
1
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Thực hiện Nghị quyết 29/NQ-TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tại Hội nghị Trung ương khóa 8 (Khóa XI) về Đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế,
trong đó nhấn mạnh chuyển từ giáo dục trang bị chủ yếu kiến thức, kĩ năng sang
phát triền năng lực người học, nên giáo dục nước nhà đã có những chuyển biến
mạnh mẽ và sâu sắc. Trải qua nhiều lần chỉnh sửa bổ sung , ngày 25-26/12/2018,
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể và Chương trình phổ thông môn Lịch
sử đã chính thức được ban hành xác nhận mục tiêu, yêu cầu cốt lõi là phát triển
năng lực.
Là một giáo viên dạy học môn Lịch sử, chúng tôi luôn mong mỏi làm thế nào
để là người góp phần hình thành phẩm chất và năng lực cho học sinh theo yêu cầu
mới đó.Chúng tôi muốn có một sự chuẩn bị tốt cho chương trình mới vào những
năm tới nên đã cố gắng tìm ra những phương pháp, lý thuyết đáp ứng yêu cầu
giảng dạy và giáo dục hiện nay.Chúng tôi muốn giúp học trò tự tin và phát
triển năng lực của chúng.Tân Kỳ là một huyện miền núi nghèo, các em đa số xuất
phát từ các gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, ít được trải nghiêm như học
sinh thành phố. Các em không dám tự tin khẳng định mình mặc dù có những em
tiềm ẩn nhiều khả năng.Chúng tôi thực sự quan tâm đến thuyết đa trí tuệ, học
thuyết đã mang lại một cái nhìn nhân bản và cần thiết nhằm kêu gọi nhà trường và
giáo viên coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi học sinh, mỗi loại trí tuệ đều quan
trọng và mỗi học sinh đều có ít nhiều khả năng theo nhiều khuynh hướng khác
nhau thay vì quan niệm cũ cho rằng trí tuệ là IQ, học trò thông minh là những trò
học giỏi các môn văn hóa ở trường. Chúng tôi nghiên cứu vận dụng thuyết này
vào giảng dạy, giáo dục học trò với niềm tin rằng mọi đứa trẻ đều có những tiềm
năng mà nếu được nuôi dưỡng thích hợp chúng có thể góp phần làm cho thế
giới tốt hơn, đồng thời thuyết đa trí tuệ cho phép giáo viên sử dụng những hiểu
biết sâu sắc về các loại trí thông minh khác nhau để hướng dẫn, để thiết lập mục
tiêu, đưa ra nội dung và phương pháp giáo dục nhằm phát triển thế mạnh sẵn
có của học sinh, đồng thời giúp các em khám phá kiến thức và kỹ năng mới để dần
hình thành năng lực.Thông qua đó tôi mong muốn đưa chất lượng bộ môn Lịch sử
nâng lên .
Chúng tôi đã thử nghiệm cho học sinh mà chúng tôi trực tiếp giảng dạy 3 năm để
có thể khẳng định kết quả rõ ràng, đặc biệt là kết quả của kì thi THPTQG năm học
2020-2021 môn Lịch sử do chúng tôi phụ trách chính tại trường THPT Tân Kỳ có kết
quả xếp thứ 6 trong toàn tỉnh; đó là động lực để chúng tôi viết đề tài sáng kiến “Vận
dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học Lịch Sử Lớp 12-THPT”

2
2. Tính cấp thiết của đề tài.
Đề tài giúp hiểu rõ thuyết đa trí tuệ và áp dụng nó vào các hoạt động, bài học
nhằm để phát huy “năng lực chung” là mục tiêu mới trong chương trình phổ thông
sắp được áp dụng cho THPT.
Đây là mục tiêu mà Bộ giáo dục đang hướng tới trong sự nghiệp đào tạo con
người; các nhà trường và giáo viên đang cần.
3. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài giúp hiểu rõ thuyết đa trí tuệ và áp dụng nó vào các hoạt động, bài học
nhằm để phát huy “năng lực chung” cho học sinh, là mục tiêu mới trong chương
trình phổ thông sắp được áp dụng cho THPT.
Đề tài đã tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng việc dạy học theo định hướng
hình thành và phát triển năng lực trong bộ môn Lịch sử hiện nay ở địa bàn huyện
Tân Kỳ, từ đó đưa ra kinh nghiệm, định hướng cho GV dạy học tiếp cần chương
trình GDPT năm 2018 thông qua các chủ đề dạy học cụ thể.
Thông qua đề tài cũng làm rõ những thuận lợi và khó khăn việc tổ chức dạy
học vận dung thuyết đa trí tuệ trong môn Lịch sử , trên cơ sở đó thiết kế kế hoạch
dạy học phù hợp, điều chỉnh dạy học đúng tinh thần đổi mới của Bộ Giáo dục và đào
tạo yêu cầu.
Đề tài đưa ra một số kinh nghiệm và định hướng cho GV khi xây dựng và tổ
chức dạy học vận dụng các phương pháp hiện đại tiếp cận chương trình mới.
Mặt khác, đề tài đã đưa ra định hướng cụ thể về phương pháp, kỉ thuật dạy học
tích cực phù hợp với phương pháp vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học Lịch sử
như: tính định hướng thực tiễn, tính định hướng hành động, định hướng hứng thú,
tính tự lực cao của người học, tính cộng tác trong làm việc và định hướng sản phẩm.
Giúp học sinh (HS) phát triển rất nhiều năng lực chuyên biệt của môn Lịch sử.
Đưa ra cho giáo viên một cái nhìn mới mẻ về việc đổi mới phương phương pháp
dạy học và tạo điều kiện cho học sinh có môi trường học tập thú vị hơn. Góp phần thúc
đẩy quá trình học tập bộ môn Lịch Sử, trau dồi kiến thức Lịch Sử cho mỗi cá nhân nói
chung và những học sinh là những chủ nhân tương lai của đất nước nói riêng.
Đề tài nghiên cứu, phân tích một cách cụ thể, rõ ràng và đầy đủ nội dung của
thuyết đa trí tuệ cũng như các khả năng vận dụng thuyết đa trí tuệ cũng như khả
năng vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học nói chung và dạy học bộ môn Lịch Sử
nói riêng. Đưa ra một số gợi ý lớn về các mô hình, phương pháp phù hợp với thuyết
đa trí tuệ trong dạy học Lịch sử nhằm phục vụ cho quá trình dạy học Lịch sử của
giáo viên, góp phần tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình tự học môn Lịch sử
trong trường THPT.
Đây là mục tiêu mà Bộ giáo dục đang hướng tới trong sự nghiệp đào tạo con
người; các nhà trường và giáo viên đang cần.

3
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
II.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
II.1.1. Cơ sở lý luận
Mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông; theo dự thảo chương trình phổ
thông mới sau năm 2015, Bộ GD&ĐT xác định: “Chương trình giáo dục phổ thông
nhằm giúp học sinh phát triển khả năng vốn có của bản thân, hình thành tính cách và
thói quen, phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần;
Trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập
suốt đời, có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công
dân có trách nhiệm, người lao động cần cù, có tri thức và sáng tạo”.
Mục đích chương trình giáo dục phổ thông là đích đến, là đầu ra của sản
phẩm giáo dục – nhân cách người học mà nhà trường phổ thông nói chung, hay
nhiệm vụ của cán bộ quản lý, cán bộ giáo viên mỗi nhà trường phải góp phần sáng
tạo nên.
II.1.1.1. Năng lực chung
- Năng lực:
Theo Bộ giáo dục, năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành và phát triển
nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập rèn luyện cho phép con người huy động tổng
hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính các nhân khắc phục hứng thú, niềm tin,
ý chí… thực hiện thành công một loạt hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn
trong những điều kiện cụ thể.
- Năng lực được hiểu là kiến thức, kỹ năng, khả năng và hành vi mà người lao
động cần phải có để đáp ứng yêu cầu công việc, và là yếu tố giúp một cá nhân làm
việc hiệu quả hơn so với những người khác. Hiểu theo cách khác, năng lực là khả
năng của mỗi người, được hình thành do điều kiện chủ quan, tự nhiên sẵn hoặc do
rèn luyện theo thời gian, nhằm thực hiện một hoạt động nào đó.
- Năng lực chung:
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã công bố mục tiêu giáo dục học
sinh phổ thông để rèn luyện tốt 5 phẩm chất và 10 năng lực. Trong 10 loại năng lực.
Trong 10 loại năng lực, phân ra năng lực chung và năng lực chuyên môn.
Năng lực chuyên môn, được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số
môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, tính toán, tìm hiểu tự
nhiên và xã hội, công nghệ, tin học, thẩm mỹ, thể chất.
Còn năng lực chung, bao gồm ba năng lực đó là năng lực tự chủ và tự học,
năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo . Chúng được
được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển.

4
II.1.1.2. Thuyết đa trí tuệ
Thuyết đa trí tuệ hay còn có thể được dịch là thuyết đa trí thông minh là học
thuyết về trí thông minh của con người được nhìn nhận trên nhiều phương diện, đa
dạng, được nghiên cứu và công bố bởi Tiến sĩ Howard Gardner. Theo Gardner, trí
thông minh, ông quan niệm như sau "là khả năng giải quyết vấn đề hoặc tạo ra sản
phẩm mà giải pháp hoặc sản phẩm có giá trị trong một hoặc nhiều môi trường văn
hóa" và trí thông minh không thể chỉ đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. Năm 1983,
ông xuất bản một cuốn sách có tựa đề 'Frames of Mind', trong đó ông xuất bản các
nghiên cứu và lý thuyết của mình về sự đa dạng của trí thông minh (Lý thuyết về
nhiều trí thông minh)
II.1.1.2.1. Nội dung thuyết Đa trí tuệ
Thuyết này đã mang đến cho thế giới cái nhìn bao quát và toàn diện về tiềm
năng não bộ của con người, nó đề cập đến sự đa dạng về trí tuệ của mỗi cá nhân.
Theo đó, mỗi cá nhân sinh ra đều có 8 loại hình thông minh khác nhau. Gần đây,
ông đã đề nghị bổ sung khả thi của trí thông minh thứ chín được gọi là "trí thông minh
theo chủ nghĩa hiện sinh" hay “trí thông minh triết học.” Điều quan trọng là quá trình
khai thác và phát triển chúng để đạt được sự phát triển toàn diện nhất.
Các loại hình trí thông minh mà Tiến sĩ Howard Gardner đề cập như sau:
II.1.1.2.2. Lý thuyết thuyết Đa trí tuệ trong dạy học Lịch sử 12 –THPT.
Thuyết đa trí tuệ (Multiple Intellgence Theory) giúp giáo viên cách suy ngẫm,
chọn lựa phương pháp dạy học sao cho hay nhất và phù hợp nhất với bản thân họ.
Và họ hiểu thấu đáo vì sao phương pháp đó là hiệu quả hoặc chỉ hiệu quả với học
sinh này mà không hiệu quả với học sinh kia. Chúng ta có thể tìm hiểu về thuyết đa
trí tuệ vì tò mò cách hoạt động, vì để khai phá ra những học sinh thông minh của
mình, đôi khi là tìm kiếm sự hứng thú để việc dạy học trở nên thú vị hơn. Dù bất

5
cứ lý do là gì, thuyết đa trí tuệ có thể mang lại cho bạn và học sinh của bạn –
một hướng tiếp cận mới trong học tập.
II.1.1.2.3 Phân loại thuyết đa trí tuệ có thể vận dụng tring dạy học môn Lịch
sử ở trường THPT
Để vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học một cách có hiệu quả, GV cần
đánh giá được các dạng năng lực trí tuệ của mỗi HS, linh hoạt thay đổi hình thức ,
PPDH cho phù hợp với đối tượng HS để phát huy được trí thông minh đa dạng của
HS.
a.
Những hoạt động vận dụng Trí tuệ thông minh Logic.
Nhiều quan điểm cho rằng, trí tuệ logic chỉ phù hợp với dạy học những môn về
khoa học tự nhiên. Tuy nhiên, bộ môn LS luôn yêu cầu người học phải có những tư
duy logic để nắm bắt được bản chất của các sự kiện, hiện tượng LS. Vận dụng trí tuệ
logic-toán học vào bộ môn LS có rất nhiều PPDH như sơ đồ, biểu đồ, bản biểu thị,
đồ thị, băng thời gian… trong đó sử dụng bản đồ tư duy có ưu thế lớn.
b.
Những hoạt động vận dụng trí tuệ ngôn ngữ
Trong DHLS, việc vận dụng thuyết trí tuệ ngôn ngữ giữ vai trò đặc biệt quan
trọng. Ngôn ngữ nói trong DHLS được thể hiện quan thông báo, tường thuật, miêu
tả, nêu đặc điểm, giải thích, trao đổi thảo luận, tranh luận, đóng vai, thuyết trình…
c.
Những hoạt động vận dụng trí thông minh không gian
Do đặc điểm của việc học tập lịch sử là không trực tiếp quan sát các sự kiện,
hiện tượng LS nên việc vận dụng thuyết đa trí tuệ không gian để tát hiện lại bức
tranh quá khứ có ý nghĩa rất quan trọng. Trong quá trình DHLS, GV có thể hướng
dẫn sử dụng công nghệ thông tin: phim hoạt hình, tranh ảnh, tranh vẽ, biểu đồ, tranh
dán, kẻ ô điêu khắc, phim ảnh để hỗ trợ việc giảng dạy, tạo nên sự phong phú, đa
đạng và hấp dẫn trong giờ học; hoặc có thể khích lệ người học sắp xếp góc học tập,
bảng học tập.
d.
Trí thông minh về vận động .
Đây là dạng trí tuệ chú trọng vào hoạt động và hệ thông thao tác được vận
dụng linh hoạt. Vân dụng trí tuệ vận động vào DHLS có thể sử dụng nhiều PPDH
khác nhau, trong đó sân khấu hóa có ưu thế nổi trội. Sân khấu hóa là một hình thức
nghệ thuật tương tác dựa trên hoạt động diễn kịch, đề cao tính tương tác và khả năng
sáng tạo của học sinh, tạo cơ hội cho các em phát huy trí tuệ hình thể-động năng, trí
tuệ ngôn ngữ cũng như trí tuệ giao tiếp.
g. Những hoạt động vận dụng trí thông minh hướng nội
Người có trí tuệ nội tâm có ý thức cao về khả năng tự hiểu được cảm xúc riêng,
mục tiêu và động cơ cá nhân. Để vận dụng loại trí tuệ này trong DHLS có thể sử
dụng các PPDH suy ngẫm, bài tập nghiên cứu tình huống, kĩ thuật K-W-L- H…qua
đó phát huy khả năng tư duy độc lập của cá nhân người đọc.
h. Những hoạt động vận dụng trí thông minh tự nhiên.