intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

So sánh vi kẽ trên xoang loại II sử dụng composite răng sau một khối có và không có lớp lót composite lỏng

Chia sẻ: Ro Ong Kloi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

73
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của bài viết trình bày về vi kẽ ở thành nướu của xoang trám loại II sử dụng hệ thống composite răng sau một khối có và không có lớp lót composite lỏng và so sánh mức độ vi kẽ ở thành nướu của lỗ trám composite loại II giữa 2 nhóm này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: So sánh vi kẽ trên xoang loại II sử dụng composite răng sau một khối có và không có lớp lót composite lỏng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> SO SÁNH VI KẼ TRÊN XOANG LOẠI II SỬ DỤNG COMPOSITE RĂNG <br /> SAU MỘT KHỐI CÓ VÀ KHÔNG CÓ LỚP LÓT COMPOSITE LỎNG <br /> Cao Ngọc Khánh*, Đinh Thị Khánh Vân*, Bùi Huỳnh Anh* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Mục tiêu: Đánh giá vi kẽ ở thành nướu của xoang trám loại II sử dụng hệ thống composite răng sau một <br /> khối có và không có lớp lót composite lỏng và so sánh mức độ vi kẽ ở thành nướu của lỗ trám composite loại II <br /> giữa 2 nhóm này. <br /> Phương  pháp: Nghiên cứu in vitro trên ba mươi răng cối nhỏ vĩnh viễn nguyên vẹn. Xoang trám loại II <br /> được sửa soạn dạng hộp với kích thước: chiều ngoài trong 4mm; chiều gần xa 1,5 mm; chiều nhai nướu 4 mm, <br /> thành nướu trên đường nối men‐xê măng tối thiểu 1 mm. Chia ngẫu nhiên ba mươi răng thành 2 nhóm (n=15), <br /> nhóm 1 trám trực tiếp với composite răng sau một khối Tetric® N‐Ceram Bulk Fill, nhóm 2 trám tương tự nhóm <br /> 1 và được lót bằng composite lỏng Tetric N‐Flow. Các răng được trải qua 100 chu kỳ nhiệt tại 2 điểm nhiệt là <br /> 550C và 50C, thời gian ngưng tại mỗi điểm nhiệt là 25 giây, thời gian chuyển đổi là 5 giây. Sau đó, các răng được <br /> trám bít chóp và thoa vecni toàn bộ trừ phục hồi và 1mm mô răng quanh phục hồi để chuẩn bị cho quá trình <br /> nhuộm xanh methylene 2% trong 24 giờ. Cuối cùng, chia đôi các răng theo chiều gần xa dọc qua phục hồi và <br /> quan sát đánh giá sự thâm nhập dung dịch nhuộm dưới kính hiển vi nổi X30. Số liệu thu thập được nhập vào <br /> Excel 2007 và xử lý bằng phần mềm SPSS IBM 20. Sử dụng phép kiểm định phi tham số U – Mann Whitney <br /> cho hai mẫu độc lập. <br /> Kết  quả: Cả 2 nhóm  phục  hồi  bằng  composite  trám  răng  sau  một  khối  Tetric®  N‐Ceram  Bulk  Fill  có  và <br /> không có lớp lót composite lỏng đều cho thấy hiện diện vi kẽ ở thành nướu của phục hồi. Nhóm không lót nhiều <br /> vi kẽ hơn nhóm có lót, sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê p = 0,949 (>0,05). <br /> Kết  luận: Phục hồi composite trực tiếp trên xoang loại II sử dụng hệ thống composite trám răng sau một <br /> khối có và không có lớp lót composite lỏng đều không ngăn ngừa hoàn toàn vi kẽ ở thành nướu của phục hồi. <br /> Từ khóa: Composite trám răng sau một khối, composite lỏng, vi kẽ, trám lót. <br /> <br /> ABSTRACT <br /> COMPARISON OF MICROLEAKAGE IN THE CLASS II RESTORATIONS <br />  USING BULK FILL COMPOSITE WITH OR WITHOUT FLOWABLE LINER <br /> Cao Ngoc Khanh, Dinh Thi Khanh Van, Bui Huynh Anh  <br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 371 ‐ 375 <br /> Objectives:  The  aim  of  the  study  is  to  evaluate  the  microleakage  in  the  gingival  margins  of  the  class  II <br /> restorations using bulk‐fill composite with or without flowable liner and compare the microleakage in the gingival <br /> margins of the class II restorations between two groups. <br /> Methods  and  materials:  Thirty  sound  premolar  teeth,  extracted  for  orthodontic  purpose  were  stored  in <br /> physiological saline at room temperature. These teeth were prepared with class II restorations standardized to the <br /> following  dimension:  4x1.5x4  mm  and  the  gingival  margin  of  the  restorations  needed  to  place  above  the <br /> cementoenamel junction at least 1mm. The teeth were then randomly divided into 2 groups (n=15). Group 1 was <br /> * Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM  <br /> Tác giả liên lạc:  Cao Ngọc Khánh  ĐT: 0904350564 <br /> <br /> Răng Hàm Mặt <br /> <br /> Email:  nightwisher1989@gmail.com<br /> <br /> 371<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br /> <br /> restored with Tetric® N‐Ceram Bulk Fill alone. Group 2 was restored with 1 mm flowable liner and Tetric® N‐<br /> Ceram  Bulk  Fill.  The  restorations  were  thermocycled  for  100  cycles  at  50C  and  550C  with  a  dwell  time  of  25 <br /> seconds. Two coats of fingernail varnish were then applied except for an area approximately 1 mm around the <br /> margins  of  the  restoration,  and  the  apex  was  sealed  with  sticky  wax.  The  teeth  were  then  immersed  in  2% <br /> methylene  blue  at  room  temperature  for  24  hours.  The  specimens  were  embedded  to  resin  arcrylic  and  then <br /> sectioned  mesiodistally  across  the  center  of  the  restorations.  The  sectioned  specimens  were  observed  under <br /> stereomicroscope (X30). Data were analyzed using non‐parametric Mann Whitney U test. <br /> Results: There was no statistically significant difference between the groups p=0.949 (>0.05).  <br /> Conclusion: Using bulk‐fill composite with and without flowable liner doesn’t prevent the microleakage in <br /> the gingival margins of the class II restorations. <br /> Key words: bulk‐fill composite, flowable composite, flowable liner, microleakage. <br /> <br /> ĐẶT VẤN Đề <br /> Vi  kẽ  là  một  trong  những  nguyên  nhân <br /> dẫn tới sự thất bại của một phục hồi vì đây là <br /> yếu tố thuận lợi đưa đến sự thâm nhiễm ở bờ <br /> phục  hồi  gây  nhạy  cảm  sau  điều  trị,  đổi  màu <br /> miếng  trám,  sâu  răng  tái  phát,  sút  gãy  miếng <br /> trám,  và  nghiêm  trọng  hơn  là  có  thể  gây  nên <br /> bệnh lý tủy răng(6) . Nhiều phương pháp được <br /> đề nghị để khắc phục vấn đề này như sử dụng <br /> composite  lỏng  để  trám  lót  hay  phương  pháp <br /> trám từng lớp(1,8). Việc trám lót composite lỏng <br /> giảm sự hình thành khoảng trống, tăng độ bền <br /> cho  vật  liệu  dán  đã  được  chứng  minh  qua <br /> nhiều  nghiên  cứu.  Tuy  nhiên,  phương  pháp <br /> trám từng lớp làm nảy sinh những vấn đề mới, <br /> quá trình trám mất nhiều thời gian, đòi hỏi kỹ <br /> thuật,  gia  tăng  khoảng  trống  giữa  các  lớp  vật <br /> liệu(2). Gần đây,  trên  thị  trường  xuất  hiện  một <br /> số  loại  composite  răng  sau  một  khối  trên  nền <br /> nhựa (bulk‐fill resin based composite ‐ Bulk‐fill <br /> RBC). Vật liệu này là composite có độ co ít, độ <br /> cứng  cao,  biến  dạng  chảy  thấp,  độ  sâu  trùng <br /> hợp bằng hoặc hơn 4mm. Với đặc tính cơ học <br /> được  cải  tiến,  khi  thực  hiện  phục  hồi  cho  các <br /> xoang  trám  lớn  bằng  loại  composite  này, <br /> chúng ta có cần đặt lớp lót composite lỏng hay <br /> không?  Để  trả  lời  câu  hỏi  này,  chúng  tôi  tiến <br /> hành  nghiên  cứu  in  vitro  đánh  giá  vi  kẽ  của <br /> phục hồi composite trực tiếp trên xoang loại II <br /> bằng hệ thống composite răng sau một khối có <br /> và không có lớp lót bằng composite lỏng”. Với <br /> mục tiêu nghiên cứu: <br /> <br /> 372<br /> <br /> 1.  Đánh  giá  vi  kẽ  ở  thành  nướu  của  xoang <br /> trám  loại  II  sử  dụng  hệ  thống  composite  răng <br /> sau  một  khối  Tetric®  N_Ceram  Bulk  Fill  Có  và <br /> không có lớp lót bằng composite lỏng.  <br />  2. So sánh mức độ vi kẽ ở thành nướu của lỗ <br /> trám giữa 2 nhóm trên. <br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Đối tượng nghiên cứu <br /> Nghiên cứu được thực hiện trên 30 răng cối <br /> nhỏ  vĩnh  viễn  của  người  đã  nhổ,  răng  còn <br /> nguyên vẹn, không sâu, không miếng trám, kích <br /> thước thân răng tương đương nhau. <br /> <br /> Chuẩn bị mẫu <br /> ‐  Làm  sạch  răng  và  bảo  quản  trong  nước <br /> muối  sinh  lý  ở  nhiệt  độ  phòng  trong  vòng  30 <br /> ngày cho đến khi tiến hành nghiên cứu. <br /> ‐ Sửa soạn xoang loại II hình hộp nằm ở phía <br /> xa hoặc phía  gần  bằng  mũi  khoan  trụ  tungsten <br /> 557 với kích thước 4x1,5x4 mm, thành nưới trên <br /> đường nối men‐xê măng tối thiểu 1 mm.  <br /> ‐ Đánh số răng từ 1 đến 30, chia ngẫu nhiên <br /> thành 2 nhóm, mỗi nhóm 15 răng đánh số từ K1 <br /> đến K15 (đối với nhóm 1) và L1 đến L15 (đối với <br /> nhóm  2).  Làm  sạch  xoang,  thổi  nhẹ  cho  khô  bề <br /> mặt. <br /> ‐  Thực  hiện  qui  trình  trám  composite:  xoi <br /> mòn men, xử lý ngà bằng acid phosphoric 36%. <br /> Rửa  nước.  Thổi  khô  men,  ngà  tương  đối.  Thoa <br /> keo dán lên toàn bộ xoang, chờ tối thiểu 20 giây, <br /> thổi  nhẹ  10  giây  và  chiếu  đèn  20  giây.  Đặt  hệ <br /> thống khuôn trám Tofflemire, chêm gỗ. <br /> <br /> Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  Nhóm 1: đặt một lượng composite Tetric® <br /> N‐Ceram  Bulk  Fill  hơi  dư  so  với  kích  thước <br /> xoang  trám,  nhồi  và  điêu  khắc  miếng  trám. <br /> Chiếu đèn trong 20 giây từ phía mặt nhai.  <br />  Nhóm 2: lót một lớp composite lỏng Tetric <br /> N‐Flow  dày  khoảng  1  mm  lên  toàn  bộ  thành <br /> nướu.Thực  hiện  phục  hồi  composite  răng  sau <br /> một khối Tetric®N‐Ceram Bulk Fill như nhóm 1. <br /> Tháo  khuôn  trám,  chêm  gỗ,  chiếu  đèn  từ <br /> phía  ngoài  và  trong  trong  20  giây.  Mài  chỉnh <br /> và  đánh  bóng  miếng  trám  .  Sau  đó,  ngâm  tất <br /> cả  mẫu  vào  trong  nước  cất  ở  nhiệt  độ  phòng <br /> trong 24 giờ. <br /> ‐  Thực  hiện  chu  trình  nhiệt:  với  100  chu  kỳ <br /> nhiệt giữa hai mức nhiệt độ là 550C ±10C và 50C <br /> ±10C. Thời gian ngưng tại mỗi  điểm  nhiệt  là  25 <br /> giây  và  thời  gian  chuyển  đổi  là  5  giây.  Bít  kín <br /> chóp răng bằng sáp que. Bôi 2 lớp vecni lên toàn <br /> bộ  răng  trừ  phần  phục  hồi  và  1mm  mô  răng <br /> chung quanh bờ miếng trám. <br /> ‐  Nhuộm  mẫu:  ngâm  mẫu  vào  dung  dịch <br /> xanh methylene 2% trong vòng 24 giờ  <br /> ‐ Làm sạch mẫu: cạo bỏ sáp và làm sạch lớp <br /> vecni,  làm  sạch  lại  bằng  bột  pumice  để  loại  bỏ <br /> dung dịch nhuộm trên bề mặt. Chôn răng trong <br /> khối nhựa trong.  <br /> ‐  Cắt  đôi  răng  theo  chiều  gần  xa  qua  giữa <br /> miếng trám bằng đĩa cắt kim cương tốc độ chậm <br /> có  nước  làm  mát.  Đánh  bóng  mặt  cắt  bằng  tay <br /> với giấy nhám chịu nước cỡ hạt 800‐1200. <br /> ‐ Đánh giá độ thâm nhập dung dịch nhuộm <br /> trên cả 2 nhóm bởi 2 quan sát viên độc lập theo <br /> cùng thang đánh giá và ghi vào phiếu đánh giá <br /> theo mã số của mẫu. Quan sát dưới kính hiển vi <br /> nổi,  độ  phóng  đại  30  lần.  Đánh  giá  độ  theo <br /> thang đánh giá của Ferrari và cs (1996) như sau: <br /> 0: không có sự thâm nhập của chất nhuộm. <br /> 1: sự thâm nhập của chất nhuộm không quá <br /> ½ thành nướu. <br /> 2: sự thâm nhập của chất nhuộm vượt quá ½ <br /> thành nướu nhưng chưa đến thành trục.  <br /> 3: sự thâm nhập của chất nhuộm đến thành <br /> trục. <br /> <br /> Răng Hàm Mặt <br /> <br />  <br /> Hình1: Các mức độ thấm nhập chất nhuộm: độ 1, độ <br /> 2, độ 3, độ 4 (từ trái sang phải, từ trên xuống dưới) <br /> Số liệu thu  thập  được  nhập  vào  Excel  2007, <br /> xử lý bằng phần mềm SPSS IBM 20. <br /> Dùng hệ số kappa để đánh giá độ kiên định <br /> giữa hai quan sát viên. <br /> Sử  dụng  phép  kiểm  định  phi  tham  số  U  – <br /> Mann Whitney. <br /> <br /> KẾT QUẢ <br /> Bảng 1: Mức độ thâm nhập dung dịch nhuộm ở 2 <br /> nhóm <br /> Nhóm 1<br /> Nhóm 2<br /> Tổng<br /> cộng<br /> <br /> Độ 0<br /> 3<br /> 2<br /> <br /> Độ 1<br /> 3<br /> 4<br /> <br /> Độ 2<br /> 4<br /> 5<br /> <br /> 5<br /> <br /> 7<br /> <br /> 9<br /> <br /> Độ 3 Tổng cộng<br /> 5<br /> 15<br /> 4<br /> 15<br /> 9<br /> <br /> 30<br /> <br /> Bảng 2: Xếp hạng vi kẽ ở hai nhóm <br /> Nhóm không lót<br /> Nhóm có lót<br /> <br /> n<br /> 15<br /> 15<br /> <br /> Trung bình hạng Tổng hạng<br /> 15,60<br /> 234,00<br /> 15,40<br /> 231,00<br /> <br /> So  sánh  mức  độ  thâm  nhập  dung  dịch <br /> nhuộm  (mức  độ  vi  kẽ)  giữa  2  nhóm:  nhóm <br /> 1(không có lớp composite lỏng) nhiều vi kẽ hơn <br /> nhóm 2 (có lót composite lỏng), sự khác biệt về <br /> mức  độ  vi  kẽ  giữa  2  nhóm  không  có  ý  nghĩa <br /> thống kê (p= 0,949>0,05). <br /> <br /> 373<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br /> <br /> BÀN LUẬN <br /> Co trùng hợp là một đặc tính cố hữu của vật <br /> liệu  phục  hồi  trên  nền  nhựa.  Một  trong  các <br /> phương  pháp  giảm  sự  co  do  trùng  hợp  ở  bờ <br /> phục  hồi  là  sử  dụng  lớp  vật  liệu  trung  gian  có <br /> mô‐đun đàn hồi thấp giữa bề mặt xoang trám và <br /> vật liệu phục hồi trên nền nhựa. Các vật liệu này <br /> thường  là  composite  lỏng  quang  trùng  hợp, <br /> dạng  nhựa  lưỡng  trùng  hợp,  GIC  hoặc  các  tác <br /> nhân  dán  ngà(4).  Việc  sử  dụng  một  lớp  vật  liệu <br /> lót  có  mô‐đun  đàn  hồi  thấp  có  tác  dụng  làm <br /> giảm  sự  thay  đổi  về  thể  tích  xảy  ra  trong  quá <br /> trình trùng hợp. Phương pháp này được đề xuất <br /> vào  năm  1996  nhằm  giảm  sự  co  trùng  hợp  ở <br /> phục hồi composite xoang V. Những vật liệu đó <br /> thường  là  loại  composite  lai,  chứa  khoảng  60 <br /> đến  70%  hạt  độn  về  khối  lượng  với  kích  thước <br /> từ 0,7 đến 1 µm. Nhờ đó, chúng có mô‐đun đàn <br /> hồi thấp làm tăng khả năng đàn hồi của lớp vật <br /> liệu  giúp  hấp  thụ  ngẫu  lực  co  trùng  hợp.  Hơn <br /> nữa, composite lỏng  có  độ  giãn  nở  nhiệt  tương <br /> đương với cấu trúc răng giúp giảm ngẫu lực co <br /> cũng  như  vi  kẽ  từ  18  đến  50%  nhưng  không <br /> hoàn  toàn(3).  Swift  và  cs  kết  luận  rằng  việc  sử <br /> dụng composite lỏng có tác dụng giảm vi kẽ một <br /> cách có ý nghĩa. Crimm cho rằng sử dụng lớp lót <br /> bằng nhựa tiền cứng giúp giảm vi kẽ ở bờ nướu <br /> của phục hồi xoang V(4). <br /> Trong  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  sử  dụng <br /> composite  lỏng  Tetric  N‐flow  có  chứa  thành <br /> phần hạt độn khoảng 68% (về khối lượng). Tuy <br /> nhiên,  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  mức  độ <br /> thâm  nhập  phẩm  màu  ở  thành  nướu  ở  cả  hai <br /> nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê với <br /> p  =  0,949  (>0,05).  Đồng  thời  quan  sát  ở  mỗi <br /> nhóm,  số  răng  có  hiện  tượng  thâm  nhập  chất <br /> nhuộm màu độ 1, 2, 3 chiếm tỉ lệ cao ( lần lượt là <br /> 80% và 86,67% ở nhóm không lót và nhóm có lót <br /> composite lỏng). <br /> Các vật liệu phục hồi trên nền nhựa có một <br /> tính chất chung đặc trưng là co trùng hợp. Trong <br /> quá  trình  trùng  hợp,  sự  hình  thành  các  mạng <br /> lưới  polymer  tạo  nên  một  cấu  trúc  “đặc”  hơn <br /> dẫn đến sự co về thể tích hay sự co trùng hợp. <br /> <br /> 374<br /> <br /> Mặc  khác,  phục  hồi  được  “dán”  vào  thành <br /> xoang, do đó sự co thể tích tạo nên một ngẫu lực <br /> co. Điều đó đồng nghĩa, ngẫu lực co càng lớn, sự <br /> co  trùng  hợp  càng  cao.  Trong  nghiên  cứu  này, <br /> chúng tôi sử dụng loại composite trám răng sau <br /> một khối Tetric® N‐Ceram Bulk Fill với đặc tính <br /> co trùng hợp thấp. Tuy nhiên, theo nghiên cứu <br /> của  D.Tantbirojin  và  cs  cho  thấy  vật  liệu <br /> composite co thấp không thật sự làm giảm sự co <br /> trùng hợp. Ngẫu lực co phụ thuộc vào nhiều yếu <br /> tố, trong đó quan trọng là tính chất của vật liệu <br /> phục hồi và loại tác nhân dán(7). Về phần nhóm <br /> có  sử  dụng  lớp  lót  composite  lỏng,  một  vài <br /> nghiên cứu cho thấy hiệu quả giảm vi kẽ ở phục <br /> hồi  composite  xoang  II  khi  sử  dụng  lớp  lót, <br /> trong khi một số khác lại cho kết quả ngược lại. <br /> Sự khác biệt này có thể do tính chất vật lý và cơ <br /> học  khác  nhau  giữa  các  loại  composite  lỏng. <br /> Tính chảy lỏng của vật liệu giúp bao phủ tốt bề <br /> mặt  không  đều  đặn  của  xoang  trám.  Hơn  nữa, <br /> mô‐đun đàn hồi thấp giúp vật liệu có khả năng <br /> hấp thụ lực co tạo ra trong quá trình trùng hợp. <br /> Tuy  nhiên,  composite  lỏng  có  thành  phần  hạt <br /> độn  thấp  và  khung  nhựa  chủ  yếu  là  các <br /> monomer trọng lượng phân tử thấp, dẫn đến sự <br /> co trùng hợp cao(5). <br /> Ở  một  khía  cạnh  khác,  các  loại  composite <br /> hiện nay có sự co thể tích trong quá trình trùng <br /> hợp  khoảng  2,6%  đến  4,8%  (đối  với  Tetric®  N‐<br /> Ceram  Bulk  Fill,  độ  co  trùng  hợp  về  thể  tích  là <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2