
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Ngày 22 tháng 12 năm 2017, chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Đề
án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017 – 2025,
trong các định hướng được đưa ra, bản thân tôi rất trăn trở với định hướng thứ nhất:
“Tạo bước đột phá về chất lượng dạy và học ngoại ngữ cho các cấp học và
trình độ đào tạo, khuyến khích đưa ngoại ngữ vào nhà trường từ bậc mầm non và
các hoạt động xã hội. Đẩy mạnh dạy ngoại ngữ tích hợp trong các môn học khác
và dạy các môn học khác (như toán và các môn khoa học, môn chuyên ngành...)
bằng ngoại ngữ.”
Chương trình nhấn mạnh một số quan điểm sau: Xây dựng dựa trên nền tảng
lý luận và thực tiễn, cập nhật thành tựu của khoa học hiện đại; năng lực giao tiếp là
mục tiêu của quá trình dạy học; kiến thức ngôn ngữ là phương tiện để hình thành và
phát triển các kỹ năng giao tiếp thông qua nghe, nói, đọc, viết; xây dựng theo
hướng mở; không quy định chi tiết về nội dung dạy học mà chỉ qui định những yêu
cầu cần đạt về năng lực giao tiếp nghe, nói, đọc và viết cho mỗi lớp và gợi ý một số
chủ đề, chủ điểm chính gắn với chuẩn đầu ra từng cấp học; đảm bảo lấy hoạt động
học của học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học; đảm bảo t nh li n thông và
tiếp nối của việc dạy học Tiếng Anh giữa các cấp; đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo
và tính mở nhằm đáp ứng nhu cầu và phù hợp với điều kiện dạy học tiếng Anh đa
dạng ở các địa phương. Do đó, trong quá trình giảng dạy ở trên lớp, tôi dành nhiều
thời gian vào việc làm thế nào để giúp các em học sinh yêu thích bộ môn tiếng Anh
nói chung và phát triển kĩ năng giao tiếp nói riêng. Các em học sinh phải thực hành
được hỏi và trả lời một số thông tin cơ bản về địa phương, giới thiệu được một số
điểm nổi tiếng ở địa phương cho người khác biết. Đó là l do vì sao tôi chọn đề tài
: “ Dạy Tiếng Anh giao tiếp cho học sinh khối 5 qua Tài liệu giáo dục địa
phương tại huyện CưMgar”
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Sáng kiến này được viết ra nhằm mục đ ch giúp cho:

- 2 -
- Giáo viên: không ngừng tìm tòi, học hỏi đổi mới phương pháp giảng dạy sao
cho phù hợp năng lực và đối tượng học sinh tùy vào thực tế giảng dạy, nhất là hiện
nay chúng ta đang thực hiện Dạy học theo hướng phát triển năng lực cho người
học, dạy học theo đường hướng giao tiếp. Ngoài ra, khuyến khích giáo viên mạnh
dạn thay đổi, ứng dụng công nghệ thông tin vào việc giảng dạy.
- Học sinh: chủ động hơn trong việc học tiếng Anh, học là để phục vụ cho
hoạt động giao tiếp và sử dụng được tiếng Anh trong thực tế đời sống hằng ngày.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Tiếng Anh giao tiếp cho học sinh khối 5 và tài liệu giáo dục địa phương môn
Tiếng Anh.
4. Giới hạn của đề tài
Đ ch đến của môn tiếng Anh là khả năng giao tiếp. Tuy nhiên, thực tế hiện
nay, khả năng này của học sinh tiểu học là rất thấp. Việc không thể nghe, không
hiểu, phát âm không chuẩn và không nhớ từ để sử dụng trong giao tiếp khiến học
sinh không thể trò chuyện hay nói những câu cơ bản nhất. Ở cấp độ tiểu học, các
em học sinh đang trong quá trình t ch lũy ngôn ngữ, các em bổ sung nguồn từ
vựng, các mâu câu cơ bản nhất để tìm kiếm và giải đáp thông tin cơ bản về bản
thân, gia đình, nhà trường, cuốc sống xung quanh. Vì vậy, nghiên cứu này tôi chỉ
áp dụng được cho các em học sinh khá, giỏi môn Tiếng Anh khối 5 ở trường và các
trường tiểu học trong toàn huyện.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện nghiên cứu này, tôi sử dụng tích hợp các phương pháp lại với
nhau để đánh giá kết quả thu được bằng cả định t nh và định lượng.
Phương pháp quan sát để xác định mức độ chú ý, thu hút của bài học đối với
học sinh.
Phương pháp thực nghiệm cho học sinh làm bài hàng ngày để lấy kết quả, số
liệu cụ thể.
Phương pháp thống kê, phân tích các số liệu để đưa ra kết quả nghiên cứu.

- 3 -
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Theo Chương trình giáo dục phổ thông chương trình môn Tiếng Anh (Ban
hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đối với Cấp tiểu học thì:
- “Sau khi học xong môn Tiếng Anh cấp tiểu học, học sinh có thể đạt được
trình độ tiếng Anh Bậc 1 của Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Cụ thể là: “Có thể hiểu, sử dụng các cấu trúc quen thuộc thường nhật; các từ ngữ
cơ bản đáp ứng nhu cầu giao tiếp cụ thể. Có thể tự giới thiệu bản thân và người
khác; có thể trả lời những thông tin về bản thân như nơi sinh sống, người thân/bạn
bè, … Có thể giao tiếp đơn giản nếu người đối thoại nói chậm, rõ ràng và sẵn sàng
hợp tác giúp đỡ”.
- Thông qua môn Tiếng Anh, học sinh có những hiểu biết ban đầu về đất nước,
con người và nền văn hoá của một số nước nói tiếng Anh và của các quốc gia khác
trên thế giới; có thái độ tích cực đối với việc học tiếng Anh; biết tự hào, yêu quý và
trân trọng ngôn ngữ và nền văn hoá của dân tộc mình; phát triển các phẩm chất
như yêu thương, tôn trọng bản thân, bạn bè, gia đình, môi trường, chăm chỉ và
trung thực.
Phương pháp giáo dục chủ đạo trong Chương trình giáo dục phổ thông môn
Tiếng Anh là đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp. Đường hướng dạy ngôn ngữ
giao tiếp cho phép sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau, nhấn mạnh vào
việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp của học sinh, vào khả năng sử
dụng các quy tắc ngữ pháp để tạo ra các câu đúng và phù hợp thông qua các kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết. Đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp có những điểm
tương đồng với đường hướng lấy người học làm trung tâm trong giáo dục học.
Phương pháp giảng dạy theo đường hướng giao tiếp (Communicative
Approach). Phương pháp này y u cầu việc giảng dạy nói chung và giảng dạy ngữ
pháp nói riêng phải dựa trên các tình huống thực tế. Tiến trình dạy và học ngữ pháp

- 4 -
được thực hiện bằng cách “học đi đôi với hành”, trong đó học sinh bắt buộc phải
tham gia vào các hoạt động nhóm hoặc hợp tác hoàn thành các nhiêm vụ đòi hỏi có
sự giao tiếp giữa học sinh với giáo viên hay giữa học sinh với học sinh, từ đó học
sinh có thể tiếp thu và ghi nhớ các quy tắc ngữ pháp một cách tự nhiên.
Giảng dạy ngữ pháp theo đường hướng giao tiếp đòi hỏi học sinh phải làm
việc nhiều hơn là chỉ đơn thuần học thuộc lòng từ vựng, cụm từ danh từ, cụm động
từ, giới từ, mạo từ và các cấu trúc ngữ pháp khác. Nó thúc đẩy việc áp dụng các
phương pháp giảng dạy có hiệu quả và hữu ch để hướng dẫn, giúp đỡ và khuyến
khích học sinh nhìn nhận và sử dụng ngữ pháp như một công cụ truyền đạt ý tưởng
một cách rõ ràng và chính xác.
Do đó, giáo vi n ngoại ngữ cần phải tự mình thay đổi và kết hợp các phương
pháp giảng dạy khác nhau nhằm giúp cho việc dạy và học Tiếng Anh trở nên thiết
thực và nhẹ nhàng hơn bằng cách tổ chức các hoạt động li n quan đến giao tiếp
trong lớp học. Giáo viên phải hiểu rằng mỗi học sinh học theo một cách khác nhau
và có những điểm mạnh, điểm yếu khác nhau. Từ đó, giáo viên cần điều chỉnh các
hoạt động của lớp học dựa trên nhu cầu và năng lực khác nhau của học sinh thay vì
ép buộc học sinh phải đi theo một mô hình duy nhất. Sự đa dạng trong các phương
pháp giảng dạy và các hoạt động trong lớp học sẽ giúp học sinh phát triển hơn khả
năng tiếp thu và sự tự tin trong quá trình học ngoại ngữ của mình.
Trước đây, rất nhiều giáo viên tiếng Anh chỉ dạy ngữ pháp dựa trên những cấu
trúc có sẵn mà không có bất kỳ sự chuyển đổi linh hoạt nào cho phù hợp với các
bối cảnh giao tiếp thực tế. Tuy nhiên, hiện nay, phương pháp giảng dạy theo đường
hướng giao tiếp đã được áp dụng rộng rãi trong các lớp học ngoại ngữ. Phương
pháp này lấy năng lực giao tiếp làm mục đ ch của việc giảng dạy, và để đạt được
mục đ ch đó, chương trình đào tạo cũng như phương pháp giảng dạy đều phải được
xây dựng dựa trên các hoạt động giao tiếp.
Các cấu trúc ngữ pháp phải được thể hiện trong các ngữ cảnh giao tiếp có ý
nghĩa. Khi học sinh nhận thấy rằng bối cảnh giao tiếp liên quan trực tiếp đến các

- 5 -
tình huống thực tế, các em sẽ quan tâm hơn đến việc học cách truyền đạt thông tin
đúng ngữ pháp.
Thứ hai, các cấu trúc ngữ pháp phải phù hợp với mục đ ch giao tiếp của học
sinh. Điều này đòi hỏi giảng viên phải thường xuyên tìm hiểu và phân tích nhu cầu
của người học để xác định rằng những gì chúng ta giảng dạy là phù hợp với những
gì người học mong đợi và cần trong giao tiếp thực tế.
Từ những yêu cầu trên, bản thân tôi thấy rõ được những vấn đề khó khăn đang
gặp phải trong quá trình dạy và học tiếng Anh ở bậc tiểu học. Trong một lớp học, tỉ
lệ học sinh có thể hiểu và sử dụng được những kiến thức đã học để giao tiếp tốt, cụ
thể là nghe và nói tốt là rất t. Trước hết, phần lớn là giáo vi n chưa cập nhật và tiếp
cận được những thay đổi trong phương pháp giảng dạy, chưa chú ý đến từng đối
tượng học sinh cụ thể, chưa lấy học sinh làm trung tâm. Tiếp đến là do tâm l người
học, học sinh tiểu học chưa ý thức được đầy đủ việc học tiếng Anh của mình là để
làm gì, từ đó chưa có động lực và phương pháp học đúng đắn và hiệu quả.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Nhìn chung hiện nay, việc dạy học tiếng Anh ở các cấp phổ thông nói chung
và cấp tiểu học nói riêng còn có nhiều bất cập. Trong các tiết dạy, phần lớn giáo
vi n thường đặt nặng vấn đề lý thuyết, cung cấp từ vựng và ngữ pháp cho học sinh
bằng cách viết từ mới, mẫu câu lên bảng để học trò chép và dịch nghĩa mà t hoặc
không sử dụng các phương pháp trực quan sinh động như: Tổ chức các buổi giao
lưu với nhiều trò chơi, kể chuyện, đố vui... Điều này khiến học sinh chỉ có thể nhớ
từ vựng một cách thụ động nên rất dễ quên và không thể vận dụng được vào văn
phong giao tiếp. Việc tạo ra môi trường học tập có nhiều hoạt động linh hoạt mới
có thể khơi gợi niềm hứng thú học tập, kiến thức sẽ được tiếp thu một cách tự nhiên
mà không tạo ra áp lực, sức ép cho học sinh.
Năm học 2018 -2019, sở Giáo dục và đào tạo tỉnh ĐăkLăk đã tổ chức Hội thi
“Hùng biện tiếng Anh cấp Tiểu học” với mục đ ch: