
1
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 (gọi tắt là Chương trình 2018,
hay CTGDPT 2018) là chương trình định hướng giáo dục và đào tạo cho mọi cấp
học phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam ban hành ngày 26 tháng 12
năm 2018 theo thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT về "ban hành chương trình giáo
dục phổ thông". Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ra đời với mục đích thay
thế và kế thừa chương trình giáo dục hiện hành 2006 đang được áp dụng cho mọi
cấp học phổ thông ở Việt Nam, đồng thời "bảo đảm phát triển phẩm chất và năng
lực người học thông qua nội dung giáo dục với những kiến thức cơ bản, thiết thực;
hiện đại; hài hòa đức, trí, thể, mỹ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức để giải
quyết vấn đề trong học tập và đời sống; tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hóa
dần ở các lớp học trên; thông qua các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục
phát huy tính chủ động và tiềm năng của mỗi học sinh, các phương pháp kiểm tra,
đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục và phương pháp giáo dục để đạt được mục
tiêu đó".
Trong quá trình dạy học, việc đổi mới phương pháp dạy học một cách phù
hợp với đối tượng học sinh là rất cần thiết. Hiện nay khi mục tiêu giáo dục của
Đảng nhà nước đặt ra cũng như nhu cầu của xã hội đòi hỏi giáo dục phải đào tạo ra
những con người phát triển toàn diện không chỉ có kiến thức mà còn phải có năng
lực, phẩm chất tốt. Không chỉ lĩnh hội được kiến thức mà phải lĩnh hội được con
đường, phương pháp chiếm lĩnh kiến thức đó cũng như biết vận dụng kiến thức đó
vào giải quyết các vấn đề thực tiễn thì việc đổi mới phương pháp dạy học là điều
trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Để học sinh thấy các kiến thức mình học là
những kiến thức cần thiết, không xa rời thực tiễn mà nó gắn liền với quá trình phát
triển của xã hội. Từ đó học sinh hình thành nhu cầu, hứng thú đem lại hiệu quả học
tập cao. Trước thực tế đó, đổi mới giáo dục đòi hỏi nhà trường không chỉ trang bị
cho học sinh kiến thức mà còn phải bồi dưỡng, hình thành ở học sinh tính năng
động, óc tư duy sáng tạo và kỹ năng thực hành áp dụng những điều đã học vào
thực tiễn cuộc sống. Để thực hiện các yêu cầu trên, ngành giáo dục đã và đang có
nhiều đổi mới về chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc nhóm, kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Dạy học theo dự án hay
Dạy học dự án (Project based learning) là một phương pháp, một hình thức dạy
học quan trọng và rất hiệu quả để thực hiện quan điểm dạy học định hướng vào
người học, thông qua việc học sinh tự giải quyết một bài tập tình huống (dự án) có
thật trong đời sống. Dạy học dự án (DHDA) góp phần gắn lý thuyết với thực hành,
tư duy và hành động, đào tạo năng lực làm việc tự lực, sáng tạo, tinh thần trách
nhiệm và khả năng cộng tác của người học.

2
Tuy nhiên việc ứng dụng DHDA vào thiết kế và giảng dạy các bài cụ thể ở
chương trình hóa học phổ thông vẫn chưa được coi trọng đúng mức đặc biệt là
THPT miền núi. Với mong muốn đáp ứng dạy học theo chương trình GDPT 2018
đối với học sinh các trường THPT hiện nay đặc biệt là học sinh THPT miền núi
phát huy được tính tích cực sáng tạo trong học tập góp phần giúp học sinh hiểu biết
thực tiễn, yêu thích bộ môn Hóa học chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: Ứng
dụng phương pháp dạy học dự án nhằm tăng khả năng hoạt động tích cực sáng
tạo của học sinh THPT miền núi trong bài “phương pháp tách biệt và tinh chế
hợp chất hữu cơ – Hóa học 11”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu việc sử dụng DHDA trong bài phương pháp tách biệt và tinh chế
hợp chất hữu cơ – Hóa học 11, góp phần nâng cao chất lượng dạy học hóa học
đồng thời phát huy được khả năng hoạt động tích cực sáng tạo của học sinh.
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài: Tổng quan vấn đề nghiên cứu, các
phương pháp dạy học tích cực, dạy học dự án.
- Tìm hiểu thực trạng ứng dụng DHDA trong môn Hóa học ở trường THPT
miền núi.
- Thiết kế và thực hiện DHDA trong bài phương pháp tách biệt và tinh chế
hợp chất hữu cơ – Hóa học 11.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm: Thử nghiệm DHDA trong thực tế tại
trường THPT Tương Dương 1, so sánh với các phương pháp dạy học khác và đánh
giá kết quả.
- Kiến nghị một số giải pháp thực hiện DHDA qua kinh nghiệm áp dụng thực
tế.
4. Đối tượng nghiên cứu
Sử dụng phương pháp DHDA trong bài phương pháp tách biệt và tinh chế
hợp chất hữu cơ – Hóa học 11 đối với học sinh THPT miền núi.
5. Phương pháp nghiên cứu
a) Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu các văn bản của Đảng, Nhà nước, Bộ giáo dục và Đào tạo về
đổi mới phương pháp dạy học.
- Nghiên cứu những tài liệu về lý luận dạy học bộ môn, hệ thống các phương
pháp dạy học tích cực, các tài liệu về dạy học tích cực.
- Nghiên cứu sách giáo khoa Hoá học 11 và các tài liệu có liên quan nội dung
giảng dạy bộ môn Hóa học 11 chương trình GDPT 2018.

3
b) Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra cơ bản về thực trạng DHDA tại trường THPT miền núi.
- Thăm dò, khảo sát, trao đổi ý kiến với giáo viên và học sinh về nội dung,
khối lượng kiến thức, cách dạy, học bằng phương pháp DHDA để nâng cao hiệu
quả dạy và học bộ môn Hóa học 11.
c) Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Tổ chức hoạt động dạy học theo phương pháp DHDA
- Đánh giá kết quả học tập và những năng lực học sinh phát huy được sau khi
dạy học hóa học thiết kế theo phương pháp DHDA.
6. Đóng góp của đề tài
- Kế thừa và xây dựng đầy đủ tổng quan cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Đề xuất một quy trình thiết kế dự án và một quy trình bài dạy theo dự án
mới.
- Xây dựng dự án dạy học riêng cho bài phương pháp tách biệt và tinh chế
hợp chất hữu cơ - Hóa học 11.
- Các dự án dạy học được xây dựng theo hướng gắn liền với công nghệ thông
tin như: Sản phẩm của dự án gắn liền với phát triển kỹ năng ứng dụng công nghệ
thông tin…
- Thực nghiệm sư phạm kiểm chứng tính khả thi và tính hiệu quả của DHDA
ứng dụng trong dạy học bài phương pháp tách biệt và tinh chế hợp chất hữu cơ -
Hóa học 11.
PHẦN II. NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học theo phương pháp
DHDA
1. Cơ sở lí luận
1.1. Khái niệm phương pháp DHDA
Dạy học theo dự án là một phương pháp dạy học được các nhà sư phạm Mĩ sử
dụng từ cuối thế kỉ XIX và đến nay nó được ứng dụng rộng rãi ở các nước phát
triển như Pháp, Đan Mạch. . . Ở Việt Nam, phương pháp này cũng bắt đầu được
đưa vào dạy học thực nghiệm ở một số trường học và một số môn học nhưng chưa
phổ biến. Với những cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đưa ra nhiều cách định
nghĩa về phương pháp dạy học này song nhìn chung có thể hiểu: Dạy học theo dự
án là một hình thức dạy học mà trong đó học sinh (dưới sự hướng dẫn và hỗ trợ
của giáo viên) sẽ tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập mang tính phức hợp về lý
thuyết và thực hành. Thông qua đó các em học sinh sẽ có thể tạo ra các sản phẩm
thực hành để giới thiệu, công bố đến mọi người.

4
1.2. Đặc điểm của DHDA
- Định hƣớng thực tiễn: Chủ đề của dự án gắn với thực tiễn và kết quả của dự
án có ý nghĩa thực tiễn xã hội. Dạy học dự án tạo ra kinh nghiệm học tập cho học
sinh và kinh nghiệm dạy học đối với giáo viên, thu hút học sinh vào những dự án
phức tạp trong thế giới thực, học sinh sẽ dựa vào đó để phát triển và ứng dụng các
kĩ năng, kiến thức của mình vào cuộc sống.
- Định hƣớng hứng thú: Chủ đề, nội dung của dự án tạo dựng phải phù hợp và
thu hút được hứng thú của học sinh, thúc đẩy mong muốn học tập của học sinh,
tăng cường năng lực hoàn thành những công việc quan trọng và mong muốn được
đánh giá. Khi đó, giá trị của việc học đối với học sinh cũng tăng lên. Trong dạy
học dự án, cơ hội cộng tác làm việc với các bạn cùng lớp cũng làm tăng hứng thú
học tập của học sinh. Với mô hình dạy học theo dự án, giáo viên sử dụng các
phương pháp giảng dạy mới và tương tác. Mục đích là nhằm giúp học sinh hỏi “tại
sao?”, “làm thế nào?” và “điều gì sẽ xảy ra nếu mình làm như thế này?”. Mục đích
là giúp học sinh hứng thú và sau đó suy nghĩ. Quan trọng nhất là “tránh giáo viên
nói quá nhiều”; điều này dẫn đến việc học sinh buồn chán và thụ động.
- Định hƣớng hành động: Dạy học theo dự án thực hiện nguyên tắc kết hợp
chặt chẽ giữa lí thuyết và thực hành, huy động nhiều giác quan và khả năng của
học sinh. Trong mô hình dạy học theo dự án, học sinh sẽ liên tục khám phá, giải
thích, tổng hợp thông tin một cách sát thực và có ý nghĩa. Các tiết học theo dự án
hấp dẫn sẽ giúp học sinh hiểu rằng các nhiệm vụ trong lớp là có giá trị. Học sinh sẽ
có động cơ tốt khi tin rằng các nhiệm vụ mà họ thực hiện phù hợp với các nhu cầu,
quyền lợi và mục đích cá nhân của họ. Song cần nhấn mạnh, giáo viên phải đảm
bảo rằng các nhiệm vụ phải phù hợp với khả năng của học sinh. Nếu các nhiệm vụ
quá sức thì học sinh sẽ mất tự tin. Nếu các nhiệm vụ quá dễ thì học sinh nhanh
chán và mất hứng thú làm việc, các hoạt động học sẽ không còn hiệu quả.
- Định hƣớng sản phẩm: Trong dạy học theo dự án, học sinh luôn phải tạo ra
các sản phẩm theo kế hoạch dự án đã đề ra. Học sinh được đánh giá thông qua các
sản phẩm này cùng với việc công bố, giới thiệu sản phẩm và quá trình làm việc của
mình. Do vậy, khi giới thiệu dự án luôn có định hướng sản phẩm rõ ràng.
- Tính tự lực cao của học sinh: Trong dạy học theo dự án, học sinh tham gia
tích cực và tự lực vào tất cả các giai đoạn của quá trình dạy học: đề xuất vấn đề,
lập kế hoạch, giải quyết vấn đề, báo cáo kết quả dự án. . . Với cách làm việc như
vậy, học sinh thực sự trở thành trung tâm của quá trình dạy học và chủ động chiếm
lĩnh kiến thức.
- Mang tính phức hợp: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh
vực, nội dung hoặc nhiều môn học khác nhau. Dạy học theo dự án yêu cầu học
sinh sử dụng thông tin nhiều môn học khác nhau để giải quyết các nhiệm vụ học
tập. Do đó, bên cạnh nội dung các nhiệm vụ của học sinh và công việc của giáo
viên cũng mang tính phức hợp.

5
- Cộng tác trong làm việc: Thể hiện sự cộng tác chặt chẽ liên tục trên nhiều
khía cạnh, giữa giáo viên với học sinh và giữa học sinh với học sinh. Việc cộng tác
giữa giáo viên với học sinh thể hiện ở sự hướng dẫn, tư vấn và cung cấp thông tin
phản hồi của giáo viên cho học sinh. Học sinh sẽ nhận nhiệm vụ và liên tục thông
qua tiến trình thực hiện dự án với giáo viên. Đồng thời, các dự án học tập thường
được thực hiện theo nhóm, môi trường học tập mang tính cộng đồng xã hội. Bởi
vậy, các nhóm học sinh phải có sự cộng tác trong làm việc mới đảm bảo được
thành công cho dự án. Nhiều khi với dạy học theo dự án, sự cộng tác được mở
rộng đến cộng đồng. Tính cộng tác có tầm quan trọng như là phương tiện làm
phong phú hơn và mở rộng sự hiểu biết của học sinh về những điều họ đang học.
Với 7 đặc điểm trên có thể thấy dạy học theo dự án hoàn toàn phù hợp với
mục tiêu của dạy học hiện đại là hướng người học vào trung tâm, phát huy tính tích
cực và khả năng độc lập của người học trong quá trình dạy học.
1.3. Mục đích của DHDA
- Tạo ra các sản phẩm mới: Với mục đích tạo ra các sản phẩm mới và áp
dụng được vào trong thực tế, cả giáo viên và học sinh cần hiểu rõ bản chất của vấn
đề để từ đó các những định hướng hiệu quả nhất. Từ những kiến thức mà mình
được học, học sinh sẽ vận dụng trong sáng tạo để cho ra các kết quả có thể sử dụng
để giải quyết một vấn đề khó khăn nào đó. Ví dụ: Thực hiện các chương trình từ
thiện, tổ chức các buổi diễn giảng, các sản phẩm kỹ thuật…
- Áp dụng trong nghiên cứu: Phương pháp dạy học dự án luôn đề cao việc học
sinh chủ động tham gia học hỏi và phát triển bản thân theo những mục đích riêng.
Việc nghiên cứu các đề tài khoa học chính là hoạt động áp dụng hiệu quả của
phương pháp này bởi học sinh nhận ra được các vấn đề chưa được lý giải trong
thực tế để từ đó tiến thành tìm hiểu và đưa ra những dẫn chứng cụ thể cho nhận
định của mình. Ví dụ: Nghiên cứu về hiệu quả của âm nhạc với bò sữa, nghiên cứu
phương pháp giảm ô nhiễm nước…
1.4. Phân loại
- Phân loại theo chuyên môn:
Dự án tích hợp: Là sự tổng hợp kiến thức từ nhiều bộ môn khác nhau có điểm
tương đồng về cách giảng dạy. Các dự án này sẽ chú trọng đến việc truyền đạt lý
thuyết, thực hiện các biện pháp thực hành bằng cách áp dụng kiến thức liên môn để
giải quyết vấn đề.
Dự án thực hành: Phương pháp sẽ chú trọng đến việc cho học sinh thực hành
trực tiếp với các kiến thức để tạo ra sản phẩm. Các kết quả đạt được cần phải giải
quyết một vấn đề nào đó, áp dụng đưa vào hoạt động thực tế.
- Phân loại theo nhiệm vụ: