
III
TÓM LƢỢC
Bệnh sán lá gan là một trong những bệnh ký sinh trùng quan trọng không những
gây ảnh hưởng to lớn đến sức khỏe vật nuôi mà còn gây thiệt hại kinh tế đáng kể
đến ngành chăn nuôi. Chính vì vậy đề tài được thực hiện nhằm nghiên cứu những
đặc điểm hình thái, dịch tễ học và sinh học của sán lá gan lớn (SLGL) trên bò ở
vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Với các mục tiêu cụ thể như sau: xác
định thành phần loài sán lá gan lớn đang lưu hành tại ĐBSCL, nghiên cứu vòng
đời phát triển của loài Fasciola sp. từ giai đoạn bên ngoài môi trường và bên
trong ký chủ. Ngoài ra, đề tài sẽ góp phần hoàn thiện mô tả triệu chứng lâm sàng,
khảo sát bệnh tích đại thể, vi thể và thử nghiệm thuốc tẩy trừ sán lá gan lớn trên
bò. Đề tài được thực hiện từ tháng 11/2013 đến tháng 6/2017 trên bò tại 6 tỉnh
ĐBSCL với các kết quả thu được như sau:
Bò tại 6 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nhiễm sán lá gan lớn với tỷ lệ
nhiễm chung là 20,50%. Trong đó, bò địa phương nhiễm sán lá gan lớn với tỷ lệ
nhiễm cao nhất (21,55%) kế đến là bò lai Sind (20,86%) và tỷ lệ nhiễm thấp nhất
ở bò sữa (9,15%). Bò nhiễm sán lá gan có khuynh hướng tăng dần theo lứa tuổi,
thấp nhất là bò <1 năm (8,24%); kế đến là bò 1-2 năm (19,06%); và cao nhất là
bò >2 năm (31,38%). Tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở bò nuôi bán chăn thả (26,74%)
cao hơn bò nuôi nhốt (10,55%). Phương pháp mổ khám bò tìm sán lá gan lớn có
tỷ lệ nhiễm tương đồng với phương pháp xét nghiệm phân tìm trứng (22,01% với
cường độ nhiễm 9,93±0,34 sán/cá thể; so với phương pháp xét nghiệm phân
20,50%). Bò nuôi tại ĐBSCL chịu ảnh hưởng tác động của mùa vụ, bò nhiễm sán
lá gan lớn với tỷ lệ cao nhất là vào mùa khô (26,07%) và thấp nhất là mùa mưa
(14,79%). Tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở bò nuôi tại ĐBSCL thay đổi theo vùng
sinh thái, bò nuôi ở vùng sinh thái nước ngọt nhiễm sán lá gan lớn với tỷ lệ cao
nhất là 24,14% và thấp nhất là bò nuôi ở vùng sinh thái nước mặn và lợ với tỷ lệ
nhiễm sán lá gan là 9,01%.
Phân tích định danh SLGL bằng phương pháp hình thái học, kỹ thuật sinh
học phân tử PCR-RFLP và giải trình tự gene cho thấy các mẫu sán lá gan lớn ở
ĐBSCL đều là loài Fasciola gigantica. Tỷ lệ tương đồng giữa các mẫu sán lá gan
F.gigantica thu thập tại ĐBSCL cao dao động từ 99,6% đến 100%.
Vòng đời SLGL Fasciola gigantica trên bò phát triển qua các giai đoạn từ
trứng Fasciola gigantica trong môi trường có nước phát triển thành mao ấu
(miracidium) và thoát ra khỏi trứng sau 10-19 ngày, miracidium bơi lội trong môi
trường nước với thời gian từ 10 đến 12 giờ sau khi nở. Vào trong vật chủ trung