
4
TRƯỜNG THPT SỐ 1 TP LÀO CAI
TỔ HÓA - SINH
…………..…………..
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC
MÔN HÓA HỌC LỚP 11NC NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC HÓA HỌC Ở
TRƯỜNG THPT
Giáo viên: Vương Quang Trọng
Tổ Hóa – Sinh, Trường THPT số 1 TP Lào Cai
Lào Cai, tháng 4 năm 2014

5
1. Đặt vấn đề
1.1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
cải cách giáo dục cấp trung học phổ thông. Theo điều 28 – Luật giáo dục: “Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”. Vì vậy, việc dạy học không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức mà quan
trọng hơn là dạy cho học sinh phương pháp tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức.
Hóa học là một môn khoa học kết hợp giữa lí thuyết và thực nghiệm, với nhiều
kiến thức trừu tượng. Vì vậy việc đổi mới PPDH môn Hóa học có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông.
Trong các PPDH tích cực, phương pháp sử dụng bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh
hệ thống hóa kiến thức, xác định được kiến thức cơ bản từ đó đạt hiệu quả cao trong
học tập. Mặt khác sử dụng phương pháp bản đồ tư duy còn giúp học sinh rèn luyện,
phát triển tư duy logic, khả năng tự học, phát huy tính tích cực và sáng tạo của học
sinh không chỉ trong học tập môn Hóa học mà còn trong các môn học khác và các vấn
đề khác trong cuộc sống.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong
dạy học môn Hóa học lớp 11 nâng cao nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Hóa
học ở trường Trung học phổ thông ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu này được tiến hành với những mục đích sau:
- Giúp HS làm quen, thiết kế và sử dụng bản đồ tư duy trong học tập môn Hóa học
cũng như các môn học khác, nhằm hệ thống hóa kiến thức, tăng khả năng vận dụng
kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
- Tăng cường khả năng hoạt động nhóm, khả năng thuyết trình của HS.
- Tìm ra cách thức sử dụng bản đồ tư duy, góp phần đổi mới phương pháp dạy học
môn Hóa học ở trường phổ thông.

6
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu dựa trên các đối tượng sau:
- Học sinh lớp 11A2, học chương trình sách giáo khoa Hóa học 11 ban nâng cao.
- Chương trình Hóa học lớp 11 ban nâng cao.
- Bản đồ tư duy.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng các phương pháp sau trong quá trình nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu.
- Tổ chức thực nghiệm trên đối tượng HS lớp 11A2 (có sử dụng bản đồ tư duy) và lớp
11A3 (không sử dụng bản đồ tư duy), có kết hợp tổ chức cho HS hoạt động nhóm, yêu
cầu HS thuyết trình trước lớp.
- So sánh, phân tích kết quả và đưa ra kết luận.
1.5. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
1. Phạm vi: Chương trình hóa học lớp 11 ban nâng cao.
2. Kế hoạch nghiên cứu:
Sau khi nghiên cứu tài liệu tổng quan, để cho HS làm quen, thiết kế và sử dụng bản đồ
tư duy, tác giả đã lần lượt thực hiện các bước sau:
- Bước 1: Giới thiệu khái niệm bản đồ tư duy và một số bản đồ tư duy đơn giản.
- Bước 2: Tập cho HS đọc một số bản đồ tư duy đã được thiết kế sẵn, kết hợp trong
quá trình giảng dạy.
- Bước 3: Tổ chức cho HS hoạt động nhóm nhằm xây dựng bản đồ tư duy, tổng kết
kiến thức một phần nội dung hoặc một chương trong chương trình đang học. Yêu cầu
HS thuyết trình trước lớp.
- Bước 4: Yêu cầu cá nhân HS tự thiết kế bản đồ tư duy theo chủ đề cho trước.
Cuối cùng, tác giả so sánh, phân tích kết quả và đưa ra kết luận về đề tài.
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Cơ sở lí thuyết
2.1.1. Giới thiệu về bản đồ tư duy [1]
Hiện nay chúng ta thường ghi chép thông tin bằng các kí tự, đường thẳng, con
số theo một trình tự nhất định. Với cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một
nửa bộ não – não trái. Như vậy chúng ta chưa phát huy hết tiềm năng của não phải, nơi
giúp chúng ta xử lí các thông tin về nhịp điệu, màu sắc, không gian...

7
Hình 1: Vai trò của hai bán cầu não
Bản đồ Tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh, để mở
rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại bản đồ này được gọi là Mind
Mapping và được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960.
Ở vị trí trung tâm bản đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng
hay khái niệm chủ đạo. Ý trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1
bằng các nhánh chính, từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp 2
để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế, sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình
ảnh luôn được nối kết với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng
thể” mô tả về ý trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
Hình 2: Bản đồ tư duy của một sinh viên ôn tập môn văn.

8
Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng bản đồ tư duy,
tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng thì liên hệ
với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi nhớ và nhìn nhận
dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều biểu thị toàn bộ cấu trúc chi tiết của
một đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của đối tượng, sự quan hệ
hỗ tương giữa các khái niệm (hay ý) có liên quan và cách liên hệ giữa chúng với nhau
bên trong của một vấn đề lớn.
2.1.2. Ưu điểm của bản đồ tư duy [2]
BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học
tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu
dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là
môn toán, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần
trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã
học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng
trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí
nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học HS sẽ học được phương pháp
học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
BĐTD- giúp HS học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy
bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ,
tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp HS học tập một
cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc HS tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của HS, phát
triển năng khiếu hội họa, sở thích của HS, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng,
tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi
BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng HS và BĐTD do các
em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
BĐTD giúp HS ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của BĐTD nên người thiết
kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết
nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép có
hiệu quả.