đóng cũng được kiểm soát dẫn đến nguồn thu của quỹ BHTN cơ bản được đảm bảo và tăng trưởng tương ứng. Không những thế, rất nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra đã phát hiện ra nhiều trường hợp trục lợi, chi sai đối tượng thụ hưởng chế độ BHTN và thu hồi số tiền vào quỹ BHTN. Do đó, quỹ BHTN được hạn chế tối đa bị trục lợi, thất thoát.
Theo khảo sát đối với cán bộ BHXH đều đánh giá việc thực hiện chế độ chính sách Bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động sau thanh tra, kiểm tra là tốt và rất tốt với tỷ lệ 67.8% với 274 ý kiến đồng ý trong đó có 250 ý kiến cho rằng việc thực hiện là tốt với tỷ lệ 61.9%, 24 ý kiến cho rằng việc thực hiện là rất tốt (Bảng 2.9).
Bảng 2.9: Đánh giá của cán bộ BHXH về việc chấp hành pháp luật BHTN đối với đơn vị sử dụng lao động sau khi thanh tra, kiểm tra
Tỷ lệ % % hợp lệ
Giá trị Chưa tốt
Tần suất lựa chọn (người) 126 4 250 24 404 31.2 1.0 61.9 5.9 100.0 31.2 1.0 61.9 5.9 100.0 Không tốt Tốt Rất tốt Tổng cộng
Nguồn: Tài liệu điều tra của tác giả.
d. Về tổ chức triển khai chính sách pháp luật về quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp:
Cơ quan BHXH từ Trung ương đến địa phương đã nhận thức đúng vai trò, vị trí trong thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp nói chung và quản lý quỹ BHTN nói riêng, thường xuyên phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành và các tổ chức chính trị - xã hội trong quản lý quỹ BHTN, thường xuyên có những kiến nghị, đề xuất với các
93
cấp có thẩm quyền.
Phân cấp quản lý đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN phù hợp, chỉ đạo quyết liệt trong tổ chức thực hiện. Xây dựng quy trình quản lý thu, quản lý chi chặt chẽ, hiệu quả, đảm bảo đúng đối tượng tham gia, mức đóng, đúng đối tượng thụ hưởng chế độ, mức hưởng và thời gian hưởng, kiểm soát tình trạng nợ đọng tiền thu BHTN… trên cơ sở hướng tới cải cách thủ tục hành chính triệt để, giảm mẫu biểu, tiêu chí kê khai, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hồ sơ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người lao động và đơn vị sử dụng lao động khi giao dịch với cơ quan BHXH,… Ngoài ra, cơ sở vật chất cũng được chuẩn bị sẵn sàng trên toàn quốc để tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN.
Trong quản lý thu BHTN liên quan khá nhiều đến: quy trình nghiệp vụ, thủ tục, hồ sơ tham gia, xây dựng kế hoạch, khai thác, phát triển đối tượng, quản lý đối tượng tham gia BHTN, thu mức phí đóng góp từ đối tượng tham gia,... Ngoài ra, nó còn liên quan đến sự phối hợp giữa tổ chức quản lý thu BHTN với các cấp chính quyền địa phương trong quá trình thu BHTN. Nếu quy trình hướng dẫn nghiệp vụ, thủ tục, hồ sơ được xây dựng phù hợp, thủ tục đơn giản, thuận tiện, dễ dàng, không những tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ cơ quan BHXH thực hiện các nghiệp vụ theo quy định mà còn tạo điều kiện cho người lao động và người sử dụng lao động kê khai, nộp hồ sơ tham gia BHTN, chuyển tiền đóng BHTN kịp thời, đúng quy định.
Qua khảo sát, đánh giá của cán bộ cơ quan BHXH và người sử dụng lao động về thủ tục, hồ sơ tham gia BHTN hiện nay đều cho nhận định trên 90% thủ tục, hồ sơ tham gia BHTN hiện nay thuận tiện, rõ ràng, cụ thể tại bảng dưới đây:
Bảng 2.10: Đánh giá về thủ tục, hồ sơ tham gia BHTN
Số người đánh giá
Đối tượng điều tra
Số đối tượng điều tra Rất thuận tiện, rõ ràng Thuận tiện, rõ ràng Chưa thuận tiện, rõ ràng Không thuận tiện, rõ ràng
1. Cán bộ cơ quan BHXH 2. Người sử dụng lao động 404 359 57 18 324 309 21 30 2 2
Nguồn: Tài liệu điều tra của tác giả.
Cơ quan BHXH thực hiện thu BHTN thông qua tổ chức, đơn vị sử dụng lao động đóng và đều đồng thuận cao với nhận định về thủ tục, hồ sơ tham gia BHTN hiện nay thuận tiện, rõ ràng. Đây cũng là một trong những yếu tố đồng bộ tác động đến việc đăng ký tham gia BHTN cho người lao động, đóng BHTN đầy đủ, kịp thời thể hiện qua kết quả đối tượng tham gia BHTN tăng và số tiền BHTN thu vào quỹ BHTN cũng
94
tăng tương ứng qua các năm.
Trong quản lý chi trả chế độ BHTN cũng được cơ quan BHXH xây dựng quy trình nghiệp vụ, thủ tục, hồ sơ chi trả trợ cấp, quản lý đối tượng hưởng chế độ BHTN, mức hưởng và thời gian hưởng chế độ,... Ngoài ra, nó còn liên quan đến sự phối hợp giữa Trung tâm Dịch vụ việc làm với các cấp chính quyền địa phương trong quá trình chi trả chế độ BHTN. Nếu quy trình hướng dẫn nghiệp vụ, thủ tục, hồ sơ được xây dựng đảm bảo hiệu quả, thuận tiện, dễ dàng, đơn giản thủ tục hành chính, không những tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ cơ quan BHXH thực hiện các nghiệp vụ theo quy định mà còn tạo điều kiện cho người lao động kịp thời hưởng trợ cấp BHTN để ổn định cuộc sống ngay sau khi bị thất nghiệp. Đảm bảo đúng nguyên tắc chi đúng, chi đủ, chi kịp thời cho người thất nghiệp.
Khảo sát, đánh giá của cán bộ cơ quan BHXH và người lao động về tổ chức
thực hiện quản lý chi trợ cấp BHTN như sau:
Bảng 2.11: Đánh giá về thủ tục, hồ sơ hưởng chế độ BHTN
Đối tượng điều tra
Số đối tượng điều tra
Thuận tiện, rõ ràng
Rất thuận tiện, rõ ràng
Số người đánh giá Chưa thuận tiện, rõ ràng
Không thuận tiện, rõ ràng
1. Cán bộ cơ quan BHXH
404
46
315
36
7
2. Người lao động
192
20
121
40
11
Nguồn: Tài liệu điều tra của tác giả.
Số liệu trên cho ta thấy, người lao động và cán bộ cơ quan BHXH đều đồng tình cao về thủ tục, hồ sơ hưởng chế độ BHTN hiện nay đảm bảo thuận tiện, rõ ràng. Tuy nhiên, vẫn còn tỷ lệ nhất định của người lao động đánh giá về thủ tục, hồ sơ hưởng chế độ BHTN chưa đảm thuận tiện, rõ ràng chiếm tỷ lệ 26,5 %.
95
Hình 2.9: Tình hình chi trả và hưởng trợ cấp BHTN của cơ quan BHXH đối với người thất nghiệp
Nguồn: Dựa trên điều tra của tác giả
Nhìn vào hình trên ta thấy, đa số người lao động được nhận trợ cấp BHTN kịp
thời và đầy đủ chiếm đến 81,4%.
e. Về chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan bảo hiểm xã hội:
Bảo hiểm xã hội Việt Nam xác định rõ chất lượng nguồn nhân lực là điều kiện quan trọng, là nền tảng để thực hiện các nhiệm vụ của Ngành. Vì vậy, ngay từ khi tuyển dụng, lựa chọn cán bộ công chức, viên chức hầu hết đã được đào tạo từ bậc đại học trở lên, nhiều cán bộ đã có trình độ sau đại học và được trang bị đầy đủ trình độ tin học cũng như tiếng anh đảm bảo cho công việc.
Ngoài ra, BHXH Việt Nam cũng thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức từ Trung ương đến địa phương nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ và hướng tới sự đồng đều trên toàn quốc. Các chính sách pháp luật được điều chỉnh, quy trình nghiệp vụ được ban hành, xây dựng mới cũng đều được BHXH Việt Nam tổ chức tập huấn, đào tạo, tuyên truyền cho toàn bộ cán bộ, công chức, viên chức toàn ngành.
Khảo sát dưới đây của tác giả về sự chuyên nghiệp của cán bộ BHXH qua trình độ học vấn, kỹ năng giao tiếp, tác phong làm việc, am hiểu chính sách pháp luật và thành thạo trong tin học, ngoại ngữ đối với người lao động và người sử dụng lao động cho thấy kết quả rất khả quan và đáng ghi nhận với 68,3% trong số 183 người lao động được khảo sát và 93,6% chủ sử dụng lao động trong số 359 người được khảo sát cho rằng cán bộ BHXH chuyên nghiệp và rất chuyên nghiệp trong giải quyết thủ tục, hồ sơ tham gia và hưởng chế độ BHTN. Ngoài ra còn thể hiện ở việc chi trả trợ cấp BHTN
96
kịp thời và đầy đủ cho người thất nghiệp với 81,3% người nhận định (Hình 2.9).
Bảng 2.12: Đánh giá về sự chuyên nghiệp của cán bộ BHXH hiện nay
Số lượng đánh giá
Đối tượng điều tra
Số đối tượng điều tra Chuyên nghiệp Không chuyên nghiệp Rất chuyên nghiệp
1. Người sử dụng lao động 359 22 314 Chưa chuyên nghiệp 17 6
2. Người lao động 183 13 112 44 14
Nguồn: Tài liệu điều tra của tác giả.
2.3.2. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những thành công, kết quả đạt được trong tổ chức thực hiện chính sách BHTN nói chung và quản lý quỹ BHTN nói riêng ở Việt Nam hiện nay vẫn còn những tồn tại, hạn chế như sau:
Nguồn thu vào quỹ BHTN chưa được đảm bảo, vẫn còn nhiều đơn vị sử dụng lao động chưa thực hiện đóng BHTN đầy đủ cho người lao động, mức đóng BHTN chưa đúng với thực tế và vẫn còn tình trạng nợ đọng tiền thu BHTN thông qua quá trình kiểm tra, phối hợp thanh tra các đơn vị sử dụng lao động và thông qua việc phối hợp với các sở, ngành trong việc trao đổi dữ liệu giữa Tổng Cục thuế, Sở Kế hoạch và Đầu tư,... Diễn biến này ngày càng phức tạp, tinh vi gây làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tham gia và khó khăn cho cơ quan BHXH thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ BHTN dẫn đến nguồn thu vào quỹ BHTN có nguy cơ bị thất thoát nguồn thu.
Người lao động có tâm lý tìm cách hưởng hết số tiền đã đóng, chỉ quan tâm đến hưởng TCTN mà chưa thực sự quan tâm đến hỗ trợ học nghề, tư vấn tìm kiếm việc làm và nâng cao kỹ năng nghề duy trì việc làm. Nhiều đơn vị và người lao động thỏa thuận hợp đồng lao động một năm một, sau đó nghỉ việc để hưởng xong BHTN rồi đi làm tiếp.
Một số lao động có biểu hiện lạm dụng chính sách như chủ động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đồng thời nộp hồ sơ để hưởng TCTN. Hoặc gần đến tuổi nghỉ hưu nhưng lại xin thôi việc để vừa hưởng TCTN sau đó làm thủ tục hưởng lương hưu. Một số khác đang hưởng TCTN nhưng vẫn đi làm đóng BHXH, BHTN ở địa phương lân cận để tránh bị phát hiện.
Một số đơn vị sử dụng lao động có biểu hiện lách luật để trốn đóng BHTN bằng cách giao kết hợp đồng lao động với người lao động thời hạn dưới 03 tháng hoặc đóng chưa đầy đủ số người trong đơn vị. Việc xác định chính xác số lượng đơn vị và người lao động thuộc đối tượng tham gia còn là vấn đề khó khăn, nhất là đối với khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
97
Quyền lợi của người thất nghiệp khi tham gia chưa được đảm bảo, điều kiện hưởng chế độ còn nhiều bất cập, khắt khe, rườm rà. Thời gian đăng ký thất nghiệp và thời gian làm thủ tục hưởng trợ cấp ngắn dẫn đến người lao động không đủ thời gian hoàn thành hồ sơ.
Chế độ hỗ trợ kinh phí cho doanh nghiệp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề gàn như doanh nghiệp không thể đáp ứng được điều kiện để tiếp cận chính sách,…
Chính sách BHTN hiện nay chỉ hướng đến thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người thất nghiệp, các chế độ hỗ trợ học nghè hay hỗ trợ kinh phí cho doanh nghiệp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động còn hạn chế. Do đó, kinh phí thực hiện cho các chế độ này thực sự không đáng kể so với chế độ trợ cấp thất nghiệp dẫn đến quỹ BHTN kết dư đến năm 2015 là trên 49 nghìn tỷ đồng. Sâu xa hơn thì chính sách pháp luật về BHTN chưa đáp ứng được chính sách thị trường lao động chủ động.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên là do những yếu tố sau tác
động, làm ảnh hưởng đến thực hiện quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam như sau:
a. Về chính sách pháp luật:
Việc đối tượng tham gia BHTN được mở rộng hơn theo Luật Việc Làm và hằng năm, Chính phủ điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng, mức lương cơ sở làm cho người sử dụng lao động luôn tìm cách trốn đóng BHTN cho người lao động hoặc đóng không đúng mức lương thực trả hay chậm đóng tiền thu BHTN cho cơ quan BHXH.
Một số doanh nghiệp chưa tuân thủ việc thông báo định kỳ hàng tháng về tình hình biến động lao động làm việc tại đơn vị. Do đó, các thông tin về số lượng lao động thực tế làm việc cũng như số lao động có giao kết các loại hợp đồng lao động thuộc diện tham gia BHTN không được đầy đủ, chính xác (không tham gia đủ số người, tham gia không đúng mức đóng).
Chính vì điều này mà cán bộ BHXH được khảo sát đánh giá vẫn còn tỷ lệ đến 39,4% người sử dụng lao động hiện nay chấp hành chính sách pháp luật về BHTN chưa tốt, cá biệt còn 3% là chấp hành không tốt (Bảng 2.13).
Bảng 2.13: Đánh giá của cán bộ BHXH về việc chấp hành chính sách, pháp luật về BHTN của người sử dụng lao động
Tỷ lệ % % hợp lệ Tần suất lựa chọn (người)
Giá trị Chưa tốt 159 39.4 39.4
Không tốt 12 3.0 3.0
98
Tốt 208 51.5 51.5
Rất tốt 25 6.2 6.2
404 100.0 100.0 Tổng cộng
Nguồn: Tài liệu điều tra của tác giả.
Về tỷ lệ tham gia BHTN hiện nay, theo khảo sát của tác giả, vẫn còn nhiều người nhận định tỷ lệ tham gia BHTN hiện nay cao, cụ thể: Đối với cán bộ BHXH là 19,3%; Đối với người sử dụng lao động là 13,1% và người lao động là 13,6% (Bảng 2.14).
Bảng 2.14: Đánh giá về tỷ lệ tham gia BHTN hiện nay
Số người đánh giá tỷ lệ tham gia BHTN hiện nay Đối tượng điều tra Số đối tượng điều tra Cao Trung bình Thấp
1. Cán bộ cơ quan BHXH 404 78 260 66
2. Người sử dụng lao động 359 47 287 25
3. Người lao động 828 113 584 131
Nguồn: Tài liệu điều tra của tác giả.
Bên cạnh đó, quy định về điều kiện để người lao động tham gia bảo hiểm, hưởng bảo hiểm thất nghiệp còn nhiều bất cập, như: người lao động đã tham gia đóng BHTN theo các khoản thời gian khá rộng (12- dưới 36 tháng, 36-dưới 72 tháng,...) đều được hưởng trợ cấp thất nghiệp cùng một thời gian (3 tháng, 6 tháng, ...) là chưa công bằng, đồng thời, tạo kẽ hở dễ làm cho người lao động lợi dụng chính sách.
Mặc dù chính sách BHTN theo Luật Việc làm đã có chế độ hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động, hạn chế tình trạng sa thải nhưng việc tiếp cận và hưởng chế độ này thực sự khó khăn cho các doanh nghiệp bởi những điều kiện hết sức chặt chẽ như: xác định nguyên nhân buộc phải thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ sản xuất, kinh doanh, xác định kinh phí đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, phương án đào tạo, và các cam kết kèm theo. Các giấy tờ chứng minh không đủ kinh phí để tổ chức các lớp đào tạo,… Điều này làm cho quỹ BHTN không chi trả chế độ này được do các doanh nghiệp không thể tiếp cận chế độ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến quỹ BHTN đến nay có số kết dư lớn.
Chưa quy định về quyền lợi hưởng BHTN đối với người lao động có quá trình tham gia BHTN đến tuổi nghỉ hưởng chế độ hưu trí hoặc chết, thiệt thòi cho người lao động khi tham gia BHTN mà không được hưởng chính sách.
Về phía cán bộ BHXH, ngoài những đánh giá nêu trên, nhiều người còn có
99
những ý kiến cụ thể như sau:
(cid:4) “Luật chưa nghiêm không có chế tài thực sự đối với tổ chức cá nhân lạm dụng chiếm đoạt quỹ Thất nghiệp, có kẽ hở để các doanh nghiệp tổ chức mô hình gia đình lạm dụng quỹ thất nghiệp.”
(khảo sát một cán bộ nam, 41 tuổi, thuộc BHXH tỉnh Hưng Yên). (cid:4) “Ngân sách hỗ trợ nhiều, mức hưởng cao, tỷ lệ đóng thấp, gây tình trạng lạm
dụng quỹ BHTN.”
(khảo sát một cán bộ nữ, 27 tuổi, thuộc BHXH tỉnh Vĩnh Long). (cid:4) “Hiện nay đối tượng viên chức ở các đơn vị sự nghiệp công lập hưởng chính sách lương và các chế độ gần giống như công chức nhưng phải đóng BHTN còn công chức thì không. theo tôi một là viên chức không đóng thất nghiệp hoặc bổ sung thêm công chức phải đóng thất nghiệp.”
(khảo sát một cán bộ nam, 38 tuổi, thuộc BHXH tỉnh Vĩnh Long). (cid:4) “Đối tượng hưởng chưa phù hợp, Như giáo viên, viên chức về hưu - có thời gian đóng BH thất nghiệp dài nghỉ thì không được hưởng chế độ BH Thất nghiệp. Trong khi đó lao động làm một vài năm hết hợp đồng hoặc nghỉ việc.”
(khảo sát một cán bộ nữ, 30 tuổi, thuộc BHXH tỉnh Lạng Sơn). (cid:4) “Người thất nghiệp không quan tâm đến các chế độ khác ngoài trợ cấp thất nghiệp.”
(khảo sát một cán bộ nữ, 29 tuổi, thuộc BHXH thành phố Hà Nội). (cid:4) “Trường hợp tham gia bảo hiểm thất nghiệp từ 12 tháng đến 36 tháng đều
hưởng 3 tháng bảo hiểm thất nghiệp.”
(khảo sát một cán bộ nữ, 35 tuổi, thuộc BHXH thành phố Đà Nẵng).
b. Tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật BHTN:
Nhận thức của người lao động về trách nhiệm và quyền lợi khi tham gia BHTN còn hạn chế. Vẫn còn nhiều người lao động khai báo chưa trung thực về tình trạng việc làm của mình. Phần lớn người lao động chỉ quan tâm đến tiền trợ cấp thất nghiệp mà không chú ý đến quyền được giới thiệu việc làm và học nghề miễn phí. Điều này cho thấy, công tác tuyên truyền về chính sách bảo hiểm thất nghiệp chưa đúng mức, dẫn đến người lao động còn mơ hồ về bảo hiểm thất nghiệp.
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật tại một số địa phương còn mang tính
hình thức, chưa thường xuyên, kinh phí tuyên truyền còn hạn hẹp,...
Theo dõi Hình 2.10, mặc dù nhận định là đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền
100
phổ biến chính sách pháp luật BHTN với 76,5% ý kiến đánh giá nhưng vẫn còn 39,3% người sử dụng lao động chưa chấp hành tốt chính sách pháp luật BHTN. Trái chiều với ý kiến này, cán bộ cơ quan BHXH nhận định chưa tham gia BHTN đầy đủ cho người lao động là do công tác tuyên truyền chưa tốt chỉ với 11,4% tương ứng với 118 lựa chọn và chủ yếu là người sử dụng lao động nhận thức chưa rõ ràng về chính sách pháp luật chiếm tỷ lệ 21% với 217 lựa chọn (Hình 2.10).
Hình 2.10: Đánh giá của cán bộ BHXH về lý do người sử dụng lao động tham gia BHTN chưa đầy đủ cho người lao động
Nguồn: Dựa trên điều tra của tác giả
Một số lý do chủ yếu trong quá trình khảo sát được cán bộ BHXH đưa ra đó là:
(cid:4) “Vẫn còn mang tính hình thức, chung chung, nội dung tuyên truyền chưa đẩy
mạnh quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia.”
(khảo sát một cán bộ nam, 41 tuổi, thuộc BHXH tỉnh Phú Yên).
(cid:4) “Do người lao động tại các khu công nghiệp hoặc làm ca khó tiếp cận chính sách.”
(khảo sát một cán bộ nữ, 42 tuổi, thuộc BHXH tỉnh Cao Bằng).
(cid:4) “Công tác tuyên truyền BHTN gắn liền với tuyên truyền BHXH, cơ quan BHXH là cơ quan chủ trì, trong khi giải quyết chế độ là của TT dịch vụ việc làm. Như vậy, cần có sự phối hợp với cơ quan lao động trong việc tuyên truyền chính sách BHTN.”
101
(khảo sát một cán bộ nam, 28 tuổi, thuộc BHXH thành phố Đà Nẵng).
(cid:4) “Công tác tuyên truyền về BHTN chưa sâu rộng và thường xuyên đến người lao
động và đơn vị sử dụng lao động.”
(khảo sát một cán bộ nam, 36 tuổi, thuộc BHXH tỉnh Thừa Thiên - Huế).
(cid:4) “Chưa tuyên truyền, phổ biến chính sách BHTN đến với người lao động, doanh nghiệp, hộ kinh doanh, HTX, tổ chức, đơn vị sự nghiệp, nhất là các đơn vị, doanh nghiệp và các đơn vị ở vùng sâu, vùng xa.”
(khảo sát một cán bộ nam, 41 tuổi, thuộc BHXH tỉnh Quảng Trị).
(cid:4) “Tuyên truyền còn chung chung chưa rõ ràng đến người lao động và sử dụng
lao động. Chỉ mới quan tâm đến doanh nghiệp có số lao động lớn.”
(khảo sát một cán bộ nam, 35 tuổi, thuộc BHXH tỉnh Quảng Nam).
(cid:4) “Đa số đối tượng thất nghiệp đều là người lao động làm việc trong doanh nghiệp và đa số họ củng chưa nắm bắt rỏ các chính sách, chế độ BHXH nói chung và BHTN nói riêng, nên công tác tuyên truyền cần tiếp cận thực tế đến đối tượng này. Ví dụ: Chúng ta nên niêm yết các thủ tục, chính sách của các chế độ này ngay tại các doanh nghiệp để người lao động có thể trực tiếp đọc và hiểu rỏ…”
(khảo sát một cán bộ nam, 33 tuổi, thuộc BHXH tỉnh Quảng Trị).
…
Từ thực trạng trên, công tác tuyên tuyền phổ biến chính sách pháp luật về BHTN cần được tiếp tục quan tâm hơn nữa, duy trì thường xuyên và đa dạng hình thức, phong phú về nội dung để chính sách pháp luật BHTN thực sự đi sâu vào nhận thức của các bên tham gia, góp phần vào việc gia tăng đối tượng tham gia BHTN cũng như đóng BHTN đầy đủ, kịp thời vào quỹ BHTN, hạn chế được tình trạng trốn đóng, nợ đọng tiền BHTN. Từ đó, góp phần đảm bảo nguồn thu vào quỹ BHTN để chi trả trợ cấp cho người thất nghiệp.
c. Công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát:
Tình trạng người lao động vừa hưởng trợ cấp thất nghiệp vừa tham gia đóng BHTN vẫn xảy ra do chưa kiểm soát được đầy đủ thông tin việc làm của người lao động khi giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp, một số người thất nghiệp gian lận không khai báo việc làm trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp và nguồn nhân lực để thực hiện kiểm tra, giám sát còn hạn chế. Chế tài xử phạt các hành vi kê khai gian lận, không đúng sự thật, hành vi giả mạo giấy tờ của người lao động để trục lợi quỹ
102
BHTN còn quá thấp, chưa đủ sức răn đe.
Công tác thu hồi tiền TCTN cũng gặp rất nhiều khó khăn, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành quyết định thu hồi nhưng giao lại cho cơ quan BHXH tỉnh thực hiện liên hệ với người lao động để thu hồi, chuyển tiền vào quỹ. Một số tỉnh, thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bắc Ninh, Thái Nguyên,… có nhiều trường hợp chưa thu hồi được do không liên lạc được với người lao động, hoặc chưa có khả năng nộp lại. Phần lớn là các trường hợp hưởng sai là do có việc làm mà không khai báo, khi giải quyết hưởng lần 2 thì phát hiện ra hoặc người lao động đi học tập hoặc làm việc ở nước ngoài.
Mặt khác, nhận định về công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát việc tham gia BHTN cho người lao động thì cán bộ BHXH thẳng thắn trả lời nguyên nhân vì sao vẫn còn nhiều người sử dụng lao động tham gia BHTN chưa đầy đủ cho người lao động là do chưa kiểm tra, giám sát chặt chẽ với 153 sự lựa chọn, chiếm tỷ lệ 14,8% (Hình 2.10). Một trong những lý do khiến công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát chưa thực sự hiệu quả đó là:
- Lực lượng thanh, kiểm tra quá mỏng so với số đơn vị tham gia nên không đi hết được các đơn vị vi phạm. Chế tài xử lý còn chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe người vi phạm pháp luật về BHTN…
- Chưa kiểm soát chặt chẽ việc người lao động vẫn hưởng chế độ BHTN trong
khi đã đi làm.
- Sự phối hợp thanh tra, kiểm tra với cơ quan lao động, thương binh và xã hội chưa thực sự chặt chẽ và kiểm soát đầy đủ do lực lượng thực thi nhiệm vụ của hai cơ quan còn mỏng, mặt khác cả hai cơ quan cùng tổ chức thực hiện chế độ cho người thất nghiệp nên cần phải có trao đổi thông tin trước khi tiến hành thanh tra, kiểm tra…
Bên cạnh đó, việc chấp hành pháp luật BHTN của đơn vị sử dụng lao động sau khi được cơ quan có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra chưa tốt với 31,2% cán bộ BHXH đánh giá (Bảng 2.9). Nguyên nhân do các đơn vị còn gặp nhiều khó khăn về tài chính, trong sản xuất, kinh doanh (khảo sát của tác giả với 157 cán bộ BHXH trực tiếp quản lý đơn vị nhận định), ngoài ra, chế tài xử phạt chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe làm cho các đơn vị có dấu hiệu coi thường và tiếp tục vi phạm quy định. Cũng theo kết quả khảo sát của tác giả, cán bộ BHXH thành phố Đà Nẵng đồng quan điểm, ý kiến: “tăng mức phạt cho hành vi trốn đóng BHTN, cụ thể hơn nữa về việc xử phạt về hành vi trốn đóng BHTN” và “chế tài xử phạt đối với các doanh nghiệp không thực hiện BHXH nói chung và BHTN nói riêng chưa đủ mạnh”.
103
d. Tổ chức triển khai chính sách pháp luật về quản lý quỹ BHTN:
Hiện nay, trong chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ quan BHXH thực hiện: tổ chức thu BHTN của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, người sử dụng lao động và người lao động; tổ chức chi các chế độ BHTN theo quy định của pháp luật. Do vậy, quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách BHTN phải thống nhất theo một quy trình, xuyên suốt trong bộ máy hoạt động quản lý nhằm đảm bảo thực thi đúng quy định của pháp luật, thuận lợi, hiệu quả đến tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN. Nếu không sẽ gây lúng túng cho cán bộ BHXH thực hiện quản lý thu, chi trả chế độ BHTN và khó khăn, phức tạp cho đối tượng tham gia, thụ hưởng chính sách BHTN trong quá trình lập hồ sơ tham gia, chuyển tiền hay hưởng chế độ của người thất nghiệp, ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của quỹ BHTN.
Theo khảo sát của tác giả về thực hiện BHTN của cơ quan BHXH, người lao
động đã đưa ra những vấn đề như sau:
(cid:4) “Phải đi xa, người tiếp nhận thông tin giấy tờ có thái độ khó chịu, không nhiệt tình hướng dẫn cho người đi làm thủ tục. Chờ đợi rất lâu, rất mất thời gian.”
(khảo sát một lao động nữ, 25 tuổi, tại thành phố Hồ Chí Minh).
(cid:4) “Đến tháng phải có mặt lên kí để nhận tiền.”
(khảo sát một lao động nữ, 27 tuổi, tại thành phố Hồ Chí Minh).
(cid:4) “Người lao động còn mất thời gian đi đến tận nơi cơ quan BHXH để khai báo, nên có hệ thống để người lao động có thể khai báo online. Tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại và công sức của nhân viên BHXH. Tất cả nên quản lý bằng hệ thống, kể cả phần đã hưởng/ chưa hưởng và bảo lưu nếu có.”
(khảo sát một lao động nam, 35 tuổi, tại thành phố Hồ Chí Minh).
(cid:4) “Năm 2013, sau khi tôi nghỉ việc tại Hà Nội và về Bắc Ninh đăng ký BHTN thì cần phải ra Hà Nội xin giấy xác nhận chưa hưởng BHTN, gây khó khăn trong việc đi lại.”
(khảo sát một lao động nữ, 29 tuổi, tại tỉnh Hải Dương).
(cid:4) “Chưa công bố quy trình cụ thể đến cá nhân.”
(khảo sát một lao động nam, 37 tuổi, tại thành phố Đà Nẵng).
(cid:4) “Thủ tục rườm rà, mất thời gian. Cảm giác xin cho.”
(khảo sát một lao động nam, 39 tuổi, tại thành phố Hà Nội).
104
(cid:4) “Thời gian yêu cầu nộp sổ bảo hiểm xã hội yêu cầu là 15 ngày kể từ ngày đăng
ký trong khi thời gian nhận sổ BHXH 4 tuần.”
(khảo sát một lao động nam, 39 tuổi, tại tỉnh Bắc Ninh).
…
Đây là những vấn đề, hay nói cách khác là những đề nghị của người lao động đối với cơ quan BHXH cần tích cực hơn nữa trong cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu tối đa thời gian, hồ sơ, mẫu biểu và các tiêu chí kê khai để thuận tiện cho người thất nghiệp kịp thời hưởng trợ cấp khi mất việc làm để ổn định cuộc sống.
Thật vậy, theo Hình 2.9 cho thấy vẫn còn 18,6% người thất nghiệp nhận trợ cấp thất nghiệp chưa và không kịp thời, đầy đủ. Còn đối với người sử dụng lao động đánh giá thủ tục hồ sơ tham gia chưa và không thực sự thuận tiện, rõ ràng chiếm tỷ lệ 8,9% (Bảng 2.10). Người lao động đánh giá về thủ tục hồ sơ hưởng chế độ BHTN hiện nay chưa và không thuận tiện, rõ ràng với tỷ lệ đến 28,6% (Bảng 2.11).
Ngoài ra, việc tổ chức triển khai chế độ BHTN như: hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động thuộc trách nhiệm của Trung tâm Dịch vụ việc làm. Nếu chế độ này không được triển khai thực hiện hiệu quả sẽ hạn chế người thất nghiệp sớm quay lại thị trường lao động do năng lực, tay nghề chưa được nâng cao, giới thiệu việc làm chưa phù hợp với người thất nghiệp. Vì thế, quỹ BHTN sẽ chi trả chế độ cho người thất nghiệp đủ thời gian hưởng theo quy định, không sớm quay lại thị trường lao động và tham gia BHTN vào quỹ BHTN.
Công tác tư vấn, giới thiệu việc làm và học nghề chưa đạt được hiệu quả như mong muốn bởi lẽ: Lao động chủ động nghỉ việc để hưởng TCTN và tìm công việc mới phù hợp hơn nên không có nhu cầu tư vấn, giới thiệu việc làm; Công tác thông tin thị trường lao động tại một số địa phương còn hạn chế, chưa chủ động. Người lao động có tâm lý tự tìm kiếm việc làm mà không thông qua Trung tâm dịch vụ việc làm, thêm vào đó phần lớn các doanh nghiệp tự tuyển dụng lao động không thông qua các tổ chức trung gian… Điều này thể hiện qua sự đánh giá của người lao động khi có đến 33% đánh giá các khoá đào tạo nghề là chưa đảm bảo chất lượng như mong muốn và 27% cho rằng công tác tư vấn, giới thiệu việc làm chưa thực sự đáp ứng nhu cầu việc làm của người thất nghiệp (Hình 2.11)
105
Hình 2.11: Đánh giá của người lao động về chất lượng đào tạo nghề và sự hài lòng trong công tác tư vấn, giới thiệu việc làm
Nguồn: Dựa trên điều tra của tác giả
Tại một số địa phương, sự phối hợp giữa cơ quan BHXH, cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội và Bưu điện chưa thực sự chặt chẽ, dẫn đến người hưởng chế độ BHTN phải đi lại nhiều lần, thời gian giải quyết chậm cho người hưởng, nhận tiền chi trả trợ cấp BHTN và thẻ BHYT còn chậm,… Đồng thời, việc thu hồi tiền BHTN của người hưởng sai cũng gặp khó khăn do người lao động không hợp tác.
Việc chi trả và tiếp nhận, giải quyết hưởng TCTN hiện nay giao cho hai cơ quan thực hiện là chưa thuận lợi cho người lao động. Việc chi trả TCTN được BHXH thực hiện theo tháng, phổ biến thực hiện vào một ngày nhất định trong tháng (áp dụng như chi trả chế độ hưu trí, mất sức lao động), tuy nhiên, chế độ TCTN chi theo ngày, nên người lao động thường nhận được TCTN chậm hơn so với thời gian nhận được Quyết định hưởng TCTN, nên tính kịp thời hỗ trợ một phần kinh phí để ổn định cuộ sống là chưa cao. Mặt khác, khi phát hiện các vấn đề vi phạm sẽ khó xử lý theo quy định của pháp luật, nhất là đối với các trường hợp tạm dừng, chấm dứt hưởng BHTN.
e. Ứng dụng công nghệ thông tin:
Việc giao cho 2 ngành thực hiện chính sách dẫn đến những khó khăn trong công tác quản lý, kiểm tra, giải quyết hưởng, tổ chức chi trả. Đặc biệt là trách nhiệm của từng ngành chưa được quy định chặt chẽ dẫn đến khó khăn trong việc xác định trách nhiệm của mỗi ngành khi giải quyết và chi sai chế độ. Chưa có công cụ phần mềm chung để quản lý đối tượng tham gia, thụ hưởng chính sách BHTN.
Chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan BHXH và Trung tâm dịch vụ việc làm còn chậm
106
dẫn đến trong quá trình tiếp nhận hồ sơ, chi trả, kiểm tra, kiểm soát, thông báo tìm kiếm việc làm, chuyển hưởng, dừng hưởng, tiếp tục hưởng chưa kịp thời còn có sai sót.
Do cơ sở dữ liệu, phần mềm của Ngành BHXH thời gian qua chưa liên kết, liên thông toàn quốc nên việc rà soát đối chiếu thông tin đối tượng đóng, hưởng ở tỉnh khác chuyển đến vẫn còn khó khăn. Đồng thời, việc xây dựng phần mềm liên thông giữa cơ quan BHXH với Trung tâm Dịch vụ việc làm các tỉnh, thành phố chưa xong (Trung tâm CNTT chủ trì). Vì vậy, các địa phương khó khăn trong việc phát hiện tình trạng khai báo việc làm không trung thực của người lao động hoặc cố tình trốn đóng BHXH, BHTN.
2.3.3. Đánh giá nhân tố tác động đến quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
2.3.3.1. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của đối tượng tham gia BHTN đến quản lý quỹ BHTN
Qua phân tích, đánh giá những nguyên nhân trong phần trên, tác giả tiếp tục khảo sát hai nhóm đối tượng là cán bộ BHXH và người lao động để có cái nhìn và đánh giá khách quan. Phương pháp nghiên cứu định lượng được tác giả sử dụng để xử lý kết quả khảo sát như sau:
a. Mô hình và các giả thuyết nghiên cứu
Mức độ tham gia BHTN của người lao động là một nhân tố ảnh hưởng đến nguồn thu quỹ của quỹ BHTN Hubbard, Skinner & Zeldes (1995), vì vậy việc đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến mức độ tham gia BHTN sẽ đánh giá được tác động của nhân tố này đến nguồn thu và công tác quản lý thu BHTN. Để nhận diện và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tham gia bảo hiểm của người lao động, dựa trên các nghiên cứu của các tác giả đi trước (Diamond & Mirrlees, 1978; Scheve & Stasavage, 2006; Atkinson, 1987; Oyekale, 2012; Carrin, 2007) cũng như ở Việt Nam (Lâm, 2016) tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu thứ nhất (mô hình 1) như sau:
Nhân tố nhân chủng học: Giới tính, nhóm tuổi, quy mô hộ gia đình, học vấn, nghề nghiệp, khu vực làm việc, khu vực địa lý Mức độ tham
gia BHTN
của người lao Điều kiện kinh tế - xã hội: Tổng tiền lương/tiền công của gia đình, các nguồn thu nhập khác và khoản tiết kiệm hoặc tài sản tích luỹ
động
Chính sách – quản lý: Dễ dàng tiếp cận tham gia BHTN, Dễ dàng tiếp cận thông tin về BHTN từ Nhà nước/chính phủ
107
Mô hình này phát biểu rằng hành vi tham gia bảo hiểm thất nghiệp thể hiện ở mức độ tham gia BHTN của người lao động liên hệ với các biến độc lập đại điện cho các nhân tố nhân chủng học, điều kiện kinh tế - xã hội và mức độ tiếp cận thông tin về quỹ bảo hiểm. Cụ thể những biến độc lập của mô hình được miêu tả dưới đây.
Nhóm các biến số thuộc về các nhân tố nhân chủng học:
Biến số
Đo lường
Loại dữ liệu
Giới tính
Biến phân loại
Phân thành 2 nhóm giới tính: nam và nữ, trong đó nam là biến tham chiếu.
Nhóm tuổi
Tuổi của người được phỏng vấn
Biến định lượng
Số người trong gia đình của người được phỏng vấn.
Biến định lượng
Quy mô hộ gia đình
Học vấn
Biến phân loại
Trình độ học vấn cao nhất đạt được vào thời điểm hiện tại được phân thành 4 nhóm: phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học. Trong đó, biến trung cấp, cao đẳng là biến tham chiếu
Biến phân loại
Khu vực làm việc
Khu vực làm việc được phân thành 3 nhóm: khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và khu vực nhà nước, khu vực tư nhân, tự doanh/nghề nghiệp tự do. Trong đó, biến khu vực tự doanh/nghề nghiệp tự do là biến tham chiếu.
Khu vực địa lí
Biến phân loại
Khu vực sinh sống của người tham gia phỏng vấn được chia thành 2 nhóm: thành thị và nông thôn. Trong đó, biến nông thôn là biến tham chiếu.
Nhóm các biến số thuộc về các nhân tố kinh tế - xã hội:
Biến số
Đo lường
Loại dữ liệu
Thu nhập của gia đình
Biến định lượng
Đo lường tổng tiền lương/tiền công của gia đình người tham gia phỏng vấn.
Biến định lượng
Các nguồn thu nhập khác Đo lường thu nhập ngoài lương/tiền công từ các nguồn như người thân, tiền hỗ trợ chính sách và các nguồn khác.
Tiết kiệm/ tài sản
Biến phân loại
Đánh giá người được phỏng vấn có tài khoản hoặc tài sản tích lũy hay không.
Nhóm các biến số thuộc về chính sách - quản lí:
Biến số
Đo lường
Loại dữ liệu
Biến thứ hạng
Dễ tiếp cận với tham gia BHTN.
Đánh giá mức độ dễ dàng tiếp cận tham gia BHTN dựa trên phỏng vấn với 5 cấp độ theo thang đo Likert 5.
Biến thứ hạng
Đánh giá mức độ dễ dàng tiếp cận tham gia BHTN dựa trên phỏng vấn với 5 cấp độ theo thang đo Likert 5.
Tiếp cận thông tin về BHTN từ nhà nước/ chính phủ.
108
Đồng thời tác giả cũng đặt ra các giả thuyết nghiên cứu sau:
Mô tả
Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu đi trước của tác giả/ các tác giả
Lâm (2016); Diamond &
H1
Nữ giới có mức độ tham gia bảo hiểm thất nghiệp thấp hơn nam giới.
Mirrlees (1978).
H2
Tuổi của người lao động có tương quan thuận với mức độ tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Scheve & Stasavage (2006), Gao, Yang & Li (2012).
H3
Học vấn của người lao động có tương quan thuận với mức độ tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Atkinson (1987); Oyekale (2012);
H4
Carrin (2007), Liu & Hsiao (1995); Ahmad (1991).
Người lao động ở hai khu vực Doanh nghiệp Nhà Nước và FDI có mức độ tham gia bảo hiểm thất nghiệp lớn hơn nhóm doanh nghiệp khác.
Chiappori (2000); Cardon &
H5
Lao động ở thành thị có mức độ tham gia bảo hiểm lớn hơn ở khu vực nông thôn.
Hendel (2001).
H6
Cardon & Hendel (2001); Diamond & Mirrlees
Người lao động có nhiều cơ hội tham gia bảo hiểm thất nghiệp thì mức độ tham gia bảo hiểm thất nghiệp càng cao.
(1978).
Cardon & Hendel (2001);
H7
Mức độ dễ tiếp cận thông tin về bảo hiểm thất nghiệp có tương quan thuận với mức độ tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Chiappori (2000); Chiappori & Salanié (2013).
Để đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố nhân chủng học, điều kiện kinh tế - xã hội và chính sách - quản lý đến mức độ tham gia BHTN của người lao động, tác giả sử dụng mô hình Logit có dạng phương trình dưới đây:
Trong đó, p là xác suất biểu thị mức độ tham gia BHTN của người lao động còn các biến số xk đại diện cho các biến số độc lập trong mô hình trong các nhóm biến nhân chủng học, điều kiện kinh tế - xã hội và chính sách – quản lý đã được liệt kê trong các bảng trên.
109
Việc ước lượng các hệ số của mô hình Logit được thực hiện bằng phương pháp ước lượng hợp lí cực đại (maximum likelihood). Các giả thuyết nghiên cứu sẽ được xác nhận hay bác bỏ bằng việc căn cứ vào dấu của hệ số hồi quy dựa trên phân tích số liệu.
b. Kết quả phân tích số liệu
Mẫu nghiên cứu được thu thập từ Phiếu khảo sát người lao động. Sau khi sàng lọc các trường hợp không hợp lệ, tác giả thu về được tổng số 2019 Phiếu. Trong số này thì số người tham gia BHTN là 1613. Có thể thấy rằng tỉ lệ tham gia BHTN là 1613/2019 = 80% (Hình 2.12). Con số này rất sát với các báo cáo của Bộ Lao Động - Thương Binh và Xã Hội về tỉ lệ tham gia bảo hiểm thất nghiệp là 81%.
Hình 2.12: Tỉ lệ tham gia BHTN
Nguồn: Dựa trên dữ liệu của nghiên cứu.
Nếu căn cứ theo loại hình doanh nghiệp của người lao động thì tỉ lệ tham gia bảo hiểm thất nghiệp ở khu vực doanh nghiệp Nhà Nước là 99%, khu vực doanh nghiệp FDI là 91% (Hình 2.13). Các khu vực doanh nghiệp còn lại thì khu vực tư nhân là 77%, khu vực khác là 79.3%.
110
Hình 2.13: Tỉ lệ tham gia BHTN theo khu vực làm việc
Nguồn: Dựa trên dữ liệu của nghiên cứu
Kết quả này không có gì bất thường vì người lao động làm việc ở khu vực nhà nước là bắt buộc phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Tương tự, để bảo vệ quyền lợi cho người lao động theo quy định của các chế tài, khu vực doanh nghiệp FDI là bị quản lí khắt khe về thực hiện các nghĩa vụ cho người lao động, trong đó có cả việc đóng BHTN. Chính vì lẽ đó, tỉ lệ tham gia BHTN ở khu vực FDI cao chỉ đứng thứ hai sau khu vực nhà nước.
Căn cứ theo khu vực địa lí thì tỉ lệ tham gia bảo hiểm ở khu vực thành thị và
nông thôn được thể hiện ở dưới đây:
Hình 2.14: Tỉ lệ tham gia BHTN theo thành thị (TT) và nông thôn (NT)
Nguồn: Dựa trên dữ liệu của nghiên cứu
Hình 2.14 cho thấy tỉ lệ tham gia BHTN ở khu vực thành thị là cao hơn. Kết quả này là phù hợp với các lí thuyết về kinh tế học đô thị của O’Sullivan (2007) và McCann (2001).
Theo trình độ học vấn thì tỉ lệ tham gia BHTN của các nhóm trên đại học, trình độ đại học, cao đẳng và phổ thông lần lượt là 93%, 87%, 77% và 88.3%. Các kết quả này chỉ ra rằng nhóm lao động trình độ đại học và trên đại học có mức độ tham gia BHTN cao hơn cả (Hình 2.15):
111
Hình 2.15: Tỉ lệ tham gia BHTN theo trình độ học vấn
Nguồn: Dựa trên dữ liệu của nghiên cứu
Kết quả phân tích số liệu được trình bày ở bảng dưới đây:
Bảng 2.15: Kết quả phân tích hồi quy Logistic
Estimate
Std. Error
z value
Pr( > |z|)
Coefficients
(Intercept)
1.848
0.887
2.084
0.037**
Nữ
- 0.075
0.514
-1.457
0.045**
Tuổi
0.210
0.006
-0.172
0.048**
Quy Mô Gia Đình
- 0.105
0.111
-0.950
0.213
Đại Học
0.467
0.290
1.607
0.010**
Phổ Thông
- 0.261
0.567
0.804
0.182
Trên Đại Học
0.222
0.447
0.496
0.020**
Nhà Nước và FDI
0.894
0.359
1.654
0.038**
Tư Nhân
- 0.016
0.219
-0.073
0.425
Thành Thị
0.312
0.515
0.605
0.045**
Thu Nhập
0.082
0.010
-0.642
0.021**
Thu Nhập Khác
0.032
0.038
-0.837
0.168
Tiết Kiệm
- 0.316
0.609
0.519
0.204
Dễ Tiếp cận quỹ BH
0.035
0.038
0.918
0.035**
Dễ Tiếp cận Thông Tin về BHTN
0.043
0.038
-1.109
0.267
(Chú thích: *, **, *** lần lượt là có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5%, 10%).
Nguồn: Dựa trên dữ liệu của nghiên cứu
Thực hiện kiểm định Hosmer-Lemeshow (1997) để đánh giá mức độ phù hợp (Goodness of fit test) của mô hình hồi quy Logistic. Mục đích của thực hiện kiểm định này để đưa ra bằng chứng thống kê có hay không các xác suất dự báo cho các quan sát
112
tham gia hay không tham gia quỹ BHTN là tương tự với các quan sát trong thực tế. Nếu kiểm định này có giá trị p-value bé hơn 5% thì mô hình của chúng ta có mức độ dự báo kém. Cặp giả thuyết của kiểm định này là:
H0: Các xác suất dự báo là tương tự với các quan sát.
H1: Các xác suất dự báo là khác với các quan sát.
Kết quả của kiểm định này cho mô hình được trình bày ở bảng dưới đây:
Bảng 2.16: Kết quả kiểm định Hosmer-Lemeshow đánh giá sự phù hợp của mô hình Logistic
Các giá trị p-value thu được là lớn hơn 5% nên chúng ta không có bằng chứng thống kê bác bỏ H0. Nói cách khác mô hình hồi quy Logistic được xây dựng để đánh giá mức độ tham gia BHTN của người lao động là phù hợp với mẫu dữ liệu của nghiên cứu. Dựa trên các kết quả phân tích cho mô hình 1, các giả thuyết nghiên cứu được đề xuất sẽ được xác minh (hay bác bỏ) cụ thể như sau:
Giả thuyết nghiên cứu H1. Do hệ số hồi quy ứng với giới tính nữ là âm nên giả thuyết nghiên cứu 1 được xác nhận. Nguyên nhân là do tuổi đời nghỉ hưu của nữ sớm hơn nam 5 năm nên quá trình tham gia BHTN của nữ thường ít hơn nam. Mặt khác, trong quá trình tham gia BHTN của giới nữ có thời gian nghỉ thai sản, nghỉ ốm, thời gian này ko tham gia BHTN theo quy định của Luật, quá trình tham gia BHTN của nam thường ít thời gian nghỉ ốm và gần như không có thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản nên nữ tham gia BHTN thường ít hơn nam.
Giả thuyêt nghiên cứu H2. Do hệ số hồi quy của tuổi là phù hợp với giả thuyết nghiên cứu H2 do hệ số hồi quy của ứng với tuồi là dương. Theo Luật BHXH năm 2006 áp dụng từ năm 2009 đến năm 2014 có quy định người lao động ký hợp đồng từ đủ 12 tháng trở lên và đơn vị sử dụng 10 lao động trở lên thuộc đối tượng tham gia BHTN. Do vậy, thời gian này, người lao động là sinh viên mới ra trường, người lao động ở độ tuổi dưới 35 thường có công việc chưa rõ ràng và thời gian làm việc cho 1 tổ chức thường ngắn, do đó tham gia BHTN ở độ tuổi này thường không cao. Trong khi
113
người lao động ở độ tuổi trên 35 có cuộc sống và công việc được cho là ổn định và gắn bó lâu dài với một tổ chức nhất định, dẫn đến việc tham gia BHTN cũng được người lao động và người sử dụng lao động quan tâm và tham gia đúng quy định.
Giả thuyết nghiên cứu H3. Trình độ học vấn càng cao, sự am hiểu chính sách pháp luật càng cao, định hướng và sự lựa chọn công việc cũng phù hợp với thực tiễn và nhu cầu. Bên cạnh đó, các tổ chức, doanh nghiệp lớn cũng có nhu cầu trong việc tuyển dụng nhân sự có trình độ, năng lực cao. Các tổ chức, doanh nghiệp lớn này luôn thực hiện đúng chính sách pháp luật của nhà nước. Do vậy, đối với lao động có trình độ học vấn càng cao thì mức độ tham gia BHTN càng lớn. Căn cứ vào dấu của hệ số hồi quy của các nhóm học vấn có thể thấy rằng dấu của hệ số hồi quy ứng với các nhóm học vấn là phù hợp với giả thuyết nghiên cứu H3. Kết quả nghiên thu được là phù hợp với những nghiên cứu của các tác giả đi trước như Bohn (2001) và Diamond (1996).
Giả thuyết nghiên cứu H4. Căn cứ vào dấu của các hệ số hồi quy có thể thấy giả thuyết rằng mức độ tham gia BHTN của người lao động ở hai nhóm doanh nghiệp này là cao hơn. Nguyên nhân là vì khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là hai khối loại hình luôn luôn thực hiện tốt chính sách pháp luật của nhà nước, đảm bảo đầy đủ quyền lợi hợp pháp của người lao động theo đúng quy định, trong đó có BHTN. Người lao động không những được quan tâm về điều kiện lao động, nghỉ ngơi, phúc lợi xã hội mà còn đặc biệt quan tâm đến chế độ BHXH trong đó có BHTN và được tham gia đầy đủ, đúng mức lương theo quy định. Trên thực tế hiện nay, ở khối loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tư nhân, hợp tác xã,... luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu cùng với sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường,... nên sự quan tâm của chủ sử dụng lao động với người lao động chưa được như các khối loại hình trên. Mặt khác, còn nhiều trường hợp trốn đóng, nợ đọng tiền BHTN, để giảm chi phí của doanh nghiệp với mục đích tăng lợi nhuận. Cá biệt còn có tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ BHTN.
Giả thuyết nghiên cứu H5. Hệ số hồi quy của ứng với nhóm lao động thành thị là dương 0.312 và có ý nghĩa thống kê ở mức 5% (vì P-Value = 0.045 < 5%) do vậy kết quả phân tích cho thấy giả thuyết này được xác nhận và phù hợp với kêt quả nghiên cứu của Bohn (2001). Nguyên nhân là lực lượng lao động ở các tỉnh miền núi, trung du với chủ đạo là hoạt động nông nghiệp thường có nhiều lực lượng lao động di cư ra, tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn, có khu công nghiệp nhiều để tìm kiếm việc làm với mức thu nhập cao hơn làm nghề truyền thống và nông nghiệp nên người lao động ở khu vực thành thị có mức độ tham gia BHTN lớn.
Giả thuyết nghiên cứu H6. Do dấu của hệ số hồi quy là dương 0.043 nên có thể
114
thấy mức độ dễ dàng và sẵn có thông tin về BHTN có ảnh hưởng tích cực đến mức độ tham gia bảo hiểm của người lao động. Giải thích điều này, trong nghiên cứu có tên Bất Đối Xứng Thông Tin ở các thị trường Bảo Hiểm (Asymmetric Information in Insurance Markets: Predictions and Tests) của Chiappori & Salanié (2013) hai tác giả chỉ ra rằng sự rõ ràng và thông tin đầy đủ (Available Information) và mức độ bất đối xứng thông tin (Asymetric Information) có vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ tham gia quỹ bảo hiểm. Hiện nay, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin nên các thông tin nói chung và các thông tin về BHTN nói riêng cũng được người lao động tiếp cận một cách nhanh chóng bằng nhiều hình thức và đa dạng hình thái.
2.3.3.2. Kiểm chứng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến quản lý quỹ BHTN
Giả thuyết H7. Giả thuyết này cho rằng mức độ dễ dàng tham gia quỹ bảo hiểm thất nghiệp mà không gặp bất kì một cản trở nào về mặt hành chính và thời gian có ảnh hưởng tích cực đến mức độ tham gia bảo hiểm của người lao động. Căn cứ vào dấu của hệ số hồi quy (là dương) tác giả thấy rằng giả thuyết nghiên cứu H7 được xác nhận. Nguyên nhân do quy định của chính sách pháp luật thì người lao động và người sử dụng lao động thuộc đối tượng bắt buộc tham gia BHTN, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHTN cho người lao động. Bên cạnh đó, khi thất nghiệp, người lao động được hưởng mức trợ cấp BHTN hằng tháng bằng 60% mức lương bình quân của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp và các chế độ khác như: không phải đóng BHYT, được tư vấn, giới thiệu việc làm, được hỗ trợ đào tạo, nâng cao tay nghề... Do vậy, nếu đi làm đồng nghĩa với việc người lao động sẽ có cơ hội tham gia BHTN theo quy định của pháp luật. Mặt khác, các tác giả đi trước như Chiappori & Salanié (2013) còn cho rằng cơ hội tham gia BHTN mà càng đa dạng, hoặc việc tham gia BHTN không tạo ra một chi phí nào đáng kể (về thủ tục hành chính hay các ràng buộc khắt khe khác) cũng góp phần giảm bất đối xứng thông tin do vậy họ sằng sàng tham gia vào BHTN nhiều hơn.
a. Mô hình và các giả thuyết nghiên cứu
Theo William (1990), Harrington & Niehaus (1999), Rupp & Stapleton (1995), Vaughan & Vaughan (2007) thì quỹ bảo hiểm được cho là tăng trưởng có chất lượng nếu mức độ tăng trưởng của quỹ cao hơn tốc độ lạm phát. Nói cách khác, hiệu quả của quản lí một quỹ bảo hiểm có thể được đánh giá dựa vào mức độ tăng trưởng thực của quỹ sau khi hiệu chỉnh với lạm phát. Do vậy, biến phụ thuộc của mô hình 2 sẽ được gán nhãn 0 hoặc 1 (biến nhị phân – binary variable) trong đó 1 ứng với các quỹ bảo hiểm có tăng trưởng chất lượng và 0 là ngược lại. Các biến số độc lập của mô hình là Chất lượng nguồn nhân lực, Chính sách, pháp luật, Điều kiện kinh tế xã hội là những biến điểm nhân tố (Factor Score) dựa trên khảo sát với thang đo Likert 5 điểm vừ sử dụng kĩ thuật phân tích đa biến EFA (Exploratory Factor Analysis). Nhằm xác minh và
115
đánh giá tác động của những nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện quản lí quỹ BHTN tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu Logistic như sau:
Tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN = (Chất lượng nguồn nhân lực, Chính
sách, pháp luật, Điều kiện kinh tế - xã hội)
Mô hình nghiên cứu thứ 2 sẽ được thực hiện qua hai bước. Bước thứ nhất tác giả thực hiện phân tích nhân EFA để rút ra các biến điểm nhân tố nhằm đại diện cho các biến độc lập của mô hình là Chất lượng nguồn nhân lực, Chính sách pháp luật, Điều kiện kinh tế - xã hội (Field, 2009) và kết quả thu được sẽ là một biến liên tục. Kế tiếp, tác giả sử dụng biến điểm nhân tố thu được để thực hiện hồi quy Logistic. Bảng hỏi được sử dụng nhằm thu thập dữ liệu phân tích cho mô hình nghiên cứu này gồm 12 câu hỏi được phát cho 1021 cán bộ BHXH trên khắp cả nước, tập trung ở các tỉnh, thành phố có nhiều doanh nghiệp thuộc đa dạng các thành phần (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân). Với các kết quả không hợp lệ (như điền thiếu các thông tin quan trọng) hoặc không đáng tin, tác giả loại bỏ và còn lại 976 Phiếu khảo sát thu về hợp lệ. Số lượng các cán bộ BHXH tại các khu vực là như sau (Hình 2.16):
116
Hình 2.16: Số lượng cán bộ BHXH được khảo sát theo tỉnh thành
Nguồn: Dựa trên điều tra của tác giả
Để nhận điện và đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lí quỹ BHTN, dựa trên các nghiên cứu của các tác giả đi trước cũng như đặc thù của Việt Nam tác giả đề xuất ba giả thuyết nghiên cứu sau:
Mô tả
Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu đi trước của tác giả/ các tác giả
Diamond (1996); Normand &
H1
Chất lượng nguồn nhân lực của cán bộ BHXH có ảnh hưởng tích cực đến tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN.
Busse (2002); Rupp & Stapleton (1995).
Normand & Busse (2002); Rupp & Stapleton (1995).
H2
Chính sách, pháp luật BHTN có ảnh hưởng tích cực đến tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN.
H3
Điều kiện kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN.
Ahmad (1991); Normand & Busse (2002); Sinn (1996).
117
Trước khi phân tích EFA cần đảm bảo rằng bộ số liệu là phù hợp cho loại phân tích
này bằng kiểm định KMO (KMO Test). Kết quả của kiểm định này có kết quả như sau:
KMO and Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling .860 Adequacy.
Approx. Chi-Square 854.320 Bartlett's Test of df 66 Sphericity Sig. .000
Để phân tích EFA chúng ta cần giá trị KMO này tối thiểu là 0.5. Với dữ liệu của chúng ta, KMO Test là 0.86 cho thấy có thể sử dụng phân tích EFA cho bộ dữ liệu. Thực hiện phân tích nhân tố EFA cho bộ số liệu chúng ta cũng cần đánh giá tổng phương sai được giải thích (Total Variance Explained) của ba nhân tố nghiên cứu đề xuất (Field, 2009, Hair, 2010).
b. Kết quả phân tích số liệu
Total Variance Explained
Initial Eigenvalues
Extraction Sums of Squared Loadings
Component
Total
Total
% of Variance
% of Variance
Cumulative % 32.952
Cumulative % 32.952
32.952
3.954
3.954
32.952
1
45.801 54.547
12.849 8.746
1.542 1.049
2.542 1.049
22.849 8.746
55.801 88.753
2 3
.847 .755
7.062 6.291
61.609 67.900
4 5
.702 .637
5.852 5.304
73.752 79.056
6 7
.609 .552
5.072 4.603
84.129 88.732
8 9
.521 .458
4.342 3.813
93.074 96.887
10 11
.374
3.113
100.000
12
Kết quả này cho thấy ba biến số độc lập của mô hình giải thích 88.75% biến động phương sai. Đây là một kết quả khá cao. Do đó, lấy ba biến số độc lập của mô hình được lựa chọn là phù hợp. Sử dụng các điểm nhân tố thu được từ phân tích EFA cho mô hình Logisic kết quả ước lượng của mô hình này như sau (Bảng 2.17):
118
Bảng 2.17: Kết quả phân tích hồi quy Logistic
Coefficients
Estimate
Std. Error z value
Pr( > |z|)
(Intercept)
4.324
0.657
3.463
0.071***
Chất lượng nguồn nhân lực
0.085
0.376
1.568
0.009*
Chính sách, pháp luật BHTN
0.460
0.006
0.272
0.046**
Điều kiện kinh tế - xã hội
0.277
0.311
0.982
0.249
(Chú thích: *, **, *** lần lượt là có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5%, 10%).
Nguồn: Dựa trên dữ liệu của nghiên cứu
Chất lượng nguồn nhân lực. Nhân tố này có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Theo kết quả ước lượng được cho ở Bảng 2.15, thì nhân tố Chất lượng nguồn nhân lực của cán bộ ảnh hưởng tích cực đến quản lý quỹ BHTN. Những kết quả này là phù hợp với giả thuyết nghiên cứu H1 và phù hợp với thực tế vì công việc quản lý của các cán bộ đối với quỹ BHTN bao gồm việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát quá trình thực hiện thu - chi quỹ BHTN. Cụ thể:
(cid:5) Đối với công tác quản lý thu: Nếu năng lực của cán bộ quản lý ở cấp trung ương tốt thì sẽ xây dựng kế hoạch thu đúng, chính xác và sát với thực thế, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, đề xuất các chính sách phù hợp để triển khai thực hiện đảm bảo thu đúng đối tượng, đúng mức đóng và phù hợp với tình hình thực tế. Điều hành, chỉ đạo các cán bộ cấp dưới triển khai công tác quản lý thu kịp thời và đúng chính sách pháp luật cho đối tượng tham gia BHTN. Cán bộ quản lý thu ở cấp tỉnh và cấp huyện có năng lực tốt sẽ quản lý đúng đối tượng phải tham gia BHTN theo quy định, quản lý tiền thu BHTN đúng, đầy đủ và kịp thời, hạn chế tối đa tình trạng nợ đọng BHTN và thực hiện hoàn thành kế hoạch phát triển đối tượng tham gia, kế hoạch thu giao hằng năm.
(cid:5) Đối với công tác quản lý chi: Nếu năng lực của cán bộ quản lý ở cấp trung ương tốt thì sẽ xây dựng kế hoạch chi đúng, chính xác và sát với thực thế, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, đề xuất các chính sách phù hợp để triển khai thực hiện đảm bảo chế độ cho người thất nghiệp và phù hợp với tình hình thực tế. Điều hành, chỉ đạo các cán bộ cấp dưới triển khai công tác chi kịp thời và đúng chính sách pháp luật cho đối tượng hưởng chế độ BHTN. Cán bộ quản lý chi ở cấp tỉnh và cấp huyện có năng lực tốt sẽ quản lý đúng đối tượng, thời gian thụ hưởng chế độ BHTN theo quy định, quản lý tiền chi BHTN chính xác, đầy đủ và kịp thời, hạn chế tối đa tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ BHTN và thực hiện hoàn thành kế hoạch chi giao hằng năm.
119
Từ đó, cân đối được nguồn quỹ BHTN, quản lý chặt chẽ quá trình thu - chi, tránh việc thất thoát quỹ BHTN và tình trạng trục lợi bảo hiểm. Bên cạnh đó, quá trình kiểm tra giám sát cực kỳ quan trọng đối với công tác quản lý thu - chi, việc này sẽ đem lại hiệu quả rất lớn đối với quá trình quản lý quỹ nếu như cán bộ có trình độ cao, nắm vững chính sách pháp luật. Như vậy, rõ ràng chất lượng nguồn nhân lực của cán bộ BHTN có mối tương quan tỷ lệ thuận với quản lý quỹ.
Chính sách pháp luật BHTN. Nhân tố này có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Kết quả phân tích ở Bảng 2.15 cho thấy Chính sách pháp luật BHTN ảnh hưởng tích cực đến quản lí quỹ. Kết quả này cũng xác nhận giả thuyết nghiên cứu H2. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế và lý thuyết vì nội dung của chính sách pháp luật BHTN là việc hoạch định chiến lược, chính sách, chế độ BHTN và việc xây dựng các chiến lược, chính sách thường đi theo quy trình: Đảng đề ra chủ trương, đường lối, Nhà nước cụ thể hoá chủ trương, đường lối thành chiến lược và hệ thống chính sách, luật pháp của Nhà nước, Chính phủ đưa ra những quy định và khâu cuối cùng là các bộ, ngành, địa phương tổ chức hướng dẫn thực hiện. Như vậy, đây là yếu tố cực kỳ quan trọng, tác động rất lớn đến quản lí quỹ, nếu trong việc xây dựng các chính sách, tốt công tác hoạch định và chỉ đạo cho các cấp đưa ra các quy định đúng đắn, rõ ràng và chi tiết, các bộ, ngành, địa phương tổ chức hướng dẫn các cán bộ quản lý và nhân viên sát sao và bài bản thì tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN sẽ được thực hiện một cách dễ dàng và hiệu quả. Nếu chính sách, pháp luật BHTN rõ ràng, dễ thực hiện và phù hợp với các đối tượng tham gia khác nhau; các nguồn thu và việc sử dụng quỹ BHTN; mức trợ cấp và điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp được thiết kế một cách phù hợp sẽ có được ảnh hưởng tích cực đến tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN.
Điều kiện kinh tế - xã hội. Theo kết quả thu được ở Bảng 2.15 có thể thấy rằng nhân tố Điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng tích cực đến công tác quản lí quỹ. Chính sách BHTN được xây dựng trong khuôn khổ các kế hoạch kinh tế - xã hội tổng thể và phù hợp với trình độ kinh tế, văn hoá, xã hội từng thời kỳ. Chúng ta có thể thấy điều kiện kinh tế - xã hội là một trong những nhân tố góp phần tác động đến công tác quản lý quỹ BHTN do trong mỗi giai đoạn phát triển thì BHTN lại có các mục tiêu và nhiệm vụ khác nhau. Nếu công tác hoạch định chính sách phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội thì góp phần thuận lợi cho công tác quản lý quỹ.
Trong 3 yếu tố trên thì yếu tố Chính sách pháp luật là nguyên nhân chính có ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN, tiếp đó là chất lượng nguồn nhân lực và yếu tố Kinh tế - xã hội. Điều này cho thấy tầm quan trọng của chính sách, pháp luật
120
đối với công tác quản lý quỹ BHTN.
Thật vậy, theo khảo sát của tác giả đối với cả 3 nhóm đối tượng về mức độ ảnh hưởng của nhân tố chính sách pháp luật đến quản lý quỹ BHTN đều cho ra kết quả rất cao đánh giá là có ảnh hưởng và rất ảnh hưởng, cụ thể:
- Với nhóm cán bộ cơ quan BHXH là những người trực tiếp thực hiện công tác quản lý quỹ BHTN, hiểu rõ về chính sách, quy trình triển khai và tiếp xúc với đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN, kết quả cho thấy nhân tố chính sách pháp luật về BHTN có ảnh hưởng đến quản lý quỹ BHTN.
Hình 2.17: Đánh giá của cán bộ cơ quan BHXH về mức độ ảnh hưởng của nhân tố chính sách pháp luật đến quản lý quỹ BHTN
Nguồn: Dựa trên điều tra của tác giả
Theo dõi hình trên, ta thấy có 317 ý kiến cán bộ BHXH cho rằng nhân tố chính sách pháp luật có ảnh hưởng đến quản lý quỹ BHTN, chiếm 78,5% tổng số cán bộ được khảo sát; tiếp theo là ý kiến cho rằng chính sách pháp luật rất ảnh hưởng đến quản lý quỹ BHTN với với 47 cán bộ đánh giá, chiếm 11,6%; như vậy những ý kiến đánh giá là ảnh hưởng chiếm tới 90,1%. Các ý kiến còn lại cho rằng chính sách pháp luật về BHTN là ít ảnh hưởng và không ảnh hưởng với 40 ý kiến, chiếm 9,9%.
- Với nhóm người sử dụng lao động và người lao động, cả hai nhóm đối tượng này
đều đánh giá chính sách pháp luật về BHTN có ảnh hưởng lớn đến quản lý quỹ BHTN.
121
Hình 2.18: Đánh giá của người sử dụng lao động và người lao động về mức độ ảnh hưởng của nhân tố chính sách pháp luật đến quản lý quỹ BHTN
Nguồn: Dựa trên điều tra của tác giả
Hình trên cho thấy đánh giá của người lao động và người sử dụng lao động về mức độ ảnh hưởng của chính sách pháp luật đến quản lý quỹ BHTN. Có đến 306 người sử dụng lao động cho rằng chính sách pháp luật có ảnh hưởng, chiếm đến 85,2% và 18 ý kiến cho rằng chính sách pháp luật rất ảnh hưởng chiếm 5,0%. Tuy nhiên, vẫn còn 35 người sử dụng lao động cho rằng chính sách pháp luật về BHTN hiện nay là không không ảnh hưởng (0,3%) và ít ảnh hưởng (9,5%). Trong khi đó, tỷ lệ người lao động đánh giá chính sách pháp luật ảnh hưởng đến quản lý quỹ BHTN là 75,0%, tương ứng với 621 người lao động, có 76 người lao động chiếm tỷ lệ 9,2% cho rằng chính sách pháp luật rất ảnh hưởng. Còn 131 người lao động đánh giá ít ảnh hưởng và không ảnh hưởng tương ứng với 13,5% và 2,3%. Như vậy, đa số người sử dụng lao động và người lao động đều cho rằng chính sách pháp luật về BHTN có ảnh hưởng đển quản lý quỹ BHTN.
122
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương hai tập trung đánh giá thực trạng và làm rõ kết quả đạt được và những hạn chế, nguyên nhân trong công tác quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam. Cụ thể, đối tượng tham gia BHTN tăng hàng năm, nguồn thu quỹ ổn định thông qua mỗi lần sửa đổi, điều chỉnh về chính sách. Việc chi trả quyền lợi cho người lao động thất nghiệp kịp thời. Quỹ BHTN thặng dư qua các năm, tính đến năm 2015, quỹ kết dư hơn 49 nghìn tỷ đồng do hiện nay quỹ BHTN chỉ hướng đến thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp, chưa sử dụng thực sự hiệu quả cho các chính sách thị trường lao động chủ động với mục đích chuyển đổi, đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động để hạn chế tình trạng thất nghiệp có thể xảy ra.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý quỹ BTHN thì có nhiều, song qua phân tích, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý quỹ BHTN thông qua phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng được điều tra, khảo sát trên ba nhóm đối tượng đó là: cán bộ cơ quan BHXH, người sử dụng lao động và người lao động, đã lý giải các nhân tố có mức độ ảnh hưởng đến quản lý quỹ BHTN như: Chính sách, pháp luật, chất lượng nguồn nhân lực của cán bộ quản lý quỹ BHTN, điều kiện kinh tế xã hội, tổ chức triển khai thực hiện chính sách pháp luật BHTN.
Do vậy, các nguyên nhân về chính sách pháp luật cần phải đặc biệt chú trọng để công tác quản lý quỹ BHTN chặt chẽ, hiệu quả và đúng pháp luật. Cụ thể về chính sách thị trường lao động chủ động, các chính sách về mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng hay thông tin về thị trường lao động và xây dựng cơ sở dữ liệu, ứng dụng công nghệ thông tin,... Đây là những vấn đề đã chỉ ra trong chương hai và là cơ sở quan trọng cho việc đề xuất các giải pháp quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam.
123
CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng, quan điểm tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
3.1.1. Định hướng mục tiêu quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Đảm bảo an sinh xã hội luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của mỗi quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020 khẳng định sự quan tâm về BHXH trong đó có BHTN là một trong các chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết đã xác định rõ mục tiêu: Thực hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện; thực hiện mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Phấn đấu đến năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội, 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp; trên 80% dân số tham gia bảo hiểm y tế. Sử dụng an toàn và bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn; quản lý, sử dụng có hiệu quả và bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm y tế. Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Với mục tiêu trên, cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp cần xác định rõ trách nhiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Tăng cường lãnh đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, để cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong hệ thống an sinh xã hội; quyền lợi và nghĩa vụ của người dân khi tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Phát hiện và biểu dương kịp thời các địa phương, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện tốt, đồng thời phê phán, xử lý nghiêm vi phạm. Chính quyền, cơ quan bảo hiểm xã hội và các tổ chức đoàn thể cần chú ý làm tốt công tác vận động nhân dân tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Nghiên cứu, sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội theo hướng mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Hoàn thiện chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm xã hội, bảo đảm yêu cầu cân đối và tăng trưởng Quỹ. Rà soát, bổ sung quy
124
định buộc người sử dụng lao động phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Sửa đổi chính sách bảo hiểm thất nghiệp để bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động bị thất nghiệp và tránh trục lợi bảo hiểm.
Kiện toàn tổ chức bộ máy bảo hiểm xã hội các cấp để thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng tăng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ, giảm phiền hà cho người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hoá hệ thống quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và bảo hiểm xã hội ở các cấp trong việc thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Quản lý tốt đối tượng đóng và tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từ cơ sở. Củng cố và tăng cường quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội, Quỹ bảo hiểm y tế bảo đảm thu chi, đầu tư tăng trưởng Quỹ hiệu quả và an toàn theo quy định của pháp luật.
Trọng tâm nâng cao hiệu lực và năng lực quản lý của các, cấp ngành từ khâu hoạch định chính sách, tổ chức thực thi chính sách, thanh, kiểm tra thực hiện chính sách và tổ chức tuyên truyền chính sách pháp luật về BHTN. Nâng cao năng lực, hiệu lực của các ngành chức năng trong quản lý BHTN, nhất là ngành lao động và ngành BHXH.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm, nhất là các hành vi trốn đóng, nợ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các hành vi tiêu cực, gian lận để hưởng chế độ, trục lợi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Cùng với Nghị quyết 21-NQ/TW và chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011- 2020, Luật bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm và một số Luật liên quan, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020 tại Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày 23/7/2013 và nhấn mạnh một số nội dung:
Quản lý, sử dụng đúng quy định và có hiệu quả quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế nhằm bảo đảm quỹ bảo hiểm xã hội cân đối trong dài hạn, quỹ bảo hiểm y tế cân đối hàng năm.
Hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin (mạng máy tính, máy chủ, máy trạm, an ninh mạng, trung tâm dữ liệu ngành và hệ thống phần mềm, cơ sở dữ liệu, dịch vụ công trực tuyến trên mạng Internet) để giải quyết các chính sách, chế độ bảo hiểm xã
125
hội, bảo hiểm y tế. Liên thông, kết nối thông tin giữa các đơn vị trong toàn ngành Bảo hiểm xã hội trong phạm vi cả nước và với các đơn vị tổ chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm thất nghiệp thuộc ngành lao động.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta cũng xác định rõ vai trò và tầm quan trọng trong việc đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin trong quản lý được nêu tại một số Nghị quyết như: Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử và Nghị quyết 26/NQ-CP ngày 15/4/2015 của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, trong đó: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bảo hiểm xã hội, quản lý nguồn nhân lực, lao động, trong thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, hỗ trợ người cao tuổi, thương binh, khuyết tật, bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Xây dựng hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý, giám sát và thực hiện chính sách xã hội đối với người có công và an sinh xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng.
Như vậy, Đảng và Nhà nước đã định hướng và xác định rõ mục tiêu trong tương lai với những nội dung quan trọng về nghiên cứu sửa đổi hệ thống chính sách pháp luật, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đặc biệt chú trọng đến việc đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Đây cũng là các nhân tố quan trọng mà trong luận án đã nêu trong phần cơ sở lý luận và được khẳng định, chứng minh trong phần phân tích, đánh giá thực trạng quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam đó là: Chính sách pháp luật; Chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp và ứng dụng công nghệ thông tin.
Thực hiện định hướng, mục tiêu trên, cơ quan BHXH có chức năng thực hiện quản lý quỹ BHTN phải đảm bảo các nguyên tắc về tài chính, thực hiện quản lý chặt chẽ, hiệu quả, công khai minh bạch. Nguồn thu của quỹ BHTN luôn luôn được kiểm soát chặt chẽ, kịp thời, đúng đối tượng. Quỹ BHTN phải sử dụng thực sự hiệu quả, không những kịp thời chi trả các chế độ BHTN cho người thất nghiệp mà còn đáp ứng được các chính sách chủ động để hỗ trợ người lao động hạn chế tình trạng thất nghiệp bằng nhiều biện pháp trên cơ sở cân đối thu - chi tài chính quỹ BHTN trong trung hạn và dài hạn. Công khai minh bạch quá trình đóng BHTN, mức tiền lương làm căn cứ đóng của người lao động để kiểm soát tình hình đơn vị sử dụng lao động kê khai, đóng BHTN cũng như cơ quan BHTN thu nộp đúng với mức lương của người lao động được hưởng.
126
3.1.2. Quan điểm về tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
3.1.2.1. Quan điểm chung về bảo hiểm thất nghiệp
Như đã đề cập ở trên, Bảo hiểm thất nghiệp là một trong các chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, chính sách BHTN phải đảm bảo là công cụ quản lý, kiểm soát, điều hành thị trường lao động hiệu quả bằng cách xây dựng, chuyển đổi theo hướng trở thành chính sách bảo hiểm việc làm với mục đích duy trì việc làm cho người lao động, sau đó có các biện pháp hỗ trợ tạo việc làm đối với người thất nghiệp. Gắn kết chặt chẽ chính sách bảo hiểm thất nghiệp với các chính sách về việc làm, thông tin thị trường lao động, bảo hiểm xã hội.
Mở rộng đối tượng tham gia BHTN phải gắn liền với nâng cao năng lực quản lý. Khi chính sách BHTN thay đổi, đối tượng tham gia ngày càng được mở rộng thì công tác quản lý đối tượng tham gia phải chặt chẽ để đảm bảo thu đúng đối tượng, thu đủ mức đóng BHTN và không để việc người lao động và người sử dụng lao động tìm cách trốn đóng hoặc đóng không đúng mức lương theo quy định. Kiện toàn nguồn nhân lực quản lý đi đôi với việc đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và kỹ năng quản lý đảm bảo đáp ứng nhu cầu công việc ngày càng nâng cao theo hướng hội nhập toàn cầu.
Hoàn thiện bộ máy quản lý BHTN ở tất cả các cấp để quản lý quỹ BHTN chặt chẽ, thống nhất đảm bảo hiệu quả, giảm thiểu tối đa thủ tục hành chính cũng như thời gian giao dịch và đi lại của người tham gia, thụ hưởng chính sách.
Tăng cường hơp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc thực hiện các chính sách về bảo hiểm thất nghiệp và hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin trong quản lý.
Phải luôn luôn coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHTN. Xem nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến chính sách là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên, lâu dài. Nội dung tuyên truyền phải được xây dựng một cách bài bản, phong phú về nội dung và đa dạng bằng nhiều hình thức đảm bảo chính sách pháp luật về BHTN phải đến được từng người dân, từng người tham gia biết để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Nâng cao hơn nữa về nhận thức và vai trò quản lý của cơ quan BHXH các cấp trong tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về BHTN. Luôn luôn đặt mình vào vai trò
127
là phục vụ và hướng tới sự hài lòng của người dân, người tham gia nhưng không làm mất đi sự nghiêm minh của pháp luật.
Công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động quản lý quỹ BHTN cần phải được tăng cường hơn nữa để hạn chế tối đa tình trạng trốn đóng, nợ đọng tiền BHTN hay những hành vi trục lợi, lạm dụng làm ảnh hưởng đến quỹ BHTN. Từ đó, vừa xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, nâng cao tính nghiêm minh của pháp luật và tìm ra những lỗ hổng của chính sách để đề xuất, sửa đổi bổ sung nhằm hoàn thiện chính sách.
Khuyến khích các tổ chức dịch vụ công ích của Nhà nước tham gia cung ứng các dịch vụ thu, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý ngày càng cao và hội nhập sâu rộng trên thế giới thì phải xác định ứng dụng CNTT trong quản lý phải là mũi nhọn. Trong đó, xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu tập trung, quản lý người tham gia BHTN bằng một mã số duy nhất thống nhất trên toàn quốc để quản lý đối tượng tham gia, thụ hưởng chính sách BHTN đảm bảo chính xác, kịp thời và đầy đủ. Mặt khác, nhằm phát hiện ra những trường hợp lạm dụng, trục lợi quỹ BHTN để xử lý vi phạm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và công khai minh bạch thời gian tham gia, mức đóng BHTN để người lao động kiểm soát tình hình trích nộp BHTN của mình.
Xây dựng phần mềm quản lý lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp triển khai và cập nhật tình hình lao động, kết nối cơ sở dữ liệu với cơ quan BHXH để thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH, BHTN. Đây là cơ sở rất quan trọng phục vụ cho việc quản lý lao động, quản lý thu, chi BHXH, BHTN. Ngoài ra vấn đề chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý cũng được nhấn mạnh nhằm đảm bảo quản lý tốt nhất việc triển khai chính sách BHXH, BHTN.
Kết nối thông tin, dữ liệu với các bộ, ngành liên quan để quản lý được đơn vị, doanh nghiệp đang hoạt động, thành lập mới; người lao động đang làm việc, thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông trên phạm vi cả nước, tiến tới thực hiện giao dịch điện tử đối với tất cả các hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp.
Mỗi công dân tham gia bảo hiểm được cấp một số định danh và thống nhất với số định danh công dân do Nhà nước quy định để phục vụ và quản lý quá trình thu, giải quyết chính sách, chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế một cách chính xác và thuận tiện. Hướng tới Chính phủ điện tử và ứng dụng công
128
nghệ thông tin trong quản lý.
Đổi mới cơ chế tổ chức thực hiện, chuyển đổi tác phong phục vụ; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa hệ thống quản lý bảo hiểm xã hội; cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ đảm bảo việc giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời, đúng quy định của pháp luật.
3.1.2.2. Quan điểm chỉ đạo về tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Quỹ BHTN phải được cân đối thu - chi trong trung hạn và dài hạn và xác định tỷ lệ kết dư của quỹ để đề xuất, kiến nghị các cấp có thẩm quyền điều tiết chính sách nhằm hỗ trợ cho các đơn vị sử dụng lao động đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động, hạn chế tình trạng sa thải và hỗ trợ mức đóng cho đối tượng tham gia BHTN.
Từ các quan điểm, định hướng quản lý quỹ BHTN như trên, công tác chỉ đạo
cần tập trung vào một số nhiệm vụ chính như sau:
a. Quản lý thu bảo hiểm thất nghiệp
Thực hiện đúng và đầy đủ các chính sách pháp luật về BHTN cho đối tượng tham gia, như: rà soát các đối tượng phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp để mở rộng đối tượng tham gia theo quy định của pháp luật; rà soát và thực hiện đúng các quy định về chính sách tiền lương đảm bảo thu đúng và đủ mức đóng BHTN, tránh tình trạng chậm đóng, nợ đọng tiền BHTN; thực hiện việc thông báo biến động lao động của các tổ chức, doanh nghiệp; xác nhận sổ BHXH đầy đủ, kịp thời cho người lao động; hằng năm, niêm yết công khai quá trình tham gia BHTN cho từng người lao động;…
Quản lý chẽ, nắm bắt kịp thời những tác động và biến động của tổ chức, doanh nghiệp ảnh hưởng đến việc tham gia BHTN để dự báo và đưa ra những biện pháp khắc phục và đề xuất những giải pháp hoàn thiện chính sách và hạn chế tình trạng trục lợi, thất thoát nguồn thu của quỹ BHTN.
Trên phương diện quản lý và tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về BHTN thì công tác quản lý thu BHTN luôn phải đặt quyền lợi của người lao động khi tham gia BHTN lên hàng đầu và thực hiện nhiều biện pháp theo đúng quy định để bảo vệ cho người lao động.
Tăng cường hơn nữa trong việc phối hợp với các tổ chức, đơn vị thực hiện thanh
tra, kiểm tra để xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, trốn đóng, nợ đọng tiền BHTN.
Kịp thời báo cáo các cấp có thẩm quyền về các đơn vị sử dụng lao động vi phạm pháp luật về BHTN làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động như: trốn đóng, chậm đóng BHTN, đóng không đúng mức lương. Đồng thời, niêm yết, công
129
khai các trường hợp vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng để răn đe và hạn chế hiệu ứng lan toả đối với các đơn vị sử dụng lao động khác.
b. Quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm thất nghiệp
Tiếp nhận và giải quyết hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo phương châm 3 đúng ”đúng đối tượng, đúng chế độ và đúng thời hạn”. Căn cứ vào quy định của pháp luật và quá trình tham gia BHTN, xác định chính xác và đúng thời gian hưởng, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp cho người lao động bị thất nghiệp. Chi trả kịp thời trợ cấp thất nghiệp để người thất nghiệp và gia đình của họ có thể ổn định cuộc sống khi bị mất việc làm, hạn chế tối đa các trường hợp chi sai đối tượng, sai mức hưởng BHTN cho người thất nghiệp. Thực hiện, báo giảm kịp thời theo đúng quy định đối với các trường hợp dừng hưởng, cắt hưởng trợ cấp BHTN.
Phối hợp với Trung tâm dịch vụ việc làm để kịp thời thanh tra, kiểm tra, giám sát việc hưởng chế độ BHTN của người thất nghiệp và kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp lạm dụng, trục lợi quỹ quỹ BHTN, hưởng không đúng đối tượng để thu hồi tiền trợ cấp thất nghiệp. Dự báo và đề xuất các biện pháp khắc phục nhằm hoàn thiện chính sách, hạn chế tình trạng trục lợi, hưởng BHTN làm ảnh hưởng đến quỹ BHTN.
Trên phương diện quản lý và tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về BHTN thì công tác quản lý chi BHTN luôn phải đặt quyền lợi của người lao động khi tham gia BHTN lên hàng đầu và thực hiện các biện pháp theo đúng quy định của pháp luật để bảo vệ cho người lao động.
Tăng cường tư vấn về chính sách, dạy nghề và việc làm giúp người thất nghiệp sớm quay trở lại thị trường lao động, đẩy mạnh các giải pháp tích cực để tư vấn, giới thiệu việc làm và hỗ trợ học nghề cho người thất nghiệp ngay từ khi người lao động đến nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp. Chú trọng công tác thông tin thị trường lao động để hỗ trợ cho người thất nghiệp, tổ chức có hiệu quả các sàn giao dịch để người thất nghiệp tham gia; đồng thời có các biện pháp để hạn chế việc sa thải lao động của các doanh nghiệp.
c. Quản lý cân đối thu - chi quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, rà soát số lao động thuộc diện phải tham gia BHTN và hoạt động chi BHTN theo từng chế độ, từng địa phương, ngành nghề tránh các hiện tượng tiêu cực trong chi BHTN, xử lý nghiêm đơn vị sử dụng lao động hay người thất nghiệp có những hành vi vi phạm pháp luật về BHTN làm ảnh hưởng, thất thoát quỹ BHTN.
130
Làm tốt công tác dự báo quỹ BHTN trong tình hình quỹ BHTN đang có kết dư ngày càng lớn, tìm ra những điểm yếu và khiếm khuyết trong thực hiện chính sách BHTN để đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về BHTN nhằm đạt được những mục tiêu quan trọng đề ra và đúng định hướng BHTN là chính sách bảo hiểm việc làm với mục đích duy trì việc làm cho người lao động, sau đó có các biện pháp hỗ trợ, tạo việc làm đối với người thất nghiệp. Đề xuât mức hưởng trợ cấp và các chế độ phù hợp với từng thời điểm theo lộ trình xây dựng.
Đề xuất, kiến nghị bổ sung hình thức đầu tư quỹ sinh lời vào mục tiêu phát triển kinh tế đất nước vừa tăng việc làm cho xã hội, mở rộng đối tượng tham gia BHTN và tăng thu từ lãi đầu tư. Mặt khác, quỹ BHTN đảm bảo dự phòng khi khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra dẫn đến tình trạng sa thải lao động hàng loạt. Đề xuất những chính sách mới trong việc sử dụng nguồn kết dư lớn nhằm bảo đảm việc làm hoặc giảm mức đóng cho đối tượng tham gia BHTN, hướng tới hoàn thiện chính sách BHTN theo hướng chủ động.
d. Cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin
Xây dựng quy trình quản lý thu, giải quyết chế độ BHTN, chi trả trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề một cách khoa học, hợp lý. Quy trình thực hiện phải phù hợp với thực tế để đơn giản hóa các thủ tục hành chính và phân chia trách nhiệm các bên rõ ràng, tránh chồng chéo, gây khó khăn cho người lao động.
Đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính trên tất cả các khâu trong thực hiện chính sách BHTN như thu BHTN, chi trợ cấp thất nghiệp… tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân khi giao dịch với cơ quan BHXH các cấp và Trung tâm Dịch vụ việc làm. Hoàn thiện các quy định về phân cấp quản lý Trung ương - địa phương trong thực hiện chính sách BHTN theo nguyên tắc cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên thực hiện những việc mà cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới làm không hiệu quả.
Bên cạnh việc thực hiện rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính cần chú trọng quan tâm đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện tin học hóa trong quản lý. Đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, áp dụng và khai thác triệt để vai trò của công nghệ thông tin trong quản lý thu, chi trả chế độ BHTN. Áp dụng công nghệ thông tin để tạo điều kiện cho người lao động, đơn vị sử dụng lao động đến cơ quan BHXH khai báo biến động tăng, giảm, hưởng chế độ BHTN hoặc khai báo tìm kiếm việc làm tại Trung tâm Dịch vụ việc làm, góp phần giảm việc đi lại giữa hai cơ quan quản lý chính sách BHTN nhằm nâng cao chất lượng phục vụ đối tượng tham gia,
131
đối tượng thụ hưởng chính sách BHTN; giảm thời gian và tiết kiệm chi phí thực hiện các thủ tục hành chính về BHTN.
3.2. Giải pháp quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Thực hiện rà soát, sửa đổi và bổ sung kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn thực hiện BHTN về đối tượng, thủ tục hồ sơ tham gia và thụ hưởng chế độ
BHTN, quy trình, điều kiện hưởng phải phù hợp với tình hình thực tế. Quy định trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người lao động và người thất nghiệp.
Như đã phân tích, đánh giá trong phần thực trạng quản lý quỹ BHTN ở Việt
Nam, chính sách pháp luật cần bổ sung quy định:
- Về độ tuổi hưởng trợ cấp thất nghiệp, quy định về người lao động đủ điều kiện
hưởng hưu trí, không được hưởng chế độ BHTN nhưng được trích trả một phần mức
đóng góp vào quỹ BHTN. Hiện nay, số lao động đã đủ điều kiện hưởng hưu trí nhưng
vẫn hưởng trợ cấp thất nghiệp trước rồi mới giải quyết hưu hoặc hưởng trùng cả hai
chế độ vẫn xảy ra. Nguyên nhân là do cách tính mức hưởng trợ cấp thất nghiệp và cách
tính hưởng hưu trí còn chênh lệch nhau, nên người lao động tìm cách hưởng trợ cấp
thất nghiệp sau đó quay trở lại hưởng hưu trí. Tình trạng này dẫn đến quỹ BHTN thực
hiện không đúng theo tôn chỉ mục đích là bảo đảm một phần thu nhập cho người lao
động khi mất việc làm. Đây cũng là hình thức mà người lao động ở độ tuổi này luôn
tìm cách trục lợi từ kẽ hở của chính sách.
- Về mức đóng BHTN cần xem xét việc nâng lương tối thiểu vùng hằng năm
phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, mức sống trung bình của người lao động ở các
vùng thành thị, nông thôn và tình hình sản xuất kinh doanh của từng loại hình doanh
nghiệp để không ảnh hưởng đến việc trích nộp BHTN cho người lao động đúng quy
định và nguồn thu của quỹ BHTN cũng như mức hưởng trợ cấp thất nghiệp của người
lao động khi mất việc làm.
- Về điều kiện hưởng chế độ hỗ trợ kinh phí cho doanh nghiệp đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động cần
phải được điều chỉnh phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và điều kiện thực tế để doanh nghiệp được tiếp cận chính sách này giúp
doanh nghiệp ổn định và phát triển hướng sản xuất mới mà không phải sa thải lao
động hằng loạt cũng như tuyển dụng nhiều lao động mới đáp ứng yêu cầu sản xuất
kinh doanh.
132
- Bổ sung thêm các chế độ, chính sách như hỗ trợ mức đóng cho người lao động, người sử dụng lao động khi quỹ BHTN có kết dư lớn với khả năng chi trả các chế độ BHTN cho người thất nghiệp được đảm bảo trong khoảng thời gian nhất định nhằm giảm mức đóng cho người lao động và người sử dụng lao động. Từ đó, giảm gánh nặng chi phí sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để donah nghiệp có thể phát triển và nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh.
3.2.2. Giải pháp về kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý
Do bảo hiểm thất nghiệp lần đầu được tổ chức ở nước ta, cho nên công tác tổ chức bộ máy triển khai còn nhiều bất cập, hạn chế cần phải được hoàn thiện trước hết. Từ thực tế cũng như qua nghiên cứu cho thấy, lĩnh vực này liên quan cả đến công tác quản lý thu, chi, quản lý đối tượng,... Chính vì vậy, bộ máy tổ chức triển khai phải phù hợp, đầy đủ điều kiện để tổ chức thực hiện.
Kinh nghiệm từ các nước cho thấy, việc thành lập và hoạt động hiệu quả của một cơ quan quản lý lao động và việc làm là vô cùng quan trọng. Điều này làm nên sự thành công của việc thực hiện chính sách an sinh đối với người lao động và người lao động thất nghiệp, kiểm soát thu chi và chống trục lợi bảo hiểm từ phía doanh nghiệp và người lao động tham gia bảo hiểm bị thất nghiệp, hạn chế tình trạng trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp từ phía doanh nghiệp sử dụng lao động. Ngoài ra, cơ quan này cũng đảm bảo việc điều phối lao động và việc làm, kết nối nhu cầu lao động và việc làm giữa doanh nghiệp và người lao động.
Tổ chức sắp xếp các hoạt động của trung tâm dịch vụ việc làm, xây dựng mô hình hoạt động chuẩn và xây dựng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động của trung tâm dịch vụ việc làm: việc tổ chức thực hiện phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, đảm bảo tính hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ cho người lao động thất nghiệp.
Thành lập một hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương về dịch vụ việc làm để thực hiện tốt chế độ, chính sách về tư vấn và hỗ trợ việc làm, vì đây là hướng giải quyết người thất nghiệp một cách bền vững nhất. Nghiên cứu, xem xét xây dựng mô hình chuẩn hoạt động của trung tâm dịch vụ việc làm để thực hiện tốt các nhiệm vụ của trung tâm về BHTN, tư vấn, thông tin thị trường lao động, giới thiệu việc làm, cung cấp lao động và dạy nghề.
Cần rà soát, đánh giá lại mạng lưới tiếp nhận đăng ký thất nghiệp, nộp hồ sơ hưởng BHTN trên địa bàn sao cho tạo thuận lợi hơn cho người lao động, tăng cường cơ sở vật chất, cán bộ và kinh phí cho các Trung tâm Dịch vụ việc làm trong việc tiếp
133
nhận, giải quyết các chế độ BHTN và quản lý người lao động bị thất nghiệp.
Tiếp tục rà soát, sửa đổi quy chế phối hợp giữa cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan Bảo hiểm xã hội, Liên đoàn lao động và các cơ quan, tổ chức có liên quan đến BHTN sao cho phù hợp với tình hình thực tế và xác định rõ trách nhiệm của các đơn vị trong việc tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, xử lý các vi phạm theo quy trình thống nhất trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
Thực hiện cải cách thủ tục hành chính triệt để thông qua việc xây dựng qui trình chuẩn cho công tác quản lý thu, chi trả chế độ BHTN, quy trình hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề,... Khi có quy trình chuẩn, việc tổ chức triển khai sẽ thuận lợi, đồng bộ và hạn chế được tình trạng trốn đóng, chậm đóng hoặc đóng không đủ mức đóng theo quy định hay chi sai chế độ, chi trùng. Bên cạnh đó, hướng dẫn chi tiết rõ ràng việc xác định đối tượng tham gia, phương thức đóng và mức đóng BHTN cũng như điều kiện hưởng, mức hưởng BHTN cho cán bộ quản lý dễ dàng trong quá trình tác nghiệp.
- Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, nâng cao năng lực của các cán bộ chuyên môn nhằm thích nghi với những thay đổi trong tình hình mới. Thường xuyên tổ chức các chương trình tập huấn, tuyên truyền về chính sách, chế độ BHTN qua các phương tiện thông tin đại chúng, trực tiếp xuống các đơn vị sử dụng lao động, tuyên truyền vận động cho sử dụng lao động, người lao động hiểu biết và nhận thức đúng về quyền lợi trách nhiệm trong việc tham gia BHTN.
3.2.3. Giải pháp về quản lý thu bảo hiểm thất nghiệp
Như đã đề cập trong phần hạn chế cũng như từ kết quả điều tra khảo sát đối với người lao động, người sử dụng lao động và cán bộ BHXH, hiện nay, tình trạng trốn đóng, chậm đóng, nợ đọng tiền BHTN vẫn xảy ra phổ biến, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu BHTN và vấn đề cân đối quỹ theo nguyên tắc số đông bù số ít. Chính vì vậy, tăng cường quản lý đối tượng tham gia BHTN là hết sức cần thiết và cấp bách được thể hiện qua hai nội dung chính sau:
a. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp:
Việc tham gia BHTN là bắt buộc đối với các nhóm lao động theo qui định của
luật BHXH ban hành năm 2006 và sửa đổi năm 2015, Luật Việc làm ban hành năm
2014 (Quốc hội, 2006, 2014). Tuy nhiên, như kết quả khảo sát và kết quả triển khai
BHTN thì tỷ lệ đối tượng thuộc diện bắt buộc tham gia BHTN đã tham gia BHTN tính
đến năm 2017 mới đạt trên 60% và mục tiêu đề ra của Chính phủ là đạt 70% năm
134
2017, 100% từ năm 2020 trở đi. Chính vì vậy, việc mở rộng đối tượng tham gia BHTN
là vấn đề quan trọng trong việc thực hiện chính sách BHTN, tăng qui mô đối tượng
tham gia bảo hiểm từ đó tăng nguồn thu cũng như đảm bảo yêu cầu kĩ thuật theo qui
luật số đông của bảo hiểm.
Để thực hiện việc này cần phải kết hợp nhiều nội dung liên quan, như: rà soát
các doanh nghiệp sử dụng lao động thuộc nhóm đối tượng bắt buộc tham gia BHTN,
thông báo và vận động doanh nghiệp tham gia BHTN cho người lao động, thực hiện
các biện pháp thanh tra, kiểm tra thậm chí phạt do vi phạm pháp luật về BHTN. Để
thực hiện việc mở rộng đối tượng tham gia BHTN cần có sự liên thông thông tin về
doanh nghiệp, lao động giữa các cơ quan quản lý với cơ quản BHXH và doanh nghiệp.
Công cụ phục vụ cho việc liên thông số liệu là vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin
đồng bộ mang tính hệ thống.
Dựa trên kết quả phân tích thực tế quản lý quỹ BHTN hiện nay, kết quả khảo
sát từ người sử dụng lao động, người lao động và cán bộ BHXH cũng như các ý kiến
tham khảo từ chuyên gia, việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thu BHTN hiện nay nhằm đảm bảo nguồn thu và phát triển quỹ BHTN là vô cùng cấp
bách và cần thiết. Các giải pháp sẽ tập trung giải quyết các vấn đề tồn tại hiện nay
trong công tác quản lý thu BHTN nói riêng và triển khai BHTN nói chung.
b. Tăng cường quản lý đối tượng đang tham gia BHTN
Đối với các doanh nghiệp đang tham gia BHTN đầy đủ và đúng hạn cho người
lao động, cần nhấn mạnh vào việc thực hiện đúng qui trình thông báo nhắc thu nộp và
kiểm tra rà soát lương của người lao động nhằm đảm bảo thu đúng thu đủ và thu kịp
thời. Bộ phận thu tại các cơ quan BHXH sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp đối với công
việc này.
Theo kết quả khảo sát thực tế, tỉ lệ doanh nghiệp tham gia BHTN cho người lao
động nhưng không đầy đủ chiếm tỉ lệ không đáng kể (dưới 5%). Tuy nhiên, đây cũng
là vấn đề nghiêm trọng do vi phạm pháp luật và dễ dẫn đến tình trạng xảy ra phổ biến.
Đối với nhóm này, cán bộ BHXH cần thực hiện việc rà soát đối chiếu lực lượng lao
động trong doanh nghiệp với những lao động đang tham gia BHTN, đối tượng thuộc
diện tham gia bắt buộc nhưng chưa tham gia và đối tượng không thuộc diện tham gia
BHTN. Để làm được việc này cần có sự đồng bộ và kết nối về thông tin trong quản lý
lao động giữa cơ quan BHXH và doanh nghiệp. Yêu cầu về cập nhật phải được đảm
bảo thường xuyên liên tục.
Đối với nhóm doanh nghiệp tham gia BHTN chậm đóng, nợ đọng BHTN, cơ
135
quan BHXH cần có cơ chế nhắc nhở và biện pháp khuyến cáo theo hạn mức thời gian
và có biện pháp xử lý kịp thời. Hiện tại, doanh nghiệp ngoài mục tiêu lợi nhuận thì
việc xây dựng hình ảnh cũng rất được chú trọng. Vì vậy, cơ quan BHXH cần xây dựng
cơ chế biểu dương cũng như nhắc nhở công khai trên trang web của cơ quan BHXH
nhằm đảm bảo quyền lợi, công bằng và khuyến khích doanh nghiệp thực hiện nghiêm
túc việc tham gia BHTN cho người lao động.
3.2.4. Giải pháp quản lý chặt chẽ các khoản chi bảo hiểm thất nghiệp
Theo phân tích tại Chương 2, để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quản lý
chi BHTN cần tập trung vào một số nội dung sau:
Tăng cường quản lý đối tượng hưởng BHTN thông qua phối hợp với đơn vị sử
dụng lao động và Trung tâm dịch vụ việc làm để xác nhận đối tượng hưởng trợ cấp,
thời điểm thất nghiệp và tính chất thất nghiệp. Điều này liên quan đến việc xác định
thời điểm và thời gian chi trả trợ cấp thất nghiệp, nhu cầu đào tạo, học nghề của người
thất nghiệp. Theo đó, để thực hiện hiệu quả, cần phải ứng dụng công nghệ thông tin
triệt để đối với các quy trình nghiệp vụ và có thể thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: doanh nghiệp thông báo trực tuyến đến cơ quan quản lý lao động thông
tin lao động thất nghiệp liên quan đến thông tin của người lao động như tên tuổi, nghề
nghiệp, giới tính, chuyên môn, thời gian chính thức tốt nghiệp. Để làm được điều này
bản thân doanh nghiệp cần có phần mềm quản lý lao động và kết nối với cơ quan quản
lý lao động. Cơ sở dữ liệu về lao động phải được cập nhật theo các tiêu chí quản lý
thống nhất.
Bước 2: Yêu cầu xác nhận trực tuyến của người lao động kèm các văn bản pháp
lý kèm theo xác nhận tình trạng thất nghiệp và nhu cầu việc làm.
Bước 3: Cơ quan quản lý lao động thẩm định hồ sơ từ phía doanh nghiệp sử
dụng lao động và người lao động. Xác nhận người lao động thất nghiệp đủ điều
kiện/không đủ điều kiện hưởng trợ cấp và các quyền lợi về đào tạo lại và giới thiêu
việc làm.
Bước 4: chuyển thông tin người lao động hưởng trợ cấp sang bộ phận chi trả
(BHXH) và bắt đầu chi trả.
Bước 5: giám sát việc hưởng trợ cấp và trở lại làm việc của người lao động;
chấm dứt trợ cấp khi người lao động thất nghiệp có việc làm trước khi hết thời gian
hưởng trợ cấp hoặc tiến hành đào tạo lại và/hoặc giới thiệu việc làm cho người lao
động thất nghiệp.
136
3.2.5. Giải pháp đảm bảo cân đối thu - chi quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Đảm bảo cân đối thu - chi quỹ BHTN là vấn đề rất quan trọng trong tương lai gần cũng như dài hạn. Thực tế hiện nay quỹ BHTN đang có kết dư lớn nên đã xuất hiện những quan điểm và những ý kiến cho rằng, cần giảm mức đóng góp BHTN cho người sử dụng lao động do quỹ BHTN kết dư lớn và vẫn đảm bảo chi trả các chế độ BHTN cho người lao động đến năm 2020 (Thắng, 2017b). Theo quan điểm tác giả, trước mắt chưa thực hiện giảm mức đóng BHTN cho người sử dụng lao động bởi lẽ:
Năm 2009 là năm bắt đầu thực hiện thu BHTN nhưng đến năm 2010 quỹ BHTN mới bắt đầu thực hiện chi trả chế độ cho người lao động. Và theo tính toán của cơ quan tham mưu, dự báo đến năm 2020 quỹ BHTN vẫn đảm bảo chi trả các chế độ BHTN cho người lao động là thời gian chưa đủ lớn để thực hiện giải pháp này. Hơn nữa, hiện nay quỹ BHTN đang chỉ hướng đến việc chi trả trợ cấp thất nghiệp (theo phân tích tại Chương 2) với số tiền tuyệt đối lớn hơn rất nhiều lần so với các chế độ khác. Do vậy, quỹ BHTN chưa thực sự sử dụng hiệu quả đối với các chế độ trong chương trình BHTN nên cần có thêm những nghiên cứu, tính toán để đảm bảo tính bền vững cho quỹ BHTN. Mặt khác, thị trường lao động luôn biến động, cung và cầu về lao động thường không đáp ứng phù hợp. Hơn nữa, trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra bất cứ lúc nào dẫn đến tình trạng thất nghiệp diễn ra phổ biến và gia tăng nên quỹ BHTN nếu không có sự dự trữ đủ lớn sẽ có nguy cơ thâm hụt. Đặc biệt, với xu thế tự động hoá trên toàn thế giới đang diễn ra rất nhanh cùng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì máy móc, công nghệ hiện đại sẽ dần thay thế con người. Ngoài ra, ở một bộ phận người lao động, nhất là những lao động giản đơn không đủ trình độ và nhận thức để nắm bắt công nghệ thay đổi nên họ dễ bị chủ sử dụng lao động tìm cách sa thải ở độ tuổi từ 35 hoặc 40 tuổi trở lên. Những người này nếu tiếp tục ở lại làm việc, dứt khoát phải được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ,... Thực tế này đã diễn ra khá phổ biến ở nhiều nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... Còn ở Việt Nam hiện nay cũng đã xuất hiện hiện tượng này. Chính vì vậy, ở Hàn Quốc trong đạo luật Việc làm, Điều 84 đã quy định: Bộ trưởng Bộ Việc làm và Lao động dành ra một quỹ dự phòng để đối phó với tình trạng sa thải hàng loạt hoặc các hình thức khác để đảm bảo việc làm. Mức tối ưu của quỹ dự phòng được quy định như sau: (i) Mức dự trữ cuối năm của các Dự án đảm bảo việc làm và đào tạo phát triển kỹ năng nghề: bằng hoặc cao hơn mức kinh phí trong năm hoặc nhưng không vượt quá 1,5 lần mức kinh phí đó; (ii) Mức dự trữ cuối năm của trợ cấp thất nghiệp: bằng 1,5 lần hoặc cao hơn mức kinh phí trong năm nhưng không vượt quá 2 lần mức kinh phí đó.
137
Phải chăng, Quỹ BHTN ở Việt Nam hiện nay đang có kết dư lớn cũng nên áp dụng kinh nghiệm của Hàn Quốc. Vấn đề là ở chỗ cần phải quy định cụ thể, rõ ràng trong Luật đối với trường hợp quỹ BHTN kết dư lớn phải áp dụng vào những mục đích, chương trình nào? Theo tác giả, phần quỹ dự phòng trong BHTN nên sử dụng vào các chương trình như: Hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho người lao động với các điều kiện được quy định rõ ràng, cụ thể, phù hợp với thực tiễn để các doanh nghiệp tiếp cận được với chính sách; Hỗ trợ phát triển kỹ năng nghề; Hỗ trợ các gia đình người lao động khó khăn, đông con; Hỗ trợ mức đóng BHTN;... Qua đó, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, hạn chế tình trạng sa thải lao động, cũng như quỹ BHTN cũng sẽ hạn chế chi trả các chế độ thất nghiệp nếu như doanh nghiệp sa thải lao động,... Nếu làm được như vậy, quỹ sẽ được sử dụng không chỉ đúng mục đích mà còn rất hiệu quả.
3.2.6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Nhằm tăng cường công tác quản lý đối tượng tham gia, thụ hưởng, nâng cao hiệu quả quản lý thu BHTN, quản lý chi BHTN thì công tác tổ chức và đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực trong tổ chức thực hiện là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trong kết quả khảo sát từ phía người sử dụng lao động và các cán bộ BHXH cũng như trong các đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực, vẫn tồn tại sự chênh lệch về chất lượng nhân lực giữa các vùng, khu vực, giữa các đơn vị trung ương và địa phương. Do vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần phân ra thành các nhiệm vụ cụ thể:
Nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ lãnh đạo cấp cao và cấp trung. Đây là lực lượng đảm bảo tầm nhìn của cơ quan quản lý, đảm bảo sự vận hành của cơ quan BHXH trong việc triển khai thực hiện chính sách BHTN nói chung và công tác quản lý quỹ BHTN nói riêng. Các kiến thức cần được nâng cao liên quan đến kỹ năng quản lý điều hành, kĩ năng quản lý phản ứng với sự thay đổi, tầm nhìn và yếu tố thúc đẩy lao động. Việc đào toàn hoàn toàn có thể đa dạng dưới nhiều hình thức: đào tạo từ thực tế, đào tạo theo các khoá học chuyên sâu, đào tạo trong và ngoài nước.
Đào tạo kỹ năng chuyên môn cho cán bộ cơ quan BHXH và cơ quan quản lý lao động. Các kỹ năng này cần tập trung vào các yếu tố kỹ thuật và chuyên môn liên quan trực tiếp đến công việc của từng chức năng quản lý thu hoặc chi BHTN, kỹ năng xử lý tính huống, kỹ năng phản ứng với sự thay đổi, tổng hợp và tư vấn kịp thời, đáp ứng mọi nhu cầu cho người lao động. Các khoá học có thể thiết kế từ cơ bản đến nâng cao và tăng dần yêu cầu kĩ năng quản lý.
138
Xây dựng bộ giáo trình đào tạo riêng, thống nhất từ Trung ương đến địa phương với những nội dung về chính sách bảo hiểm thất nghiệp, nghiệp vụ thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, kỹ năng tư vấn giới thiệu việc làm, kỹ năng đào tạo nghề và các kỹ năng mềm đối với người lao động để làm tài liệu đào tạo, tập huấn cho các cán bộ cơ quan BHXH và cơ quan quản lý lao động.
Tổ chức các cuộc tham quan học tập kinh nghiệm trao đổi chuyên môn nghiệp vụ, công tác tuyên truyền về chính sách bảo hiểm thất nghiệp hoặc các cuộc đối thoại trực tiếp với doanh nghiệp và người lao động, nhân rộng các mô hình hay, có hiệu quả trên toàn quốc.
3.2.7. Xây dựng và ứng dụng công nghệ thông tin đồng bộ trong quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Như đã phân tích, đánh giá ở Chương 2, việc xây dựng và ứng dụng công nghệ thông tin đồng bộ trong quản lý quỹ BHTN là hết sức cần thiết và cấp bách. Nhất là trong quản lý thu, chi trả chế độ BHTN với cơ sở tập trung, liên thông toàn quốc của người tham gia thông qua một mã số duy nhất. Có làm được như vậy mới công khai minh bạch việc quản lý quỹ BHTN qua niêm yết quá trình tham gia, mức đóng BHTN của người lao động. Phát hiện các trường hợp đóng trùng, các trường hợp đang hưởng BHTN nhưng lại đi làm mà không cắt hưởng,...
Đặc biệt là kết nối liên thông cơ sở dữ liệu giữa cơ quan BHXH và cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội trong giải quyết chế độ BHTN cho người lao động. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý phải đảm bảo một số các yêu cầu chủ yếu như:
- Thiết lập và duy trì cơ sở dữ liệu về lao động và việc làm trong cả nước: cơ quan BHXH và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cần ban hành các biểu mẫu thống nhất phục vụ công tác thống kê cung cấp thông tin để tạo lập và quản lý cơ sở dữ liệu về người lao động.
- Cơ sở dữ liệu phải luôn đồng bộ thông suốt giữa cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan BHXH và doanh nghiệp sử dụng lao động. Thông tin phải được cập nhật liên tục và mang tính toàn diện nhằm đảm bảo hiệu quả quản lý trên phạm vi cả nước chứ không mang tính cục bộ. Đồng thời, công cụ phần mềm phải đảm bảo kết nối và cập nhật liên tục giữa đối tượng tham gia BHTN, căn cứ đóng của từng đối tượng, mức đóng, thời gian và thời điểm đóng, mức hưởng và thời gian hưởng, số lần hưởng. Hay nói cách khác phần mềm phải đảm quản lý được tất cả các danh mục liên quan và cập nhật tự động mang tính hệ thống.
139
Để thực hiện được giải pháp này cần sự phối kết hợp đồng bộ giữa các bộ ngành có liên quan với các đơn vị thực hiện triển khai và đơn vị sử dụng lao động và phải được triển khai đồng thời trên phạm vi cả nước. Trong đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm chính liên quan đến hướng dẫn triển khai thực hiện và kết nối các đơn vị. Các ngành tài chính, Thanh tra, Kế hoạch và đầu tư liên quan đến việc cung cấp dữ liệu đầu vào và kiểm tra giám sát. Cơ quan BHXH, Cục Quản lý lao động và Việc làm, các doanh nghiệp sử dụng lao động chịu trách nhiệm triển khai thực hiện.
Ngoài ra việc xây dựng và ứng dụng công nghệ còn đỏì sự đồng bộ trong tất cả các khâu: hệ thống máy tính, phần mềm và nhân lực thực hiện trực tiếp. Thực hiện được giải pháp này là khâu then chốt đảm bảo hiệu quả của hầu hết các giải pháp đề xuất về quản lý đối tượng và quản lý thu chi BHTN cũng như phát hiện kịp thời các sai phạm, trục lợi về bảo hiểm thất nghiệp để có biện pháp ngăn chặn, xử lý.
Quy định thời gian cung cấp thông tin cụ thể. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong chia sẻ thông tin là hoàn toàn có thể nếu có sự đồng bộ về công nghệ. Trong trường hợp này các bên cần phải đảm bảo cập nhật thông tin và kết nối thông suốt.
Cơ sở dữ liệu quản lý phải tuân thủ đúng các nguyên tắc, quy định về bảo mật, kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia hướng tới Chính phủ điện tử và chia sẻ với các Bộ, ngành có liên quan.
3.2.8. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Một trong những hạn chế của việc triển khai BHTN là hiểu biết của người tham gia BHTN còn rất hạn chế, nguyên nhân chỉ ra trong kết quả phân tích tại chương hai liên quan đến công tác tuyên truyền chưa được chú trọng cả ở tầm vĩ mô và vi mô, doanh nghiệp sử dụng lao động và người lao động tiếp nhận thông tin về BHTN nói chung, nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi mang tính thu động (kết quả khảo sát từ phía doanh nghiệp và người lao động tham gia BHTN cho thấy hầu hết thông tin họ nhận được là quan internet). Vì vậy việc tăng cường tuyên truyền về BHTN, đóng phí BHTN và quyền lợi BHTN là vô cùng cần thiết, làm tốt công tác này sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý thu, chi BHTN.
Công tác thông tin, truyền thông về bảo hiểm thất nghiệp cần phải được thực hiện một cách bài bản và chuyên nghiệp và đồng bộ: thông tin tuyên truyền về bảo hiểm thất nghiệp với nhiều hình thức phong phú và phù hợp cho từng đối tượng là người sử dụng lao động và người lao động, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm và thường xuyên tổ chức các cuộc tuyên truyền - đối thoại trực
140
tiếp với doanh nghiệp và người lao động.
Trách nhiệm lập và triển khai kế hoạch tuyên truyền phải do cơ quan quản lý nhà nước đảm nhận để đảm bảo tính đồng bộ thống nhất, việc thực hiện có thể kết hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan BHXH các cấp thực hiện.
3.2.9. Xây dựng cơ chế thưởng phạt nghiêm minh
Hiện tại Việt Nam đã có các qui định pháp lý liên quan đến việc xử phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp. Cụ thể việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp được quy định tại Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 của Chính phủ sủa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP nêu trên; đặc biệt Bộ luật Hình sự đã hình sự hóa tội gian lận bảo hiểm thất nghiệp và tội trốn đống bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động, ví dụ: tội gian lận bảo hiểm thất nghiệp có thể bị phạt tù từ 03 tháng– 10 năm đối với một số hành vi theo quy định tại Điều 214 Bộ luật Hình sự; tội trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động có thể bị phạt tù từ 03 tháng– 07 năm đối với một số hành vi theo quy định tại Điều 216 Bộ luật Hình sự, tuy nhiên hầu hết mới dừng lại ở mức qui định. Rõ ràng tình trạng nợ đọng, chậm đóng phí, trốn đóng phí hay trục lợi bảo hiểm vẫn còn phổ biến (kết quả phân tích tại chương 2), các trường hợp xử lý, khởi kiện doanh nghiệp chậm đóng BHTN vẫn còn rất hi hữu.
Do vậy, cần có chế tài xử lý đủ mạnh, đủ sức răn đe để xử phạt đối với đơn vị, tổ chức vi phạm. Đồng thời, thành lập bộ phận chuyên trách theo dõi và xử lý thủ tục khởi kiện đơn vị vi phạm. Bộ phận này sẽ chuyên trách hồ sơ khởi kiện thu đòi phí cũng như khởi kiện đối tượng trục lợi. Cần qui định thời gian hoàn thành hồ sơ khởi kiện và thời gian gửi hồ sơ khởi kiện.
Bên cạnh việc khởi kiện các đơn vị và đối tượng vi phạm, cũng cần có hình thức tuyên dương công khai các đơn vị thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ BHTN nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng hình ảnh doanh nghiệp.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra: tổ chức thanh tra pháp luật lao động trong đó có lồng ghép nội dung về bảo hiểm thất nghiệp hoặc thanh tra chuyên đề thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp nhằm phát hiện những vướng mắc, những vi phạm hay trục lợi bảo hiểm thất nghiệp kịp thời xử lý và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động khi tham gia và thụ hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
141
- Thực hiện thanh tra chuyên ngành việc đóng BHXH, BHYT, BHTN trong đó tập trung thanh tra các đơn vị, doanh nghiệp đang cố tình trốn đóng, nợ đóng bảo hiểm xã hội, chưa tham gia đầy đủ cho số lao động thuộc diện phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Đối với Quốc hội và Chính phủ
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về BHTN đã ban hành cơ bản phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn tại Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện chính sách nhằm phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới, cụ thể: Quỹ BHTN hiện nay cơ bản đáp ứng việc hỗ trợ một phần thu nhập cho người thất nghiệp chưa sử dụng hiệu quả đối với các chính sách chủ động nhằm hạn chế tình trạng sa thải lao động hay hỗ trợ mức đóng,… dẫn đến quỹ BHTN kết dư tăng qua các năm. Do vậy, chính sách BHTN cần phải được sửa đổi, phù hợp với thực tiễn trong thực hiện các chế độ về việc làm. Có như vậy, quỹ BHTN mới được sử dụng một cách hiệu quả trong trung hạn và dài hạn. Đồng thời, nghiên cứu sửa đổi tên gọi bảo hiểm thất nghiệp thành bảo hiểm việc làm trong Luật Việc làm, Luật BHXH,… cho phù hợp với các đề xuất về chính sách thị trường lao động chủ động và phù hợp với kinh nghiệm tổ chức triển khai bảo hiểm việc làm ở một số quốc gia trên thế giới như: Hàn Quốc, Nhật Bản,…
Để giải quyết những vấn đề đó, trong thời gian tới Quốc hội và Chính phủ tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các Bộ, ban, ngành cần tập trung nghiên cứu sửa đổi một số vấn đề về chính sách pháp luật sau:
a. Đối với Luật Việc làm:
- Tiếp tục mở rộng đối tượng tham gia BHTN bắt buộc đối với người lao động có hợp đồng làm việc từ 01 tháng trở lên, đồng nhất với Luật BHXH năm 2014 và mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHTN từ 01/01/2018 với mức tiền lương tối đa tháng đóng BHTN để thuận tiện trong quá trình tổ chức thực hiện.
- Siết chặt điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp nhằm hạn chế tình trạng người lao động lạm dụng: chủ động nghỉ việc, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc để hưởng TCTN.
- Nới lỏng điều kiện hưởng chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động tại Điều 47 Luật Việc làm theo hướng hỗ trợ kinh phí để đơn vị tổ chức đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề đối với người
142
lao động có nguy cơ mất việc làm do không đáp ứng được yêu cầu công việc hoặc lao động mới tuyển dụng để đáp ứng yêu cầu công việc và có cam kết ký hợp đồng lao động, giữ lại một phần tiền công, tiền lương trong khoảng thời gian nhất định. Đồng thời, bỏ điều kiện “không đủ kinh phí để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động” cho phù hợp với tình hình thực tế, tăng đối tượng thụ hưởng chế độ, giúp người lao động khỏi nguy cơ bị mất việc làm, góp phần ổn định thị trường lao động;
b. Đối với các văn bản quy phạm dưới Luật:
- Bổ sung quy định không được bảo lưu thời gian đóng BHTN tương ứng với số tiền TCTN bị thu hồi do hưởng sai đối với các trường hợp vi phạm về việc khai báo thông tin trong quá trình hưởng TCTN tại Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 28/2015/NĐ- CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ nhằm răn đe và hạn chế tối đa tình trạng vi phạm.
- Nâng mức hỗ trợ học nghề theo hướng nâng mức hỗ trợ học phí của khóa học nghề và bổ sung hỗ trợ tiền ăn ở, tiền đi lại trong quá trình người lao động tham gia học nghề.
- Bổ sung hình thức hỗ trợ học nghề, đào tạo, nâng cao trình độ kỹ năng nghề theo cả khóa học hoặc hỗ trợ 1 phần khóa học hoặc để người lao động tự liên hệ học nghề,...
- Xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tuyển và sử dụng lao động độ tuổi trên 45 tuổi, lao động nữ, lao động là người tàn tật,...; hỗ trợ người lao động trong thời gian ngừng việc (có thể thông qua việc hỗ trợ một phần tiền lương, hỗ trợ tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN) .
- Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tổ chức đào tạo nghề cho người lao động tại doanh nghiệp để duy trì việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp do ảnh hưởng bởi Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
- Hỗ trợ về phúc lợi xã hội đối với doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động, sử
dụng nhiều lao động nữ,...
- Nghiên cứu xác định mức phí BHTN phù hợp dựa trên nhiều yếu tố nhằm đảm bảo cân đối giữa thu - chi để có sự điều chỉnh kịp thời đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp tham gia bảo hiểm cũng như người lao động trong dài hạn. Trong tương lai, sau khi tính toán, nghiên cứu, có thể điều chỉnh giảm tỷ lệ tham gia BHTN cho đơn vị sử dụng lao động xuống còn 0,5% (hiện tại đang là 1%) trong khoảng thời gian nhất định, một phần giảm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả kinh doanh,
143
người lao động có nhiều cơ hội làm việc, hạn chế tình trạng sa thải, một phần quỹ BHTN kết dư lớn được sử dụng để hỗ trợ mức đóng là phù hợp với chính sách chủ động của chương trình BHTN.
- Xác định thời gian hưởng, mức hưởng phù hợp với tình hình của từng giai đoạn của nền kinh tế, thích ứng với sự thay đổi của kinh tế vĩ mô và biến đổi của thị trường lao động. Có thể bổ sung mức hưởng đối với lao động hết tuổi lao động hoặc đủ điều kiện về hưu để trích trả một phần đóng góp của người lao động vào quỹ BHTN với mức trích trả từ 10% đến 20% lương bình quân. Với thay đổi này sẽ không còn xảy ra những trường hợp người lao động phải lách luật để hưởng TCTN khi họ đã đủ điều kiện hưởng hưu trí.
- Ban hành định hướng cơ cấu tổ chức sắp xếp lại các đơn vị quản lý lao động, việc làm, các trung tâm/trường đào tạo nghề để đảm bảo hiệu quả thực hiện chính sách BHTN tốt nhất.
c. Về cơ cấu, tổ chức:
Giao cơ quan tổ chức thực hiện thu, giải quyết và chi trả các chế độ BHTN để đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian giải quyết và chi trả các chế độ BHTN, giảm chi phí xã hội, thuận tiện cho người lao động trong quá trình thụ hưởng, kiểm soát tốt hơn tình trạng trục lợi quỹ BHTN.
3.3.2. Đối với cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội
Khảo sát, đánh giá lại tình hình thực hiện chính sách lao động, bảo hiểm thất nghiệp, công tác quản lý lao động, công tác dạy nghề, tư vấn giới thiệu việc làm cho người lao động bị thất nghiệp trở lại thị trường lao động (cả về mặt chính sách cũng như hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện chính sách của bộ máy Trung tâm dạy nghề, hệ thống tư vấn giới thiệu việc làm cho người lao động bị thất nghiệp hiện nay). Từ đó, đề xuất sửa đổi bổ sung chính sách về hỗ trợ học nghề, tư vấn giới thiệu việc làm cho người lao động. Đổi mới, nâng cao chất lượng của các trung tâm dạy nghề, tư vấn giới thiệu việc làm; gắn công tác dạy nghề, tư vấn giới thiệu việc làm với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, thị trường lao động.
Sớm có giải pháp khắc phục các bất cập hiện nay trong thực hiện chính sách BHTN do hai cơ quan thực hiện được phản ánh thông qua các cuộc giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán thực hiện chính sách BHTN do nhằm giảm bớt chi phí xã hội, tạo thuận lợi cho người lao động đồng thời quản lý chặt chẽ chống lạm dụng quỹ BHTN. Hạn chế tối đa những tác động làm biến động thị trường lao động, biến động lao động trong doanh nghiệp gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh;
144
Tiếp tục chỉ đạo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố tăng cường phối hợp với BHXH tỉnh trong việc thực hiện chính sách BHTN; công tác thanh tra, kiểm tra và chia sẻ thông tin, dữ liệu về BHTN,… Có biện pháp quản lý lao động tại các doanh nghiệp để nắm bắt thông tin về biến động lao động hàng tháng từ đó có cơ sở xác minh thông tin về tình trạng việc làm của người lao động nộp hồ sơ và hưởng TCTN hàng tháng.
Tổ chức tiếp nhận và giải quyết hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo phương châm 3 đúng “đúng đối tượng, đúng chế độ và đúng thời hạn”; tăng cường các giải pháp tích cực để nâng cao công tác tư vấn, giới thiệu việc làm và hỗ trợ học nghề cho người thất nghiệp ngay từ khi người lao động chưa nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Thúc đẩy công tác thông tin thị trường lao động, chú trọng khai thác vị trí việc làm trống để hỗ trợ cho người thất nghiệp đặc biệt đẩy mạnh hoạt động của Sàn giao dịch việc làm, đồng thời có các biện pháp để hạn chế việc sa thải lao động của các doanh nghiệp.
Tổ chức cuộc khảo sát, điều tra về nhu cầu học nghề của người thất nghiệp nhằm đưa ra các giải pháp để tăng cường công tác hỗ trợ học nghề; Rà soát các đơn vị thực hiện tốt công tác tư vấn giới thiệu việc làm và dạy nghề, tổ chức khảo sát nghiên cứu mô hình để nhân rộng trên toàn quốc.
Xây dựng bộ danh mục thủ tục hành chính về bảo hiểm thất nghiệp nhằm cải cách thủ tục hành chính bằng cách đẩy mạnh giao dịch điện tử trong lĩnh vực bảo hiểm thất nghiệp.
Hoàn thiện hơn nữa bộ chỉ số đánh giá về tình hình thực hiện bảo hiểm thất nghiệp với các tiêu chí về thực hiện tốt/không thực hiện tốt, các kiến nghị đặc biệt là chỉ tiêu về Bảng hỏi về mức độ hài lòng của người hưởng bảo hiểm thất nghiệp với các mức độ hài lòng khác nhau các để đưa ra các dự báo và có các điều chỉnh chính sách để phù hợp hơn với điều kiện thực tế từng thời điểm.
Nâng cao chất lượng các khóa đào tạo nghề, đào tạo lại cho người thất nghiệp và đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo phù hợp với thực tiễn và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của người thất nghiệp được đào tạo để họ sớm quay trở lại thị trường lao động.
Từng bước tiến tới thành lập một hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương để thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, cách thức tổ chức này tạo sự chủ động, linh hoạt và thuận lợi trong quá trình hoạt động, qua đó sẽ tạo điều kiện cho công tác tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp cũng như công tác kiểm soát các
145
trường hợp vi phạm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp. Chi phí cho việc thực hiện các chế độ bảo hiểm thất nghiệp phải lấy từ nguồn quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Nghiên cứu, đề xuất mở rộng đối tượng tham gia BHTN theo hướng tất cả người lao động có quan hệ lao động đều thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Mặt khác, xem xét để người lao động người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, lao động trong khu vực phi chính thức cũng được tham gia bảo hiểm thất nghiệp dưới hình thức tự nguyện. Đồng thời, bổ sung các chế độ BHTN, cụ thể:
- Có phương án sửa đổi, bổ sung các quy định để nâng cao số người được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng tư vấn, giới thiệu việc làm; nâng cao số lượng người được hỗ trợ học nghề;
- Bổ sung các chính sách đối với doanh nghiệp, người lao động trong một giai đoạn nhất định để hỗ trợ tốt hơn nữa trong việc duy trì việc làm cho người lao động, phòng tránh thất nghiệp cũng như hỗ trợ giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp: Xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tuyển và sử dụng lao động độ tuổi trên 35 tuổi, lao động nữ, lao động là người tàn tật,...; hỗ trợ người lao động trong thời gian ngừng việc (có thể thông qua việc hỗ trợ một phần tiền lương, hỗ trợ tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN); Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tổ chức đào tạo nghề cho người lao động tại doanh nghiệp để duy trì việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp do ảnh hưởng bởi Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; Hỗ trợ về phúc lợi xã hội đối với doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động, sử dụng nhiều lao động nữ,...
- Xây dựng quy trình quản lý lực lượng lao động, đối tượng thất nghiệp và ứng dọng công nghệ thông tin trong quản lý. Đồng thời, nhanh chóng xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung, chia sẻ, kết nối liên thông với các Bộ, ngành có liên quan, đặc biệt là với cơ quan BHXH để quản lý xuyên suốt đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN và tái hoà nhập thị trường lao động.
- Thay đổi hình thức chuyển các quyết định bằng danh sách người hưởng các chế độ BHTN (dữ liệu kèm theo) sang cơ quan BHXH theo đợt cho phù hợp với quy định của Nghị định số 166/2016/NĐ-CP ngày 24/12/2016 của Chính phủ quy định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH, bảo hiểm y tế, BHTN và thuận lợi cho quản lý, tổ chức thực hiện.
3.3.3. Đối với các Bộ, ngành có liên quan
- Đối với ngành Tài chính: tập trung hướng dẫn cụ thể về nội dung chi, mức
146
chi, phương thức chi cho các hoạt động bảo hiểm thất nghiệp, đặc biệt là hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm tại trung tâm dịch vụ việc làm từ nguồn kinh phí chi quản lý bảo hiểm thất nghiệp (chi trả cho cán bộ, chi cho đầu tư cơ sở vật chất, chi cho xây dựng cơ sở dữ liệu về việc làm, thông tin thị trường lao động, khai thác vị trí việc làm trống...) để tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp.
- Đối với ngành Kế hoạch và Đầu tư: tiếp tục trao đổi thông tin, nắm tình hình biến động các đơn vị trên địa bàn, tình hình hoạt động của doanh nghiệp để có các hỗ trợ kịp thời từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp cũng như kiểm soát tình hình đóng bảo hiểm thất nghiệp của đơn vị.
- Đối với ngành Nội vụ: tập trung công tác hướng dẫn, rà soát đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp đối với cơ quan sự nghiệp nhà nước trên địa bàn, hướng dẫn về vị trí việc làm đối với cán bộ thực hiện bảo hiểm thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm.
- Đối với tổ chức Công đoàn, tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động: tập trung nắm tâm tư, nguyện vọng của người lao động, người sử dụng lao động để có các điều chỉnh về mặt chính sách, quy trình thực hiện, công tác tuyên truyền phù hợp đảm bảo quyền lợi cho người lao động, người sử dụng lao động và hạn chế khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm thất nghiệp.
- Đối với Ban Quản lý các Khu công nghiệp, Khu chế xuất: phối hợp kiểm tra việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp và phối hợp tuyên truyền pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp cho người làm công tác bảo hiểm thất nghiệp trong các đơn vị hoạt động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở địa phương.
3.3.4. Đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Tiếp tục tổ chức thực hiện thu, chi và quản lý quỹ BHTN hiệu quả, kịp thời, chính xác và đúng pháp luật. Đặc biệt, quỹ BHTN phải được quản lý công khai, minh bạch và có sự giám sát của đối tượng tham gia, thụ hưởng chính sách.
Quy trình, thủ tục, hồ sơ tham gia, hưởng chế độ BHTN phải được nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện vả coi đây là nhiệm vụ thường xuyên khi chính sách có sự thay đổi, phù hợp với tình hình thực tế. Cải cách thủ tục hành chính mạnh mẽ, cắt giảm những thủ tục, mẫu biểu, tiêu thức không cần thiết, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp khi tham gia, thụ hưởng chính sách cũng như giảm tối đa thời gian giao dịch với cơ quan BHXH. Đặc biệt, đẩy mạnh hình thức giao dịch điện tử, hướng tới 100% các tổ chức, cá nhân giao dịch với cơ quan BHXH để
147
giải quyết thủ tục, chính sách BHTN bằng hình thức giao dịch điện tử.
Cán bộ BHXH phải là người trực tiếp nắm rõ đặc điểm, tính chất, hình thức hoạt động của từng loại hình đơn vị để đưa ra hình thức quản lý phù hợp đặc biệt là đối tượng tham gia, quỹ tiền lương của đơn vị. Do vậy, cơ quan BHXH phải phối hợp tốt với các Bộ, ngành liên quan như: Cơ quan cấp giấy phép hoạt động cho doanh nghiệp, cơ quan thuế, cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan lao động, giám sát sự biến động và quá trình tham gia BHTN của doanh nghiệp và người lao động của đơn vị đó. Đồng thời, phối hợp với cơ quan lao động khảo sát tình hình thực hiện chính sách lao động, xây dựng hình thức trao đổi thông tin để đảm bảo nắm chắc nguồn thu và tình hình thực thi pháp luật về BHTN trong các đơn vị.
Thực hiện quản lý đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN bằng công nghệ thông tin. Trên cơ sở đó, công khai minh bạch quá trình đóng, hưởng BHTN của người tham gia để cùng với cơ quan BHXH giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật giữa đơn vị sử dụng lao động, người lao động và cả cơ quan BHXH.
Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện cơ sở dữ liệu để quản lý đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ BHTN để có các dự báo chính xác và có biện pháp để ứng phó trong điều kiện biến động lao động bất thường xảy ra tại các đơn vị nhằm đảm bảo chính sách BHTN được thực hiện một cách chủ động. Đồng thời, xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung giữa cơ quan BHXH và Trung tâm Dịch vụ việc làm liên thông với cơ sở dữ liệu quản lý thu BHTN, chi trả chế độ BHTN để có thể kiểm soát kịp thời về thời gian và mức đống, hưởng của người thất nghiệp. Trường hợp đã đồng ý giải quyết hưởng cho người la động thì chỉ cần đánh dấu đã hưởng TCTN vào cơ sở dữ liệu. Điều này sẽ giúp rút ngắn thời gian giải quyết hưởng và đảm bảo sự thống nhất cơ sở dữ liệu giữa hai bên.
Có thể sử dụng mô hình RAP để dự báo quỹ BHTN. Đây là một trong những mô hình tài chính sử dụng dễ dàng để tính toán chi phí sử dụng các chương trình của Nhà nước. Trong mô hình này có ba phần, bao gồm: Dữ liệu đầu vào, chi phí lợi ích và tổng chi phí. Thu thập dữ liệu là việc hết sức quan trọng và mất nhiều thời gian, ảnh hưởng trực tiếp đến độ chính xác trong dự báo tài chính quỹ.
Công khai minh bạch quá trình tham gia, đóng, hưởng chế độ BHTN của người lao động, người sử dụng lao động để đối tượng tham gia BHTN có thể giám sát việc đóng, hưởng cũng như quản lý quỹ BHTN của cơ quan BHXH bằng việc ứng dụng công nghệ thông tin mạnh mẽ, tạo lập cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm để khai thác và sử dụng một cách hiệu quả nhất.
148
Ngoài ra, công tác thông tin, tuyên truyền về BHTN cần tiếp tục quan tâm thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng về nội dung, đáp ứng đến các tầng lớp lao thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm và thường xuyên tổ chức các cuộc tuyên truyền - đối thoại trực tiếp với doanh nghiệp và người lao động.
3.3.5. Đối với người sử dụng lao động
Thực hiện đúng các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về BHTN nói riêng đặc biệt là các nội dung của HĐLĐ khi ký với người lao động; đóng BHTN đúng và đủ theo quy định; bảo quản hồ sơ tham gia BHTN của người lao động theo quy định.
Thực hiện các thủ tục đối với người lao động khi bị tạm hoãn thực hiện HĐLĐ; chấm dứt HĐLĐ/ HĐLV (xác nhận về thời hạn tạm hoãn thực hiện HĐLĐ, xác nhận về chấm dứt HĐLĐ/ HĐLV; chốt sổ BHXH; chi trả trợ cấp thôi việc/ trợ cấp mất việc làm theo đúng quy định).
Tích cực tìm hiểu chính sách pháp luật về BHTN, đặc biệt về quyền và trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc tham gia BHTN, việc xử lý vi phạm về bảo hiểm thất nghiệp để có nhận thức đúng đắn khi tham gia và hưởng BHTN.
Phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan đặc biệt là tổ chức công đoàn để tuyên truyền chính sách BHTN dưới nhiều hình thức để nâng cao nhận thức cho người lao động trong việc tham gia BHTN.
Thực hiện khai báo kịp thời cho cơ quan BHXH, Trung tâm Dịch vụ việc làm, cơ quan quản lý lao động và các cơ quan có liên quan theo đúng thủ tục, hồ sơ, quy trình quy định.
Tích cực phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan trong việc tổ chức triển khai việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động.
Có biện pháp thu hút lao động cũng như bảo vệ vị trí việc làm cho người lao động như đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, mở rộng mô hình hoạt động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Cùng với người lao động giám sát cơ quan BHXH, cơ quan quản lý lao động và các cơ quan có liên quan về BHTN trong việc thực hiện chính sách pháp luật và quản lý quỹ BHTN theo đúng nghĩa vụ, quyền hạn của mình.
3.3.6. Đối với người lao động
149
Tích cực trau dồi kiến thức chuyên môn, trình độ tay nghề để đảm bảo phù hợp với yêu cầu của người sử dụng lao động, sự phát triển của xã hội nói chung và sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Thực hiện đúng các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về BHTN
nói riêng để tránh việc bị xử phạt vi phạmpháp luật về BHTN.
Khi ký HĐLĐ/ HĐLV, người lao động cần xem xét kỹ các nội dung trong hợp đồng đặc biệt là nội dung về thời hạn hợp đồng lao động, mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH, BHYT, BHTN và các điều khoản có liên quan khi bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động.
Trong quá trình làm việc, người lao động có thể yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp HĐLĐ/ HĐLV kịp thời để nhanh chóng tham gia BHTN; yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp thông tin về việc đóng BHTN khi có nhu cầu; tích cực trong việc tìm hiểu các chính sách nói chung và chính sách BHTN nói riêng đặc biệt là quyền và nghĩa vụ của người lao động trong việc tham gia BHTN để có nhận thức đúng đắn về việc tham gia và hưởng BHTN.
Khi nghỉ việc, người lao động yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp giấy tờ về việc chấm dứt HĐLĐ/ HĐLV (trong đó chú ý về thời hạn chấm dứt HĐLĐ/ HĐLV); yêu cầu người sử dụng lao động xác nhận sổ BHXH để nhanh chóng hoàn thiện thủ tục hưởng các chế độ BHTN.
Trong quá trình hưởng các chế độ BHTN, người lao động cần bảo quản và sử dụng sổ BHXH, thẻ BHYT theo quy định; tích cực tìm kiếm việc làm và chủ động thông báo về tình trạng có việc làm theo quy định trong quá trình hưởng BHTN; tích cực tham gia các khóa học nghề để nâng cao trình độ kỹ năng nghề hoặc chuyển đổi nghề nghiệp để nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động.
Cùng với người sử dụng lao động giám sát cơ quan BHXH, cơ quan quản lý lao động và các cơ quan có liên quan về BHTN trong việc thực hiện chính sách pháp luật và quản lý quỹ BHTN theo đúng nghĩa vụ, quyền hạn của mình.
150
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trên cơ sở quan điểm và định hướng về BHTN và công tác quản lý quỹ BHTN, kết hợp với các hạn chế và nguyên nhân đã được chỉ ra tại chương hai cũng như cơ sở lý luận và kinh nghiệm tại các nước về triển khai và quản lý quỹ BHTN, chương ba đã đưa ra các quan điểm, định hướng quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam và đề xuất các quản lý quỹ BHTN chặt chẽ, hiệu quả và đúng pháp luật, tập trung vào các nhóm sau: (1) Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy quản lý; (2) Nhóm giải pháp về quản lý thu BHTN; (3) Nhóm giải pháp quản lý chặt chẽ các khoản chi BHTN; (4) Nhóm giải pháp đảm bảo cân đối thu - chi quỹ BHTN; (5) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý quỹ BHTN; (6) Xây dựng và ứng dụng công nghệ thông tin đồng bộ trong quản lý quỹ BHTN; (7) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHTN; (8) Xây dựng cơ chế thưởng phạt nghiêm minh. Trong các nhóm giải pháp, tác giả đã phân tích và đưa ra những đề xuất chi tiết cụ thể để thực hiện nhằm quản lý quỹ BHTN thực sự hiệu quả ở Việt Nam.
Ngoài ra, chương ba còn đề xuất, kiến nghị với cơ quan nhà nước, các bộ, ban ngành liên quan sửa đổi, bổ sung chính sách BHTN phù hợp với tình hình thực tế, cũng như đáp ứng đúng mục đích, ý nghĩa của chính sách là duy trì, đảm bảo việc làm cho người lao động không bị thất nghiệp trước những tác động chủ quan, thực hiện hiệu quả chính sách thị trường lao động chủ động theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đã được đưa ra. Sau đó mới thực hiện những biện pháp hỗ trợ, đào tạo, giới thiệu việc làm cho người bị thất nghiệp. Có như vậy, tình trạng thất nghiệp không diễn biến phức tạp và được kiểm soát góp phần ổn định kinh tế, chính trị của đất nước.
151
PHẦN KẾT LUẬN
Luận án “Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam” đã:
1/. Hệ thống và bổ sung những vấn đề lý luận về quỹ BHTN và quản lý quỹ BHTN cụ thể: Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quỹ BHTN và quản lý quỹ BHTN Ngoài ra, luận án còn nghiên cứu và đề xuất các chỉ tiêu phục vụ công tác quản lý quỹ BHTN. Nghiên cứu kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới về quản lý quỹ BHTN và rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
2/. Phân tích thực trạng quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015; Đánh giá các kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân tác động của các nhân tố đến quản lý quỹ BHTN cũng kết dư quỹ BHTN tăng qua các năm.
3/. Đưa ra những quan điểm, định hướng và mục tiêu trong công tác quản lý quỹ BHTN và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam. Kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sử dụng lao động và người lao động về các nhóm giải pháp nhằm quản lý quỹ BHTN chặt chẽ, hiệu quả và đúng pháp luật.
Mặc dù đã có những đóng góp nhất định về một số vấn đề lý luận, phân tích thực trạng quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam và đánh giá những nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN cũng như lý giải quỹ BHTN kết dư hằng năm tăng lên, song, luận án không tránh khỏi những hạn chế. Trong đó, nguồn số liệu thứ cấp được sử dụng từ nhiều kỳ báo cáo khác nhau nên không tránh khỏi sự bất tương đồng; nguồn dữ liệu sơ cấp có quy mô mẫu điều tra dàn trải và khiêm tốn về tính đại diện của mẫu, tuy nhiên không ảnh hưởng lớn đến kết quả nghiên cứu; các số liệu được sử dụng chỉ mang mục đích phục vụ trong nghiên cứu luận án này. Vì vậy kết quả phân tích và đánh giá ít nhiều vẫn còn bị hạn chế.
Là một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước, là trụ cột trong hệ thống các chính sách ASXH, quỹ BHTN và quản lý quỹ BHTN vẫn cần phải được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa để góp phần cho chính sách, pháp luật về BHTN ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và phù hợp hơn.
Các giải pháp và kiến nghị được trình bày trong luận án chắc chắn chưa thể coi là đầy đủ trong trung hạn và dài hạn. Vì vậy, tác giả mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của các chuyên gia các nhà khoa học và của tất cả những người quan tâm.
152
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Trần Minh Thắng (2012), "Bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường",
Tạp chí Bảo hiểm xã hội, kỳ 01 tháng 09 năm 2012. Tr35-36.
2. Trần Minh Thắng (2013), "Vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện trong thực hiện bảo
hiểm thất nghiệp", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, kỳ 02 tháng 03 năm 2013. Tr22-23.
3. Trần Minh Thắng (2015), "Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam thực trạng và các vấn đề vướng mắc", Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia, tháng 09 năm 2015. Tr305-313.
4. Trần Minh Thắng (2017a), "Giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp cho chủ sử dụng lao động", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, kỳ 01 tháng 06 năm 2017. Tr11-13.
5. Trần Minh Thắng (2017b), "Tình hình thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam & Một số khuyến nghị", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, kỳ 01 tháng 09 năm 2017. Tr22-24.
153
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahmad, E. (1991), “Social security and the poor: Choices for developing
countries”, The World Bank Research Observer, 6 (1), 105-127.
2. Akwasi, K. and Joshua A. (2013), “Effects of Spacial location and Household wealth on Insurance subscription among women”, Bmc health service research, 2013, 13,221.
3. Atkinson, A. B. (1987), “Income maintenance and social insurance”, Handbook
of public economics, 2, 779-908.
4. Bạch Quốc Nam (2011), Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã
hội thành phố Hà Nội, luận văn, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
5. Ban Chấp hành Trung ương (2012), Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020 , ban hành ngày 22 tháng 11 năm 2012.
6. Ban Chấp hành Trung ương (2014), Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, ban hành ngày 01 tháng 7 năm 2014.
7. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011 - 2016), Báo cáo quyết toán tài chính, Hà Nội.
8. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017a), Quyết định số 816/QĐ-BHXH quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và chế độ quản lý của các phòng nghiệp vụ thuộc bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ban hành ngày 23 tháng 5 năm 2017.
9. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017b), Quyết định số 1306/QĐ-BHXH quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và chế độ quản lý của các tổ nghiệp vụ thuộc bảo hiểm xã hội huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, ban hành ngày 31 tháng 7 năm 2017.
10. Bhat R. and Jain. N. (2006), Factors influencing the demand for social insurance in a micro insurance scheme. Indian Institute of Management, Working Paper no 2006-07-02.
11. Bohn, H. (2001), “The risk-sharing properties of alternative policies. In Risk aspects of investment-based social security reform), Social security and demographic uncertainty (pp. 203-246), University of Chicago Press.
12. Britannica Encyclopidia 2008.
154
13. Cardon, J. H., & Hendel, I. (2001), “Asymmetric information in social insurance: evidence from the National Medical Expenditure Survey”, RAND Journal of Economics, 408-427.
14. Carrin G. (2007), “Social Insurance in Developing Countries :- A Continuing
Challenge”. International Social Security Review. 2002: 55:57-69.
15. Carter, J., Bédard, M., & Bista, C. P. (2013), Comparative review of unemployment
and employment insurance experiences in Asia and worldwide. ILO.
16. Cheryl Merzel (2000), “Gender difference in healthcare access indicators in urban low income community”, American Journal of public health, June 2000, Vol 90,No 6.
17. Chiappori, P. A. (2000), Econometric models of insurance under asymmetric information. In Handbook of insurance (pp. 365-393), Springer Netherlands.
18. Chiappori, P. A., & Salanié, B. (2013), “Asymmetric information in insurance markets: Predictions and tests”, In Handbook of insurance, pp. 397-422, Springer New York.
19. Chính phủ (2008), Nghị định số 127/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp, ban hành ngày 12 tháng 12 năm 2008.
20. Chính phủ (2011a), Quyết định số 174/QĐ-TTg về việc giao dự toán thu, chi năm 2011 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ban hành ngày 27 tháng 1 năm 2011.
21. Chính phủ (2011b), Quyết định số 2426/QĐ-TTg về việc điều chỉnh dự toán thu, chi năm 2011 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ban hành ngày 22 tháng 12 năm 2011.
22. Chính phủ (2012a), Nghị định số 100/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp, ban hành ngày 21 tháng 12 năm 2012.
23. Chính phủ (2012b), Nghị định số 106/2012/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội , ban hành ngày 20 tháng 12 năm 2012.
24. Chính phủ (2012c), Quyết định số 169/QĐ-TTg về việc giao dự toán thu, chi năm 2012 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ban hành ngày 08 tháng 2 năm 2012.
25. Chính phủ (2012d), Quyết định số 2075/QĐ-TTg về việc giao dự toán thu, chi năm 2013 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ban hành ngày 25 tháng 12 năm 2012.
155
26. Chính phủ (2012e), Quyết định số 2075/QĐ-TTg về việc giao dự toán thu, chi năm 2013 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ban hành ngày 25 tháng 12 năm 2012.
27. Chính phủ (2013a), Nghị định số 196/2013/NĐ-CP quy định thành lập và hoạt động của Trung tâm dịch vụ việc làm, ban hành ngày 21 tháng 11 năm 2013.
28. Chính phủ (2013b), Quyết định số 1215/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020, ban hành ngày 23 tháng 7 năm 2013.
29. Chính phủ (2014a), Nghị định số 05/2014/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ban hành ngày 17 tháng 01 năm 2014.
30. Chính phủ (2014b), Quyết định số 255/QĐ-TTg về việc giao dự toán thu, chi năm 2014 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ban hành ngày 14 tháng 2 năm 2014.
31. Chính phủ (2015a), Nghị định số 28/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp, ban hành ngày 12 tháng 03 năm 2015.
32. Chính phủ (2015b), Nghị quyết số 26/NQ-CP ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, ban hành ngày 15 tháng 4 năm 2015.
33. Chính phủ (2015c), Nghị quyết số 36a/NQ-CP về Chính phủ điện tử, ban hành
ngày 14 tháng 10 năm 2015.
34. Chính phủ (2015d), Quyết định số 153/QĐ-TTg về việc giao dự toán thu, chi năm 2015 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ban hành ngày 28 tháng 1 năm 2015.
35. Chính phủ (2016), Nghị định số 01/2016/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ban hành ngày 05 tháng 01 năm 2016.
36. Chính phủ (2017), Nghị định số 14/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội , ban hành ngày 17 tháng 2 năm 2017.
37. Columbia Encyclopidia 2008. 38. Comparative review of unemployment and employment insurance experiences in
Asia and worldwide, from, truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2017 từ
156
www.hrsdc.gc.ca/eng/employment/ei/reports/eimar_2010/Chapter5_4_4.shtml
39. Creswell, J. W. (2013). Steps in conducting a scholarly mixed methods study.
40. Cục Việc làm (2011 - 2016), Tổng hợp báo cáo tình hình thực hiện bảo hiểm thất
nghiệp của các địa phương, Hà Nội.
41. Diamond, P. A., & Mirrlees, J. A. (1978), “A model of social insurance with
variable retirement”, Journal of Public Economics, 10(3), 295-336.
42. Diamond, P. A., & Orszag, P. R. (2006), “Saving social security: A balanced
approach”. Brookings Institution Press.
43. Đỗ Văn Sinh (2005), Hoàn thiện quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, luận
án, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
44. Đoàn Thị Thu Hà và Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2005), Giáo trình khoa học quản
lý, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
45. Dror, D., & Preker, A. (2002), “Social Re Insurance: A new approach to
sustainable community health financing”, The World Bank.
46. Field, A. (2009), Discovering statistics using SPSS, London, Sage Publications. 47. From Active Employment Policies to the Employment Promotion Law, truy cập
ngày 18 tháng 3 năm 2017 từ http://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---asia/-- -ro-bangkok/---ilo-beijing/documents/publication/wcms_184887.pdf
48. Gao, Q., Yang, S., & Li, S. (2012), “Labor contracts and social insurance participation among migrant workers in China”, China Economic Review, 23(4), 1195-1205.
49. Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., Anderson, R. E., & Tatham, R. L. (2010), Multivariate Data Analysis. Upper Saddle River, New Jersey: Prentice hall.
50. Harol Koontz (1993), Những vấn để cốt yếu của quản lý, NXB Khoa học - Kỹ thuật.
51. Harrington, S. E., & Niehaus, G. (1999), Risk management and insurance.
McGraw-Hill/Irwin.
52. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình khoa học quản lý,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Hội đồng Bộ trưởng (1989), Quyết định số 176/HĐBT về sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh, ban hành ngày 9 tháng 10 năm 1989.
54. Hosmer, D. W., Hosmer, T., Le Cessie, S., & Lemeshow, S. (1997), A
157
comparison of goodness-of-fit tests for the logistic regression model. Statistics in
medicine, 16(9), 965-980.
55. Hu, Y. W., Impavido, G., & Li, X. (2009), “Governance and fund management in
the Chinese pension system” International Monetary Fund, no. 9-246.
56. Hubbard, R. G., Skinner, J., & Zeldes, S. P. (1995), “Precautionary saving and
social insurance”, Journal of political Economy, 103(2), 360-399.
57. ILO (2011), Employment Policies Report - China, From active employment
policies to the employment promotion law.
58. ILO Convention (1919), C002 Unemployment convention.
59. ILO Convention (1934), C044 Unemployment provision convention.
60. ILO Convention (1952), C102 Social Security (Minimum Standards),
61. ILO Convention (1988), C168 Employment Promotion and Protection against
Unemployment.
62. Jennings, William P. (1990), “Fundamentals of Risk and Insurance”, Journal of
Risk and Insurance 57.1: 166-168.
63. John Carter, Michel Bédard, Celine Peyron Bista (2014), Nghiên cứu so sánh kinh nghiệm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm việc làm khu vực Châu Á và trên thế giới.
64. Lê Quang Trung (2011), Các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn đến 2020, đề tài, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
65. Lê Thị Hoài Thu (2008), Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
66. Lê Thị Phương Thảo (2014), Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp tại BHXH tỉnh
Hưng Yên, luận văn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
67. Liu, X., & Hsiao, W. C. (1995), The cost escalation of social social insurance for public policy. Social Science & implication its
plans in China: Medicine, 41(8), 1095-1101.
68. McCann, P. (2001), Urban and Regional Economics. London: Oxford University Press.
69. Mossialos, E., & Dixon, A. (2002), Funding health care: an introduction. Funding
health care: options for Europe, 1-30.
70. Mullins, S. D. (2012), “The unemployment impact of the 2008 extension of
158
unemployment insurance: as high as Robert Barro suggested?”, Econ Journal Watch, 9 (1), 3-20.
71. Nguyễn Quang Trường (2016), Quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở
nước ta hiện nay, luận án, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
72. Nguyễn Thị Chính (2010), Hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động chi trả các
chế độ bảo hiểm xã hội ở VN, luận án, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
73. Nguyễn Văn Định (2008a), Giáo trình Bảo hiểm, Nhà xuất bản trường Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
74. Nguyễn Văn Định (2008b), Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, đề tài,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
75. Nguyễn Vinh Quang (2009), Các mô hình và kinh nghiệm thực hiện bảo hiểm
thất nghiệp trên thế giới, đề án, Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
76. Normand, C., & Busse, R. (2002), Social health insurance financing. Funding
health care: options for Europe, 59.
77. Orenstein, M. A. (2008), Privatizing pensions: The transnational campaign for
social security reform, Princeton University Press.
78. O'sullivan, A. (2007), Urban economics, 5th Edition. New York: McGraw-Hill/Irwin.
79. Oyekale, A. S. (2012), “Factors Influencing Households’ Willingness to Pay for National Unemployment Insurance Scheme (NHIS) in Osun State, Nigeria”, Studies on Ethno-Medicine, 6(3), 167-172.
80. Phạm Đình Thành (2008), Triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp
ở Việt Nam, đề án, Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
81. Phạm Trường Giang (2010), Hoàn thiện cơ chế thu bảo hiểm xã hội ở Việt Nam,
luận án, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
82. Popp, A. (2017), “Unemployment Insurance in a Three-State Model of the Labor
Market”. Journal of Monetary Economics.
83. Privitera, G. J. (2013). Research methods for the behavioral sciences. Sage
Publications.
84. Quốc hội (1994), Bộ Luật Lao động số 35-L/CTN, ban hành ngày 23 tháng 06
năm 1994.
85. Quốc hội (1997), Nghị quyết số 11/1997/NQ-QH10 về chương trình xây dựng
159
Luật, Pháp lệnh năm 1998, ban hành ngày 12 tháng 12 năm 1997.
86. Quốc hội (1998), Nghị quyết số 20/1998/NQ-QH10 về nhiệm vụ năm 1999, ban
hành ngày 02 tháng 12 năm 1998.
87. Quốc hội (2002), Luật số 35/2002/QH10 Luật của Quốc hội số 35/2002/QH10 ngày 02 tháng 4 năm 2002 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Lao động, ban hành ngày 02 tháng 4 năm 2002.
88. Quốc hội (2006a), Luật số 71/2006/QH11 Luật Bảo hiểm xã hội, ban hành ngày
29 tháng 6 năm 2006.
89. Quốc hội (2006b), Luật số 74/2006/QH11 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ Luật Lao động, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2006.
90. Quốc hội (2007), Luật số 84/2007/QH11 Luật sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Bộ
Luật Lao động, ban hành ngày 02 tháng 04 năm 2007.
91. Quốc hội (2013), Luật số 38/2013/QH13 Luật Việc làm, ban hành ngày 16 tháng
11 năm 2013.
92. Quốc hội (2014), Luật số 58/2014/QH13 Luật Bảo hiểm xã hội, ban hành ngày 20
tháng 11 năm 2014.
93. Rupp, K., & Stapleton, D. (1995), Determinants of the growth in the Social Security
Administration's disability programs-an overview. Soc. Sec. Bull., 58, 43.
94. Scheve, K., & Stasavage, D. (2006), “Religion and preferences for social
insurance”, Quarterly Journal of Political Science, 1(3), 255-286.
95. Schwartz, J. (2009), Essays on unemployment insurance and the business
cycle (Doctoral dissertation, The George Washington University),
96. Sinn, H. W. (1996), “Social insurance, incentives and risk taking”, International
Tax and Public Finance, 3(3), 259-280.
97. Sundén, A. E., & Munnell, A. H. (1999), Investment practices of state and local
pension funds: implications for social security reform.
98. Trần Minh Thắng (2012), "Bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường",
Tạp chí Bảo hiểm xã hội, kỳ 01 tháng 09 năm 2012. Tr35-36.
99. Trần Minh Thắng (2013), "Vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện trong thực hiện bảo
hiểm thất nghiệp", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, kỳ 02 tháng 03 năm 2013. Tr22-23.
100. Trần Minh Thắng (2015), “Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam thực trạng và các vấn đề vướng mắc”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia Hoạt động phối hợp đào
160
tạo giữa trường đại học với các tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tr 305-313.
101. Trần Minh Thắng (2017a), “Giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp cho chủ sử
dụng lao động”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Kỳ 01, tr11-13.
102. Trần Minh Thắng (2017b), “Tình hình thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam và một số khuyến nghị”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Kỳ 01, tr22-24. 103. Trung tâm phát triển xã hội và môi trường vùng (CERSED) (2013), Đánh giá thực trạng quỹ bảo hiểm thất nghiệp và đề xuất phương án chuyển đổi mô hình quỹ, đề án, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
104. Vaughan, E. J., & Vaughan, T. (2007), Fundamentals of risk and insurance, John
Wiley & Sons.
105. Wandner, S. A., & Stengle, T. (1997), “Unemployment insurance: measuring
who receives it”. Monthly Lab. Rev., 120, 15.
106. Y. Jun (2008), The Basic Situation of China’s Unemployment Insurance System.
truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2017 từ https://wenku.baidu.com/view/e328f0ffc8d376eeaeaa311a.html
107. https://workforcesecurity.doleta.gov/unemploy/
161
PHỤ LỤC
162
PHỤ LỤC 01 PHIẾU KHẢO SÁT 1 (Dành cho người lao động)
I. PHẦN THÔNG TIN NGƯỜI ĐƯỢC ĐIỀU TRA
1. ........................................................................... Họ và tên: ............................ 2. ........................................................................... Tuổi: ..................................... 3. ........................................................................... Giới tính: Nam/Nữ 4. ........................................................................... Địa chỉ: ................................. 5. ........................................................................... Trình độ học vấn:
PTTH Trung cấp Đại học, Cao đẳng Sau Đại học 6. ........................................................................... Ngành nghề: ......................... 7. ........................................................................... Khu vực làm việc:
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Khu vực tư nhân Khu vực Nhà nước Tự doanh
8. ........................................................................... Số thành viên trong gia đình:
.................................................................................
II. THÔNG TIN KINH TẾ - XÃ HỘI
9. Thu nhập trung bình của gia đình anh/chị một tháng là: ………………. (triệu
đồng)
10. Tổng các nguồn thu nhập khác ngoài lương/tiền công (VD: tiền hỗ trợ chính
sách, trợ cấp, từ người thân) là: ………………. (triệu đồng)
11. Anh chị vui lòng cho biết anh chị có tài khoản tiết kiệm hoặc tài sản tích luỹ
không?
Có Không
II. THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Anh/chị vui lòng cho biết mức độ đồng ý của anh/chị với các nhận định sau: 12. Anh/chị dễ dàng tiếp cận với việc tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
(1) Rất không đồng ý (2) Không đồng ý (3) Trung lập (4) Đồng ý (5) Rất đồng ý
163
13. Anh/chị dễ dàng tiếp cận thông tin về chính sách bảo hiểm thất nghiệp từ
Nhà nước và các cơ quản quản lý. (1) Rất không đồng ý (2) Không đồng ý (3) Trung lập (4) Đồng ý (5) Rất đồng ý
164
PHỤ LỤC 02 PHIẾU KHẢO SÁT 1 (Dành cho cán bộ cơ quan BHXH)
I. PHẦN THÔNG TIN NGƯỜI ĐƯỢC ĐIỀU TRA
1. ........................................................................... Họ và tên: ............................ 2. ........................................................................... Tuổi: ..................................... 3. ........................................................................... Giới tính: Nam/Nữ 4. ........................................................................... Địa chỉ: ................................. 5. ........................................................................... Trình độ học vấn:
PTTH Trung cấp Đại học, Cao đẳng Sau Đại học
II. THÔNG TIN Ở phần này, xin Anh (Chị) vui lòng trả lời bằng cách khoanh tròn vào những phát biểu sau đây theo mức độ đồng ý của mình. Trong đó:
1- Hoàn toàn không đồng ý 2- Không đồng ý 3- Bình thường 4- Đồng ý 5- Hoàn toàn đồng ý
Câu 1: Về chất lượng cán bộ bảo hiểm xã hội
Nội dung Mức độ đồng ý
1 Trình độ học vấn của cán bộ BHXH đạt từ đại học trở 1 2 3 4 5 lên
2 Cán bộ BHXH sử dụng thành thạo tin học và ngoại ngữ 1 2 3 4 5
3 Cán bộ BHXH am hiểu chính sách pháp luật về BHTN 1 2 3 4 5
4 Kỹ năng giao tiếp và tác phong làm việc của cán bộ 1 2 3 4 5 BHXH rất chuyên nghiệp
Câu 2: Về chính sách, pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
Nội dung Mức độ đồng ý
1 Đối tượng tham gia và thụ hưởng chính sách BHTN phù 1 2 3 4 5 hợp với lực lượng lao động hiện nay.
1 2 3 4 5 2 Mức đóng BHTN hiện nay phù hợp với thu nhập và mức hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động
3 Mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp phù 1 2 3 4 5 hợp cho người hưởng thất nghiệp.
4 Quy trình thực hiện quản lý quỹ BHTN đơn giản, hiệu 1 2 3 4 5 quả và đúng pháp luật
Câu 3: Về điều kiện kinh tế - xã hội
165
Nội dung Mức độ đồng ý
1 2 3 4 5 1 Điều kiện kinh tế - xã hội thúc đẩy sản suất kinh doanh gia tăng từ đó góp phần trích nộp tiền đóng BHTN đầy đủ
2 Nước ta có đầy đủ cơ sở hạ tầng phục vụ tốt cho việc 1 2 3 4 5 triển khai chính sách BHTN
3 Chính sách BHTN hiện nay phù hợp với mục tiêu và 1 2 3 4 5 định hướng phát triển của Nhà nước ta
4 Thực hiện chính sách pháp luật về BHTN tạo đà phát 1 2 3 4 5 triển kinh tế - xã hội
166
PHỤ LỤC 03 PHIẾU KHẢO SÁT 2 (Dành cho cán bộ cơ quan BHXH)
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ và hoàn thiện chính sách Bảo hiểm thất
nghiệp ở Việt Nam, xin Ông (bà) vui lòng cho chúng tôi biết quan điểm, ý kiến của
mình về vấn đề này qua các câu khảo sát dưới đây. Thông tin khảo sát chỉ phục vụ
mục đích nghiên cứu.
Phần 1. Thông tin chung
1. Họ và tên người được khảo sát: ……………………………………………
2. Giới tính: …………………………. 3. Độ tuổi: …………………………..
4. Tỉnh/ thành phố nơi làm việc: ……………………………………………..
Phần 2. Nội dung khảo sát
Xin ông (bà) vui lòng trả lời hoặc đánh dấu “X” vào những câu hỏi dưới đây:
1. Theo ông (bà) chính sách, pháp luật về BHTN hiện nay có phù hợp không?
(cid:1) Rất phù hợp (cid:1) Không phù hợp
(cid:1) Phù hợp (cid:1) Chưa phù hợp
2. Ông (bà) đánh giá ảnh hưởng của chính sách pháp luật về BHTN đến quản lý
quỹ BHTN như thế nào?
(cid:1) Rất ảnh hưởng (cid:1) Ảnh hưởng
(cid:1) Ít ảnh hưởng (cid:1) Không ảnh hưởng
Ý kiến đánh giá của ông (bà) về vấn đề này? .................................................
....................................................................................................................................
3. Ông (bà) đánh giá ảnh hưởng của công tác tổ chức triển khai chính sách,
pháp luật về BHTN đến quản lý quỹ BHTN như thế nào?
(cid:1) Ảnh hưởng (cid:1) Rất ảnh hưởng
(cid:1) Ít ảnh hưởng (cid:1) Không ảnh hưởng
Ý kiến đánh giá của ông (bà) về vấn đề này? .................................................
....................................................................................................................................
4. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách
pháp luật BHTN hiện nay?
(cid:1) Không tốt (cid:1) Rất tốt
167
(cid:1) Tốt (cid:1) Chưa tốt
Nếu không hoặc chưa tốt vì sao? ....................................................................
....................................................................................................................................
5. Theo ông (bà) tỷ lệ tham gia BHTN hiện nay cao hay thấp?
(cid:1) Cao (cid:1) Trung bình
(cid:1) Thấp
6. Ông (bà) nhận xét thế nào về thủ tục, hồ sơ tham gia BHTN hiện nay?
(cid:1) Thuận tiện, rõ ràng (cid:1) Không thuận tiện, rõ ràng
(cid:1) Rất thuận tiện, rõ ràng (cid:1) Chưa thuận tiện, rõ ràng
Nếu không hoặc chưa thuận tiện, rõ ràng vì sao? ...........................................
....................................................................................................................................
7. Ông (bà) cho biết việc chấp hành chính sách, pháp luật về BHTN của người
sử dụng lao động hiện nay như thế nào?
(cid:1) Chưa tốt (cid:1) Rất tốt
(cid:1) Không tốt (cid:1) Tốt
8. Theo ông (bà) vì sao vẫn còn nhiều người sử dụng lao động tham gia BHTN
chưa đầy đủ cho người lao động (có thể chọn 1 hoặc nhiều phương án)?
(cid:1) Chưa hiểu rõ chính sách pháp luật về BHTN
(cid:1) Sản xuất kinh doanh gặp khó khăn
(cid:1) Cố tình không tham gia BHTN
(cid:1) Công tác tuyên truyền chưa tốt
(cid:1) Chưa kiểm tra, giám sát chặt chẽ
(cid:1) Cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm
(cid:1) Ý kiến khác ................................................................................................
....................................................................................................................................
9. Ông (bà) nhận xét thế nào về thủ tục, hồ sơ giải quyết hưởng chế độ BHTN
hiện nay?
(cid:1) Không thuận tiện, rõ ràng (cid:1) Rất thuận tiện, rõ ràng
(cid:1) Chưa thuận tiện, rõ ràng (cid:1) Thuận tiện, rõ ràng
Nếu không hoặc chưa thuận tiện, rõ ràng vì sao? ...........................................
....................................................................................................................................
168
10. Cơ quan BHXH nơi ông (bà) làm việc có chi trả chế độ BHTN cho người
hưởng kịp thời và đầy đủ theo quy định không?
(cid:1) Rất kịp thời và đầy đủ (cid:1) Kịp thời và đầy đủ
(cid:1) Không kịp thời và đầy đủ (cid:1) Chưa kịp thời và đầy đủ
Nếu không hoặc chưa kịp thời và đầy đủ vì sao? ...........................................
....................................................................................................................................
11. Ông (bà) cho biết việc chấp hành pháp luật của các đơn vị sử dụng lao động
sau thanh tra, kiểm tra về thực hiện chế độ, chính sách BHTN cho người lao động như
thế nào?
(cid:1) Tốt (cid:1) Chưa tốt
(cid:1) Rất tốt (cid:1) Không tốt
Nếu không hoặc chưa tốt vì sao? ....................................................................
....................................................................................................................................
12. Ông (bà) nêu một vài kiến nghị, đề xuất (nếu có) về chính sách và tổ chức
thực hiện BHTN hiện nay.
.........................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
.................................................................................................................................... ....................................................................................................................................
Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!
169
PHỤ LỤC 04 PHIẾU KHẢO SÁT 2 (Dành cho người lao động)
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ và hoàn thiện chính sách Bảo hiểm thất
nghiệp ở Việt Nam, xin Ông (bà) vui lòng cho chúng tôi biết quan điểm, ý kiến của
mình về vấn đề này qua các câu khảo sát dưới đây. Thông tin khảo sát chỉ phục vụ
mục đích nghiên cứu.
Phần 1. Thông tin chung
1. Họ và tên người được khảo sát: ……………………………………………
2. Giới tính: ………………………….. 3. Độ tuổi: …………………………
4. Trình độ học vấn: (cid:1) Phổ thông ..... (cid:1) Trung cấp, cao đẳng
(cid:1) Đại học (cid:1) Sau đại học
5. Tỉnh/ thành phố nơi đang làm việc:………………………………………
Phần 2. Nội dung khảo sát
Xin ông (bà) vui lòng trả lời hoặc đánh dấu “X” vào những câu hỏi dưới đây:
1. Theo ông (bà) chính sách, pháp luật về BHTN hiện nay có phù hợp không?
(cid:1) Rất phù hợp (cid:1) Không phù hợp
(cid:1) Phù hợp (cid:1) Chưa phù hợp
2. Ông (bà) đánh giá ảnh hưởng của chính sách pháp luật về BHTN đến quản lý
quỹ BHTN như thế nào?
(cid:1) Rất ảnh hưởng (cid:1) Ảnh hưởng
(cid:1) Ít ảnh hưởng (cid:1) Không ảnh hưởng
Ý kiến đánh giá của ông (bà) về vấn đề này? .................................................
....................................................................................................................................
3. Ông (bà) tiếp cận chính sách pháp luật BHTN thông qua hình thức nào (có
thể chọn 1 hoặc nhiều phương án)?
(cid:1) Tự nghiên cứu văn bản chính sách, pháp luật
(cid:1) Cơ quan BHXH tuyên truyền
(cid:1) Tổ chức của cơ quan (doanh nghiệp) tuyên truyền, phổ biến
(cid:1) Tiếp cận qua Báo, tạp chí
(cid:1) Tiếp cận qua Đài phát thanh, truyền hình
170
(cid:1) Tiếp cận qua Internet
(cid:1) Ý kiến khác ................................................................................................
....................................................................................................................................
4. Cơ quan (doanh nghiệp) mà ông (bà) đang làm việc có đăng ký tham gia và
đóng BHTN cho mình không?
(cid:1) Có (cid:1) Không
Nếu không thì ông (bà) đã làm gì để bảo vệ quyền lợi cho mình (có thể chọn 1
hoặc nhiều phương án)?
(cid:1) Khiếu nại với tổ chức công đoàn cơ quan (doanh nghiệp)
(cid:1) Khiếu nại với cơ quan BHXH
(cid:1) Khiếu nại tới cơ quan lao động
(cid:1) Phản ánh tới các cơ quan Báo, Đài
(cid:1) Phản ánh trên Internet
(cid:1) Ý kiến khác ................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
5. Cơ quan (doanh nghiệp) nơi ông (bà) đang làm việc có tham gia, đóng
BHTN đầy đủ và kịp thời cho người lao động không?
(cid:1) Đầy đủ và kịp thời (cid:1) Không đóng BHTN cho toàn bộ NLĐ
(cid:1) Chưa đóng BHTN hết cho NLĐ (cid:1) Tham gia đầy đủ nhưng chưa kịp thời
6. Theo ông (bà) tỷ lệ tham gia BHTN của mình hiện nay cao hay thấp?
(cid:1) Cao (cid:1) Trung bình
(cid:1) Thấp
7. Ông (bà) đã được hưởng chế độ BHTN lần nào chưa?
(cid:1) Đã được hưởng (cid:1) Chưa được hưởng lần nào
Nếu đã được hưởng chế độ BHTN, ông (bà) vui lòng trả lời tiếp các câu hỏi sau:
8. Ông (bà) nhận xét thế nào về thủ tục, hồ sơ giải quyết hưởng chế độ BHTN?
(cid:1) Không thuận tiện, rõ ràng (cid:1) Rất thuận tiện, rõ ràng
(cid:1) Chưa thuận tiện, rõ ràng (cid:1) Thuận tiện, rõ ràng
Nếu không hoặc chưa thuận tiện, rõ ràng vì sao? ...........................................
....................................................................................................................................
171
9. Theo ông (bà) mức hưởng trợ cấp BHTN mà mình đã được hưởng cao hay thấp?
(cid:1) Cao (cid:1) Trung bình
(cid:1) Thấp
10. Theo ông (bà) thời gian đã hưởng chế độ BHTN dài hay ngắn?
(cid:1) Dài (cid:1) Trung bình
(cid:1) Ngắn
11. Ông (bà) có được chi trả và hưởng chế độ BHTN kịp thời, đầy đủ không?
(cid:1) Rất kịp thời và đầy đủ (cid:1) Kịp thời và đầy đủ
(cid:1) Không kịp thời và đầy đủ (cid:1) Chưa kịp thời và đầy đủ
Nếu không hoặc chưa kịp thời và đầy đủ vì sao? ...........................................
....................................................................................................................................
12. Ông (bà) cho biết thái độ phục vụ của cán bộ cơ quan BHXH như thế nào
khi làm thủ tục, hồ sơ giải quyết chế độ BHTN?
(cid:1) Chưa chuyên nghiệp (cid:1) Không chuyên nghiệp
(cid:1) Chuyên nghiệp (cid:1) Rất chuyên nghiệp
13. Ông (bà) cho biết thái độ phục vụ của cán bộ Trung tâm dịch vụ việc làm
như thế nào khi làm thủ tục, hồ sơ giải quyết chế độ BHTN?
(cid:1) Chưa chuyên nghiệp (cid:1) Không chuyên nghiệp
(cid:1) Chuyên nghiệp (cid:1) Rất chuyên nghiệp
14. Ông (bà) có đề nghị được hỗ trợ học nghề không?
(cid:1) Không (cid:1) Có
Nếu có thì chất lượng của khóa học như thế nào?
(cid:1) Rất chất lượng (cid:1) Chất lượng
(cid:1) Không chất lượng (cid:1) Chưa chất lượng
15. Ông (bà) có đề nghị được hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm không?
(cid:1) Không (cid:1) Có
Nếu có thì việc làm được giới thiệu có đa dạng và phong phú không?
(cid:1) Rất đa dạng và phong phú (cid:1) Chưa đáp ứng nhu cầu
(cid:1) Đa dạng và phong phú (cid:1) Đáp ứng nhu cầu
16. Ông (bà) có được cấp thẻ BHYT kịp thời khi bị thất nghiệp không?
(cid:1) Có (cid:1) Không
172
17. Ông (bà) nêu một vài kiến nghị, đề xuất (nếu có) về chính sách và tổ chức
thực hiện BHTN ở Việt Nam hiện nay.
.........................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!
173
PHỤ LỤC 05 PHIẾU KHẢO SÁT (Dành cho chủ sử dụng lao động)
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ và hoàn thiện chính sách Bảo hiểm thất
nghiệp ở Việt Nam, xin Ông (bà) vui lòng cho chúng tôi biết quan điểm, ý kiến của
mình về vấn đề này qua các câu khảo sát dưới đây. Thông tin khảo sát chỉ phục vụ
mục đích nghiên cứu.
Phần 1. Thông tin chung
1. Họ và tên người được khảo sát: ……………………………………………
2. Giới tính: ………………………….. 3. Độ tuổi: …………………………
4. Tỉnh/ thành phố của cơ quan (doanh nghiệp) đóng trụ sở: ………………
Phần 2. Nội dung khảo sát
Xin ông (bà) vui lòng trả lời hoặc đánh dấu “X” vào những câu hỏi dưới đây:
1. Theo ông (bà) chính sách, pháp luật về BHTN hiện nay có phù hợp không?
(cid:1) Rất phù hợp (cid:1) Không phù hợp
(cid:1) Phù hợp (cid:1) Chưa phù hợp
2. Ông (bà) đánh giá ảnh hưởng của chính sách pháp luật về BHTN đến quản lý
quỹ BHTN như thế nào?
(cid:1) Rất ảnh hưởng (cid:1) Ảnh hưởng
(cid:1) Ít ảnh hưởng (cid:1) Không ảnh hưởng
Ý kiến đánh giá của ông (bà) về vấn đề này? .................................................
....................................................................................................................................
3. Ông (bà) tiếp cận chính sách pháp luật BHTN thông qua hình thức nào (có
thể chọn 1 hoặc nhiều phương án)?
(cid:1) Tự nghiên cứu văn bản chính sách, pháp luật
(cid:1) Cơ quan BHXH tuyên truyền
(cid:1) Tiếp cận qua Báo, tạp chí
(cid:1) Tiếp cận qua Đài phát thanh, truyền hình
(cid:1) Tiếp cận qua Internet
(cid:1) Ý kiến khác ................................................................................................
....................................................................................................................................
174
4. Ông (bà) nhận xét thế nào về thủ tục, hồ sơ tham gia BHTN hiện nay?
(cid:1) Thuận tiện, rõ ràng (cid:1) Không thuận tiện, rõ ràng
(cid:1) Rất thuận tiện, rõ ràng (cid:1) Chưa thuận tiện, rõ ràng
Nếu không hoặc chưa thuận tiện, rõ ràng vì sao? ...........................................
....................................................................................................................................
5. Theo ông (bà) tỷ lệ tham gia BHTN của người lao động và chủ sử dụng lao
động hiện nay cao hay thấp?
(cid:1) Cao (cid:1) Trung bình
(cid:1) Thấp
6. Ông (bà) có tham gia BHTN cho người lao động trong cơ quan (doanh
nghiệp) của mình đầy đủ, kịp thời không?
(cid:1) Tham gia đầy đủ cho NLĐ (cid:1) Không tham gia cho toàn bộ NLĐ
(cid:1) Chưa tham gia đầy đủ cho NLĐ (cid:1) Tham gia chưa kịp thời cho NLĐ
Nếu chưa tham gia đầy đủ, kịp thời cho NLĐ vì sao? ...................................
....................................................................................................................................
7. Cơ quan (doanh nghiệp) của ông (bà) có khi nào nợ tiền BHTN không?
(cid:1) Có (cid:1) Không
Nếu có thì nguyên nhân vì sao (có thể chọn 1 hoặc nhiều phương án)?
(cid:1) Sử dụng để tăng nguồn vốn kinh doanh
(cid:1) Sản xuất kinh doanh gặp khó khăn
(cid:1) Chưa được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc, kiểm tra trích đóng BHTN kịp thời
(cid:1) Chưa hiểu rõ chính sách pháp luật về BHTN
(cid:1) Cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm
(cid:1) Ý kiến khác ................................................................................................
....................................................................................................................................
8. Ông (bà) cho biết đơn vị của mình có được thanh tra, kiểm tra về thực hiện
chế độ, chính sách BHTN cho người lao động không?
(cid:1) Có (cid:1) Không
9. Ông (bà) cho biết thái độ phục vụ của cán bộ cơ quan BHXH như thế nào khi
làm thủ tục, hồ sơ tham gia BHTN?
(cid:1) Chưa chuyên nghiệp (cid:1) Không chuyên nghiệp
175
(cid:1) Chuyên nghiệp (cid:1) Rất chuyên nghiệp
10. Ông (bà) nêu một vài kiến nghị, đề xuất (nếu có) về chính sách và tổ chức
thực hiện BHTN hiện nay.
.........................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!