
1
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do lựa chọn đề tài
Thế kỉ XXI là thế kỉ của nền kinh tế tri thức, thế kỉ mà tri thức và kĩ năng của
con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội. Nhằm đào tạo
được những người lao động mới có khả năng vận dụng linh hoạt các kĩ năng và
năng lực vào thực tiễn cuộc sống để giải quyết được những nhiệm vụ đất nước đặt
ra.
Luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Để đáp ứng
yêu cầu phát triển của nước ta trong giai đoạn mới, trường phổ thông phải trang bị
cho học sinh không chỉ những kiến thức cơ bản mà phải phát triển các năng lực
toàn diện cho học sinh.
Hóa học là một bộ môn khoa học tự nhiên gắn với thực nghiệm, những tri thức
mà nó đem lại rất cần thiết trong đời sống, đồng thời góp phần phát triển năng lực
(NL) toàn diện cho người học như: NL sáng tạo, NL giải quyết vấn đề, NL vận
dụng kiến thức vào thực tiễn…đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực
hành, thực tiễn của học sinh. Sử dụng thí nghiệm hóa học trong dạy học hóa học
được coi là một phương pháp để thực hiện nhiệm vụ đó. Việc sử dụng thí nghiệm
nói chung và thí nghiệm gắn với tình huống, bối cảnh thực tiễn nói riêng sẽ giúp
học sinh nhận thấy được vai trò của hóa học đối với đời sống và sản xuất; từ đó
tăng hứng thú, sự yêu thích say mê với hóa học. Do vậy việc tăng cường sử dụng
thí nghiệm từ thực tiễn cuộc sống trong dạy học hóa học sẽ góp phần thực hiện
nguyên lí giáo dục:“học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí
luận gắn liền với thực tiễn”
Tuy nhiên, việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học hóa học còn chưa được chú
trọng đúng mức; trong sách giáo khoa, tài liệu tham khảo bộ môn Hóa học, trong
các đề thi, nội dung các bài tập liên quan thí nghiệm thực tiễn còn ít và chưa phong
phú. Vì vậy, HS có thể giải thành thạo các bài tập hóa học định tính, định lượng
truyền thống nhưng khi cần vận dụng kiến thức hóa học vào tình huống thực tiễn
cụ thể lại lúng túng. Hơn nữa trong chương trình sách giáo khoa mới 2018 đề cao
và hướng đến những kiến thức liên quan đến thực tiễn cuộc sống.
Từ những lý do trên, với mong muốn góp phần đổi mới phương pháp dạy và
học của môn hóa học ở trường THPT, tôi chọn đề tài: “Phát triển năng lực vận
dụng kiến thức kĩ năng cho học sinh từ các thí nghiệm thực tiễn chương sự điện
ly lớp 11 THPT”
II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

2
1. Đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp dạy học thông qua các thí nghiệm thực tiễn
- Kết hợp dạy học trải nghiệm, dạy học stem vào chương Sự điện ly - hóa
học 11 - THPT
2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu vận dụng các kiến thức kĩ năng vào thực tiễn
cho học sinh thông qua chương Sự điện ly - hóa học 11 - THPT
III. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Xác định các nội dung chương sự điện ly và ứng dụng vào dạy học các thí
nghiệm thực tiễn.
IV. Những đóng góp của đề tài
1. Về lý luận
Đề xuất quy trình thiết kế và tổ chức áp dụng các phương pháp dạy học từ
các thí nghiệm thực tiễn chương sự điện ly môn Hóa học 11
2. Về thực tiễn
- Khảo sát, phân tích, đánh giá khái quát thực trạng về nhận thức của giáo
viên và học sinh về áp dụng phương pháp dạy học thông qua các thí nghiệm thực
tiễn của bộ môn Hóa học 11- THPT.
- Thiết kế các thí nghiệm dạy học liên quan thực tiễn chương sự điện ly –
hóa học 11 theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
- Chế tạo các dụng cụ thí nghiệm từ những vật liệu có sẵn trong tự nhiên.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho GV và HS trường THPT

3
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
1.1. Thí nghiệm hóa học gắn kết cuộc sống
Là thí nghiệm hóa học có sử dụngdụng cụ và hóa chất trong sinh hoạt hằng
ngày của con người và thiết lập được mối liên hệ giữa kiến thức khoa học hóa học
với thực tiễn cuộc sống.
1.2. Vai trò của thực hành thí nghiệm
1.2.1. Tính hiệu quả của thực hành thí nghiệm thể hiện các nội dung
- Hình thành khái niệm, lí thuyết mới
- Nghiên cứu hoặc kiểm chứng tính chất hoá học của chất cụ thể
- Ôn tập, củng cố, kiểm tra kiến thức thông qua thí nghiệm hoá học
-Rèn luyện kĩ năng thực hành hoá học như: Lấy các chất, cân, đong hoá chất,
lắp ráp dụng cụ, hoà tan chất, đun nóng chất, …
- Thông qua thực hành thực hiện các thí nghiệm kiểm chứng tính chất đã học.
1.2.2. Đặc trưng của phương pháp thực hành thí nghiệm
- Học sinh suy nghĩ và làm việc nhiều hơn (phát triển năng lực tư duy).
- Học sinh cùng nhau thảo luận theo định hướng của giáo viên (phát triển
năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ,…)
- Thông qua thí nghiệm, học sinh chủ động tìm tòi, phát hiện giải quyết nhiệm
vụ nhận thức và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức kĩ năng (phát triển năng
lực phát hiện và giải quyết vấn đề..).
- Dựa vào các tình huống thực tế khi làm thí nghiệm, học sinh dần biết cách
xử lí tình huống khi gặp sự cố một cách bình tĩnh nhưng cũng quyết đoán và nhanh
chóng.
1.2.3. Vai trò của giáo viên trong thực hành thí nghiệm
- Giáo viên lựa chọn các thí nghiệm thực hành phù hợp với đối tượng học
sinh, bài học để tổ chức các hoạt động dạy học có hiệu quả.
- Giáo viên tổ chức, định hướng cho học sinh sử dụng thí nghiệm thực hành
trong quá trình dạy học sẽ từng bước giảm tỉ lệ học sinh yếu kém, nâng cao chất
lượng đại trà.
- Thí nghiệm thực hành rất phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh. Sử
dụng thí nghiệm giúp học sinh có sự hăng say, hứng thú hơn với môn học, các em
thích tham gia các hoạt động tìm tòi, khám phá đồng thời giúp học sinh rèn luyện
tính cẩn thận cần cù, kiên trì, tiết kiệm,… từ đó giúp học sinh hình thành và phát
triển nhân cách.

4
Như vậy, qua thí nghiệm hóa học, những kiến thức lý thuyết về hóa học trở
thành hiện thực. Thí nghiệm hóa học được sử dụng theo những cách khác nhau để
giúp học sinh thu thập và xử lý thông tin nhằm hình thành kiến thức, kĩ năng và
năng lực cho học sinh.
1.3. Rèn luyện kĩ năng cho giáo viên và học sinh qua thực hành thí nghiệm
1.3.1. Các phương pháp sử dụng thí nghiệm
1.3.1.1. Phương pháp nghiên cứu
- Kiến thức cần lĩnh hội đối với HS là kiến thức mới, HS chưa được học lí
thuyết chung về chúng để có thể suy diễn, dự đoán được. Tuy nhiên từ những kiến
thức cơ sở có thể đưa ra các giả thuyết khác nhau.
- HS sẽ quan sát (hoặc tiến hành thí nghiệm), phân tích các hiện tượng từ đó
xác nhận được giả thuyết đúng.
- Đặc điểm của phương pháp nghiên cứu là đưa ra các giả thuyết
GV thường sử dụng thí nghiệm theo phương pháp nghiên cứu khi dạy tính
chất của các chất mà bản chất, nguyên nhân của tính chất này không giống các chất
đã học.
1.3.1.2. Phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề
- GV phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức giữa kiến thức đã có của học sinh
với kiến thức cần lĩnh hội bằng thí nghiệm.
- Thông qua thí nghiệm học sinh phân tích các hiện tượng, từ đó rút ra kiến
thức mới, giải quyết mâu thuẫn nhận thức lúc đầu.
- Đặc điểm của phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề cần tạo được
mâu thuẫn nhận thức
1.3.1.3. Phương pháp kiểm chứng
- HS cần dự đoán được hiện tượng thí nghiệm trên cơ sở những kiến thức đã
có.
- Thường kiến thức cần lĩnh hội là sự vận dụng có lí thuyết chung vào các
trường hợp cụ thể (những trường hợp theo đúng lí thuyết chung, không đặc biệt)
hoặc các tính chất của chất mới tương tự chất đã học.
Với mỗi trường hợp cụ thể, giáo viên cần xác định rõ mục tiêu, nội dung thí
nghiệm cũng như kiến thức, kĩ năng của học sinh mà lựa chọn phương pháp sử
dụng cho phù hợp sao cho học sinh vừa có thể tích cực lĩnh hội kiến thức mới, vừa
có thể củng cố kiến thức, kĩ năng đã có và yêu thích môn học.
Để các thí nghiệm đạt hiệu quả cao nhất, giáo viên cần lựa chọn phương pháp
sử dụng thí nghiệm theo hướng tích cực phù hợp.

5
1.4. Các bước lựa chọn phương pháp sử dụng thí nghiệm
- Bước 1: Xác định mục tiêu dạy học và nội dung thí nghiệm được sử dụng.
Dựa vào chuẩn kiến thức, kĩ năng để xác định mục tiêu dạy học. Lưu ý mục
tiêu dạy học phải được diễn đạt bằng các động từ hành động có thể lượng hóa, đánh
giá được mức độ lĩnh hội kiến thức, kĩ năng của học sinh, nghĩa là cần chỉ rõ các
kiến thức, kĩ năng học sinh cần lĩnh hội ở các mức độ biết, hiểu, vận dụng,.... Mục
tiêu được diễn đạt càng chi tiết, cụ thể sẽ định hướng các hoạt động dạy học.
- Bước 2: Xác định được các kiến thức, kĩ năng liên quan mà học sinh đã có.
Giáo viên cần xác định ở các lớp trước, các bài trước học sinh đã được học
kiến thức cần lĩnh hội chưa (có thể được học rồi nhưng chỉ ở mức độ biết hoặc được
giới thiệu) hay đã được học các kiến thức tương tự chưa, cách tiến hành thí nghiệm
có tương tự thí nghiệm nào mà học sinh đã biết không, hay đã được học lí thuyết
chung nào liên quan đến kiến thức cần lĩnh hội,…
- Bước 3: Lựa chọn phương pháp sử dụng thí nghiệm phù hợp
Trên cơ sở xác định mục tiêu, nội dung thí nghiệm và kiến thức, kĩ năng đã có
của học sinh, so với bản chất, nét đặc trưng của mỗi phương pháp sử dụng thí
nghiệm ở trên mà giáo viên có sự lựa chọn phù hợp.
1.5. Nội dung thực hành gắn với thực tiễn
- Giáo viên có thể khai thác các thí nghiệm học sinh đã từng trải nghiệm trong
thực tiễn, từ đó liên hệ với kiến thức đang học. Ví dụ hiện tượng xảy ra khi vắt
chanh vào nước rau muống. Tại sao khi bị ong đốt thường bôi vôi? Hiện tượng xảy
ra với các ấm nước hoặc phích nước để lâu. Cách khử mùi tanh của cá, nước chảy
đá mòn…
- Ngoài các thí nghiệm học sinh đã từng trải nghiệm, giáo viên có thể giao các
thí nghiệm liên quan đến đời sống về nhà cho các nhóm tiến hành để củng cố lí
thuyết. Các thí nghiệm này sẽ làm các em thích thú vì do chính tay mình làm, từ đó
củng cố thêm niềm say mê khoa học cho các em.
- Từ các thí nghiệm thực tiễn trên các em hãy nghiên cứu và áp dụng chúng
vào phục vụ cuộc sống hàng ngày.
- Ngoài ra các câu lạc bộ Hóa học ở các trường có thể định hướng cho những
em học sinh có niềm say mê với bộ môn, để trong thời gian rảnh rỗi các em có thể
thảo luận, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm các em mong muốn (có thể không
nằm trong sách vở) dưới sự giám sát và giúp đỡ của giáo viên. Từ đó hình thành
niềm say mê nghiên cứu khoa học cho các em, để cho việc học không còn là thụ
động tiếp thu kiến thức từ sách vở, mà là chủ động lĩnh hội, rèn thêm tính tự tin,
năng động cho các em.
- Học sinh sẽ thấy hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và
học giáo viên luôn có định hướng liên hệ giữa các kiến thức sách giáo khoa với