intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SÁCH LINH KHU - THIÊN 58: TẶC PHONG H

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

50
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hoàng Đế hỏi: " Thầy đã từng nói rằng tặc Phong, tà khí làm thương đến con người, làm cho con người bị bệnh, nay lại có những người chưa từng rời khỏi tấm bình phong và mái nhà của họ ở, chưa từng rời khỏi gian phòng kín như cái huyệt, vậy mà đột nhiên họ lại bị bệnh, đâu có phải là họ không rời tránh được khí Phong tà? Lýdo nào đã khiến như vậy?”[1] Kỳ Bá đáp : "Đây là trường hợp những người từng bị Thấp khí làm thương[2]. Thấp tà tàng ẩn trong...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SÁCH LINH KHU - THIÊN 58: TẶC PHONG H

  1. SÁCH LINH KHU THIÊN 58: TẶC PHONG Hoàng Đế hỏi: " Thầy đã từng nói rằng tặc Phong, tà khí làm thương đến con người, làm cho con người bị bệnh, nay lại có những người chưa từng rời khỏi tấm bình phong và mái nhà của họ ở, chưa từng rời khỏi gian phòng kín như cái huyệt, vậy mà đột nhiên họ lại bị bệnh, đâu có phải là họ không rời tránh được khí Phong tà? Lýdo nào đã khiến như vậy?”[1] Kỳ Bá đáp : "Đây là trường hợp những người từng bị Thấp khí làm thương[2]. Thấp tà tàng ẩn trong huyết mạch, trong khoảng phận nhục, lưu lại đây lâu ngày mà không đi được[3]. Thêm vào đó, có khi họ bị té nhào xuống, ác huyết giữ lại bên trong mà không đi được, hoặc có khi họ thình lình có những tình cảm vui giận mà không kềm chế được, có những cách ăn uống không thích ứng, bị lạnh ấm không đúng lúc, tấu lý bị bế nên không thông, hoặc có khi tấu lý đang mở ra mà gặp phải Phong Hàn sẽ làm cho khí huyết bị ngưng kết, nó sẽ cùng tà khí cũ trong người đánh nhau, sẽ thành chứng Hàn tý, hoặc có khi do nhiệt mà mồ hôi ra, mồ hôi ra thì thọ Phong,
  2. tuy rằng họ không bị phải tặc phong tà khí, nhưng do vì tà khí phục tàng bên trong lại gia thêm phong khí mới cảm bên ngoài mà thành ra bệnh vậy”[4]. Hoàng Đế hỏi: "Vừa rồi những lời lẽ mà thầy trình bày là những điều mà bệnh nhân có thể tự mình biết được, thế nhưng, có những trường hợp mà người bệnh không gặp phải tà khí, cũng không bị lo lắng, ưu sầu gây mà thình lình họ lại bị bệnh, nguyên nhân nào lại như vậy ? Ta chỉ có thể cho là do ở qủy thần đã tác động đến người hay sao ?”[5]. Kỳ Bá đáp : "Đây cũng là trường hợp mà người nào đó vốn có tà khí cũ đang ở trong thân hình giữ lại từ lâu nhưng chưa phát ra ngoài trong lúc đó chí của mình có cái ghét, có cái thương (ưa thích), huyết khí sẽ loạn bên trong, hai khí cùng đánh nhau, sự biến hóa của tinh chí bên trong và sự biểu hiện bệnh trạng bên ngoài xảy ra 1 cách chậm và nhẹ nhàng, ta nhìn không thấy, nghe không rõ, do đó mà ta cứ tưởng như là mọi việc do qùy thần gây ra”[6]. Hoàng Đế hỏi: "Ngày xưa có những người gọi là “chúc do” mà chữa bệnh cũng khỏi, nguyên nhân nào như vậy ?”[7]. Kỳ Bá đáp : "Trước đây, những người vu chúc chữa bệnh, nhân vì họ biết được phương pháp khắc chế bằng Tâm và Thần, trước hết biết được
  3. bệnh sinh ra từ đâu, để rồi họ áp dụng phương pháp của “chúc do” để chữa khỏi bệnh vậy”[8]. THIÊN 59: VỆ KHÍ THẤT THƯỜNG Hoàng Đế hỏi: "Vệ khí vận hành thất thường bị lưu trệ ở trong bụng, súc tích không vận hành được, uất tụ lại nhưng không có nơi nhất định, làm cho trướng mãn ở chi thể, hông sườn và Vị hoãn, hơi thở suyễn, khí nghịch lên trên, dùng phương pháp gì để có thể trừ được chứng bệnh này ?”[1]. Kỳ Bá đáp : "Khi nào khí tích lại ở trong ngực, ta sẽ thủ các huyệt ở vùng thượng bộ để trị[2], khi nào khí tích lại ở trong bụng, ta sẽ thủ các huyệt ở vùng hạ bộ để trị[3], khi nào cả 2 vùng trên và dưới ngực và bụng đều trướng mãn, ta có thể thủ các huyệt quanh vùng để trị”[4]. Hoàng Đế hỏi: "Thủ những huyệt nào ?”[5]. Kỳ Bá đáp : "Khí tích ở vùng ngực, nên châm tả huyệt Đại Nghênh, Thiên Đột và Hầu trung (Liêm Tuyền)[6], Khí tích ở vùng bụng nên châm tả huyệt Tam Lý và Khí Nhai (Khí Xung)[7], Nếu cả vùng ngực và bụng đều trướng mãn, nên châm tả các huyệt trên như Nhân Nghênh, Thiên Đột, Liêm
  4. Tuyền, và các huyệt dưới như Tam Lý, Khí Nhai, và huyệt nằm bên dưới sườn cụt 1 thốn là huyệt Chương Môn[8], Nếu bệnh tình nặng hơn, nên áp dụng phép châm theo kê túc ( vết chân gà)[9]. Trong lúc chẩn đoán, nếu thấy mạch của bệnh nhân đại mà huyền cấp và mạch tuyệt không đến, da vùng bụng căng lên dữ dội thì không nên châm”[10]. Hoàng Đế nói: "Đúng ! “[11]. Hoàng Đế hỏi Bá Cao: "Căn cứ vào đâu để biết bệnh thuộc về bì nhục, cân cốt, huyết khí ?”[12]. Bá Cao đáp : “Khi nào sắc của người bệnh hiện lên trong khoảng 2 chân mày mà mỏng và bóng láng, đó là triệu chứng của bì phu[13]; Môi hiện lên các màu sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, đó là triệu chứng của bệnh của cơ nhục, doanh khí hao tán ra ngoài làm cho da bị thấp ướt, đó là triệu chứng của bệnh ở huyết khí[14], Đôi mắt hiện lên các màu sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, đó là triệu chứng của bệnh ở cân[15], Vành tai khô héo không nhuận trạch, như có đầy chất bẩn, đó là triệu chứng của bệnh ở cốt”[16]. Hoàng Đế hỏi: "Hình trạng của bệnh biểu hiện ở nơi nào ? Thủ huyệt châm trị như thế nào ?”[17].
  5. Bá Cao đáp : “Ôi ! Sự biến hóa của các bệnh không thể kể hết được, tuy nhiên, bì bệnh có bộ của nó, nhục bệnh có bắp của nó, huyết khí bệnh có chỗ vận hành của nó, cốt bệnh có chỗ thuộc vào của nó”[18]. Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe về những nguyên nhân ấy”[19]. Bá Cao đáp : “Bộ vị của bì bị bệnh, nên thủ huyệt trị nơi cạn của tứ chi[20], Các bắp của cơ nhục bị bệnh, nên thủ huyệt châm trị nơi trong khoảng phận nhục của bắp tay, bắp cẳng chân, tức nơi vận hành của các kinh Dương, và những nơi bắp thịt gồ lên, con đường vận hành của kinh Túc Thiếu âm (Thận)[21], Huyết khí bị bệnh, nên thủ huyệt châm trị nơi các lạc mạch có kinh khí đi qua, khi nào khí huyết bị ủng tắc lưu lại, nó sẽ làm cho nơi đó bị thịnh (gồ lên)[22], Cân bị bệnh thì không cần có sự phân biệt Âm Dương, bên phải bên trái gì cả, chỉ căn cứ vào nơi bộ vị phát ra bệnh để châm trị[23], Bệnh ở tại cốt, nên thủ huyệt nơi thuộc vào của nó (tức những nơi quan tiết), để châm trị, bởi vì những huyệt cốt không chính là nơi tiếp nhận tủy dịch để làm sung thực cho não tủy”[24]. Hoàng Đế hỏi: "Phép thủ huyệt phải thế nào ?”[25]. Bá Cao đáp : “Ôi ! Sự biến hóa của bệnh không giống nhau, bệnh có phù có trầm, phép châm có sâu có cạn, phép trị liệu thật vô c ùng, ta phải căn
  6. cứ vào tình huống của bệnh nơi bì nhục cân cốt để mà đưa vào bộ vị của từng loại để thủ huyệt châm: bệnh nhẹ nên dùng phép châm cạn, bệnh nặng nên dùng nhiều kim, tùy theo bệnh biến mà ta điều khí, cho nên gọi đây là bậc thượng công: thầy thuốc khéo”[26]. Hoàng Đế hỏi Bá Cao: "Hình thân của con người có béo gầy, có lớn nhỏ, có hàn ôn; về tuổi tác, có lão, có tráng, có thiếu, có tiểu, làm thế nào phân biệt được những khác biệt ấy ?”[27]. Bá Cao đáp : “Con người từ 50 tuổi trở lên gọi là lão, từ 20 tuổi trở lên gọi là tráng, từ 18 tuổi trở xuống gọi là thiếu, từ 6 tuổi trở xuống gọi là tiểu”[28]. Hoàng Đế hỏi: "Lấy gì để am hiểu vấn đề béo và gầy ?”[29]. Bá cao đáp :”Con người béo chia làm phì, cao, nhục 3 loại”[30]. Hoàng Đế hỏi: "Phân biệt thế nào về 3 loại người này ?”[31]. Bá Cao đáp : “Các bắp thịt vùng vai, tay, gối, đùi... được rắn chắc, bì phu sung mãn, đó là loại hình của người phì [32], Các bắp thịt ... không rắn chắc, bì phu mềm nhão, đó là loại hình của người cao[33], Bì phu và cơ nhục bám chắc vào nhau, đó là loại hình của người nhục”[34].
  7. Hoàng Đế hỏi: "Phân biệt thế nào về sự hàn ôn của 1 người ?”[35]. Bá Cao đáp : “Người thuộc loại hình cao, bắp thịt của họ mềm mà nhuận, tấu (lý) thô, thân của họ hàn, tấu (lý) nhuyễn mà kín, thân của họ nhiệt[36]. Người thuộc loại hình chỉ, bắp thịt của họ rắn chắc, tấu lý của họ nhuyễn mà kín, thân của họ nhiệt, tấu (lý) thô, thân của họ hàn”[37]. Hoàng Đế hỏi:"Những người này biểu hiện ra thân hình béo gầy, to nhỏ như thế nào ?”[38]. Bá Cao đáp : “Loại hình của người cao, (Dương) khí nhiều (thịnh) b ì phu của họ lơi lỏng hơn, cho nên bụng của họ lơi và phệ xuống[39]. Loại hình của người nhục, thân thể họ to lớn[40]. Loại hình của người chỉ (cơ nhục kín, chắc) cho nên thân thể của họ nhỏ hơn loại cao và nhục”[41]. Hoàng Đế hỏi: "Tất cả 3 loại hình của số người nói trên, về mặt khí huyết nhiều ít như thế nào ?”[42]. Bá Cao đáp : “Loại người cao thì khí của họ nhiều, khí thuộc D ương, mà khí nhiều thì nhiệt, người nhiệt thì dễ chịu được lạnh [43]. Loại người nhục thì huyết của họ nhiều, huyết nhiều thì làm cho hình nhân được sung thực, hình nhân được sung thực thì sẽ được bình hòa[44]. Loại người chỉ thì huyết của họ thanh, khí của họ hoạt trơn mà ít, cho nên hình thân của họ
  8. không thể to lớn được[45]. Những loại người này khác với người bình thường (chúng nhân )”[46]. Hoàng Đế hỏi: "Chúng nhân là người như thế nào ?”[47]. Bá Cao đáp : “Chúng nhân là người mà từ da thịt, mỡ cao, mỡ chỉ (bình thường) không thể thêm vào cho mập lên được, huyết và khí cũng bình hòa không thể nhiều hơn về phía nào, vì thế hình thân của họ không nhỏ hơn mà cũng không to lớn hơn, tất cả từ bì nhục cân cốt đều tự cân xứng nhau với vóc dáng của mình, ta gọi những người đó là chúng nhân”[48]. Hoàng Đế nói: " Đúng thế ! Phép trị phải thế nào ?”[49]. Bá Cao đáp : “Trước hết nên phân biệt cho được 3 loại hình khác nhau như đã nói, phải nắm cho được sự nhiều ít của huyết, sự thanh trọc của khí, rồi sau đó mới áp dụng phép điều hòa khí huyết. lúc điều trị, đừng để mất đi cái lẽ thường của sự vận hành của kinh mạch[50]. Xin nhắc lại loại hình của người cao bụng của họ lơi và phệ xuống, loại hình của người nhục thì trên dưới đều to lớn, loại hình của người chỉ, cho dù họ có nhiều mỡ béo, họ cũng không thể to lớn như người cao và nhục được”[51].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2