intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quản lý tranh chấp và định hướng giải pháp - Biển Đông: Phần 2

Chia sẻ: Minh Anh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:148

177
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nối tiếp nội dung của phần 1 Tài liệu Biển Đông - Quản lý tranh chấp và định hướng giải pháp, phần 2 trình bày các nội dung của chương 2 - Các vấn đề pháp lý quốc tế ở biển Đông (vì sao Quyền lịch sử bị công ước Luật biển 1982 đưa vào lịch sử, nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia trong vùng biển kín hoặc nửa kín), chương 3 - Hợp tác, quản lý và giải quyết tranh chấp trên biển Đông. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quản lý tranh chấp và định hướng giải pháp - Biển Đông: Phần 2

  1. 120
  2. 8 VÌ SAO “QUYỀN LỊCH SỬ” BỊ CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982 ĐƯA VÀO LỊCH SỬ? TS. Nguyễn Thị Lan Anh Phó Trưởng Khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao Việt Nam Đại dương được con người biết đến và sử dụng một cách tự do để phục vụ cho thông thương hàng hải theo nguyên tắc mare liberum1 từ đầu thế kỷ 17. Nhưng phải đến khi có sự ra đời của nguyên tắc mare clausum2 thì những khái niệm về quyền tài phán, quyền chủ quyền của quốc gia ven biển mới được nhắc đến và trở thành một chủ đề nóng bỏng trong quá trình pháp điển hóa các quy định của luật biển quốc tế. Gắn liền với chiều dài của lịch sử sử dụng biển của nhân loại, nhiều hoạt động khai thác quản lý biển như hoạt động đánh bắt cá, khai thác sinh vật biển đã được con người biết đến và thực hiện trong một thời gian dài. Nhằm bảo tồn các hoạt động truyền thống này, nhưng cũng đồng thời nhằm tối đa hóa lợi ích quốc gia trên biển, một số quốc gia, trong số đó có quốc gia ở Biển Đông, đã sử dụng quyền lịch sử để mở rộng yêu sách trên biển. Tuy nhiên, các điều ước quốc tế trong lĩnh vực biển hiện nay chưa có quy định về quyền lịch sử. Đồng thời, trong bối cảnh luật biển quốc tế đã có những quy định rõ ràng về phạm vi và giới hạn quyền của các quốc gia ven biển tại Công ước Luật Biển năm 1982, các quyền lịch sử có còn được coi là một cơ sở pháp lý cho yêu sách vùng biển hay không? Để trả lời câu hỏi này, bài viết trước hết sẽ tìm hiểu và lý giải khái niệm và phạm vi của quyền lịch sử thông qua thực tiễn sử dụng quyền lịch sử của các quốc gia. Bài viết cũng đồng thời so sánh bản chất, phạm vi và hiệu lực của quyền lịch sử với các quyền 1. Hugo Grotius, The Freedom of the seas or the right which belongs to the Dutch to take part in the Indian Trade (1608) Translated with a Revision of the Latin Text of 1633 by Ralph van Deman Magoffin. Edited with an Introduc- tory Note by James Brown Scott. New York: Oxford University Press, 1916. Reprinted 2001 by The Lawbook Exchange, Ltd. 2. John Seldon, Of the Dominion, Or, Ownership of the Sea (London: W. Du-Gard, 1652), Vol 1, Re-printed in 2004 by The Lawbook Exchange Ltd. 121
  3. TS. Nguyễn Thị Lan Anh chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển được Công ước Luật Biển 1982 quy định. Từ đó, bài viết rút ra một số nhận định về việc vận dụng quyền lịch sử trong yêu sách vùng biển tại biển Đông. Quyền lịch sử nhìn từ thực tiễn của các quốc gia Mặc dù khái niệm quyền lịch sử (historical rights) chưa được quy định trên các điều ước quốc tế trong lĩnh vực quản lý và sử dụng biển, trên thực tiễn một số quốc gia đã từng yêu sách quyền lịch sử với nhiều tên gọi khác nhau như yêu sách về đặc quyền đánh cá và săn cá voi,3 quyền ưu tiên đối với hoạt động đánh cá,4 quyền lịch sử với hoạt động đánh bắt cá,5 quyền đánh cá truyền thống,6 hay quyền đánh cá thủ công truyền thống.7 Đặc điểm chung đầu tiên từ những yêu sách về quyền lịch sử là các quốc gia ven biển thường đưa ra yêu sách dựa trên lịch sử sử dụng biển lâu dài của mình. Yêu sách về đặc quyền đánh cá và săn cá voi được Nauy dựa trên lịch sử của đặc quyền này từ việc cấp phép thế kỷ 17,8 yêu sách về quyền ưu tiên của Iceland dựa trên thực tiễn đánh cá được công nhận trong gần hai thế kỷ,9 yêu sách quyền lịch sử của Tunisia dựa trên danh nghĩa lịch sử được thiết lập qua hàng thế kỷ,10 hay yêu sách quyền đánh cá thủ công truyền thống của Barbados kéo dài trong một thế kỷ.11 Đặc điểm thứ hai là các yêu sách về quyền lịch sử chỉ được các cơ quan tài phán thừa nhận giá trị pháp lý khi có sự công nhận của các bên hữu quan. Trong vụ ngư trường Nauy, việc Anh không đưa ra bất kỳ sự phản đối nào trong thời gian 60 năm được Tòa coi là việc ngầm thừa nhận phương pháp đường cơ sở được Nauy xác định trong Nghị định năm 1869, trong đó xác định vùng biển mà Nauy có đặc quyền về đánh cá và săn cá voi.12 Trong các Vụ ngư trường giữa Anh và Đức với Iceland, Anh và Đức đã công nhận tầm quan trọng có ý nghĩa đặc biệt của ngành ngư nghiệp ven biển với nền kinh tế của Iceland, qua đó, tòa án thừa nhận Iceland xứng đáng được hưởng quyền ưu tiên với nguồn các tại các vùng biển gần bờ của nước này.13 Trong vụ phân định biển giữa Tunisia và Libya, sự tồn tại của các hoạt động đánh bắt cá lâu đời của Tunisia cũng được Libya thừa nhận, do vậy, Tòa kết luận rằng cần tôn trọng và bảo vệ các quyền lịch sử vì 3. Yêu sách do Nauy đưa ra trong Vụ Ngư trường Nauy, Báo cáo của ICJ, 1951 4. Yêu sách của Iceland trong Các Vụ Ngư trường (Đức và Iceland) và (Anh và Iceland), Báo cáo của ICJ, 1974 5. Yêu sách của Tunisia trong Vụ Phân định biển giữa Tunisia và Libya, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1982 6. Yêu sách của Eritrea và Yemen trong Vụ Phân định biển giữa Eritrea và Yemen, 1999 7. Yêu sách của Barbados trong Vụ phân định biển giữa Barbados v. Trinidad and Tobago, 2006 8. “Chính phủ Nauy đã dựa vào danh nghĩa lịch sử được áp dụng một cách rõ ràng cho vùng biển Lopphavet, cụ thể hơn là đặc quyền săn bắt cá voi được trao cho Thiếu tá Erich Lorch vào cuối thế kỷ 17 qua một loạt các giấy phép, trong đó chỉ ra, trong số những thứ khác, rằng vùng biển ở gần đá chìm Gjesbaaen or Gjesboene và các ngư trường đánh cá gần đó được xem là hoàn toàn thuộc chủ quyền Nauy”. Vụ Ngư trường Nauy, 1951, tr. 142 9. Chính phủ Iceland lập luận về các quy định quyền ưu tiên tại Luật năm 1948 rằng: “Trước đây, khi các thiết bị đánh cá kém hiệu quả hơn ngày nay, câu hỏi dường như được đặt theo hướng khác và đặc quyền đánh cá của Ice- land trong vùng gần bờ biển của nước này kéo dài hơn so với được chấp nhận theo thông lệ chung từ năm 1900.” Phán quyết Vụ Ngư trường Anh-Iceland, đoạn 20 và Vụ Ngư trường Đức-Iceland, đoạn 21 10. Phán quyết Vụ Phân định biển giữa Tunisia và Libya, đoạn 99 11. Phán quyết Vụ phân định biển giữa Barbados v. Trinidad and Tobago, 2006, đoạn 266. 12. Vụ Ngư trường Nauy, 1951, tr. 138-139 13. Vụ Ngư trường Đức-Iceland, 1974, đoạn 51-63 và Ngư trường Anh-Iceland, 1974, đoạn 45-60 122
  4. Vì sao “Quyền lịch sử” bị Công ước Luật Biển 1982 đưa vào lịch sử? các quyền này đã luôn được thừa nhận như vậy trong lịch sử sử dụng lâu dài.14 Trong các vụ phân định biển giữa Eritrea và Yemen cũng như giữa Babardos và Trinidad và Tobago, các bên trong vụ việc đều đã thừa nhận quyền đánh cá truyền thống của nhau và yêu cầu Tòa ra phán quyết về quy chế này. Thứ ba, các yêu sách về quyền lịch sử nếu có nhận được sự công nhận của tòa thì cũng không phải là một đặc quyền dành riêng cho quốc gia ven biển, mà có sự chia sẻ giữa các quốc gia có liên quan. Trong các vụ Ngư trường giữa Anh và Đức với Iceland, mặc dù công nhận sự tồn tại về quyền ưu tiên đánh cá của Iceland, Tòa đã kết luận rằng khái niệm quyền ưu tiên không loại trừ tất cả các hoạt động đánh cá của các quốc gia khác. Quốc gia ven biển được hưởng quyền ưu tiên không phải được tự do, đơn phương và tùy tiện xác định phạm vi của quyền này. Việc quốc gia ven biển có quyền ưu tiên chỉ ngầm định một số ưu tiên nhất định, nhưng không thể là sự loại bỏ hoàn toàn các quyền mà các quốc gia khác đang được hưởng.15 Trong vụ Eritrea và Yemen, Trọng tài cũng khẳng định rằng chế độ đánh cá truyền thống cho phép ngư dân của cả Eritrea và Yemen tham gia vào hoạt động đánh bắt cá thủ công như sử dụng đảo để phơi cá, dừng đỗ, trú tránh tạm thời và sửa chữa tàu thuyền quanh các đảo mà Trọng tài đã trao chủ quyền cho Yemen.16 Các ngư dân có quyền bình đẳng trong việc tự do sử dụng các đảo này vào các mục đích truyền thống có liên quan đến việc đánh bắt cá thủ công. Ngoài ra, việc trọng tài yêu cầu các bên tự thỏa thuận các quy định điều chỉnh quyền đánh cá truyền thống trong vụ phân định biển giữa Eritrea và Yemen cũng như giữa Babardos và Trinidad và Tobago17 cũng thể hiện quan điểm các bên không thể đơn phương áp đặt quyền đánh cá truyền thống để loại trừ quyền của các quốc gia khác. Thứ tư, các phán quyết của Tòa án và trọng tài quốc tế cho thấy cho đến nay quyền lịch sử mới được thiết lập thành công trong những trường hợp thỏa mãn điều kiện về lịch sử sử dụng lâu dài, được các quốc gia hữu quan công nhận, nhưng chỉ với phạm vi quyền đánh cá. Thực tế, Tunisia trong vụ phân định biển với Libya đã yêu sách quyền lịch sử không chỉ về đánh cá mà còn mở rộng đến thềm lục địa, tuy nhiên lập luận này không được Tòa thừa nhận.18 Trong vụ phân định biển giữa Eritrea và Yemen, Trọng tài cũng khẳng định rằng không có bằng chứng nào để khẳng định việc khai thác phân chim hoặc khoáng sản là một nội dung của chế độ đánh cá truyền thống mà đã từng tồn tại và tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay.19 Hơn nữa, quyền đánh cá được thừa nhận qua các vụ việc phải là quyền đánh cá truyền thống, ở mức độ thủ công, với quy mô nhỏ.20 Đồng thời khi xác định tính hợp pháp của quyền đánh cá này, tòa án quốc tế cũng còn dựa vào sự phụ thuộc của cộng đồng dân cư ven biển với hoạt động đánh cá.21 14. Phán quyết Vụ Phân định biển giữa Tunisia và Libya, đoạn 98-100 15. Vụ Ngư trường Đức-Iceland, 1974, đoạn 54 và Ngư trường Anh-Iceland, 1974, đoạn 62 16. Vụ Phân định biển giữa Eritrea và Yemen, 1999, đoạn 103 17. Vụ Phân định biển giữa Eritrea và Yemen, 1999, đoạn 108 và Vụ phân định biển giữa Barbados v. Trinidad and Tobago, 2006, đoạn 286 18. Phán quyết Vụ Phân định biển giữa Tunisia và Libya, đoạn 98 19. Vụ Phân định biển giữa Eritrea và Yemen, 1999, đoạn 104 20. Vụ Phân định biển giữa Eritrea và Yemen, 1999, đoạn 105-106 21. Nội dung này đã được các Tòa án và Trọng tài quốc tế đề cập đến trong hầu hết các phán quyết. Ví dụ như Vụ Ngư trường giữa Đức và Iceland, 1974, đoạn 47; Vụ Ngư trường giữa Anh và Iceland, 1974, đoạn 55; Vụ Phân định 123
  5. TS. Nguyễn Thị Lan Anh Như vậy, có thể nói, quyền lịch sử mới chỉ tồn tại rất hạn chế qua yêu sách biển của một vài quốc gia. Theo đó, quyền lịch sử là các quyền được yêu sách dựa trên lịch sử sử dụng biển lâu dài của quốc gia ven biển và phải được các quốc gia hữu quan công nhận. Trong những điều kiện chặt chẽ này, quyền lịch sử cũng mới chỉ được tòa thừa nhận với phạm vi hạn chế ở quyền đánh cá trong trường hợp quyền đánh cá ưu tiên của Iceland và quyền đánh cá lịch sử của Tunisia. Tuy nhiên, việc thừa nhận quyền đánh cá lịch sử của một quốc gia không đồng nghĩa loại bỏ hoàn toàn các quyền đánh cá của các quốc gia khác. Thay vào đó, tòa án và trọng tài quốc tế có xu hướng yêu cầu các quốc gia hữu quan thỏa thuận với nhau để quản lý và sử dụng quyền đánh cá lịch sử đúng với mục đích truyền thống và có tính đến các biện pháp bảo vệ môi trường, cũng như các quyền lợi của các quốc gia khác. Quyền lịch sử và quyền chủ quyền, quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Về quan hệ giữa quyền lịch sử với quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế, quyền lịch sử như đã phân tích tại phần trên có thể có phạm vi chồng lấn với quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với hoạt động thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên sinh vật biển của quốc gia ven biển mà cụ thể là quyền đánh cá. Vậy giữa quyền lịch sử và quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển tại vùng đặc quyền kinh tế quyền nào sẽ thắng thế nếu có những yêu sách chồng lấn? Đánh cá là một hoạt động cổ xưa của nhân loại.22 Trên rất nhiều vùng biển trên thế giới, đánh cá là một nghề nghiệp phổ biến và quan trọng đối với đời sống của người dân ven biển.23 Các hoạt động đánh cá tại các ngư trường truyền thống có thể diễn ra trước các quy định của Công ước Luật Biển và do vậy, khi các quy định của Công ước Luật Biển ra đời, các quốc gia vẫn muốn bảo lưu các yêu sách của mình liên quan đến các hoạt động đánh cá truyền thống. Điều này có thể đúng với quy định của Công ước Luật Biển năm 1958 khi công ước chỉ quy định chủ quyền quốc gia đối với lãnh hải, quyền chủ quyền với vùng tiếp giáp lãnh hải. Ngoài phạm vi vùng tiếp giáp lãnh hải là biển cả nơi các quốc gia đều có quyền bình đẳng trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên. Trong khi đó thực tiễn của các quốc gia châu Mỹ Latin cho thấy vùng đánh cá tiềm năng cho các quốc Vịnh Maine giữa Mỹ và Canada, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1984, đoạn 237; Vụ phân định biển tại khu vực giữa Greenland và Jan Mayen (Đan Mạch và Nauy), Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1993, đoạn 75; Vụ Phân định biển giữa Eritrea và Yemen, 1999, đoạn 64; Vụ phân định biển giữa Barbados và Trinidad và Tobago, 2006, đoạn 268. 22. Hoạt động đánh cá của nhân loại có khởi đầu từ cách đây hơn hàng chục nghìn năm, xem thông tin tại Paul Rincon, “Early humans followed the coast” tại www.news.bbc.co.uk/2/hi/science/nature/5398850 (truy cập ngày 22/8/2012). 23. Thống kê của FAO số lượng ngư dân và người nuôi thủy sản ước tính lên đến 38 triêu người. Ngư nghiệp và hoạt động nuôi thủy sản cung cấp việc làm trực tiếp và gián tiếp cho khoảng 500 triệu người trên thế giới. Xem thông tin tại Fisheries and Aquaculture in our Changing Climate, Policy Brief of the FAO for the UNFCCC COP-15 ở Copenhagen, / 12 / 2009 tại ftp://ftp.fao.org/FI/brochure/climate_change/policy_brief.pdf (truy cập ngày 22/8/2012) 124
  6. Vì sao “Quyền lịch sử” bị Công ước Luật Biển 1982 đưa vào lịch sử? gia ven biển có thể mở rộng đến phạm vi 200 hải lý.24 Vì vậy, các yêu sách về quyền lịch sử được đưa ra nhằm biện hộ cho yêu sách về quyền đánh cá trong phạm vi này. Trong thời gian này, các quốc gia không chỉ tìm cơ sở mở rộng yêu sách biển của mình thông qua quyền lịch sử mà còn phát triển một số khái niệm khác từ lịch sử như vùng nước lịch sử và vịnh lịch sử. Tuy nhiên, những nguyên tắc chung của luật quốc tế không tạo ra quy định về chế độ riêng cho vùng nước lịch sử hay vịnh lịch sử và chỉ tạo ra một chế độ đặc biệt cho mỗi trường hợp cụ thể đã được công nhận là vùng nước lịch sử hoặc vịnh lịch sử.25 Tính cá biệt của vùng nước lịch sử và vịnh lịch sử được áp dụng theo từng vụ việc càng được khẳng định khi cho tới nay, Vịnh Fonseca là trường hợp duy nhất được công nhận rộng rãi là Vịnh lịch sử. Và mặc dù được công nhận là vịnh lịch sử, quy chế của Vịnh Fonseca rất đặc thù khi ba quốc gia ven biển cùng chia sẻ chủ quyền với Vịnh và ngoài các quyền chung được hưởng như chế độ nội thủy thì các quốc gia ven vịnh lại phải chia sẻ quyền qua lại vô hại với tàu thuyền của tất cả các quốc gia khác.26 Ngay trong vụ Ngư trường Nauy thì vùng biển mà Tòa công nhận danh nghĩa truyền thống cho Nauy là vùng biển nằm phía trong đường cơ sở thẳng, thực chất là nội thủy. Điểm quan trọng nhất là điều kiện để vùng nước lịch sử hay vịnh lịch sử được công nhận là (i) sự thực thi chủ quyền hòa bình và liên tục và (ii) sự công nhận của cộng đồng quốc tế. Theo nghiên cứu của Ủy ban Luật quốc tế của Liên Hợp Quốc vào năm 1962, nhận thức chung về vùng nước lịch sử được mô tả như sau: Quốc gia yêu sách “vùng nước lịch sử” thực chất yêu sách về một vùng biển, theo quy định của luật quốc tế, thuộc biển cả. Vì biển cả là vùng biển thuộc sở hữu của tất cả các quốc gia, không phải là vùng đất vô chủ, vì vậy chủ quyền không thể được thực hiện bằng chiếm hữu. Thụ đắc với vùng nước lịch sử là quá trình “thụ đắc ngược”, giống như thụ đắc theo thời hiệu, hay nói cách khác chủ quyền đối với vùng nước lịch sử chỉ có thể đạt được thông qua một quá trình, trong đó người sở hữu hợp pháp ban đầu là cộng đồng các quốc gia được thay thế bằng quốc gia ven biển. Vì vậy, chủ quyền đối với vùng nước lịch sử là một tình huống bất hợp pháp sau đó được hợp pháp hóa. Quá trình hợp pháp hóa không đơn thuần chỉ cần thời gian, mà cần có sự thừa nhận của những người sở hữu hợp pháp.27 Sau này trong phán quyết phân định biển giữa Tunisia và Libya, Tòa đã lập luận về điều kiện hình hành “quyền hay vùng nước lịch sử” dựa trên thụ đắc.28 Từ “hay” cho thấy Tòa cho rằng điều kiện hình thành quyền lịch sử cũng phải thỏa mãn các điều kiện về thụ đắc của vùng nước lịch sử như nghiên cứu nói trên của Ủy ban Luật quốc tế của Liên Hợp Quốc. 24. Yêu sách của một loạt các quốc gia Châu Mỹ Latin như Chile, Peru, Ecuador, Panama, Brazil, El Salvador, Argen- tina, Nicaragua, cũng như một số nước Ả rập và Caribê trong quá trình thảo luận luật biển lần thứ 3. Xem thêm tại Nandan, “The Exclusive Economic Zone: A Historical Perspective” trong The Law of the Sea, Essays in Memory of Jean Caroz, Rome, 1987. 25. Vụ Phân định biển giữa Tunisia và Libya, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1982, tr. 74 26. Vụ Phân định biển giữa Tunisia và Libya, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1982, tr. 592-593 27. Tài liệu của Liên Hợp Quốc số A/CN.4/143, ngày 9/3/1962, tiêu đề “Judicial Regime of Historic Waters, Includ- ing Historic Bays”, (1962) 2 Yearbook of the International Law Commission, tr. 3, tại tr. 16 28. Vụ Phân định biển giữa Tunisia và Libya, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1982, đoạn 100 125
  7. TS. Nguyễn Thị Lan Anh Sau khi Công ước 1982 ra đời, quy định vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý trong đó các quốc gia ven biển có đặc quyền đối với các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật của vùng nước, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thì nhu cầu về quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia ven biển đã được đáp ứng.29 Yêu sách về Vịnh lịch sử đã phần lớn được pháp điển hóa trong quy định về Vịnh pháp lý. Một loạt các Vịnh được các quốc gia yêu sách là vịnh lịch sử trước đây như Vịnh Delaware, Chesapeake, Kênh Bristol hay Conception đều đã trở thành các Vịnh pháp lý bởi đường đáp ứng được hai điều kiện về đường đóng cửa vịnh và độ sâu của vùng nước bên trong đường đóng cửa vịnh theo quy định tại điều 10 của Công ước.30 Các yêu sách về quyền đánh cá lịch sử đã được đáp ứng bởi quy chế pháp lý về vùng đặc quyền kinh tế theo đó quốc gia ven biển có quyền chủ quyền với các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và phi sinh vật, thuộc vùng nước, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển trong phạm vi 200 hải lý kể từ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải.31 Các yêu sách về quyền lịch sử trong vùng nước quần đảo đã được đáp ứng theo quy chế của các quốc gia quần đảo, theo đó các quốc gia quần đảo được vẽ đường cơ sở quần đảo bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo, với điều kiện về độ dài của đoạn cơ sở và tỷ lệ đất và nước trong đường cơ sở.32 Đồng thời khi thừa nhận quyền của các quốc gia ven biển đất liền hay quần đảo, công ước cũng đã đưa ra những quy định để dung hòa quyền lợi của các quốc gia không có biển hoặc gặp bất lợi về mặt địa lý33 và các quốc gia có quyền đánh cá truyền thống trong khu vực vùng nước quần đảo.34 Ngay cả khi các bên vẫn tiếp tục dựa trên cơ sở về quyền lịch sử để yêu sách vùng biển sau khi Công ước Luật Biển 1982 đã được ký kết thì Tòa quốc tế cũng đã phản bác. Trong vụ phân định Vịnh Maine giữa Mỹ và Cananda, Tòa đã lập luận rằng: “Tòa đương nhiên sẵn sàng cho phép Mỹ với tư cách là một quốc gia ven biển có thể có ưu thế về quyền đánh cá không giới hạn về thời gian tại một số địa điểm trong thời kỳ cạnh tranh tự do. Nhưng sau khi các quốc gia ven biển đã thiết lập vùng đánh cá rộng 200 hải lý thì bối cảnh đã thay đổi cơ bản. Các quốc gia thứ ba và công dân của các 29. Điều 56 Công ước Luật Biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 30. Ý kiến phản đối của thẩm phán Oda trong vụ Tranh chấp lãnh thổ, đảo và vùng biển (El Salvador/Honduras: Nica- ragua can thiệp), Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1992, tr. 755-757  31. Theo quy định tại Điều 56 của Công ước 32. Theo quy định tại Điều 47 của Công ước 33. Điều 69, 70 của Công ước luật biển quy định rằng quốc gia không có biển và quốc gia gặp bất lợi về mặt địa lý có quyền tham gia, theo một thể thức công bằng, khai thác một phần thích hợp số dư các tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển trong cùng một tiểu khu vực hoặc khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế, dân cư và địa lý thích đáng của tất cả các quốc gia hữu quan trên cơ sở thỏa thuận song phương, tiểu khu vực hay khu vực. 34. Điều 51 của Công ước luật biển quy định rằng không ảnh hưởng đến các quyền đã được quy định cho quốc gia quần đảo theo quy chế của vùng nước quần đảo, “các quốc gia quần đảo tôn trọng các điều ước hiện hành đã được ký kết với các quốc gia khác và thừa nhận các quyền đánh bắt hải sản truyền thống và những hoạt động chính đáng của những quốc gia kế cận trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo và quốc gia quần đảo. Các điều kiện và thể thức thực hiện các quyền và các hoạt động này, kể cả tính chất, phạm vi của chúng và cả khu vực thực hiện các quyền và các hoạt động nói trên, được xác định theo yêu cầu của bất cứ quốc gia nào trong các quốc gia hữu quan qua các điều ước tay đôi được ký kết giữa các quốc gia đó. Các quyền này không được chuyển nhượng hay chia sẻ cho quốc gia thứ ba hay cho các công dân của các quốc gia ấy.” 126
  8. Vì sao “Quyền lịch sử” bị Công ước Luật Biển 1982 đưa vào lịch sử? nước này không còn quyền tiếp cận cũng như không còn các ưu thế mà họ đã có thể có được trong các vùng biển này trước đó. Với Mỹ, sự ưu thế về đánh cá mà Mỹ đã có được ở một số vùng biển được chuyển thành sự độc quyền về mặt pháp lý nếu các vùng biển đó là một phần của vùng đặc quyền kinh tế của Mỹ. Ngược lại, nếu vùng đó thuộc một phần của vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng, không có cơ sở nào để ưu thế đó tiếp tục tồn tại. Rõ ràng bất kể sự ưu tiên nào mà Mỹ có thể được hưởng trước đó không thể tạo ra cơ sở hợp pháp cho Mỹ yêu sách các vùng biển mà theo quy định của pháp luật đã trở thành một phần của vùng đặc quyền kinh tế của Canada. “35 Trong vụ phân định biển giữa Tunisia và Libya, Tòa cũng nhận định rằng quyền và danh nghĩa lịch sử về đánh cá mà Tunisia yêu sách có mối liên hệ với khái niệm vùng đặc quyền kinh tế, một khái niệm được quy định trong luật quốc tế hiện đại.36 Các án lệ của các cơ quan tài phán quốc tế cũng cho thấy, Tòa án và trọng tài quốc tế có xu hướng công nhận các quyền đánh cá lịch sử vào thời điểm trước khi Công ước 1982 có hiệu lực như các vụ ngư trường Nauy vào năm 1951, Ngư trường giữa Anh, Đức với Iceland vào năm 1974, phân định biển giữa Tunisia và Libyia vào năm 1982. Trong khi đó các vụ việc sau này quyền đánh cá lịch sử mặc dù được cả hai quốc gia cùng thừa nhận và yêu cầu tòa phân xử về quy chế pháp lý của quyền đánh cá truyền thống như vụ phân định biển giữa Eritrea và Yemen vào năm 1999 cũng như giữa Barbados và Trinidad và Tobago vào năm 2006 nhưng Tòa vẫn tiến hành phân định biển theo các quy định hiện hành của luật quốc tế về biển với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa và dành cho các bên sự tự do thỏa thuận về quyền đánh cá lịch sử. Do Công ước 1982 đã đáp ứng được tất cả các yêu sách hợp lý của các quốc gia ven biển, hầu hết các quốc gia không còn đưa ra yêu sách biển dựa trên quyền lịch sử. Trong các vụ việc sau khi Công ước 1982 được ký kết, quyền lịch sử thường chỉ còn được sử dụng để lập luận về hoàn cảnh hữu quan dẫn đến việc điều chỉnh đường cách đều trong phân định các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn. Tuy nhiên, trong hầu hết các vụ việc, Tòa án không công nhận quyền lịch sử là hoàn cảnh hữu quan. Ví dụ như trong vụ phân định biển tại Vịnh Maine giữa Mỹ và Canada, Mỹ đã yêu sách quyền đánh cá lịch sử là hoàn cảnh hữu quan nhưng Tòa đã khẳng định các hoạt động có liên quan đến nghề cá, hàng hải, phòng thủ hoặc thăm dò, khai thác tài nguyên dầu mỏ không thể được coi là hoàn cảnh hữu quan để xác định đường phân định biển.37 Trong vụ phân định biển giữa Qatar và Bahrain, Bahrain đã viện dẫn các hoạt động khai thác ngọc trai truyền thống như một hoàn cảnh hữu quan, nhưng Tòa Công lý quốc tế đã từ chối lập luận này.38 Trong vụ phân định biển giữa Barbados và Trinidad và Tobago, Trọng tài cũng lập luận rằng, cho dù quyền đánh cá truyền thống mà Barbados yêu sách có được công nhận, thì quyền truyền thống này cũng không phải là cơ sở để tạo ra cho Barbados một đặc quyền hoặc một sự ưu tiên để điều chỉnh đường cách đều trong phân định biển.39 Quyền đánh cá chỉ được công nhận là hoàn cảnh hữu quan duy nhất trong vụ Jan Mayen với lý do 35. Vụ Phân định Vịnh Maine giữa Mỹ và Canada, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1984, đoạn 235 36. Vụ Phân định biển giữa Tunisia và Libya, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1982, đoạn 100 37. Vụ Phân định Vịnh Maine giữa Mỹ và Canada, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1984, đoạn 237 38. Vụ Phân định biển giữa Qatar và Bahrain, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 2001, đoạn 236 39. Vụ phân định biển giữa Barbados v. Trinidad and Tobago, 2006, đoạn 266 127
  9. TS. Nguyễn Thị Lan Anh là đường cách đều nằm quá xa về phía Tây để có thể đảm bảo quyền tiếp cận công bằng với nguồn cá capelin. Tòa điều chỉnh đường cách đều để đạt được giải pháp công bằng cho hai bên. Tuy nhiên việc điều chỉnh này có tính đến yếu tố capelin là loài cá di cư theo mùa và sự phụ thuộc hoàn toàn vào ngư nghiệp của người dân trên đảo Jan Mayen. Kết luận của Tòa một phần cũng dựa trên việc quyền đánh cá truyền thống của người dân Jan Mayen với capelin cũng được Nauy thừa nhận.40 Đồng thời, cũng cần lưu ý rằng, kết luận của Tòa trong vụ Jan Mayen chỉ là ngoại lệ, không phải là một nguyên tắc chung trong phân định biển.41 Về quan hệ giữa quyền lịch sử với quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển trong thềm lục địa, trong vụ việc phân định biển giữa Tunisia và Libya, Tunisia đã lập luận rằng việc thai thác trong lịch sử, và việc tiếp tục thực hiện các quyền này bởi người dân Tunisia đối với các loài sinh vật biển không di chuyển, cũng như việc quản lý và giám sát việc thực hiện các quyền chủ quyền của chính quyền Tunisia với các loài cá đã nhận được sự thừa nhận của các quốc gia thứ ba, vì vậy, đã xác lập quyền lịch sử của Tunisia với một phần của vùng đáy biển. Đáp lại lập luận này, Libya cho rằng thực tiễn đánh cá của một quốc gia không thể có hiệu lực thắng thế so với những quyền đương nhiên và ngay từ đầu mà quốc gia khác được hưởng từ sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển. Hơn nữa, quyền đánh cá lịch sử không thể tạo ra chủ quyền, cho dù quyền đó được thực hiện một cách đơn phương tại một khu vực đơn lẻ hay nhận được sự thừa nhận của quốc tế như Tunisia đang lập luận. Địa điểm của các loài cá sống ở đáy biển hoặc thậm chí trong trường hợp một quốc gia có quyền kiểm soát nhiều hơn với các loài cá này không có liên quan gì với sự kéo dài tự nhiên của thềm lục địa với đất liền và cho dù quyền lịch sử có thuộc về một quốc gia ven biển hay không, quyền này không thể có ảnh hưởng đến quyền đương nhiên của một quốc gia với thềm lục địa. Ủng hộ lập luận của Libya, tòa cho rằng khái niệm quyền lịch sử hay vùng nước lịch sử và khái niệm thềm lục địa được điều chỉnh bởi những quy chế pháp lý hoàn toàn khác nhau trong tập quán quốc tế. Quyền lịch sử và vùng nước lịch sử dưa trên sự thụ đắc và chiếm hữu, còn thềm lục địa dựa trên quyền đương nhiên và ngay từ đầu. Đôi khi hai khái niệm này có thể trùng nhau một phần hoặc toàn bộ nhưng sự trùng hợp đó là hoàn toàn ngẫu nhiên. Trong trường hợp này, nếu khu vực đánh cá lịch sử của Tunisia bao trùm việc tiếp cận với một phần thềm lục địa của nước này thì khu vực này cũng chỉ kéo dài đến hết phạm vi của quyền đánh cá lịch sử.42 Hơn nữa, quy chế pháp lý của thềm lục địa được khẳng định trong phán quyết của vụ Thềm lục địa biển Bắc43 và Công ước Luật Biển 198244 theo nguyên tắc đất thống trị biển. Theo đó, quyền chủ quyền của quốc gia ven biển tại thềm lục địa là ipso facto, đương nhiên và ngay từ đầu, và không phụ thuộc vào tuyên bố của quốc gia ven biển. Quyền chủ quyền đó có được trên cơ sở quốc gia ven biển có chủ quyền với lãnh thổ 40. Vụ phân định biển tại khu vực giữa Greenland và Jan Mayen (Đan Mạch và Nauy), Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1993, đoạn 75-76 41. Vụ phân định biển giữa Barbados và Trinidad và Tobago, Phán quyết của trọng tài, 2006, đoạn 269. 42. Vụ Phân định biển giữa Tunisia và Libya, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1982, đoạn 98-100 43. Vụ Thềm lục địa biển Bắc, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1969, tr. 39-56 44. Theo quy định tại Điều 76, Công ước Luật Biển 1982 128
  10. Vì sao “Quyền lịch sử” bị Công ước Luật Biển 1982 đưa vào lịch sử? đất liền và thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển. Trong khi đó việc hình thành nên quyền lịch sử lại dựa vào thụ đắc, tức là trải qua quá trình sử dụng lâu dài và được sự công nhận của các quốc gia khác. Nếu một quốc gia ven biển có quyền lịch sử cả với các loài sinh vật biển ở một phần ở đáy biển của nước này thì chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, không có nghĩa là quyền lịch sử được thiết lập với đáy biển.45 Chính vì vậy, việc viện dẫn quyền lịch sử không thể xâm phạm đến quyền chủ quyền và quyền tài phán đương nhiên tại thềm lục địa của một quốc gia khác. Nói cách khác, quyền lịch sử không thể có giá trị pháp lý phủ nhận hay ngang bằng với quyền chủ quyền và quyền tài phán tại thềm lục địa. Như vậy, quyền lịch sử đã được thay thế bởi quyền chủ quyền và quyền tài phán theo quy định của Công ước 1982. Quyền lịch sử, đúng như tên gọi, chỉ có chăng chỉ tồn tại trong hoàn cảnh lịch sử trước khi Công ước 1982 có hiệu lực với những điều kiện chặt chẽ là sự thừa nhận quốc tế và lịch sử khai thác, sử dụng biển lâu dài của quốc gia ven biển. Khả năng áp dụng quyền lịch sử trong tranh chấp biển Đông Biển Đông là một vùng biển nửa kín bao quanh bởi Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Brunei, Philippines và Đài Loan. Biển Đông đã được biết đến với lịch sử sử dụng biển lâu dài của người dân của các quốc gia ven biển, cũng như sự có mặt từ rất sớm của các cường quốc như Hà Lan, Anh, Pháp… Ngoài tranh chấp về chủ quyền phức tạp và kéo dài với các nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lịch sử khai thác biển cũng là cơ sở để các quốc gia ven Biển Đông đưa ra các yêu sách vùng biển của mình. Tuy nhiên, cho tới nay, cùng với việc các quốc gia ven Biển Đông (trừ Campuchia) đều đã trở thành thành viên của Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc, đa số các yêu sách biển đã được các quốc gia yêu sách phù hợp với quy định của luật quốc tế hiện hành. Đó là các quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển. Hiện nay, chỉ còn yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc vẫn đang dựa trên các danh nghĩa lịch sử. Trung Quốc cho rằng từ tháng 12/1914, Hu Jinjie, một chuyên gia về vẽ bản đồ người Trung Quốc là người đầu tiên vẽ đường chín đoạn sau khi Đài Loan giành lại nhóm đảo Đông Sa từ đế quốc Nhật vào tháng 10/1909. Sau sáng kiến này, các bản đồ của Trung Quốc xuất bản từ giai đoạn những năm 1920 và 1930 sau đó đều dựa trên bản vẽ của Hu Jinjie về vùng biển này.46 Đường chín đoạn sau này được chính thức vẽ bởi Bai Meichu, một viên chức của Đài Loan47 vào tháng 12/1947 và trước đó đã có một đường tương tự xuất hiện trên New China’s Construction Atlas do ông này biên tập vào giữa những năm 1930.48 45. Vụ Phân định biển giữa Tunisia và Libya, Phán quyết, Báo cáo của ICJ, 1982, đoạn 100 46. Zou Keyan, “Chinese Traditional Maritime Boundary Line in the South China Sea: Legal Implications for the Spratly Islands Dispute”, EAI Background Brief No. 14 (Singapore, 7 May 1998, tr. 5 và 7) 47. Huang Yi và Wei Jingfen, “The Legal Status of the South China Sea”, trong Taiwan on the Move, tác giả: Jeh-hang Laivaf Goerge T. Yu (Taiwan: National Central University, tháng 10/1998), tr. 213. Bai đã được mời đến Bắc Kinh vào mùa hè 1990 để giải thích tại sao ông lại vẽ đường này. Tại thời điểm đó, ông đã hơn 80 tuổi và vì tuổi  cao, đã không thể nói hết được những lí do chính xác về việc vẽ đường này của ông. Tuy vậy, ông cũng nói rằng daoyu guishu xian (thực tế đường này chỉ ra quần đảo này thuộc về nước nào). 48. Zou, tài liệu đã dẫn, tr.6. Vào tháng 1/2000, Xinhuashe (New China News Agency) báo cáo rằng bản đồ do người 129
  11. TS. Nguyễn Thị Lan Anh Trung Quốc nhận định rằng, với mục đích việc chỉ rõ phạm vi vùng biển của Trung Quốc trên Biển Đông, Cục Địa lý thuộc Bộ Nội vụ đã in Bản đồ vị trí của các đảo trên vùng Biển Đông năm 1947.49 Trong bản đồ này, Pratas, Hoàng Sa, Macclesfield Bank và Trường Sa được chỉ ra rằng là một phần thuộc Trung Quốc với việc sự sử dụng đường 11 đoạn. Tháng 1/1948,  Bộ Nội Vụ Đài Loan chính thức công bố một bản đồ có tên Nanhai zhudao weizhi tu (Bản đồ các đảo trên Nam Hải). Tháng 2/1948, Cục Địa lý thuộc Bộ Nội vụ đã phát hành Bản đồ địa phận hành chính của Đài Loan, biên tập bởi Fu Jiaojin và được chấp thuận của Wang Xiguang và những người khác. Đây là lần đầu tiên mà bản đồ được đánh dấu với các đường đứt đoạn trên Biển Đông được chính thức phát hành. Trong những bản đồ của Trung Quốc, được phát hành sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949, đường 11 đoạn trên Biển Đông vẫn tuân theo những bản đồ cũ. Sau này, 2 đoạn của đường này trên vịnh Bắc Bộ đã được xóa bỏ. Bản đồ được phát hành năm 1953 đã thể hiện đường 9 đoạn trên Biển Đông. Thực chất, cho đến thời gian gần đây, các học giả Trung Quốc vẫn còn đưa ra một vài giả thuyết về giá trị pháp lý của đường chín đoạn. Theo đó, đường chín đoạn có thể là đường quy thuộc đảo để yêu sách chủ quyền của tất cả các đảo nằm phía trong đường này, hoặc là đường yêu sách chủ quyền của cả đảo và vùng biển. Do vậy, vùng biển nằm bên trong đường chín đoạn có thể là vùng nước lịch sử hoặc vùng nước mà Trung Quốc có quyền lịch sử.50 Nếu xét về mặt thời gian yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc mới chỉ chính thức được vẽ trên bản đồ bởi một cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc vào năm 1947. Tuy nhiên, ngoài tiêu đề là “Bản đồ vị trí các đảo trên Nam Hải”, bản đồ không được kèm theo bất kỳ sự giải thích nào của chính phủ Trung Quốc. Mãi đến năm 2009, cùng với việc đệ trình lên Liên Hợp Quốc tuyên bố phản đối về đệ trình ranh giới ngoài thềm lục địa của Việt Nam và Malaysia trên biển Đông, Trung Quốc lần đầu tiên đã đính kèm bản đồ đường chữ U. Trong tuyên bố phản đối này, Trung Quốc cũng chưa đưa ra giải thích chính thức nào cho yêu sách đường chín đoạn ngoài việc tuyên bố rằng “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo trong biển Đông và các vùng biển tiếp liền, và được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển có liên quan cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy biển tương ứng (xem bản đồ đính kèm)”.51 Vào ngày 15/9/2011, trả lời câu hỏi của các phóng viên về việc yêu sách của Trung Quốc vi phạm Công ước 1982, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nói rằng “Yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền và các quyền khác của Trung Quốc tại Biển Đông được hình thành trong lịch sử “ và “ UNCLOS... không hạn chế hay phủ Trung Quốc vẽ lần đầu tiên vào tháng 10/1845 được phát hiện tại thành phố Shijianzhuang, tỉnh Hebei. Bản đồ thế giới này có đề cập đến quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Đông Sa. 49. Li Jinmin & Li Dexia, “The dotted line on the Chinese map of the South China Sea: A Note”, 34(2003) Ocean Development & International Law, tr. 287-288 50. Các phương án giải thích này vẫn được các học giả Trung Quốc tiếp tục sử dụng. Trong cuộc hội thảo về Khai thác chung và Biển Đông do Trung tâm Luật Quốc tế tổ chức tại, Singapore, ngày 16-17/6/2011 Giáo sư Wu Shicun đã nhắc lại các phương án giải thích này và nhấn mạnh cho dù chưa thống nhất được phương án giải thích nhưng Trung Quốc nhất định không từ bỏ yêu sách về đường chữ chín đoạn. 51. Đoạn 2 Tuyên bố ngày 7/5/2009 của Trung Quốc. Bản đồ đính kèm ở đây chính là bản đồ đường chín đoạn. 130
  12. Vì sao “Quyền lịch sử” bị Công ước Luật Biển 1982 đưa vào lịch sử? nhận quyền của một quốc gia đã được hình thành và thừa nhận trong lịch sử. “52 Trong các vụ việc đã được tòa ra phán quyết về quyền lịch sử, tòa không khẳng định khoảng thời gian cần thiết cho việc thực thi các quyền này. Tuy nhiên, so với hàng thế kỷ trong yêu sách của Nauy, Iceland hay Tunisia thì chỉ khoảng từ năm 2009 hay 2011 khi Trung Quốc chính thức đưa ra một yêu sách mập mờ, hay kể cả từ năm 1947 khi Trung Quốc lần đầu xuất bản bản đồ, đến nay chưa đáp ứng yêu cầu về lịch sử sử dụng biển lâu dài. Quan trọng hơn, trong khoảng thời gian này, Trung Quốc chưa thể hiện được việc thực thi các quyền lịch sử tại các vùng nước nằm phía trong đường chín đoạn. Không thể phủ nhận là ngư dân Trung Quốc có thể đã biết đến các hoạt động đánh bắt cá từ rất sớm. Tuy nhiên, hoạt động đánh bắt cá tại Biển Đông chưa bao giờ là đặc quyền riêng biệt và chiếm ưu thế của riêng ngư dân Trung Quốc. Ngư dân của Việt Nam, Philippines, Thái Lan, Malaysia cũng coi Biển Đông là các ngư trường truyền thống lâu đời của mình.53 Thực tiễn này phù hợp với lịch sử hình hành bản đồ đường chín đoạn vì cho đến năm 1947 khi bản đồ này được xuất bản lần đầu tiên thì tiêu đề của bản đồ này là “Bản đồ vị trí các đảo trên Nam Hải “, hoàn toàn chỉ nhấn mạnh đến vị trí các đảo, không thể hiện các yêu sách đối với vùng biển nằm trong đường chín đoạn của chính phủ Trung Quốc. Hơn nữa, yêu sách quyền lịch sử cho vùng nước nằm trong đường chín đoạn chưa từng nhận được sự công nhận của các quốc gia hữu quan. Mỹ, qua tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Clinton tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) vào năm 2010 và 2012 và Nghị quyết của Thượng viện Mỹ về Biển Đông (ngày 3/8/2012), đã kêu gọi các bên tranh chấp làm rõ các yêu sách của mình trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Luật Biển 1982.54 Các yêu sách về vùng biển trên Biển Đông chỉ có thể dựa trên yêu sách lãnh thổ hợp pháp. Các tuyên bố này đã gián tiếp bác bỏ yêu sách quyền lịch sử vì yêu sách này không dựa trên các yêu sách lãnh thổ phù hợp với quy định của Công ước Luật Biển 1982. Philippines cũng đã đưa ra Công hàm phản đối yêu sách vùng biển tiếp liền và vùng biển có liên quan trong đó có đính kèm bản đồ đường chín đoạn của Trung Quốc và cho rằng các vùng biển này có giới hạn và cần được xác định phù hợp với quy định của Công ước Luật Biển 1982.55 Cựu Ngoại trưởng S. Jayakumar56 và Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao của Singapore57 cũng bày quan điểm rằng việc công bố bản đồ đường 9 đoạn của Trung Quốc tạo ra quan ngại cho cộng đồng biển quốc tế vì những 52. Phát biểu của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Jiang Yu tại cuộc họp báo thường kỳ ngày 15/9/2011, tại http:// www.fmprc.gov.cn/eng/xwfw/s2510/t860126.htm 53. Các tài liệu lịch sử của Việt Nam như Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cho thấy ngư dân Việt Nam đã được tổ chức thành các đội Hoàng Sa và Bắc Hải để khai thác sản vật và tìm nhặt hàng hóa của các con tàu đắm dạt vào các đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ XVII. 54. Tuyên bố của Ngoại trưởng Cliton tại ARF ngày 12/7/2012: http://www.state.gov/secretary/ rm/2012/07/194987.htm và Nghị quyết S.Res.524 ngày 2/8/2012 của Thượng viện Mỹ về biển Đông 55. Công hàm của Philippines gửi tới Liên Hợp Quốc ngày 5/4/2011 tại www.un.org/Depts/los/clcs_new/submis- sions_files/mysvnm33_09/phl_re_chn_2011.pdf 56. Bài phát biểu khai mạc Hộ thảo Khai thác chung và Biển Đông do Trung tâm Luật quốc tế, Đại học quốc gia Sin- gapore tổ chức ngày 16-17/6/2011. 57. Người phát ngôn Bộ ngoại giao trả lời câu hỏi của báo chí nhân chuyến tham của tàu hải giám Haixun 31 đến Singapore ngày 20/6/2011, tại www.mfa.gov.sg/ 131
  13. TS. Nguyễn Thị Lan Anh yêu sách biển mập mờ và kêu gọi Trung Quốc làm rõ các yêu sách biển của mình. Việt Nam cũng có công hàm gửi tới Liên Hợp Quốc phản đối giá trị pháp lý của bản đồ này về cơ sở pháp lý lịch sử và thực tế.58 Ngoài ra, những biện pháp mà Trung Quốc đang sử dụng trên thực tế cho thấy Trung Quốc yêu sách vượt quá phạm vi của quyền lịch sử cho dù nếu quyền này có được thiết lập. Trong các vụ việc đã được tòa ra phán quyết về quyền lịch sử, quyền lịch sử chỉ được thừa nhận trong phạm vi quyền đánh cá thủ công và truyền thống. Trong khi đó, Trung Quốc là quốc gia đứng đầu về đánh bắt cá với sản lượng trung bình từ năm 1995 trở lại đây là khoảng xấp xỉ 15 triệu tấn một năm.59 Trong năm 2012, Trung Quốc còn cử đến Biển Đông “hàng không mẫu hạm “ Hải Nam Bảo Sa 001, một trong bốn chiếc tàu chế biến thủy sản lớn nhất thế giới, mang theo bốn nhà máy chế biến, 14 dây chuyền sản suất và 600 công nhân. Con tàu có một chu trình khép kín từ khai thác, chế biến và bảo quản sản phẩm, có thể xử lý lên đến 2100 tấn thủy hải sản mỗi ngày và có thể hoạt động liên tục trên biển trong vòng chín tháng.60 Tất cả những yếu tố ngày cho thấy hoạt động đánh bắt cá của Trung Quốc đã được công nghiệp hóa, không còn là hoạt động thủ công, truyền thống. Không chỉ yêu sách về quyền đánh cá, việc Trung Quốc ngăn cản hoạt động thăm dò, khai thác dầu mỏ và khí đốt của Philippines tại bãi Cỏ Rong, cắt cáp tàu thăm dò địa chấn của Việt Nam và mới đây nhất là công bố 9 lô dầu khí trên vùng thuộc thềm lục địa của Việt Nam cho thấy Trung Quốc có ý định yêu sách quyền lịch sử cả đối với các tài nguyên thuộc đáy biển và lòng đất dưới đáy biển trong phạm vi thềm lục địa của các quốc gia ven biển. Yêu sách này theo phán quyết của Tòa trong vụ việc phân định biển giữa Tunisia và Libya là hoàn toàn không phù hợp với quyền lịch sử và là sự vi phạm quyền chủ quyền đương nhiên và ngay từ đầu, ipso ab initio, của quốc gia ven biển theo quy định của Công ước 1982. Có thể nói, yêu sách biển rộng lớn của Trung Quốc đối với vùng nước nằm trong đường chín đoạn được yêu sách dựa trên thực tiễn biển chưa lâu dài và vượt quá phạm vi của quyền lịch sử, đồng thời chưa từng được các quốc gia hữu quan công nhận. Yêu sách này đi ngược lại các quy định của Công ước 1982 mà Trung Quốc cũng là thành viên về quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Do vậy, quyền lịch sử không phải là một cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách các vùng biển trong Biển Đông. Đại dương chiếm 2/3 diện tích bề mặt trái đất và từ cổ xưa người dân ven biển của nhiều quốc gia đã biết tận dụng bề mặt đại dương rộng lớn vào giao thông hàng hải và đánh bắt cá. Nhằm bảo tồn các hoạt động truyền thống này, nhưng cũng đồng thời nhằm tối đa hóa lợi ích quốc gia trên biển, một số quốc gia, trong số đó có quốc gia ở Biển Đông, đã sử dụng quyền có tính lịch sử để mở rộng yêu sách trên biển. Từ số lượng hạn chế các thực tiễn quốc gia và án lệ của tòa án quốc tế về quyền lịch sử, có thể thấy 58. Công hàm của Việt Nam ngày 8/5/2009 tại www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mys- vnm33_09/vnm_chn_2009re_mý_vnm_e.pdf 59. Thống kê của FAO, tại www.fao.org/fishery/countrysector/fi-CP_CN/3/en 60. Xu Tianran, “Deep-water drilling starts”, Global Times, on 9 May 2012; also in Youna Lyons and Tara Daven- port, “South China Sea: Limites to commercial fishing by claimants”, RSIS Commentaties, No. 113/2012 ngày 3/7/2012; Carl Thayer, “South China Sea: China’s Floating Factory Makes a Debut” ngày 4/7/2012. 132
  14. Vì sao “Quyền lịch sử” bị Công ước Luật Biển 1982 đưa vào lịch sử? để thiết lập được quyền này các quốc gia ít nhất phải đáp ứng được các yêu cầu ngặt nghèo về việc thực thi quyền lịch sử trong một thời gian lâu dài và được sự công nhận của các quốc gia hữu quan. Trong điều kiện chặt chẽ này, quyền lịch sử cũng mới chỉ được thiết lập ở quyền đánh cá thủ công và truyền thống. Cùng với sự phát triển của luật biển quốc tế, đa số các quyền lịch sử hiện nay đã được thay thế bởi quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế. Quyền lịch sử của các quốc gia khác nếu có được thiết lập cũng phải nhường hiệu lực cho quyền chủ quyền và quyền tài phán mà Công ước Luật Biển 1982 quy định là đặc quyền cho các quốc gia ven biển. Vì vậy, tại Biển Đông, sự tồn tại của yêu sách quyền lịch sử chiếm đến hơn 80% diện tích của vùng biển nửa kín này mà không dựa trên các cơ sở pháp lý, không được thừa nhận bởi các quốc gia hữu quan, chồng lấn vào vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển là sự đi ngược lại các quy định của pháp luật quốc tế. 133
  15. 134
  16. 9 “NGHĨA VỤ” HỢP TÁC CỦA CÁC QUỐC GIA LÁNG GIỀNG TRONG VÙNG BIỂN KÍN HOẶC NỬA KÍN GS. Erik Franckx và Marco Benatar Đại học Vrije Brussel, Bỉ Lời mở đầu: Tầm quan trọng của hợp tác Khi năm 2012 sắp kết thúc, những sự kiện gần đây một lần nữa minh chứng rằng Biển Đông là một khu vực có xu hướng tranh chấp. Tại khu vực này của thế giới, bên cạnh những cạnh tranh về tài nguyên, về danh nghĩa các đảo và phân định vùng biển, các động thái đơn phương của bất cứ quốc gia ven biển nào đều có khả năng đẩy căng thẳng tới bờ vực thẳm. Chỉ có thông qua hợp tác, các nước tại Biển Đông mới có thể thoát ra khỏi tình trạng sa lầy một cách đúng đắn và đôi bên cùng có lợi. Việc tránh leo thang trong ngắn hạn và các giải pháp dài hạn cho những nguồn gốc gây ra cạnh tranh đều có thể đạt được thông qua biện pháp hợp tác. Hợp tác về chủ đề biển có thể xuất hiện trong nhiều lĩnh vực, từ nghề cá tới tìm kiếm và cứu hộ. Những kinh nghiệm trong quá khứ từ những khu vực khác nhau trên thế giới đã chỉ ra việc hợp tác thành công trong một số lĩnh vực có thể tạo được hiệu ứng lan tỏa, từ đó thay đổi tích cực mối quan hệ giữa các quốc gia. Thậm chí, tại những vùng biển vẫn chưa được phân định do các yêu sách vùng biển chồng lấn nhau, các ví dụ thực tiễn gần đây và đầy hứa hẹn đã chứng minh rằng các nước có thể làm việc cùng nhau trong các vấn đề cụ thể1. 1. Về điểm này, một trường hợp xuất sắc là tại Bắc Cực, nơi các quốc gia khu vực đã tiến tới ký kết được Thỏa thuận về Hợp tác về Tìm kiếm và Cứu hộ Hàng không và Hàng hải tại Bắc Cực. Hiệp ước đa phương, ký ngày 12/5/2011 (đăng tải trên tại ). Các vấn đề phát sinh từ sự thất bại trong việc dàn xếp các đường biên giới không ngăn cản sự ký kết văn bản này, nhờ có Điều 3(2), cụ thể: “Sự giới hạn các khu vực tìm kiếm và cứu hộ không liên quan tới và sẽ không tổn hại tới sự giới hạn bất kỳ đường biên giới nào giữa các Quốc gia về chủ quyền, quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán”. Ví dụ điển hình là Bắc Cực, tại đây, các quốc gia trong khu 135
  17. GS. Erik Franckx và Marco Benatar Từ quan điểm của nhà nghiên cứu luật, có nhiều điều để nói về hợp tác. Một trong những khía cạnh đáng ghi nhận nhất của luật quốc tế đương đại là sự thay đổi về bản chất của hợp tác. Trong thế kỷ cũ mà chúng ta đã trải qua, hãy sử dụng mệnh đề nổi tiếng của Friedmann, đó là một sự thay đổi từ “luật cùng tồn tại” sang “luật về hợp tác2”. Ngày nay, luật quốc tế đặt ra rất nhiều nghĩa vụ hợp tác, yêu cầu các quốc gia “hành xử một cách có thiện chí khi theo đuổi mục tiêu chung và chú ý tới những đòi hỏi của các quốc gia có liên quan khác3.” Các mục tiêu cần đạt được rất khác nhau và cũng tương tự với các nguồn luật, dù là từ tập quán hay từ điều ước. Trong một vài ngành luật, đặc biệt là ngành luật môi trường quốc tế, nghĩa vụ hợp tác đóng vai trò quan trọng4. Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển (Gọi tắt Công ước 1982)5 cũng không tách rời khỏi xu hướng chung đó. Lướt qua một số điều khoản của Công ước sẽ cho phép người đọc phát hiện ra nhiều nghĩa vụ như vậy trong các chủ đề đáng chú ý khác nhau6. Điều 123 của Công ước 1982: Tìm kiếm luật ở sai chỗ Do vậy, không có gì ngạc nhiên khi nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tới diễn biến tại Biển Đông đã tìm đến Công ước 1982 như là nguồn chính cung cấp các nghĩa vụ ràng buộc để bắt buộc các quốc gia ven biển hợp tác nhằm theo đuổi các mục tiêu chung. Trên thực tế, trước hết (prima facie) điều này có thể được giải thích bởi hai lý do: (i) tất cả các quốc gia có yêu sách vùng biển/đảo tại Biển Đông đều là thành viên của Công ước: Brunei, Malaysia, CHND Trung Hoa, Philippines và Việt Nam7; và (ii) có rất nhiều nghĩa vụ hợp tác nảy sinh từ Công ước 1982 phù hợp với các vấn đề đang tồn tại trong khu vực. Trong các điều khoản của Công ước 1982 được viện dẫn nhằm ủng hộ đòi hỏi vực đã cố gắng đạt được Thỏa thuận về Hợp tác trong tìm kiếm cứu nạn hàng không và hàng hải tại Bắc Cực. Hiệp định song phương, được kí kết ngày 12/5/2011 (đăng tải trên ). Các vấn đề xuất phát từ việc không xác định biên giới không ngăn cản việc đạt được thỏa thuận trên, nhờ Điều 3(2), theo đó: “Việc phân định các khu vực tìm kiếm và cứu nạn không liên quan và không làm phương hại đến việc phân định biên giới giữa các quốc gia hay chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia này.” 2. W. Friedmann, The Changing Structure of International Law (Columbia University Press, 1964). 3. T. Scovazzi, “The Evolution of International Law of the Sea: New Issues, New Challenges”, 286 Collected Courses of the Hague Academy of International Law (2000), tr. 132-133. 4. M. Fitzmaurice, “International Protection of the Environment”, 293 Collected Courses of the Hague Academy of International Law (2001), tr. 442. 5. Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Công ước đa phương, được ký kết ngày 10/12/1982, 1833 U.N.T.S. 397. Công ước có hiệu lực ngày 16/11/1994 (có trên ). Sẽ gọi tắt trong các phần tiếp theo là Công ước 1982. 6. Tham khảo M.C.W. Pinto, “The Duty of Co-Operation and the United Nations Convention on the Law of the Sea”, in A. Bos & H. Siblesz (eds.), Realism in Law-Making: Essays on International Law in Honour of Willem Ripha- gen (Nijhoff, 1986), tr. 131-154 (đề xuất các nghĩa vụ hợp tác theo khu vực (ratione loci: các lĩnh vực thuộc quyền tài phán quốc gia, biển cả, các nước không có biển hoặc có địa lý bất lợi; đáy biển ngoài quyền tài phán quốc gia) và theo lĩnh vực cụ thể (ratione materiae: bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển và chuyển giao công nghệ biển; các vật khảo cổ học và lịch sử được tìm thấy dưới biển). 7. Ngày ký kết: Brunei (5/12/1984), Malaysia (10/12/1982), CHND Trung Hoa (10/12/1982), Philip- pines (10/12/1982), Việt Nam (10/12/1982); Ngày phê chuẩn/ gia nhập: Brunei (05/11/1996), Malaysia (14/10/1996), CHND Trung Hoa (7/6/1996), Philippines (08/05/1984), Việt Nam (25/07/1994). Ở đây cần nhận định rằng Đài Loan, cũng nằm trong khu vực Biển Đông và có yêu sách. Tuy nhiên, quy chế của thực thể này vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi trong luật quốc tế, do đó, Đài Loan không được tham gia vào Công ước 1982. Bất cứ chi tiết liên quan đến vấn đề này không nằm trong phạm vi đề cập của bài viết này. 136
  18. “Nghĩa vụ” hợp tác của các quốc gia láng giềng trong vùng biển kín hoặc nửa kín về hợp tác, một số chuyên gia đã nhận định Điều 123 là một trong số đó. Điều khoản này thuộc Phần IX, có nội dung như sau: Phần IX BIỂN KÍN HAY NỬA KÍN ĐIỀU 122. Định nghĩa Trong Công ước, “biển kín hay nửa kín” là một vịnh, một vũng hay một vùng biển do nhiều quốc gia bao bọc xung quanh và thông với một biển khác hay với đại dương qua một cửa hẹp, hoặc là hoàn toàn do chủ yếu hay các lãnh hải và các vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia tạo thành. ĐIỀU 123. Sự hợp tác giữa các quốc gia ven biển kín hay nửa kín Các quốc gia ở ven bở một biển kín hay nửa kín cần hợp tác với nhau trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ theo Công ước. Vì mục đích này, trực tiếp hoặc qua trung gian của một tổ chức khu vực thích hợp, các quốc gia này cố gắng: a) Phối hợp trong việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác các tài nguyên sinh vật của biển; b) Phối hợp trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển; c) Phối hợp các chính sách khoa học của họ, và nếu có thể, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học chung trong vùng được xem xét; d) Nếu có thể thì mời các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế hữu quan hợp tác với họ trong việc áp dụng điều này. Địa lý của Biển Đông đáp ứng được miêu tả quy định trong Điều 122. Theo hệ quả lô-gíc, Điều 123 có thể áp dụng trong trường hợp này. Dường như có một sự đồng thuận rộng rãi về điểm này. Tuy nhiên, các ý kiến bắt đầu trái chiều khi chúng ta xem xét kỹ càng hơn vào tác động cụ thể của quy định trên. Khi chúng ta đọc Điều 123 thì dường như cách trình bày và sử dụng từ ngữ của điều này không hàm ý những nghĩa vụ độc lập, ràng buộc (và dường như được hành văn một cách chuẩn tắc (normative). Khi xem xét văn bản chuẩn bị (travaux preparatoires) thì không thấy có gợi ý khác, hay ngược lại. Tương tự như vậy, không khí bao trùm khu vực là điềm tốt cho bất cứ sự chuyển dịch nào sau đó về hành động của quốc gia cùng với quy phạm pháp lý bắt buộc (opinio juris) có thể dẫn tới một cách diễn giải khác. Mặc dù có sự lựa chọn về thuật ngữ, gần đây một số nhà học giả cũng đã có lập trường khác, ủng hộ ý nghĩa pháp lý rộng hơn của Điều 123 tại Biển Đông, hay gợi ý về các nghĩa vụ có thể nảy sinh từ Điều 123. Chẳng hạn, tác giả Hu lập luận rằng: “Phần IX của Công ước 1982, đặc biệt là Điều 123, có ý định quy định nghĩa vụ hợp tác đối với các quốc gia láng giềng nằm trong biển kín hay nửa kín để quản lý các hoạt động nảy sinh trong môi trường biển chung và để giải quyết mối quan hệ qua lại giữa họ”8. 8. N.-T. A. Hu, “Semi-enclosed Troubled Waters: A New Thinking on the Application of the 1982 UNCLOS Article 137
  19. GS. Erik Franckx và Marco Benatar Townsend-Gault, lập luận theo một quan điểm có chút khác biệt, áp dụng cho trường hợp Biển Đông cách tiếp cận chức năng đối với hợp tác trong lĩnh vực biển. Ông viết: “việc lựa chọn ngôn ngữ “luật” [trong Điều 123, Công ước 1982] có thể ít quan trọng hơn việc nó thể hiện. Mặc dù không có những điều khoản cụ thể, chắc chắn sẽ không kém phần quan trọng khi ghi nhận rằng những người soạn thảo UNCLOS đã lựa chọn một số lĩnh vực biển để lưu tâm đặc biệt. Phải có một lý do vững chắc để đưa ra loại “biển kín và nửa kín” và quy định một số loại hình hợp tác giữa các nước láng giềng” 9. Đối với điều này, chúng ta có thể thêm một số đoạn khác, dường như bao hàm những quy định có tính chất ràng buộc bắt nguồn trong Điều 123, thông qua việc đưa vào những nghĩa vụ hợp tác và sau đó viện dẫn tới quy định này trong câu tiếp theo10. Những yêu sách như vậy không phải là không có tiền lệ. Pinto, trong bài viết về khuôn khổ hợp tác chuẩn tắc (normative) của Công ước 1982, viết: “khi ngôn từ [của Điều 123] chỉ tuyên bố rằng những quốc gia như vậy “nên hợp tác” (“should co-operate”), dường như không có lý do nào giải thích rằng các điều khoản đã quy định bất cứ điều gì kém hơn nghĩa vụ pháp lý về hợp tác11.” Một trường hợp khác là cách lập luận của Pharand về Điều 123 đối với khu vực Bắc Cực: “Các quốc gia có nghĩa vụ đặc biệt hợp tác với các nước khác láng giềng cùng nằm trong “biển kín hay nửa kín”. Việc sử dụng từ “should” (nên) thay vì cách sử dụng thông thường “shall” (sẽ), thường dùng để chỉ ra một nghĩa vụ pháp lý cứng nhắc. Tuy nhiên, phải ghi nhận rằng chủ thể hợp tác dường như không thể ép buộc thực hiện, nếu nghĩa vụ pháp lý đó thực sự tồn tại. Điều quan trọng là điều khoản tương tự đó áp đặt một nghĩa vụ pháp lý đối với các quốc gia phối hợp các nỗ lực để đạt được những mục tiêu cụ thể.” 12 Còn một ví dụ khác là tác giả Fleischer, trong bài viết về quy chế pháp lý nghề cá, đã kết luận rằng Điều 123 chứa đựng một “nghĩa vụ hợp tác trong quản lý và bảo tồn nguồn tài nguyên giữa các quốc gia trong biển kín hay nửa kín.” 13 123 to the South China Sea”, 41 Ocean Development & International Law (2010), tr. 304 (phần nhấn mạnh do tác giả thêm). 9. I. Townsend-Gault, “Maritime Cooperation in a Functional Perspective”, in C. Schofield (ed.), Maritime Energy Resources in Asia: Legal Regimes and Cooperation (National Bureau of Asian Research, Special Report n° 37, 2012), tr. 11. 10. S.-M. Kao, N. Sifford Pearre & J. Firestone, “Regional Cooperation in the South China Sea: Analysis of Existing Practices and Prospects”, 43 Ocean Development & International Law (2012), pp. 290-291; J.M. Van Dyke, “Re- gional Cooperation in the South China Sea”, The South China Sea: Cooperation for Regional Security and Develop- ment, Hội thảo Quốc tế lần thứ 3, Học viện Ngoại giao/ Hội Luật gia Việt Nam, , 2011, tr. 1 (tham khảo trên ). 11. Pinto, như footnote 6, tr. 140. 12. D. Pharand, “The Arctic Waters and the Northwest Passage: A Final Revisit”, 38 Ocean Development & Interna- tional Law (2007), tr. 53. Chúng ta nên nhớ kết luận cho rằng Điều 123 trong Công ước 1982 áp dụng cho Bắc Cực còn gây nhiều tranh cãi. . Tham khảo E. Franckx, Maritime Claims in the Arctic: Canadian and Russian Perspec- tives (Nijhoff, 1993), tr. 240-243; A. Proelss & T. Müller, “The Legal Regime of the Arctic Ocean”, 68 Zeitschrift für ausländisches öffentliches Recht und Völkerrecht (2008), tr. 684-685. 13. C.A. Fleischer, “The New Régime of Maritime Fisheries”, 209 Collected Courses of the Hague Academy of Inter- national Law (1988), tr. 139-140. Một số ví dụ tham khảo khác: V. Röben, “The Southern Bluefin Tuna Cases: Re-Regionalization of the Settlement of Law of the Sea Disputes”, 62 Zeitschrift für ausländisches öffentliches Recht 138
  20. “Nghĩa vụ” hợp tác của các quốc gia láng giềng trong vùng biển kín hoặc nửa kín Chúng tôi cũng tán thành với quan điểm rằng hợp tác là cần thiết tại Biển Đông và có thể là giải pháp có giá trị nhất trong việc giảm căng thẳng, từ đó tạo một môi trường phù hợp cho thỏa hiệp. Tuy nhiên, nếu đặt ý định đáng ngợi khen đó sang một bên, viện dẫn Điều 123 trong Công ước 1982 như là một điểm xác định các nghĩa vụ ràng buộc để đưa ra những quy chế hợp tác thì điều này không thoát khỏi sự kiểm nghiệm pháp lý. Đây không thuần túy là sự chính xác kỹ thuật. Việc mở rộng nội dung các điều khoản Công ước 1982 ra khỏi điểm quyết định có thể làm gây thiệt hại mang tính hệ thống. Việc hoàn thiện văn bản như Công ước 1982 đòi hỏi nhiều sự nhượng bộ từ tất cả các nhóm quốc gia. Việc đọc và diễn giải rộng rãi - vốn không được ủng hộ trong giải thích điều khoản-có nguy cơ làm hỏng “gói” Công ước 198214, từ đó tạo ra sự cân bằng mong manh giữa các lợi ích đối lập nhau. Trong các đoạn tiếp theo, chúng tôi đề xuất phân tích Điều 123 kỹ càng hơn nhằm phân biệt phạm vi và tầm quan trọng của điều khoản này. Phân tích Điều 123 của Công ước 1982 Khích lệ hay bắt buộc? Bất cứ khi nào đối mặt với nhu cầu giải thích một điều khoản trong điều ước, có thể thấy thuật ngữ “đặc biệt” (par excellence) từ điều 31 đến điều 33 trong Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế15. Vì tòa án có nhiều vụ việc khẳng định bản chất tập quán của und Völkerrecht (2002), tr. 66: “Nghĩa vụ hợp tác, nguyên tắc trong luật quốc tế và luật môi trường, đã được pháp điển hóa trong điều 123 trong UNCLOS”; T. Dux, Specially Protected Marine Areas in the Exclusive Economic Zone (EEZ): The Regime for the Protection of Specific Areas of the EEZ for Environmental Reasons under International Law (LIT Verlag, 2011), tr. 109; M.A. Palma, M. Tsamenyi & W.R. Edeson, Promoting Sustainable Fisheries: The Inter- national Legal and Policy Framework to Combat Illegal, Unreported and Unregulated Fishing (Nijhoff, 2010), tr. 153. 14. J. Harrison, Making the Law of the Sea: A Study in the Development of International Law (Cambridge University Press, 2011), tr. 45. 15. Công ước Viên về Luật Điều ước. Công ước đa phương, ký kết ngày 23/5/1969, 1155 U.N.T.S. 331. Công ước có hiệu lực vào ngày 27/1/1980 (đăng tải trên ). Gọi tắt là CVLT. Điều 31: Quy tắc chung về việc giải thích 1. Một điều ước cần phải được giải thích với thiện ý phù hợp với ý nghĩa thông thường được nêu ra đối với những thuật ngữ được sử dụng trong điều ước theo nội dung của những thuật ngữ này và dưới ánh sáng của đối tượng và mục đích của điều ước. 2. Phần nội dung để giải thích một điều ước, ngoài nội dung chính văn bản, kể cả lời nói đầu và các phục lục, sẽ bao gồm cả: a. Mọi thỏa thuận có liên quan đến điều ước đã được tất cả các bên tham gia tán thành trong dịp ký kết điều ước; b. Mọi văn kiện do một hoặc nhiều bên đưa ra trong dịp ký kết điều ước và được các bên chấp thuận là một văn kiện có liên quan đến điều ước. 3. Cùng với nội dung văn bản, sẽ phải được tính đến: a. Mọi sự thỏa thuận sau này giữa các bên về việc giải thích điều ước hoặc về việc thi hành các quy định của điều ước, b. Mọi thực tiễn sau này trong khi thực hiện điều ước được các bên thỏa thuận liên quan đến việc giải thích điều ước, c. Mọi quy tắc thích hợp của pháp luật quốc tế áp dụng trong các quan hệ giữa các bên. 4. Một thuật ngữ sẽ được hiểu theo một ý nghĩa riêng biệt nếu có sự xác định rằng đó là ý định của các bên. 139
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2