
1
SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2014 - 2015
I. TÊN SÁNG KIẾN
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TÍCH HỢP, LIÊN MÔN
THIẾT KẾ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC BÀI “CÔNG DÂN VỚI MỘT SỐ VẤN ĐỀ
CẤP THIẾT CỦA NHÂN LOẠI” - MÔN GDCD 10.
II. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
- Họ và tên: VŨ THỊ LỆ HẰNG
- Chức danh: Giáo viên
- Địa chỉ: Trường THPT Kim Sơn A
III. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Giải pháp cũ thường làm:
Một trong những môn học có vai trò trong việc “đào tạo những người lao
động mới vừa có tri thức khoa học, vừa có đạo đức, vừa có năng lực hoạt động
thực tiễn, vừa có phẩm chất chính trị, tư tưởng, vừa có ý thức trách nhiệm đối với
cộng đồng, gia đình và với chính bản thân mình” - đó là môn GDCD. Môn GDCD
có những đặc trưng của một môn khoa học xã hội - nhân văn, trong đó có những
đặc điểm nổi trội mà chúng ta cần quán triệt trong quá trình dạy học, đó là tính
thực tiễn, tính giáo dục và tính tích hợp.
Tuy nhiên, trong thực tế từ trước đến nay, môn GDCD luôn bị coi là một
môn học chính trị thuần tuý, môn phụ, có vai trò, vị trí thứ yếu trong nhà trường,
nên hiệu quả giáo dục thấp. Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân cơ bản là phương pháp dạy học.
Với “quan niệm” GDCD là môn phụ vì vậy giáo viên cũng đầu tư không
nhiều trong khâu tìm kiếm tư liệu, xây dựng tiến trình bài dạy với những PPDH,
KTDH tích cực. Cấu trúc một bài soạn GDCD theo phương pháp truyền thống là
sự sắp xếp một cách công thức, cứng nhắc, chi tiết, đầy đủ những việc làm của
giáo viên và học sinh theo một trình tự nhất định. Nội dung của giáo án được giáo
viên trích dẫn hay giảng giải từ nội dung của SGK, khi lên lớp giáo viên cứ việc
tuân theo giáo án mà thực hiện từ đầu đến kết thúc.
Thông thường giáo án soạn theo phương pháp cũ được giáo viên xây dựng
theo cấu trúc của một giờ học gồm các bước như sau:
- Kiểm tra bài cũ.
- Giới thiệu bài mới.
- Dạy bài mới.

2
- Luyện tập, củng cố kiến thức hình thành ở học sinh.
- Hướng dẫn học sinh làm việc ở nhà.
Các phương pháp GV thường sử dụng trong bài dạy GDCD là:
1.1. Phương pháp thuyết trình nêu vấn đề
- Là PP để trình bày, giải thích nội dung bài học một cách chi tiết, dễ hiểu
cho HS tiếp thu. Đối với HS qua nghe giảng giải nhanh chóng hiểu được vấn đề và
học được PP trình bày vấn đề học tập một cách có hệ thống. GV thường sử dụng
PP này khi tiến hành nội dung các kiến thức cần nhớ trong bài học, thể hiện mối
liên hệ kiến thức trong một phần hoặc toàn bộ chương trình.
- Tuy nhiên, đây là PP độc thoại, HS rơi vào tình trạng thụ động, phải cố
gắng nghe để hiểu, ghi nhớ và không có cơ hội trình bày ý kiến riêng của mình dẫn
đến thói quen thụ động chờ đợi ý kiến giải thích của GV.
1.2. Làm việc với sách giáo khoa
- Ưu điểm: HS làm việc một cách độc lập, tích cực, tạo không khí sôi nổi
trong học tập và phát huy năng lực tư duy của HS.
- Nhược điểm: Kiến thức trong SGK chỉ hạn chế trong lượng kiến thức của
môn học, chưa đề cập được hết tất cả các kiến thức, tình huống mà HS sẽ gặp trong
cuộc sống.
1.3. Phương pháp đàm thoại (vấn đáp)
- PP đàm thoại (vấn đáp) là PP giáo viên đặt ra những câu hỏi để HS trả lời
nhằm gợi mở cho HS sáng tỏ những vấn đề mới; tự khai phá những tri thức mới
bằng sự tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích lũy được
trong cuộc sống, nhằm giúp HS củng cố, mở rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hóa
những tri thức đã tiếp thu được và nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá và giúp HS tự
kiểm tra việc lĩnh hội tri thức.
- Ưu điểm: Nếu vận dụng khéo léo phương pháp vấn đáp sẽ có tác dụng:
+ Điều khiển có hiệu quả hoạt động tư duy của học sinh, kích thích tính tích
cực hoạt động nhận thức của họ.
+ Bồi dưỡng cho học sinh năng lực diễn đạt bằng lời những vấn đề khoa học
một cách chính xác, đầy đủ, xúc tích.
+ Giúp giáo viên thu được tín hiệu ngược từ học sinh một cách nhanh, gọn,
để kịp điều chỉnh hoạt động của mình và của học sinh. Đồng thời qua đó mà học
sinh cũng thu được tín hiệu ngược để kịp thời điều chỉnh hoạt động nhận thức - học
tập của mình. Ngoài ra, thông qua đó mà giáo viên có khả năng chỉ đạo hoạt động
nhận thức của cả lớp và của từng học sinh.

3
- Nhược điểm: Nếu vận dụng không khéo sẽ dễ làm mất thời gian, ảnh
hưởng đến kế hoạch lên lớp, biến vấn đáp thành cuộc đối thoại giữa giáo viên và
một vài học sinh, không thu hút toàn lớp tham gia vào hoạt động chung. Nếu câu
hỏi đặt ra chỉ đòi hỏi nhớ lại tri thức một cách máy móc thì sẽ làm ảnh hưởng đến
sự phát triển tư duy lôgic, tư duy sáng tạo của học sinh.
Mục đích của bài soạn này là làm sao truyền thụ được nội dung thông tin
định sẵn theo ý muốn chủ quan của giáo viên. Để đạt được mục đích đó, giáo viên
sắp xếp một cách lôgic kết cấu bài soạn sao cho thích hợp với nội dung cần truyền
đạt. Nội dung cần truyền đạt này chỉ căn cứ vào nội dung bài học trong SGK. Như
vậy, lôgic của bài soạn chỉ dựa vào SGK và lập luận của người trình bày mà không
tính đến khả năng tiếp nhận kiến thức của học sinh vốn là nhân vật trung tâm của
hoạt động dạy - học.
Vì vậy, phải đổi mới từng bước PPDH bộ môn đặc biệt là phải vận dụng
được các PPDH, KTDH tích cực vào quá trình giảng dạy giúp học sinh chiếm lĩnh
kiến thức đó bằng tư duy lôgic, tính tích cực, chủ động, sáng tạo.
Do đó, tôi đã Vận dụng quan điểm dạy học tích hợp, liên môn thiết kế tiến
trình dạy học bài “Công dân với các vấn đề cấp thiết của nhân loại” - trong môn
Giáo dục công dân 10 nhằm phát triển năng lực ở học sinh.
2. Giải pháp mới cải tiến
Mục đích của việc đổi mới PPDH ở trường THPT là thay đổi lối dạy học
truyền thụ một chiều sang dạy học theo PPDH tích cực nhằm: “Giúp học sinh phát
triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát
triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con
người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân...” (Khoản 2,
Điều 28, Luật Giáo dục 2005).
Mục tiêu của môn GDCD không đơn giản chỉ là truyền thụ kiến thức, mà
quan trọng là hình thành thái độ và các hành vi đối với học sinh. Vì vậy, phải đổi
mới từng bước PPDH bộ môn đặc biệt là phải vận dụng được các PPDH, KTDH
tích cực vào quá trình giảng dạy giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức đó bằng tư duy
lôgic, tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Mỗi GV cần phải tìm cho mình một PPDH
phù hợp áp dụng cho tất cả các khâu của quá trình dạy học.
Nhằm đáp ứng yêu cầu đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ

4
áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến
khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát
triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”; “Đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân
chủ hoá và hội nhập quốc tế” và “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo
dục quốc dân”.
Một quan điểm mới, hiện đại trong dạy và học hiện nay là dạy học theo chủ
đề, dạy học tích hợp và tích hợp liên môn. Tích hợp là một trong những quan điểm
giáo dục đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung dạy học trong nhà trường
phổ thông và trong xây dựng chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới.
Quan điểm tích hợp được xây dựng trên cơ sở những quan niệm tích cực về quá
trình học tập và quá trình dạy học.
Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng việc hiểu đúng và làm đúng quá
trình tích hợp sẽ giúp nâng cao năng lực của người học, đào tạo những người có
đầy đủ phẩm chất, năng lực vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng và phương pháp
của khối lượng tri thức toàn diện, hài hòa và hợp lý trong giải quyết các tình huống
khác nhau trong cuộc sống hiện đại và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn
đối với học sinh so với việc các môn học, các mặt giáo dục được thực hiện riêng
rẽ. Đồng thời dạy học tích hợp, liên môn giúp hình thành và phát triển ở học sinh
các năng lực cần thiết của một người lao động trong tương lai như: NL tự học; NL
giải quyết vấn đề; NL sáng tạo; NL hợp tác; NL giao tiếp; NL sử dụng CNTT và
truyền thông….
2.1. Khái quát về quan điểm dạy học tích hợp liên môn
2.1.1. Các khái niệm cơ bản
a) Tích hợp:
Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương
trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa
là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”.
Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng
nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau
trong cùng một kế hoạch dạy học”.

5
Trong tiếng Anh, tích hợp được viết là “integration” một từ gốc Latin
(integer) có nghĩa là “whole” hay “toàn bộ, toàn thể”. Có nghĩa là sự phối hợp các
hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống để bảo đảm sự
hài hòa chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống ấy.
Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào
quá trình DH các môn học như: tích hợp GD đạo đức, lối sống; GD pháp luật; GD
bảo vệ mội trường; GD chủ quyền quốc gia về biên giới….
Đưa tư tưởng sư phạm tích hợp vào trong quá trình dạy học là cần thiết. dạy
học tích hợp là một xu hướng của lí luận dạy học và được nhiều nước trên thế giới
thực hiện.
b) Tích hợp liên môn:
Dạy học liên môn là phải xác định các nội dung kiến thức liên quan đến hai
hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một
nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Đối với những kiến thức liên môn
nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của
môn đó và không dạy lại ở các môn khác. Trường hợp nội dung kiến thức có tính
liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng
vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan.
2.1.2. Mục đích của dạy học tích hợp liên môn:
- Dạy học vận dụng kiến thức liên môn giúp cho giờ học trở nên sinh động
hơn, vì không chỉ có giáo viên là người trình bày mà học sinh cũng tham gia vào
quá trình tiếp nhận kiến thức, từ đó phát huy tính tích cực của học sinh.
- Dạy học liên môn cũng góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở học
sinh. Tạo cho học sinh một thói quen trong tư duy, lập luận tức là khi xem xét một
vấn đề phải đặt chúng trong một hệ quy chiếu, từ đó mời có thể nhận thức vấn đề
một cách thấu đáo.
- Giúp học sinh hứng thú học tập, từ đó khắc sâu được kiến thức đã học.
- Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa: bằng cách gắn học tập với cuộc sống
hàng ngày, trong quan hệ với các tình huống cụ thể mà học sinh sẽ gặp sau này,
hòa nhập thế giới học đường với thế giới cuộc sống.
- Dạy cho học sinh sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể: thay vì tham
nhồi nhét cho học sinh nhiều kiến thức lí thuyết đủ loại, dạy học tích hợp chú trọng
tập dượt cho học sinh vận dụng các kiến thức kĩ năng học được vào các tình huống
thực tế, có ích cho cuộc sống sau này làm công dân, làm người lao động, có năng
lực sống tự lập.