intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quan niệm mới về văn chương nghệ thuật của Thái Bá Lợi

Chia sẻ: Lâm Đức Duy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

75
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Quan niệm mới về văn chương nghệ thuật của Thái Bá Lợi trình bày: Thái Bá Lợi là một trong những cây bút văn xuôi đương đại thành công với mảng đề tài chiến tranh sau chiến tranh. Nhân tố quan trọng góp phần định hình phong cách tác giả là những mới lạ, độc sáng trong quan niệm nghệ thuật của người viết,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quan niệm mới về văn chương nghệ thuật của Thái Bá Lợi

QUAN NIỆM MỚI VỀ VĂN CHƯƠNG NGHỆ THUẬT<br /> CỦA THÁI BÁ LỢI<br /> VÕ CÔNG CHÁNH<br /> Sở Nội vụ Thành phố Đà Nẵng<br /> Tóm tắt: Thái Bá Lợi là một trong những cây bút văn xuôi đương đại thành<br /> công với mảng đề tài chiến tranh sau chiến tranh. Nhân tố quan trọng góp<br /> phần định hình phong cách tác giả là những mới lạ, độc sáng trong quan<br /> niệm nghệ thuật của người viết. Nhờ vậy, dẫu tiếp cận một hiện thực không<br /> còn nhiều tính thời sự, tác phẩm của ông vẫn rất phù hợp với thị hiếu thẩm<br /> mĩ của người đọc hôm nay, bộc lộ rõ ưu thế trong việc hoàn thiện hóa cuộc<br /> sống và nhân đạo hóa con người của văn học Việt Nam thời đổi mới.<br /> <br /> 1. DẪN NHẬP<br /> Với đội ngũ nhà văn trưởng thành sau ngày đất nước thống nhất, Thái Bá Lợi là một<br /> gương mặt nổi trội. Với 6 tiểu thuyết, 2 tập truyện ngắn và một số tác phẩm riêng lẻ<br /> khác, cây bút được xem là “vốn quý” vì thuộc lớp người “vừa cầm súng, vừa cầm bút”<br /> này đã tạo được dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc bằng một phong cách riêng khó<br /> nhầm lẫn. Có được vinh dự ấy, điều tiên quyết, theo chúng tôi, chính là bởi người viết<br /> đã xác định được một quan niệm nghệ thuật đúng đắn và nhất quán trung thành với<br /> quan niệm đó trong suốt nghiệp viết của mình. Đây cũng là nhân tố quan trọng để độc<br /> giả nói chung, người nghiên cứu văn học nói riêng, tiếp cận sâu hơn sáng tác của Thái<br /> Bá Lợi; từ đó có những đánh giá khách quan, chân xác về vị trí của ông trên văn đàn<br /> đương đại.<br /> 2. CÁC PHƯƠNG DIỆN CHỦ YẾU TRONG NỖ LỰC ĐỔI MỚI QUAN NIỆM<br /> NGHỆ THUẬT CỦA THÁI BÁ LỢI<br /> Quan niệm nghệ thuật là nhân tố quan trọng góp phần thể hiện cái giới hạn tối đa trong<br /> cách hiểu thế giới và con người của một hệ thống nghệ thuật [1]. Là hình thức bên trong<br /> của sự chiếm lĩnh cuộc sống và cơ sở tư duy hình tượng, quan niệm nghệ thuật đã trở<br /> thành một tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá giá trị nhân văn của văn học trong từng tác<br /> phẩm cụ thể. Với nhà văn, cách thụ cảm, cắt nghĩa hiện thực khách quan vô cùng phong<br /> phú, đa dạng, mang đậm dấu ấn của tài năng, nhân cách người nghệ sĩ. Do đó, càng<br /> khám phá nhiều quan niệm nghệ thuật về cuộc sống, con người thì thực chất càng đi sâu<br /> vào sáng tạo của họ và càng đánh giá khách quan thành tựu mà người viết mang lại.<br /> Như tất cả các thành tố khác của đời sống văn học nói chung, sáng tác ngôn từ nói<br /> riêng, quan niệm nghệ thuật cũng thể hiện rõ tính lịch sử - xã hội của nó. Có thể dễ dàng<br /> nhận thấy điều đó trong văn xuôi sau 1975, đặc biệt là trong thời đổi mới. Khi có điều<br /> kiện và thời gian để suy ngẫm kĩ lưỡng về hiện thực và số phận cá nhân, các sáng tác<br /> văn học, theo quy luật chung, đã chuyển sang giai đoạn băn khoăn, trăn trở, tìm tòi và<br /> thay đổi. Sự nghiệp đổi mới đã đưa lại cho nhà văn tư thế đối thoại với mọi người và<br /> Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br /> ISSN 1859-1612, Số 02(18)/2011: tr. 75-79<br /> <br /> 76<br /> <br /> VÕ CÔNG CHÁNH<br /> <br /> với xã hội. Tầm nhìn của người viết, do vậy, cũng được nâng cao và diện quan sát cũng<br /> mở rộng hơn. Đó là lí do dẫn tới việc nhà văn có thái độ khách quan trong miêu tả và sự<br /> nhận thức cuộc sống cũng đầy đủ và kĩ càng hơn. Cảm quan mới của người nghệ sĩ viết<br /> về đề tài chiến tranh sau chiến tranh là luôn suy nghĩ, lật trở một cách sâu xa, kĩ lưỡng<br /> những vấn đề đặt ra trên trang viết. Đằng sau những chiến công, đằng sau những số<br /> phận cộng đồng là số phận của mỗi cá nhân. Các tác giả luôn mong muốn làm nên<br /> những tác phẩm mà nhìn vào đó, người đọc có thể cảm nhận được đâu là tiếng nói, là<br /> chủ đề, tư tưởng trong cả đời văn. Điều này cho thấy sự trăn trở, khao khát cho việc đổi<br /> mới tư duy nghệ thuật thường trực, bức thiết của đội ngũ cầm bút.<br /> Cùng với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khắc<br /> Trường, Lê Lựu, Bảo Ninh… Thái Bá Lợi cũng là một gương mặt có đóng góp thực sự<br /> cho tiến trình đổi mới, hiện đại hóa văn xuôi đương đại bằng hàng loạt tác phẩm viết về<br /> hình tượng người lính, về những mẫu người tốt đẹp trong cuộc sống bề bộn hôm nay, về<br /> nhân vật lịch sử trong hành trình mở cõi... Xuất phát từ sự thức nhận văn học không<br /> phải là trò chơi sang trọng mà là đời sống, là món nợ cần phải trả, nhà văn đã sớm có<br /> được sự chọn lựa đúng đắn trong cách sống và cách viết của mình. Mỗi một tác giả đều<br /> có một con đường đến với nghiệp viết khác nhau, có người bén duyên từ rất sớm và<br /> thành tài ngay, có người đến muộn do gặp một cơ duyên nào đó, có người qua chặng<br /> đường dài thử sức rồi thấy được và đi tiếp. Thái Bá Lợi thuộc típ người đến với văn<br /> chương không sớm nhưng cũng không muộn lắm. Nhập ngũ từ những năm đầu của<br /> cuộc kháng chiến chống Mỹ, cuộc sống chiến trường dồn nén chất liệu, khiếu văn<br /> chương "buộc" tác giả ghi chép nhiều, quan sát nhiều và... viết ra nhiều. Vùng chân Hòn<br /> Tàu là tập truyện "thử bút", để từ sau thành công đáng khích lệ đó, ông đã dính với<br /> nghiệp văn lâu dài. Tiếp sau tác phẩm đầu tay này, trong hàng loạt những sáng tác khác<br /> như Thung lũng thử thách (1981), Họ cùng thời với những ai (1982), Bán đảo (1983),<br /> Còn lại với thời gian (1989), Đội hành quyết (1994), Trùng tu (2003), Khê ma ma<br /> (2004) và gần đây nhất là tiểu thuyết lịch sử Minh sư (2010), nhà văn, mặc dù vẫn trung<br /> thành với quan niệm "viết như một cách ứng xử với đời sống" nhưng vẫn không ngừng<br /> tự làm mới ngòi bút, cách tiếp cận và suy nghiệm về hiện thực.<br /> Hệ quả tất yếu của sự thức nhận này là tác giả luôn tâm niệm nghề văn không phải là<br /> cái gì thật xa lạ, thần bí mà thực chất nó rất gần gũi với con người, được nảy sinh từ<br /> nguồn cảm xúc dạt dào của người nghệ sĩ. Người viết có cảm hứng thì cứ viết ra, còn<br /> việc đánh giá tác phẩm là câu chuyện của bạn đọc. Với Thái Bá Lợi, viết văn tức là theo<br /> đuổi mục đích viết về con người – một “nhân vị” ngày càng “tự hoàn thiện” và có khát<br /> vọng “tìm ra chính mình” từ những vẻ đẹp dung dị ở cuộc sống xung quanh (Trùng tu,<br /> Bán đáo, Khê ma ma, Minh sư). Đây chính là yếu tính mang lại nét khu biệt cho nhân<br /> vật trong sáng tác của Thái Bá Lợi: một thế giới của những con người khát khao, nỗ lực<br /> hướng thiện. Chúng ta ít gặp trong truyện ngắn, tiểu thuyết của ông những nhân vật xấu,<br /> thậm xấu. Ngoài một số ít như tay Thị hèn nhát trong trận mạc mà biết theo chủ nghĩa<br /> cơ hội để đi lên trong thời bình (Trùng tu), Mai Hồng Nhị phản bội đồng đội (Họ cùng<br /> thời với những ai), Trí có phần ranh mãnh trong tình bạn, không chung thủy trong tình<br /> yêu (Hai người trở lại trung đoàn), Đán vi phạm điều lệ đơn vị và bị án tử hình (Đội<br /> <br /> QUAN NIỆM MỚI VỀ VĂN CHƯƠNG NGHỆ THUẬT CỦA THÁI BÁ LỢI<br /> <br /> 77<br /> <br /> hành quyết), Triển đớn hèn trốn khỏi trận địa và phản bội tổ chức (Thung lũng thử<br /> thách),… còn lại đều là những người sống chí nghĩa, chí tình. Đã thế, cái xấu của Đán,<br /> sự phản bội của Nhị cơ hồ chỉ được thông báo qua, tác giả chưa chú tâm đặc tả đến cùng<br /> quá trình biến thái của nhân vật giống những cây bút khác cùng viết đề tài chiến tranh<br /> như Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Đỗ Tiến Thụy,... Đọc Vùng<br /> chân Hòn Tàu, Đồng đội của Phú, Đêm trong rừng quế, Lòng cha, Những người đánh<br /> giáp lá cà, Quê hương, Khê mama, chúng ta gặp một "đội ngũ" hùng hậu những người<br /> tốt, kể cả nhân vật chính và nhân vật phụ. Đa phần họ đều được “tắm gội sạch sẽ", "đặt<br /> trong lồng kính" (chữ dùng của Bakhtine khi nói về Nguyệt, Lãm trong Mảnh trăng<br /> cuối rừng của Nguyễn Minh Châu) như Mùi (Quê hương), Mãi (Những người đánh<br /> giáp lá cà)... Hình như Thái Bá Lợi không thích thú và cũng không có sở trường khi<br /> viết về cái xấu, những dạng thức nhân vật tiêu cực, phản diện. Trong Khê mama, và đặc<br /> biệt là Minh sư, chúng ta bắt gặp tư tưởng nhân văn lớn và nhiều ngôn ngữ của chí<br /> hướng tu hành. Điều này dẫu khiến cho cách nhìn đời, nhìn người của ông có đôi phần<br /> phiến diện nhưng lại gia tăng rất nhiều sự đằm sâu, nhân hậu và niềm tin yêu, hi vọng<br /> của tác giả về năng lực hướng thiện, phục thiện để hoàn nguyên trong “bản lai diện<br /> mục” của thiên tính người.<br /> Nếu một trong những chức năng ưu trội của văn học chân chính là khả năng nhân đạo<br /> hóa con người thì điều này thật sát đúng với sáng tác của Thái Bá Lợi. Suốt đời văn, anh<br /> luôn có niềm tin bất diệt vào con người với “khát vọng tìm ra chính mình, tự hoàn thiện<br /> mình để rồi không bao giờ đánh mất mình nữa” [2]. Mùi (Quê hương) từ một cô gái<br /> mới rời ghế nhà trường đã đi vào Nam theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Xa gia<br /> đình, thân gái dặm trường, sống trong vùng chiến tranh khốc liệt, khó khăn chồng chất,<br /> cô đã từng bước lớn lên, trưởng thành, tỏa sáng. Kazimierz (Trùng tu) “đi khắp thế giới<br /> để làm một điều gì cho chính mình rất sâu lắng trong những giá trị văn hoá tiềm ẩn mà<br /> con người để lại với công việc tưởng như bình thường: tu sửa di tích?” [3, tr. 177].<br /> Trùng tu di tích hay trùng tu những vẻ đẹp, những chiến công của những con người mà<br /> một thời nhờ họ chúng ta sung sướng, tự hào; Tổ quốc được thống nhất, nếu không khẩn<br /> thiết “trùng tu”, quá khứ hào hùng của dân tộc sẽ sớm bị quên lãng; và cháu con có<br /> nguy cơ rơi vào bi kịch của những tội đồ lịch sử, hoặc gần hơn là nỗi day dứt, mặc cảm<br /> của kẻ vong bản, vong thân.<br /> Cùng với Bảo Ninh, Chu Lai, Trung Trung Đỉnh…, Thái Bá Lợi cũng là nhà văn thành<br /> công khi viết về đề tài “chiến tranh sau chiến tranh”. Khác với những sáng tác văn xuôi<br /> thuộc khuynh hướng sử thi của giai đoạn trước, trong văn xuôi Thái Bá Lợi, mỗi một<br /> con người của cuộc sống thời hậu chiến luôn diễn ra quá trình âm thầm nhưng dằng dai,<br /> quyết liệt để kiếm tìm, đuổi bắt chính mình. Những người lính mới từ chiến trường ra<br /> dễ lạc lõng, xa lạ với cuộc sống mới. Trên chiến trường, kẻ xấu, người tốt rất dễ nhận<br /> ra. Cả đơn vị là một cộng đồng cùng chung tiếng khóc, cùng chung nụ cười. Thời bình,<br /> cái tốt, cái xấu rất khó nhận dạng. Sống cho mình thì dễ nhưng sống nhìn qua người<br /> chung quanh nữa thì khó. Có lẽ vậy mà Thái Bá Lợi đã để cho Ngà (Bán đảo) phải làm<br /> cuộc ra đi với chân lí “thế nào tôi cũng tự tìm ra tôi” [3, tr. 132].<br /> <br /> 78<br /> <br /> VÕ CÔNG CHÁNH<br /> <br /> Cảm thấy cuộc đời mình "mắc nợ" nhiều nên Thái Bá Lợi viết văn để trả. Món nợ ân tình<br /> lớn nhất – và cũng khó trả hết nhất – với tác giả, là nợ những đồng đội còn sống hay đã<br /> vĩnh viễn ra đi, nên ông viết nhiều về họ với phương châm tôn trọng những gì thiêng liêng<br /> của người lính, của con người. Dường như nhà văn luôn ý thức được rằng cần phải viết<br /> đúng sự thật nhưng cũng "đừng bao giờ làm tổn thương những gì thiêng liêng của người<br /> lính, của con người". Ý nghĩa đích thực của người nghệ sĩ là ở sự cố gắng không mệt mỏi<br /> trong con đường phát hiện, tôn vinh giá trị tinh thần vốn có của con người dẫu cho họ viết<br /> về cái xấu hay cái tốt, người lớn hay trẻ em, quá khứ, hiện tại hay tương lai chăng nữa.<br /> Nói cách khác, "dù bút pháp nhà văn có lạnh lùng đến đâu, dù nhà văn viết về cái xấu, cái<br /> ác, cái dung tục có sắc sảo đến đâu thì cái đích cuối cùng của văn học là làm sáng ra phần<br /> trong trắng nhất, phần sáng suốt nhất, phần sạch sẽ nhất, phần nguyên vẹn nhất của con<br /> người” [2]. Nhờ những suy tư, chiêm nghiệm về lịch sử, về con người và về cả cuộc chiến<br /> đã qua mà người đọc, qua những trang viết thấm đẫm tình đồng đội và ý thức trách nhiệm<br /> của Thái Bá Lợi với cuộc sống hôm nay, đã thấu cảm một cách sống động rằng cuộc<br /> chiến tranh oanh liệt vẫn đang hiện diện, quá khứ vẻ vang vẫn là năng lượng cần thiết để<br /> mỗi cá nhân và toàn dân tộc vững bước đến tương lai. Như thế, với ông, viết về quá khứ,<br /> về những cái đã qua vẫn là khát vọng hướng vào cuộc sống hiện tại, là mong muốn quá<br /> khứ “nở một nụ cười xả bỏ” [5, tr. 418].<br /> Không chỉ phong phú, nhân bản trong nội dung phản ánh, văn xuôi Thái Bá Lợi cũng<br /> chinh phục bạn đọc ở sự mới mẻ, hiện đại trong hình thức thể hiện. Điều đó bộc lộ khá<br /> rõ ở sự đề cao văn học phải ngắn và tinh chất của ông. Không phải nhà văn không viết<br /> được dài (bằng chứng là Minh sư dài 418 trang) mà tác giả luôn là người cẩn trọng để<br /> chọn lọc, đúc kết những nghiền ngẫm về hiện thực cùng với phương thức chuyển tải<br /> chúng nên thành ra ngắn. Ngắn nhưng không phải cụt mà là tinh.<br /> Trong các tác phẩm của Thái Bá Lợi, chi tiết đời sống thường được hiện ra trong kí ức<br /> khi chủ đề xuất hiện. Hai người trở lại trung đoàn được sáng tác khi đứng từ thời điểm<br /> tháng 9/1975 để nhớ về sự việc của 6 năm về trước. Họ cùng thời với những ai tái hiện<br /> về cuộc chiến xảy ra từ 10 năm trước đó. Đội hành quyết là sự hồi ức về sự việc đã xảy<br /> ra hai chục năm. Trùng tu lại nhớ về chiến dịch Mậu Thân ở Huế. Chịu ảnh hưởng quan<br /> niệm của M. Kundera: “Tiểu thuyết là tiếng gọi của giấc mơ”, văn Thái Bá Lợi cũng có<br /> nhiều giấc mơ như thế. Giấc mơ về quá khứ ngày hôm qua - sự hồi tưởng day dứt khôn<br /> nguôi về số phận con người (Còn lại với thời gian); giấc mơ về ngày mai - khát vọng về<br /> những giá trị nhân văn con người cần phải có ở nhịp sống xô bồ và không ít cạm bẫy<br /> (Khê ma ma),… Sự song hành, hòa quyện giữa kí ức - tức là chất liệu đã qua độ dài thời<br /> gian - và sự suy ngẫm minh triết của nhà văn đã trở thành “màng lọc” gạt bỏ tạp chất,<br /> lắng lại độ cô, độ tinh túy để “gây nghiện” người đọc bằng nhiều trang viết chân chất<br /> nhưng có ma lực lớn. Có lẽ vì thế, nhà văn Nguyên Ngọc đã không quá “ưu ái” khi cho<br /> rằng: "Thái Bá Lợi viết súc tích đến gần như hà tiện từng chi tiết, từng câu văn, từng từ.<br /> Người đọc cảm thấy rất rõ, anh biết mười chỉ để viết có một" [4].<br /> Chi tiết là nhân tố giữ vai trò quan trọng trong nghệ thuật trần thuật của Thái Bá Lợi và<br /> cũng góp phần khẳng định phong cách văn xuôi độc đáo của ông. Đa phần chúng được<br /> <br /> QUAN NIỆM MỚI VỀ VĂN CHƯƠNG NGHỆ THUẬT CỦA THÁI BÁ LỢI<br /> <br /> 79<br /> <br /> gọi ra từ kí ức, được chọn lọc kĩ lưỡng, nghiêm túc nên có sức biểu cảm lớn. Chẳng hạn<br /> trong Họ cùng thời với những ai, chỉ một câu ngắn gọn mà tác giả đã chỉ ra được độ<br /> khốc liệt của chiến tranh cả từ hai phía: "Ở một trận đấu dù thắng mà thương vong dưới<br /> một trăm, ba phần tư bị thương thì cũng chưa được gọi là thắng!” [3, tr. 535]. Trong<br /> Khêmama, chỉ bằng cách để nhân vật nói hai câu ngắn gọn, người viết cũng đã bày tỏ<br /> được quan niệm hiện đại về văn chương, tiểu thuyết của mình: “Ông muốn lưu danh<br /> phải không? Nếu ông muốn lưu danh thì cần gì đến hàng ngàn trang, vài câu hay vẫn<br /> lưu danh được” [3, tr. 176]. Trung thành tuyệt đối quan niệm này, nên trừ Minh sư mới<br /> trình làng, tiểu thuyết của Thái Bá Lợi thường có số trang khiêm tốn: Thung lũng thử<br /> thách và Họ cùng thời với những ai đều có dung lượng 200 trang, Bán đảo: 107 trang,<br /> Trùng tu: 161 trang, đặc biệt là tiểu thuyết Khê mama chỉ vỏn vẹn… 43 trang.<br /> 3. LỜI KẾT<br /> Sự mới mẻ trong quan niệm nghệ thuật là hạt nhân quan trọng giúp Thái Bá Lợi có vị trí<br /> quan trọng của một một nhà văn tiên phong về đề tài chiến tranh trong văn học đương<br /> đại và cũng là tác giả có sự đột phá đáng trân trọng ở sự nhìn nhận, thể hiện hình tượng<br /> người lính thời hậu chiến. Bằng cách ấy, nhà văn đã tạo được phong cách nghệ thuật<br /> riêng trong việc sử dụng ngôn ngữ, phương thức xây dựng nhân vật, kết cấu, giọng điệu,<br /> không gian và thời gian nghệ thuật... Đây là căn cốt để những sáng tác được xem là “cột<br /> mốc” trong hành trình sáng tạo của ông để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Với quan<br /> niệm tích cực và độc đáo này, chúng ta có quyền hi vọng ở tác giả nhiều tác phẩm “đỉnh<br /> cao” nữa để làm phong phú, giàu có thêm cho nền văn học dân tộc.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> [1]<br /> [2]<br /> [3]<br /> [4]<br /> [5]<br /> <br /> Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009). Từ điển thuật ngữ Văn học.<br /> NXB Giáo dục, Hà Nội.<br /> Trần Trung Sáng (2009), Thái Bá Lợi và hành trình đi tìm chính mình.<br /> www.baodanang.vn, ngày 7/6/2009.<br /> Thái Bá Lợi (2008). Tiểu thuyết. NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.<br /> Nguyên Ngọc (1981), Nhân đọc một tác phẩm mới của Thái Bá Lợi, Báo Văn nghệ<br /> ngày 19 tháng 12 năm 1981, tr. 3.<br /> Thái Bá Lợi (2010). Minh Sư. NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.<br /> <br /> Title: THAI BA LOI AND HIS NEW PERCEPTIONS OF LITERATURE<br /> Abstract: Thai Ba Loi is one of well-known contemporary writers who succeeded in writing of<br /> wartime and its aftermaths. His freshness in writing plays an important role in forming his style.<br /> Nowadays, his works are suitable with popular sense and highlight advantage in perfecting and<br /> humanity through the background he writes have gone by.<br /> VÕ CÔNG CHÁNH<br /> Sở Nội vụ Thành phố Đà Nẵng<br /> ĐT: 0905.026099. Email: vcchanh@gmail.com<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2