intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

So sánh khả năng ức chế nấm Botrytis cinerea gây bệnh mốc xám trên dâu tây của hệ nano tinh dầu thực vật màng tang, tỏi và tiểu hồi hương

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Botrytis cinerea là loài nấm gây hại trên rất nhiều loại cây trồng khác nhau. C Nghiên cứu này so sánh hiệu quả ức chế nấm Botrytis cinerea gây bệnh mốc xám của các tinh dầu thực vật (màng tang, tỏi, tiểu hồi hương) ở dạng nano.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: So sánh khả năng ức chế nấm Botrytis cinerea gây bệnh mốc xám trên dâu tây của hệ nano tinh dầu thực vật màng tang, tỏi và tiểu hồi hương

  1. TNU Journal of Science and Technology 230(01): 432 - 437 COMPARING THE ANTIFUNGAL ACTIVITY OF NANOENCAPSULATED MAY CHANG, GARLIC AND FENNEL ESSENTIAL OILS AGAINST BOTRYTIS CINEREA, WHICH CAUSES GRAY MOLD DISEASE ON STRAWBERRY Tran Thi Ngoc Mai*, Le Xuan Cuong, Vu Ngoc Bich Dao Nguyen Ngoc Thuy Trang, Le Van Toan, Pham Bao Ngoc, Nguyen Minh Hiep Center of Radiation Technology and Biotechnology - Dalat Nuclear Research Institute ARTICLE INFO ABSTRACT Received: 07/8/2024 Botrytis cinerea is a harmful fungus affecting many different crops. To date, numerous studies have shown that plant essential oils are Revised: 17/12/2024 effective in inhibiting pathogenic fungi and have the potential to Published: 18/12/2024 replace chemically synthesized fungicides. This study compares the inhibitory effect of plant essential oils (may chang, garlic, fennel) in KEYWORDS nano form against Botrytis cinerea causing gray mold disease. First, Botrytis cinerea was isolated and purified on potato dextrose agar Botrytis cinereal medium. After that, nanocarriers containing plant essential oils (may May chang essential oil chang, garlic, fennel) were synthesized using homogenization and sonication method. The inhibitory effect on fungal mycelium growth Garlic essential oil of these nanoencapsulated essential oils were carried out using the petri Fennel essential oil dish method. The results indicated that three nanoencapsulated Nanoencapsulated essential oils of may chang, garlic, and fennel were successfully synthesized with an average particle size of less than 120 nm and stability maintained after 2 months of storage. In vitro results showed that the nano form of garlic essential oil exhibited the best antifungal effectiveness, followed by the may chang and the fennel essential oil. SO SÁNH KHẢ NĂNG ỨC CHẾ NẤM BOTRYTIS CINEREA GÂY BỆNH MỐC XÁM TRÊN DÂU TÂY CỦA HỆ NANO TINH DẦU THỰC VẬT MÀNG TANG, TỎI VÀ TIỂU HỒI HƯƠNG Trần Thị Ngọc Mai*, Lê Xuân Cường, Vũ Ngọc Bích Đào Nguyễn Ngọc Thùy Trang, Lê Văn Toàn, Phạm Bảo Ngọc, Nguyễn Minh Hiệp Trung tâm Công nghệ bức xạ và Công nghệ sinh học - Viện Nghiên cứu Hạt nhân THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT Ngày nhận bài: 07/8/2024 Botrytis cinerea là loài nấm gây hại trên rất nhiều loại cây trồng khác nhau. Cho tới nay, nhiều nghiên cứu đã cho thấy tinh dầu thực vật có Ngày hoàn thiện: 17/12/2024 hiệu quả trong ức chế nấm gây bệnh, có tiềm năng thay thế cho thuốc Ngày đăng: 18/12/2024 trừ nấm tổng hợp hóa học. Nghiên cứu này so sánh hiệu quả ức chế nấm Botrytis cinerea gây bệnh mốc xám của các tinh dầu thực vật TỪ KHÓA (màng tang, tỏi, tiểu hồi hương) ở dạng nano. Đầu tiên, nấm Botrytis cinerea được phân lập và làm thuần trên môi trường thạch khoai tây. Botrytis cinereal Sau đó, hệ mang nano chứa tinh dầu thực vật (màng tang, tỏi, tiểu hồi Tinh dầu màng tang hương) được tổng hợp bằng phương pháp đồng hóa tốc độ cao. Kết hợp với sử dụng sóng siêu âm. Hiệu quả ức chế sự phát triển của sợi Tinh dầu tỏi nấm của các hệ nano chứa tinh dầu thực vật được thực hiện bằng Tinh dầu tiểu hồi hương phương pháp đĩa thạch. Kết quả cho thấy, ba hệ nano tinh dầu màng Hệ mang nano tang, tỏi, tiểu hồi hương đã được tổng hợp thành công có kích thước hạt trung bình nhỏ hơn 120 nm, ổn định sau 2 tháng bảo quản. Kết quả in vitro cho thấy hệ nano tinh dầu tỏi có hiệu quả ức chế nấm tốt nhất, sau đó đến hệ nano màng tang và hệ nano tiểu hồi hương. DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.10892 * Corresponding author. Email: tranthingocmai626@gmail.com http://jst.tnu.edu.vn 432 Email: jst@tnu.edu.vn
  2. TNU Journal of Science and Technology 230(01): 432 - 437 1. Giới thiệu Ngày nay, khi khoa học ngày càng phát triển, con người đứng trước nhu cầu ngày càng cao về thực phẩm sạch và an toàn. Dâu tây là một loại quả có giá trị dinh dưỡng cao. Tuy nhiên, dâu tây dễ bị nhiễm các bệnh do nấm gây ra, trong đó có nấm Botrytis cinerea (B. cinerea) gây bệnh mốc xám trên lá, thân quả của cây dâu tây. Nấm gây thối và hình thành lớp nấm màu xám bao phủ quả [1], [2]. Nấm này được biết tới từ lâu vì phổ kí chủ rộng và có khả năng gây bệnh trên hơn 200 loài cây và có khả năng phát triển trong môi trường rất đa dạng. Bệnh do nấm này gây ra gây thất thoát khoảng một triệu euro mỗi năm và theo khảo sát cho thấy thị trường thuốc nấm cho riêng loại nấm này đã chiếm 10% thị trường thuốc nấm [3]. Thuốc trừ nấm hóa học đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ để ức chế nấm gây bệnh. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều nghiên cứu cho thấy thuốc hóa học gây nhiều ảnh hưởng không tốt đến môi trường và con người. Thuốc hóa học gây ảnh hưởng đến môi trường đất, nước và không khí. Ảnh hưởng đến các loài thủy sinh và hệ sinh thái môi trường trong đất. Thuốc còn có khả năng gây dị ứng và các bệnh mạn tính liên quan đến hệ thần kinh, miễn dịch, tiêu hóa và hô hấp của con người [3], [4]. Do đó, việc sử dụng thuốc sinh học thay thế cho thuốc hóa học được quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn. Thuốc sinh học thân thiện hơn với cả con người và môi trường sinh thái. Tuy nhiên, sản phẩm sinh học thường có giá thành cao và hiệu quả không cao bằng thuốc hóa học, làm giảm tính cạnh tranh của dòng sản phẩm này trên thị trường. Do đó, các nghiên cứu mới vẫn đang không ngừng cải tiến để nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh của thuốc trừ nấm sinh học. Một số nghiên cứu trước đó đã cho thấy chiết xuất màng tang có hiệu quả ức chế nấm Botrytis cinerea [5]. Chiết xuất tỏi hạn chế sự phát triển của nấm xám trên táo [6]. Dầu tiểu hồi hương cho hiệu quả ức chế nấm mốc xám trên quả mận ở nồng độ 600 µL/L [7]. Tuy nhiên, dạng dầu thường khó ứng dụng trong thực tiễn, nồng độ sử dụng cao dẫn đến giá thành sản phẩm không thấp. Do đó, nghiên cứu này thực hiện nghiên cứu đóng gói tinh dầu màng tang, tỏi và tiểu hồi hương vào hệ mang nano nhằm cải thiện độ phân tán và tăng hiệu quả của các tinh dầu này. 2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 2.1. Vật liệu Tinh dầu đinh hương, tinh dầu tỏi, tinh dầu mù tạt, tinh dầu sả chanh độ tinh khiết 98% (Công ty TNHH tinh dầu thảo dược Dalosa, Việt Nam). Các hóa chất khác đều có độ tinh khiết ở cấp độ phân tích, thích hợp cho làm thí nghiệm. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phân lập và làm thuần chủng nấm gây bệnh mốc xám trên quả dâu tây Quả dâu tây bị mốc xám tại một vườn dâu của thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Chủng nấm sau đó được làm thuần và định danh sử dụng phương pháp giải trình tự Sanger vùng gen ITS rDNA. Đối với các thử nghiệm ức chế tăng trưởng, chủng này được nuôi trên môi trường thạch khoai tây (PDA) ở 22 ± 1°C trong 7 ngày [8]. 2.2.2. Tổng hợp và khảo sát thông số đặc điểm của các hệ nano chứa tinh dầu thực vật Để tổng hợp hệ nano, cân 10g tween và lecithin với tỉ lệ 1:1 (w/w), khuấy tan rồi trộn với 10g tinh dầu. Hỗn hợp được đồng hóa ở tốc độ cao 20 000 vòng/phút trong 5 phút. Sau đó, sử dụng sóng siêu âm để giảm kích thước hạt. Dịch phân tán thu được được bảo quản ở nhiệt độ phòng sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo. Dung dịch sau đó được pha loãng với nước cất để xác định các thông số của hệ mang nano như kích thước hạt, chỉ số phân tán và điện tích bề mặt bằng máy Zetasizer Nano ZS. 2.2.3. Khảo sát hiệu quả ức chế nấm ở điều kiện in vitro http://jst.tnu.edu.vn 433 Email: jst@tnu.edu.vn
  3. TNU Journal of Science and Technology 230(01): 432 - 437 Hiệu quả ức chế nấm Botrytis cinerea được thực hiện trên môi trường thạch khoai tây [8], [9]. Cụ thể, môi trường thạch khoai tây sau khi được hấp khử trùng ở 121oC, 20 phút, làm nguội đến khoảng 55oC sẽ được bổ sung hệ mang nano chứa tinh dầu thực vật. Sau đó, để nguội và cấy tản nấm đường kính 6 mm lên bề mặt đĩa petri. Mẫu đối chứng là mẫu bổ sung nước cất vô trùng thay cho dịch phân tán nano. Mẫu sau khi cấy được giữ trong tủ ấm 22±1oC. Sau 7 ngày, tiến hành quan sát và đo đường kính nấm phát triển. Hiệu quả ức chế sự phát triển sợi nấm được tính theo công thức: H (%)=(Dc- Dt)/Dc*100. Trong đó: H là hiệu quả ức chế nấm, Dc là đường kính khuẩn lạc trên môi trường đối chứng; Dt là đường kính khuẩn lạc trên môi trường có bổ sung tinh dầu. 2.2.4. Phương pháp xử lý kết quả Số liệu được lặp lại ba lần, số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel và SPSS với mức ý nghĩa p < 0,05. 2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu thực hiện trong khoảng 6 tháng, từ tháng 01 đến tháng 07 năm 2024 tại Trung tâm Công nghệ bức xạ và Công nghệ sinh học, Viện Nghiên cứu Hạt nhân. 3. Kết quả và bàn luận 3.1. Phân lập và làm thuần chủng nấm gây bệnh mốc xám trên quả dâu tây Mẫu nấm sau khi phân lập và làm thuần được định danh sử dụng phương pháp Sanger cho thấy mẫu nấm gây bệnh mốc xám trên quả dâu tây xác thực là chủng nấm Botrytis cinerea. Sợi nấm phát triển trên môi trường thạch khoai tây ban đầu có màu trắng ngà, sau đó đổi sang màu nâu xám (Hình 1). Mẫu nấm sau đó được sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo. A B Hình 1. Nấm Botrytis cinerea làm thuần trên môi trường PDA A. Sau 4 ngày nuôi cấy; B. Sau 20 ngày nuôi cấy 3.2. Tổng hợp hệ nano chứa tinh dầu thực vật Ba hệ nano màng tang, tỏi, tiểu hồi hương sau khi tổng hợp đều có kích thước hạt trung bình nhỏ hơn 120 nm (Bảng 1). Trong ba hệ, hệ nano tinh dầu tỏi có kích thước hạt trung bình nhỏ nhất 94,01 nm và chỉ số PDI nhỏ (tiệm cận về 0) cho thấy kích thước của các hạt trong hệ này tương đối đồng đều. Trong khi đó, hệ nano tinh dầu màng tang và tỏi có kích thước hạt cũng chỉ khoảng 116 đến 119 nm nhưng chỉ số phân tán của hai hệ này tương đối cao cho thấy các hạt trong hệ có sự chênh lệch kích thước hạt đáng kể. Sau hai tháng bảo quản cả ba hệ nano tinh dầu có sự thay đổi kích thước hạt không đáng kể. Cả ba hệ đều có sự gia tăng kích thước hạt sau quá trình bảo quản, điều này là do một số hạt không ổn định có xu hướng kết hợp lại tạo thành các hạt lớn hơn. Tuy vậy, các hạt trong cả ba hệ nano không có sự thay đổi quá lớn, dao động từ 2,13 nm với hệ nano tinh dầu tỏi đến 12,1 nm với hệ nano tinh dầu tiểu hồi hương. Sau hai tháng bảo quản cả ba hệ nano tinh dầu đều duy trì được kích thước hạt nano thay đổi không đáng kể, nhỏ hơn 130 nm. http://jst.tnu.edu.vn 434 Email: jst@tnu.edu.vn
  4. TNU Journal of Science and Technology 230(01): 432 - 437 Bảng 1. Thông số đặc điểm của 3 hệ nano màng tang, tỏi và tiểu hồi hương Kích thước hạt Điện tích bề mặt Dịch phân tán nano Chỉ số phân tán (PDI) trung bình (nm) (mV) Tinh dầu màng tang 116,4 ± 3,15 0,424 ± 0,041 -45,10 ± 1,31 Tinh dầu tiểu hồi hương 117,6 ± 2,52 0,389 ± 0,031 -42,54 ± 1,50 Tinh dầu tỏi 94,01 ± 1,65 0,138 ± 0,032 -41,37 ± 0,67 Bảng 2. Thông số đặc điểm của 3 hệ nano màng tang, tỏi và tiểu hồi hương sau 2 tháng Kích thước hạt Điện tích bề mặt Dịch phân tán nano Chỉ số phân tán (PDI) trung bình (nm) (mV) Tinh dầu màng tang 123,4 ± 2,40 0,411 ± 0,038 -43,70 ± 1,16 Tinh dầu tiểu hồi hương 129,7 ± 3,20 0,423 ± 0,023 -40,07 ± 1,03 Tinh dầu tỏi 96,14 ± 2,78 0,206 ± 0,037 -39,40 ± 0,61 Hình 2. Hệ mang nano màng tang, tỏi và tiểu hồi hương (từ trái qua) phân tán trong nước Tinh dầu thường có độ phân tán kém trong nước. Điều này hạn chế ứng dụng của tinh dầu trong điều kiện thực tiễn. Tuy nhiên, sau khi sử dụng kết hợp tinh dầu với hệ mang nano thì hệ mang nano chứa tinh dầu có độ phân tán rất tốt trong nước (Hình 2). Sau thời gian hai tháng bảo quản cả ba hệ nano tinh dầu màng tang, tỏi và tiểu hồi hương vẫn duy trì độ ổn định, không hề bị tách lớp, phân tán tốt trong nước (Bảng 2). 3.3. Hiệu quả ức chế nấm Botrytis cinerea ở điều kiện in vitro Hiệu quả ức chế sự phát triển sợi nấm trong điều kiện in vitro được thực hiện bằng phương pháp đĩa thạch. Kết quả bảng 3 và hình 3 cho thấy, ở nồng độ pha loãng 300 và 400 lần không có sự khác biệt vì cả ba hệ nano tinh dầu đều cho hiệu quả ức chế nấm hoàn toàn, đạt 100%. Tuy nhiên, ở độ pha loãng 500 lần đã có sự phân hóa sâu sắc giữa ba hệ nano tinh dầu. Cụ thể, hệ nano tinh dầu tỏi vẫn duy trì hiệu quả ức chế hoàn toàn sự phát triển sợi nấm trên môi trường dinh dưỡng. Trong khi đó, hệ nano tinh dầu màng tang và tiểu hồi hương hiệu quả ức chế sự phát triển sợi nấm đã giảm hơn 50%, chỉ còn lần lượt là 44,62% và 39,78%. Ở cùng nồng độ, hiệu quả của hệ nano tinh dầu tỏi cao hơn 2,24 lần so với hệ nano tinh dầu màng tang và cao hơn 2,51 lần so với hệ nano tinh dầu tiểu hồi hương. Từ đó cho thấy, trong nghiên cứu này, hiệu quả của hệ nano tinh dầu tỏi là tốt nhất, sau đó đến hệ nano tinh dầu màng tang và hệ nano tinh dầu tiểu hồi hương. Bên cạnh đó, khi vượt quá nồng độ pha loãng 500 lần thì hiệu quả ức chế nấm có xu hướng giảm, điều này là do nồng độ tinh dầu thấp hơn mức tối thiểu cần để ức chế nấm. Bảng 3. Hiệu quả ức chế nấm Botrytis cinerea ở điều kiện in vitro Hiệu quả ức chế nấm (%) Dịch phân tán nano Độ pha loãng Độ pha loãng Độ pha loãng Độ pha loãng 300 lần 400 lần 500 lần 550 lần Tinh dầu màng tang 100 ± 0a 100 ± 0a 44,62 ± 2,46b 0 ± 0b Tinh dầu tiểu hồi hương 100 ± 0a 100 ± 0a 39,78 ± 3,35b 0 ± 0b Tinh dầu tỏi 100 ± 0a 100 ± 0 a 100 ± 0a 94,08 ± 2,46a http://jst.tnu.edu.vn 435 Email: jst@tnu.edu.vn
  5. TNU Journal of Science and Technology 230(01): 432 - 437 Hình 3. Hiệu quả ức chế nấm ở điều kiện in vitro Botrytis cinerea là mầm bệnh trên cả rau củ quả tươi và cả sản phẩm sau thu hoạch. Gây thất thoát lượng lớn nông sản. Thuốc hóa học có hiệu quả nhanh và kiểm soát tốt mầm bệnh này. Tuy vậy, với xu hướng nông nghiệp sạch bền vững hiện nay trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, việc tìm kiếm một sản phẩm sinh học an toàn thay thế là cần thiết. Tinh dầu có thể sử dụng như một phương pháp thay thế trong kiểm soát nấm gây bệnh. Trong nghiên cứu này, tinh dầu sau khi đóng gói vào trong hệ mang nano đã cho hiệu quả ức chế nấm Botrytis cinerea phân lập trên dâu tây. Hiệu quả khác nhau phụ thuộc vào loại tinh dầu được sử dụng. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu trước đây của Tančinová cho thấy tinh dầu khác nhau cho hiệu quả kháng nấm khác nhau [8]. Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về cơ chế kháng nấm của tinh dầu. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn hạn chế, đa phần tập trung vào hiệu quả ức chế nấm. Một số nghiên cứu trước đó cho rằng tinh dầu còn có thể làm mất ổn định màng tế bào thông qua rò rỉ các ion trên màng, làm gián đoạn các quá trình sinh tổng hợp và phá hủy tế bào; tương tác với ty thể, làm thay đổi điện thế màng, bơm proton và ATP synthase, tạo ra sự rối loạn về độ pH của tế bào và độ dốc điện hóa của màng plasma [3]. Nghiên cứu của Aminifard và Mohammadi đề cập đến hiệu quả của tinh dầu trong ức chế sự phát triển của vi sinh vật có thể là do các hợp chất phenolic của tinh dầu làm thay đổi tính thấm của tế bào do tương tác với màng protein. Từ đó, làm thay đổi cấu trúc và chức năng của tế bào [7]. Nghiên cứu của Wang và cộng sự (2019) đã chứng minh khi xử lý bằng tinh dầu màng tang 1,0% sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của nấm B. cinerea thông qua thay đổi tính thấm của màng tế bào, tính toàn vẹn của màng, độ dẫn điện và hàm lượng đường khử hòa tan, protein và ergosterol, dẫn đến hạn chế sự phát triển của sợi nấm, đầu sợi nấm mở rộng và sợi nấm bị biến dạng hoặc thậm chí bị đứt, cuối cùng gây ra cái chết của tế bào soma của nấm [5]. Tuy nhiên, nghiên cứu về cơ chế cụ thể của các tinh dầu vẫn còn hạn chế và chưa được hiểu biết rõ. Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy, thành phần cấu tử đa dạng của tinh dầu cũng góp phần làm tăng hiệu quả của tinh dầu trong ức chế nấm. Nghiên cứu cho thấy tinh dầu tỏi có chứa nhóm sulfide như diallyl disulfide, allyl methyl trisulfide, trisulfide,… [10], [11]; Tinh dầu màng tang có E-citral (geranial), Z-citral (neral), D-limonene, β-Thujene, β-pinene, α-pinene và linalool, v.v. [12], [13]; Tinh dầu tiểu hồi hương có Trans-anethole, fenchone, methyl chavicol, và α- phellandrene [14] có hiệu quả trong ức chế sự phát triển nấm. Việc kết hợp hệ mang nano để đóng gói tinh dầu giúp làm tăng độ phân tán của tinh dầu trong nước, bảo vệ tinh dầu, kéo dài thời gian bảo quản cũng như tăng cường khả năng thấm vào tế bào thực vật, v.v. sẽ giúp sản phẩm tăng hiệu quả ức chế nấm và kéo dài thời gian hiệu quả. Từ đó, chế http://jst.tnu.edu.vn 436 Email: jst@tnu.edu.vn
  6. TNU Journal of Science and Technology 230(01): 432 - 437 phẩm nano tinh dầu có thể là một lựa chọn thân thiện cho con người trong quá trình bảo vệ thực vật trước và sau khi thu hoạch. 4. Kết luận Các hệ nano chứa tinh dầu thực vật tỏi, màng tang, tiểu hồi hương đã được tổng hợp có kích thước trung bình nhỏ hơn 120 nm và giá trị điện tích bề mặt có khả năng trao đổi được lớn hơn 30 mV cho thấy hệ có độ ổn định. Sau 2 tháng bảo quản ở nhiệt độ phòng, mẫu vẫn duy trì kích thước hạt, không thay đổi nhiều. Thí nghiệm in vitro cho thấy hệ nano tinh dầu tỏi có hiệu quả ức chế nấm tốt hơn hệ nano màng tang và hệ nano tiểu hồi hương. Ở nồng độ pha loãng 500 lần, hệ nano tinh dầu tỏi vẫn cho hiệu quả ức chế sự phát triển sợi nấm hoàn toàn. Như vậy, kết quả nghiên cứu đã cho thấy hệ nano tinh dầu tỏi có hiệu quả ức chế nấm Botrytis cinerea gây bệnh mốc xám trên dâu tây, tiềm năng ứng dụng như một sản phẩm sinh học trong phòng trị nấm gây bệnh ở nước ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFFERENCES [1] S. Petrasch, S. J. Knapp, J. A. L. V. Kan, and B. Blanco-Ulate, “Grey mould of strawberry, a devastating disease caused by the ubiquitous necrotrophic fungal pathogen Botrytis cinerea,” Molecular Plant Pathology, vol. 20, no. 6, pp. 877-892, 2019. [2] E. D. Rosero-Hernández, J. Moraga, I. G. Collado, and F. Echeverri, “Natural compounds that modulate the development of the fungus Botrytis cinerea and protect Solanum lycopersicum,” Plants, vol. 8, p. 111, 2019. [3] P. Fincheira, I. Jofré, J. Espinoza et al., “The efficient activity of plant essential oils for inhibiting Botrytis cinerea and Penicillium expansum: Mechanistic insights into antifungal activity,” Microbiological Research, vol. 277, 2023, Art. no. 127486. [4] A. Vitoratos, D. Bilalis, A. Karkanis, and A. Efthimiadou, “Antifungal Activity of Plant Essential Oils Against Botrytis cinerea, Penicillium italicum and Penicillium digitatum,” Notulae Botanicae Horti Agrobotanici Cluj-Napoca, vol. 41, no. 1, pp. 86-92, 2013. [5] L. Wang, W. Hu, J. Deng et al., “Antibacterial activity of Litsea cubeba essential oil and its mechanism against Botrytis cinerea,” RSC Advances, vol. 9, no. 50, pp. 28987-28995, 2019. [6] C. K. Daniel, C. L. Lennox, and F. A. Vries, “In vivo application of garlic extracts in combination with clove oil to prevent postharvest decay caused by Botrytis cinerea, Penicillium expansum and Neofabraea alba on apples,” Postharvest Biology and Technology, vol. 99, pp. 88-92, 2015. [7] M. H. Aminifard and S. Mohammadi, “Essential oils to control Botrytis cinerea in vitro and in vivo on plum fruits,” Journal of the Science of Food and Agriculture, vol. 93, no. 2, pp. 348-353, 2013. [8] D. Tančinová, Z. Mašková, A. Mendelová, D. Foltinová, Z. Barboráková, and J. Medo, “Antifungal Activities of Essential Oils in Vapor Phase against Botrytis cinerea and Their Potential to Control Postharvest Strawberry Gray Mold,” Foods, vol. 11, no. 19, p. 2945, 2022. [9] M. B. Allagui, M. Moumni, and G. Romanazzi, “Antifungal Activity of Thirty Essential Oils to Control Pathogenic Fungi of Postharvest Decay,” Antibiotics (Basel), vol. 13, no. 1, p. 28, 2024. [10] S. Dziri, H. Casabianca, B. Hanchi, and K. Hosni, “Composition of garlic essential oil (Allium sativum L.) as influenced by drying method,” Journal of Essential Oil Research, vol. 26, no. 2, pp. 91-96, 2014. [11] N. Dehariya, P. Guha, and R. K. Gupta, “Extraction and characterization of essential oil of garlic (Allium sativa L.)” International journal of chemical studies, vol. 9, no. 1, pp. 1455-1459, 2021. [12] K. Yang, C. F. Wang, C. X. You, et al., “Bioactivity of essential oil of Litsea cubeba from China and its main compounds against Two Stored Product Insects,” Journal of Asia-Pacific Entomology, vol. 17, no. 3, pp. 459- 466, 2014. [13] M. Houshmandzad, A. Sharifzadeh, A. Khosravi, and H. Shokri, “Potential antifungal impact of citral and linalool administered individually or combined with fluconazole against clinical isolates of Candida krusei,” Journal of HerbMed Pharmacology, vol. 11, no. 2, pp. 269-277, 2022. [14] M. S. M. A. El-Kareem, M. A. Rabbih, A. M. Rashad, and M. EL-Hefny, “Essential oils from fennel plants as valuable chemical products: gas chromatography–mass spectrometry, FTIR, quantum mechanical investigation, and antifungal activity,” Biomass Conversion and Biorefinery, 2024, doi: 10.1007/s13399-024- 05675-2. http://jst.tnu.edu.vn 437 Email: jst@tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2