MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chăm lo đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo;
xác định giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong việc phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội.
Vai trò của giáo dục được thể hiện trước hết với thế hệ trẻ, trong đó, trẻ em ở bậc học
GDMN cần phải được quan tâm đặc biệt. Bởi lẽ, giáo dục mầm non là bậc học đầu
tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là tiền đề quan trọng, làm nền tảng cho các
bậc học sau này. Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về GDMN đều cho rằng: sự
phát triển trong những năm đầu đời có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của cả cuộc
đời con người, đặc biệt là giai đoạn từ 0 - 6 tuổi. Đây là giai đoạn vàng để con người
phát triển và hoàn thiện, mọi tác động giáo dục trong giai đoạn này góp phần quan
trọng trong việc hình nên nhân cách sau này của đứa trẻ.
Trong số trẻ em học tập tại các trường MN, hiện nay, số trẻ khuyết tật đến
trường ngày càng gia tăng. Theo báo cáo khảo sát tổng cục dân số - kế hoạch hóa gia
đình năm 2018 cho thấy, tỷ lệ trẻ khuyết tật ở tuổi MN ở nước ta là 2,74%. Như vậy,
ước tính cả nước hiện có khoảng 141.745 trẻ khuyết tật độ tuổi mầm non; và ở Hải
Phòng có khoảng 3.199 trẻ khuyết tật ở độ tuổi MN [14, tr.88]. Đây là nhóm trẻ chịu
nhiều thiệt thòi, đòi hỏi phải được giáo dục bằng phương thức phù hợp, tinh tế. Trong
đó, giáo dục hòa nhập là một phương thức giáo dục mang lại hiệu quả cao cho trẻ
khuyết tật nói chung và đặc biệt đối với trẻ khuyết tật ở lứa tuổi MN.
Giáo dục hòa nhập là một xu thế tất yếu chung của xã hội hiện nay. Trên thế
giới, GDHN đã đưa vào thành chính sách với tất cả trẻ em. Ở Việt Nam, Nhà nước ta
cũng đã khẳng định “Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục chủ yếu đối với
người khuyết tật” [41].
Lí luận và thực tiễn cũng đã chứng minh, GDHN không những mang lại lợi ích
cho trẻ khuyết tật mà còn cho cả trẻ bình thường.
Tuy nhiên đến nay, việc thực hiện GDHN nói chung cũng như GDHN trong
các trường MN ở nước ta còn nhiều hạn chế, trong đó, những rào cản xã hội trong
thực hiện GDHN là một thách thức không nhỏ như: điều kiện môi trường sống chưa
phù hợp, tính thực thi pháp luật chưa cao và đặc biệt là vẫn còn đó thái độ kỳ thị của
xã hội.
Nghị quyết số 29-NQ/TW của Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, Nghị quyết 33/NQ-TW của Trung ương về Xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Quyết định số
1299/QĐ-TTg của Chính Phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng văn hóa ứng xử trong
trường học giai đoạn 2018-2025” [8].
Năm 2019, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức đánh giá sơ kết 05 năm thực
hiện Nghị quyết số 102/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW trong đó đã phân tích đánh giá cụ thể những kết
quả đạt được, những tồn tại hạn chế đồng thời cũng chỉ ra những nhiệm vụ tiếp tục
triển khai trong giai đoạn tiếp theo. Xác định môi trường văn hóa có vai trò quan
trọng trong việc hình thành và giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống của thế hệ trẻ
trong giai đoạn hiện nay.
Xây dựng mô hình VHNT tích cực là giải pháp hữu hiệu cho các trường MN
có tổ chức GDHN hoàn thành tốt nhiệm vụ GDHN. VHNT giúp nhà trường trở thành
một biểu tượng văn hóa đặc trưng mang phong cách riêng, tạo ra môi trường GDHN