
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp Sở
Tôi ghi tên dưới đây:
TT
Họ và tên Ngày tháng
năm sinh
Nơi
công tác
Chức
vụ
Trình
độ
chuyên
môn
Tỷ lệ
(%)
đóng
góp
vào
việc
tạo ra
sáng
kiến
1 Tạ Thị Quỳnh Hoa 20/11/1991
THPT
Bình
Minh
Giáo
viên
Cử
nhân
Giáo
dục
công
dân
100%
1. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến :
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TÍCH HỢP, LIÊN MÔN

THIẾT KẾ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
CHỦ ĐỀ “VẤN ĐỀ DÂN SỐ - LAO ĐỘNG – VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM”
(Dành cho học sinh lớp 11)
Lĩnh vực áp dụng: Địa lý – Giáo dục công dân khối THPT.
2. Nội dung
a. Giải pháp cũ thường làm
Trong thực tế, các môn học được GV lên lớp giảng dạy theo đúng phân
phối chương trình, đúng nội dung mà sách giáo khoa trình bày và thường bỏ qua
sự liên quan về nội dung giữa các môn học. Do vậy, tình trạng giữa các môn
học xảy ra sự trùng lặp về nội dung, học sinh phải học đi học lại ở môn này,
môn kia cùng một nội dung là điều không thể tránh khỏi.
Trong chương trình Giáo dục công dân lớp 10 có nội dung về dân số, ở
bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại. Chương trình Giáo
dục công dân lớp 11 có nội dung về dân số và việc làm, ở bài 11: Chính sách
dân số và giải quyết việc làm. Chương trình Giáo dục công dân lớp 12 có nội
dung của pháp luật liên quan đến dân số và việc làm, ở bài 9: Pháp luật với sự
phát triển bền vững của đất nước. Trong chương trình Địa lí lớp 12 có nội dung
liên quan đến dân số, lao động và việc làm, ở bài 16: Đặc điểm dân số và phân
bố dân cư nước ta, bài 17: Lao động và việc làm. Thông thường, các nội dung
này được các GV ở các bộ môn Giáo dục công dân, Địa lý dạy độc lập với nhau,
theo đúng phân phối chương trình.
Nội dung của giáo án các môn được GV trích dẫn hay giảng giải từ nội
dung của SGK, khi lên lớp GV cứ việc tuân theo giáo án mà thực hiện từ đầu
đến kết thúc.

Thông thường giáo án soạn theo phương pháp cũ được GV xây dựng theo
cấu trúc của một giờ học gồm các bước như sau:
- Kiểm tra bài cũ.
- Giới thiệu bài mới.
- Dạy bài mới.
- Luyện tập, củng cố kiến thức hình thành ở HS.
- Hướng dẫn HS làm việc ở nhà.
Cấu trúc một bài soạn theo phương pháp truyền thống ở trên cho thấy sự
sắp xếp một cách công thức, cứng nhắc, chi tiết, đầy đủ những việc làm của GV
và HS theo một trình tự nhất định.
* Các phương pháp GV thường sử dụng trong bài dạy là:
1.1. Phương pháp thuyết trình nêu vấn đề
- Là phương pháp để trình bày, giải thích nội dung bài học một cách chi
tiết, dễ hiểu cho HS tiếp thu. Đối với HS qua nghe giảng giải nhanh chóng hiểu
được vấn đề và học được PP trình bày vấn đề học tập một cách có hệ thống. GV
thường sử dụng PP này khi tiến hành nội dung các kiến thức cần nhớ trong bài
học, thể hiện mối liên hệ kiến thức trong một phần hoặc toàn bộ chương trình.
- Tuy nhiên, đây là phương pháp độc thoại, HS rơi vào tình trạng thụ
động, phải cố gắng nghe để hiểu, ghi nhớ và không có cơ hội trình bày ý kiến
riêng của mình dẫn đến thói quen thụ động chờ đợi ý kiến giải thích của GV.
1.2. Làm việc với sách giáo khoa
- Ưu điểm: HS làm việc một cách độc lập, tích cực, tạo không khí sôi nổi
trong học tập và phát huy năng lực tư duy của HS.

- Nhược điểm: Kiến thức trong sách giáo khoa chỉ hạn chế trong lượng
kiến thức của môn học, chưa đề cập được hết tất cả các kiến thức, tình huống
mà HS sẽ gặp trong cuộc sống.
1.3. Phương pháp đàm thoại (vấn đáp)
- Phương pháp đàm thoại (vấn đáp) là phương pháp GV đặt ra những câu
hỏi để HS trả lời nhằm gợi mở cho HS sáng tỏ những vấn đề mới; tự khai phá
những tri thức mới bằng sự tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ những kinh
nghiệm đã tích lũy được trong cuộc sống, nhằm giúp HS củng cố, mở rộng, đào
sâu, tổng kết, hệ thống hóa những tri thức đã tiếp thu được và nhằm mục đích
kiểm tra, đánh giá và giúp HS tự kiểm tra việc lĩnh hội tri thức.
- Ưu điểm: Nếu vận dụng khéo léo phương pháp vấn đáp sẽ có tác dụng:
+ Điều khiển có hiệu quả hoạt động tư duy của HS, kích thích tính tích
cực hoạt động nhận thức của họ.
+ Bồi dưỡng cho HS năng lực diễn đạt bằng lời những vấn đề khoa học
một cách chính xác, đầy đủ, xúc tích.
+ Giúp GV thu được tín hiệu ngược từ HS một cách nhanh, gọn, để kịp
điều chỉnh hoạt động của mình và của HS. Đồng thời qua đó HS cũng thu được
tín hiệu ngược để kịp thời điều chỉnh hoạt động nhận thức - học tập của mình.
Đồng thời, thông qua đó, GV có khả năng chỉ đạo hoạt động nhận thức của cả
lớp và của từng HS.
- Nhược điểm: Nếu vận dụng không khéo sẽ dễ làm mất thời gian, ảnh
hưởng đến kế hoạch lên lớp, biến vấn đáp thành cuộc đối thoại giữa GV và một
vài HS, không thu hút toàn lớp tham gia vào hoạt động chung. Nếu câu hỏi đặt
ra chỉ đòi hỏi nhớ lại tri thức một cách máy móc thì sẽ làm ảnh hưởng đến sự
phát triển tư duy lôgic, tư duy sáng tạo của HS.

Mục đích của bài soạn này là làm sao truyền thụ được nội dung thông tin
định sẵn theo ý muốn chủ quan của GV. Để đạt được mục đích đó, GV sắp xếp
một cách lôgic kết cấu bài soạn sao cho thích hợp với nội dung cần truyền đạt.
Nội dung cần truyền đạt này chỉ căn cứ vào nội dung bài học trong SGK. Như
vậy, lôgic của bài soạn chỉ dựa vào SGK và lập luận của người trình bày mà
không tính đến khả năng tiếp nhận kiến thức của HS vốn là nhân vật trung tâm
của hoạt động dạy - học.
Hiện nay, việc thực hiện chương trình và SGK mới đã góp phần tích cực
vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa HS. SGK đã
được thiết kế cho GV dễ dàng tổ chức các hoạt động học tập. Các tình huống có
vấn đề, các câu hỏi tìm tòi cũng được đặt ra, mặc dù chưa nhiều nhưng đã mang
tính gợi ý giúp cho GV định hướng phương pháp. Khi dự giờ một số GV, tôi
thấy phương pháp chủ đạo của đa số GV khi giảng dạy là nêu vấn đề, thuyết
trình kết hợp với đàm thoại để làm rõ từng vấn đề, cuối cùng là làm bài tập củng
cố. Phương pháp dạy học trên về ưu điểm đã tạo được sự hứng thú cho HS khi
bắt đầu bài học bằng cách nêu vấn đề. HS được GV giảng giải kĩ lưỡng từng
vấn đề cùng với một số câu hỏi phát vấn cũng phần nào phát huy được tính tích
cực của các em trong hoạt động học tập. HS nắm được một số kiến thức cơ bản
của bài. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng những phương pháp như đã nêu trên thì
cũng có những hạn chế nhất định như đối với PP thuyết trình, HS sẽ dễ rơi vào
tình trạng thụ động, phải cố gắng nghe để hiểu, ghi nhớ và không có cơ hội trình
bày ý kiến riêng của mình dẫn đến thói quen thụ động chờ đợi ý kiến giải thích
của GV. Hay PP làm việc với SGK thì kiến thức trong SGK chỉ hạn chế trong
lượng kiến thức của môn học, chưa đề cập được hết tất cả các kiến thức, tình
huống mà HS sẽ gặp trong cuộc sống. Đối với PP đàm thoại, nếu vận dụng
không khéo sẽ dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng đến kế hoạch lên lớp, biến vấn
đáp thành cuộc đối thoại giữa GV và một vài HS, không thu hút toàn lớp tham
gia vào hoạt động chung. Nếu câu hỏi đặt ra chỉ đòi hỏi nhớ lại tri thức một