![](images/graphics/blank.gif)
Sự chuẩn bị của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và một số điều rút ra với Việt Nam hiện nay
lượt xem 3
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) tiếp tục phát triển như dự báo thì lĩnh vực chế tạo và SX (SX) trong tương lai sẽ quay trở lại các nước phát triển là nơi khởi phát của CMCN 4.0. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển cũng sẽ có cơ hội rút ngắn khoảng cách phát triển nếu biết tiếp cận nhanh CMCN 4.0.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sự chuẩn bị của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và một số điều rút ra với Việt Nam hiện nay
- HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 SỰ CHUẨN BỊ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ HÀN QUỐC TRƢỚC CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ MỘT SỐ ĐIỀU RÚT RA VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Thị Hƣơng31, Học viện Quản lý giáo dục Tóm tắt: Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) tiếp tục phát triển như dự báo thì lĩnh vực chế tạo và SX (SX) trong tương lai sẽ quay trở lại các nước phát triển là nơi khởi phát của CMCN 4.0. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển c ng sẽ có cơ hội rút ngắn khoảng cách phát triển nếu biết tiếp cận nhanh CMCN 4.0. Điều này c ng đồng nghĩa với việc các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tận dụng tốt những lợi thế và cơ hội từ cuộc CMCN 4.0. Tuy nhiên, các nước đang phát triển hầu như không có chiến lược riêng biệt về CMCN 4.0 mà ch dựa trên những thế mạnh đã có trong một số lĩnh vực chủ chốt được dự đoán là xu hướng công nghệ để tiến tới phát triển CMCN 4.0. Trước tình hình đó, trên cơ sở nghiên cứu chiến lược và chính sách ứng phó của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) Hàn Quốc trước cuộc CMCN 4.0, bài viết rút ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra một số giải pháp đối với Việt Nam ta trong điều kiện hiện nay. Từ khóa: CMCN 4.0, Hàn Quốc, Khoa học & công nghệ, DN vừa và nhỏ. SOME PRACTICAL LESSONS FOR VIETNAM DRAWN FROM THE PREPARATIONS FOR THE INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 BY KOREAN SMALL AND MEDIUM SIZED ENTERPRISES Abstract: If the implementation of The Industrial Revolution 4.0 (IR 4.0) progresses as forecasted, the manufacturing industries will be flourishing again in developed countries where the IR 4.0 was initiated. Besides, developing countries will have an opportunity to narrow the gaps with the developed ones if they can adopt timely and appropriate approaches to the IR 4.0. However, it is obvious that they may lag far behind without taking advantages of chances of the IR 4.0. In 31 Trưởng khoa Cơ bản, Học viện Quản lý giáo dục, Bộ GD&ĐT; email: nguyenhuonghvqlgd85@gmail.com; điện thoại: 0906072074 357
- INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 reality, they have almost no specific strategies and mainly put focus on their available strengths in some key fields which are supposed to be technological trends to implement IR 4.0. This paper based on the study on strategies and policies of Korean small and medium sized enterprises in the context of IR 4.0 presents some practical lessons and feasible solutions for Vietnam in the current situation. Key words: The Industrial Revolution 4.0, Republic of Korea, Science & Technology, small and medium sized companies. 1. Mở đầu CMCN 4.0 đang làm thay đổi căn bản nền SX trên thế giới, giúp tăng cường kết nối các quốc gia trên tất cả các phương diện, từ thể chế nhà nước (NN) đến kinh tế (KT) - xã hội (XH), môi trường. Nhiều quốc gia đã nhanh chóng có các chiến lược cụ thể để tận dụng tốt cơ hội, vượt qua thách thức của cuộc CMCN 4.0. Trong khi đó, các DN Việt Nam phần lớn là DNNVV, chưa đủ năng lực cạnh tranh, chưa sẵn sàng tiếp cận công nghệ mới. Nhiều DN còn bị động với các xu thế mới, chưa sẵn sàng chuyển hướng mô hình SX kinh doanh. Nếu như không có sự điều chỉnh và giải pháp mau lẹ thì chúng ta sẽ phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, dư thừa LĐ trình độ thấp, nhập khẩu công nghệ lạc hậu, mất an toàn, an ninh thông tin... 2. Nội dung 2.1. Sự chuẩn bị của các SMEs Hàn Quốc trƣớc cuộc CMCN 4.0 KT Hàn Quốc được hình thành bởi các tập đoàn toàn cầu có cấu trúc phân cấp trong các lĩnh vực công nghệ cao và cơ khí (như Samsung, Huyndai, LG, SK Telecom và Posco) và khoảng 3 triệu SMEs. Do đó, một trong những mục tiêu của chính phủ (CP) Hàn Quốc là thúc đẩy và nâng cao khả năng cạnh tranh và định hướng xuất khẩu của các SMEs bằng cách khuyến khích họ hợp tác và trao đổi kinh nghiệm với các DN nước ngoài, đặc biệt với SMEs của Đức. Hàn Quốc hiện đang sở hữu mạng lưới SX và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) hàng đầu thế giới, nhưng lại chưa nắm giữ được những công nghệ quan trọng, cần thiết cho một nhà máy thông minh như kỹ thuật cảm biến, IoT hay kỹ thuật ảnh nổi ba chiều. Bên cạnh đó, những quy định và chính sách công nghiệp cũ vẫn bị coi là rào cản cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào các nhà máy thông minh - nhà máy ứng dụng các hệ thống SX tích hợp công nghệ siêu kết nối trong toàn bộ quá trình SX, bao gồm tự động hóa, trao đổi dữ liệu và công nghệ SX được nâng cao. Tháng 6/2014 CP Hàn Quốc đã chính thức đưa ra chiến lược ―Cải cách công nghiệp SX 3.0‖. Chiến lược này đồng nghĩa với CMCN 4.0 phiên bản Hàn Quốc và là một phần trong sáng kiến hàng đầu của Tổng thống Park Gun Hye về ―Kế hoạch KT sáng tạo‖ trước đó [6]. Cơ quan CP chủ trì thực hiện cuộc Cải cách 3.0 này là Bộ khoa học, CNTT và Kế hoạch tương lai (MSIP) và Bộ Thương mại, Công nghiệp và KT (MOTIE). Cơ quan này điều hành các DN NN, các DN lớn và vừa có trách nhiệm hỗ trợ mọi hoạt động liên quan. Sáng kiến lấy cảm hứng trực tiếp từ CMCN 4.0 của Đức với ý tưởng là SX thông minh, như áp dụng các công cụ CNTT vào hoạt động SX, sử dụng IoT để kết nối SMEs một cách hiệu quả hơn trong SX toàn cầu và các mạng lưới đổi mới [3]. Điều này có thể giúp các DN Hàn 358
- HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Quốc không chỉ hiệu quả hơn trong SX hàng loạt mà còn dễ dàng và hiệu quả hơn trong tùy biến sản phẩm (SP). Chiến lược này tập trung cải thiện năng suất lao động (LĐ) của ngành công nghiệp chế tạo theo Kế hoạch 5 năm (giai đoạn 2013 - 2018). Trong khi trọng tâm của ―Cải cách công nghiệp 1.0‖ là sự thay thế nhập khẩu cho ngành công nghiệp nhẹ, ―Cải cách công nghiệp 2.0‖ tập trung vào thiết bị lắp ráp, thì ―Cải cách công nghiệp 3.0‖ sẽ là một sự thay đổi trong tất cả các mô hình đã biết của các công nghệ SX hiện tại. Nhiệm vụ trọng tâm của ―Cải cách công nghiệp 3.0‖ là tạo ra giá trị mới và tăng khả năng cạnh tranh bằng cách đưa CNTT vào các nhà máy, từ đó nhanh chóng xây dựng hệ thống nhà máy thông minh. Các lĩnh vực công nghệ chủ chốt được ưu tiên thực hiện là: in 3D, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, hệ thống thực - ảo, các hệ thống tiết kiệm năng lượng, kỹ thuật ảnh nổi 3 chiều, IoT và bộ cảm biến. Theo Bộ khoa học, CNTT và Kế hoạch tương lai, mạng lưới Internet kết nối vạn vật và trí tuệ nhân tạo dự kiến sẽ tạo ra những cơ hội và lợi nhuận thương mại trị giá tới 470 tỷ USD vào năm 2030, tương đương 41% GDP của Hàn Quốc năm 2015 [6]. Mục tiêu chính của ―Cải cách công nghiệp 3.0‖ gồm: - Thúc đẩy việc tích hợp SX và CNTT (IoT), từ đó tạo ra một ngành công nghiệp mới với mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp SX/chế tạo của Hàn Quốc. - Xác lập vị thế của Hàn Quốc như một cường quốc về CNTT với sự tích hợp của ngành công nghiệp CNTT và nền SX căn bản. - Đến 2020, xây dựng được 10.000 nhà máy thông minh với tổng vốn đầu tư khoảng 24 nghìn tỷ KRW (khoảng 23 tỷ USD), trong đó hỗ trợ trực tiếp từ CP Hàn Quốc chỉ dưới 10% và phần chính còn lại sẽ thu hút từ nguồn vốn tư nhân. - Thúc đẩy sự phát triển SMEs thành các DN có tiềm năng lớn, thông qua việc sử dụng các công nghệ nhà máy thông minh. Mục tiêu này là phản ứng trước áp lực gia tăng đối với nền KT Hàn Quốc do chất lượng SX của Trung Quốc ngày càng được cải thiện. - Chú trọng nâng cao các ngành công nghiệp SX của Hàn Quốc, ―năng lực mềm‖ bằng việc tăng cường thúc đẩy sự tăng trưởng của các lĩnh vực/phân đoạn SX kết hợp với CNTT, phát triển công nghệ cốt lõi liên quan đến IoT, in 3D và dữ liệu lớn. - Mục tiêu đến năm 2024, giá trị SX xuất khẩu của Hàn Quốc đạt 1.000 tỷ USD, nằm trong top 4 sau Trung Quốc, Hoa Kỳ và Đức, vượt qua Nhật Bản. Để thúc đẩy triển khai thực hiện ―Cải cách công nghiệp 3.0‖, tháng 3/2015, CP Hàn Quốc đã công bố ―Kế hoạch hành động thực hiện chiến lược 3.0‖, trong đó xác định rõ bốn chiến lược bộ phận là: - Lan rộng quá trình SX thông minh như lan rộng mô hình Nhà máy thông minh, phát triển công nghệ cốt lõi (cảm biến, IoT, in 3D, hình ảnh 3 chiều...), tăng cường năng lực các phần mềm (kỹ thuật, thiết kế, Embedded SW...) cho quản lý SX… - Tạo ra ngành công nghiệp mới đại diện, bao gồm cả bước đầu ảo hóa các cơ sở vật chất hội tụ cho nhà máy thông minh, thương mại hóa và phát triển vật liệu thông minh và linh kiện, thúc đẩy đầu tư tư nhân, nghiên cứu và phát triển (R&D). - Đổi mới thông minh cho ngành công nghiệp SX địa phương (kích hoạt các DN khởi nghiệp thông qua các Trung tâm Đổi mới KT sáng tạo), sử dụng các điểm chiến lược mang 359
- INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 tính địa phương để trở thành khu vực công nghiệp thông minh theo thế mạnh công nghiệp của địa phương. - Xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại và tái cơ cấu SX công nghiệp. CP Hàn Quốc cũng tin rằng CMCN 4.0 có thể đem lại những lợi ích KT thông qua mô hình kinh doanh mới, mô hình dữ liệu (ví dụ, trong lĩnh vực các thành phố thông minh nơi nó đã là một nhà lãnh đạo toàn cầu). Xét về tiêu chuẩn hóa, CP quan tâm đến hợp tác quốc tế và liên quan đến khu vực tư nhân. Ngành công nghiệp Hàn Quốc đang kêu gọi các giải pháp chuẩn hóa nhanh để cho phép tương tác. Việc hợp tác với các tập đoàn lớn đã tạo thuận lợi cho SMEs Hàn Quốc tiếp cận và có thể xây dựng các tiêu chuẩn SX rộng rãi trên nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Trong công cuộc Cải cách công nghiệp 3.0, CP Hàn Quốc đã có những chương trình hành động cụ thể để thúc đẩy triển khai thực hiện. Tháng 8/2016, CP Hàn Quốc đã đưa ra lộ trình cho một số lĩnh vực của các dự án R&D: Công nghệ thiết kế, công nghệ để phân loại các sản phẩn bị lỗi, các kỹ thuật điều hành tích hợp phần mềm, nền tảng IoT, cảm biến thông minh, công nghệ thu thập dữ liệu và xử lý dữ liệu tiêu chuẩn. Ngoài ra, Hội đồng nghiên cứu Tiêu chuẩn nhà máy thông minh đã được hình thành trong khu vực tư nhân nhằm đáp ứng hiệu quả các xu hướng hoạt động quốc tế và thực hiện các nỗ lực để chuẩn hóa các quy định phát triển địa phương. Đồng thời, CP sẽ áp dụng các hình thức hỗ trợ khác nhau để đào tạo khoảng 40.000 công nhân có tay nghề về vận hành các cơ sở SX hoàn toàn sử dụng công nghệ tự động hóa. Đến trước năm 2020, dự kiến sẽ đầu tư khoảng 189.3 triệu USD vào 9 dự án R&D quốc gia (trong đó, hỗ trợ từ phía CP Hàn Quốc chiếm khoảng hơn 70%) để khuyến khích họ tập trung phát triển các SP công nghệ cao liên quan tới nhà máy thông minh. Hàn Quốc có kế hoạch đầu tư hơn 400 tỷ KRW (khoảng 360 triệu USD; trong đó CP tích cực huy động sự tham gia của nguồn vốn tư nhân, chiếm gần 1/3) trong 05 năm 2016 - 2020 để phát triển công nghệ thực tế ảo mới và thu hẹp khoảng cách công nghệ với các nước hiện đang đi đầu trong lĩnh vực này. Khoản đầu tư trên sẽ được dành ưu tiên cho việc phát triển công nghệ thực tế ảo mới phiên bản Hàn Quốc và một phần sẽ dành hỗ trợ hoạt động phát triển và thương mại hóa các thiết bị thực tế ảo mới có độ phân giải cao hơn có thể khắc phục một số nhược điểm của công nghệ hiện tại. Trong năm 2017, Hàn Quốc đầu tư 1.000 tỷ KRW cho nghiên cứu in 3D, dữ liệu lớn, internet và các công nghệ SX thông minh khác để nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các nước dẫn đầu về các công nghệ này [6]. Theo đề án do Bộ Thương mại, Công nghiệp và KT trình CP Hàn Quốc, tính tới trước năm 2025, mỗi ngành trong số mười ngành công nghiệp chính sẽ xây dựng khoảng 4.500 nhà máy thông minh. Để bắt kịp đà tăng trưởng nhanh của công nghệ số và tự động hóa trong cuộc CMCN 4.0, năm 2017, tất cả các khu vực KT NN và tư nhân của Hàn Quốc đều nhất trí tăng số lượng nhà máy thông minh trong nước lên hơn 30.000 vào năm 2025, những nhà máy này sẽ được ứng dụng công nghệ phân tích và số hóa hiện đại nhất [2]. Đối với các DN, CP Hàn Quốc đã khuyến khích và hỗ trợ phát triển theo hướng đưa tin học hóa toàn bộ quy trình SX, trong đó tập trung vào 4 yếu tố chính: Thông minh (Smart), Nền tảng (Platform), Dịch vụ (Services) và Bền vững (Sustainability). Cụ thể, các DN NN, các DN lớn, vừa và nhỏ được hỗ trợ xuất khẩu, R&D và tài chính (200 triệu USD trong vòng 5 năm) để 360
- HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 triển khai đổi mới quy trình SX và nâng cấp cơ sở, trang thiết bị SX hiện đại; cung cấp vốn và hỗ trợ kỹ thuật cho hơn 2000 SMEs mỗi năm (sau 5 năm con số này sẽ là 10.000) để thúc đẩy hình thành những nhà máy thông minh, có thể SX và cung cấp SP tạo ra cho các DN NN và tập đoàn lớn; mở rộng tài trợ hỗ trợ cho các DN khởi nghiệp, đồng thời hạn chế hỗ trợ cho các DN nhiều hơn 5 tuổi. Để tăng số lượng của DN khởi nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ, năm 2014 CP đã phát động Chương trình Ươm tạo công nghệ cho DN khởi nghiệp. Chương trình cung cấp cho DN khởi nghiệp khoản tài trợ cho R&D từ khu vực tư nhân và công cộng. Cùng với nền tảng cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển khoa học công nghệ đã được công bố trước đó, CP cải thiện mạnh mẽ khung pháp lý cho cải cách bằng việc bãi bỏ các quy định không phù hợp, sửa luật và ban hành nhiều quy định, chính sách có liên quan. CP Hàn Quốc đã soạn thảo Luật Khuyến khích các sáng kiến tích hợp CNTT vào những lĩnh vực chủ chốt như ô tô, đóng tàu... thành lập các trung tâm phát minh sáng tạo và các cơ quan hỗ trợ hành chính liên quan tới khoa học - công nghệ, thành lập các hệ thống đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cao... để thúc đẩy phát triển công nghiệp. Nhờ đó, năng lực cạnh tranh trong các ngành công nghiệp chủ lực của Hàn Quốc ngày càng tăng và nhiều SP công nghệ của họ đang dẫn đầu thế giới. 2.2. Thách thức của CMCN 4.0 với các SMEs Hàn Quốc Thời đại CMCN 4.0 đang trỗi dậy trên toàn cầu đã tạo ra nhiều thách thức KT XH liên quan đến ngành công nghiệp SX Hàn Quốc. Với bên ngoài, các ngành SX chính của Hàn Quốc như ô tô, đóng tàu, điện tử, thép và hóa chất phải đối mặt với những thách thức từ sự trỗi dậy của Trung Quốc như là một cường quốc SX và sự suy yếu của đồng yên Nhật Bản. Ở bên trong, nhiều công ty SX địa phương tại Hàn Quốc rơi vào tình trạng năng suất thấp và kém hiệu quả [3]. Hơn nữa, mặc dù mức độ phát triển công nghệ giữa các ngành và công ty là khác nhau, hầu hết SMEs ở Hàn Quốc đều còn non trẻ, rất cần sự phát triển công nghệ. Hơn nữa để đạt được sự tinh tế và công nghệ cao hơn, đặc biệt là IoT và dữ liệu lớn. Do vậy, sự đầu tư ban đầu cho SMEs có năng lực công nghệ và ngân sách thấp là rất cần thiết để giúp họ hiệu quả hơn. Các chính sách của CP và những nỗ lực của các DN lớn để hỗ trợ cho SMEs cũng cần có một cách tiếp cận tập trung hơn và hướng đi cụ thể. Bên cạnh đó, các DN ô tô, chip và điện thoại di động là những động lực chính của nền KT Hàn Quốc trong những thập kỷ qua, giúp Hàn Quốc nhảy lên vị trí thứ 11 trên thế giới. Tuy nhiên, mô hình công nghiệp này có thể sớm trở nên lỗi thời khi thế giới đang tìm kiếm một cuộc cách mạng công nghệ toàn cầu mới, về cơ bản sẽ làm thay đổi hình dạng của mỗi ngành. Thêm vào đó, các DN Hàn Quốc đang phải chịu áp lực từ sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực SX mà Hàn Quốc đang dẫn đầu [4]. Đó là lý do đòi hỏi Hàn Quốc phải tìm hướng dịch chuyển sang các ngành công nghiệp thế hệ tiếp theo. Trong khi đó, các công ty lớn, như điện tử Samsung, đã đặt cược rất nhiều vào các công nghệ mới nổi. Đó chính là thách thức lớn đòi hỏi Hàn Quốc phải đưa ra các lựa chọn chiến lược để nuôi dưỡng các ngành công nghiệp tương lai. 361
- INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 2.3. Thực trang trình độ công nghệ Việt Nam cho việc áp dụng triển khai CMCN 4.0 trong bối cảnh hiện nay. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2017, trong tổng số 517.900 DN đăng ký, số DN đang hoạt động, có doanh thu, nộp thuế vào ngân sách nhà nước (NSNN) là 505.000 DN. Số DN còn lại là mới đầu tư, chưa đi vào hoạt động SX kinh doanh. Dù số lượng DN tăng nhưng chỉ có 10.100 DN lớn, chiếm tỷ lệ khiêm tốn 1,9%. Số DNNVV chiếm tới 98,1%, trong đó, DN vừa có gần 8,5 nghìn DN, tăng 23,6% so với thời điểm 1/1/2012; DN nhỏ là 114,1 nghìn và DN siêu nhỏ là 385,3 nghìn. Bình quân năm giai đoạn 2012- 2017, số DNVVN tăng 8,8% cao hơn mức tăng bình quân của DN lớn là 5,4%. Trong thời gian vừa qua dù còn xa với tiềm năng của lực lượng khoa học và công nghệ (KH&CN) cũng như điều kiện KTXH, nhưng nước ta cũng đã tạo ra được một số sản phẩm (SP), công nghệ mới, hình thành các DN mới với sức cạnh tranh được nâng cao trong điều kiện KTTT, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số các hạn chế, như: KH&CN chưa đáp ứng được yêu cầu là động lực và nền tảng cho phát triển KTXH, cho tăng trưởng và tái cơ cấu KT, chưa giải đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới. Nhiều quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực chưa dựa trên cơ sở KH nên đã dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí và thiếu tính khả thi. Các kết quả KH&CN chậm đi vào cuộc sống. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách và phát triển KH&CN thiếu quyết liệt và hiệu quả chưa cao. Thiếu các giải pháp đồng bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả của các cơ quan quản lý, cán bộ lãnh đạo các tổ chức KH&CN. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành và các cấp địa phương chưa chặt chẽ, đồng bộ. Các tổ chức KH&CN, trong đó có các viện nghiên cứu, trường đại học chưa tạo thành một mạng lưới theo quy hoạch, phân bổ còn bất hợp lý, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Nhiều tổ chức hiệu quả hoạt động chưa cao, nặng về tâm lý bao cấp, phụ thuộc vào NSNN, không muốn chuyển đổi sang hình thức hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu KH&CN, giáo dục - đào tạo và SX - KD; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức nghiên cứu - phát triển, các trường đại học và DN. Đầu tư cho KH&CN chủ yếu từ NSNN, chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh để huy động được nguồn lực XH, đặc biệt là đầu tư từ khu vực DN cho phát triển KH&CN. Hầu hết các DN chưa sẵn sàng và chưa có động lực để đầu tư cho R&D và đổi mới công nghệ. Chỉ có khoảng 0,1 - 0,3% doanh thu của các DN được đầu tư cho hoạt động này [5]. Năng lực tiếp thu, làm chủ và đổi mới công nghệ của DN không cao. Công nghệ được mua bán chủ yếu trên thị trường là thiết bị, máy móc và dây chuyền công nghệ toàn bộ. Các giao dịch mua bán công nghệ ở dạng tài sản trí tuệ như các patăng, lixăng và bí quyết công nghệ còn rất hạn chế. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2016 - 2017 của Diễn đàn KT thế giới (TG) (WEF) cho thấy, năng lực cạnh tranh Việt Nam đứng thứ 60/138 QG, trình độ công nghệ của Việt Nam còn kém hơn, đứng tận thứ 92/138 QG được khảo sát; chỉ số đánh giá về công nghệ mới chỉ đứng thứ 106; tiếp thu công nghệ đứng thứ 78, thấp hơn Thái Lan 35 bậc... Năng lực sáng tạo, đổi mới của Việt Nam đứng thứ 73/138; trong đó, đứng thứ 79 về khả năng đổi mới, 362
- HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 thứ 98 về chất lượng của các tổ chức KH&CN, thứ 49 về chi têu công cho R&D, thứ 79 về hợp tác giữa cơ sở KH&CN với DN, thứ 84 về số lượng các nhà khoa học và kỹ sư, thứ 95 về việc ứng dụng các bằng sáng chế. Những số liệu này là đáng báo động khi mà chúng ta không muốn chậm chân trong cuộc CMCN 4.0. [5]. 2.4. Một số điều r t ra đối với Việt Nam từ kinh nghiệm của Hàn Quốc trong điều kiện hiện nay. Thực hiện nhiệm vụ KH&CN, nhất là liên quan đến công nghệ cao, công nghệ mới không phải là chuyện dễ, không phải tổ chức nào cũng làm được mà nó có những tiêu chí, điều kiện ràng buộc rất cụ thể. Thực trạng, không ít nhiệm vụ KH&CN ở các cấp đang được giao không đúng vị trí dẫn đến hiệu quả thực thi kém, gây ra tổn thất nặng nề. Tập trung đầu tư hiệu quả cho KH&CN Lợi ích của đầu tư cho hoạt động KH&CN là rất rõ ràng nhưng việc đầu tư cho hoạt động KH&CN ở nước ta thời gian qua có rất nhiều khó khăn, chủ yếu mới dựa vào NSNN. Chủ trương chi cho KH&CN chiếm 2% NSNN, tuy tương đương với tỷ lệ của các nước trên TG, nhưng do NSNN của Việt Nam còn ít nên nguồn tài chính này cho KH&CN đến năm 2016 mới chỉ là 17.730 tỷ đồng (830 triệu USD) [5]. Đầu tư cho KH&CN chủ yếu vẫn là NN, vì thế đầu tư của toàn XH Việt Nam cho KH&CN mới chỉ chiếm khoảng 0,8 - 1,0% GDP. Trong khi đó, ở các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc đầu tư cho KH&CN chủ yếu từ DN, từ XH và thông thường chiếm tới 60 - 80%. Tổng chi QG cho KH&CN tính theo tỷ lệ % của GDP toàn cầu không ngừng gia tăng và luôn ở mức cao, trong đó đầu tư của Mỹ tương đương 2,8% GDP, Hàn Quốc 4,0%, Nhật Bản 3,4%, Đức 2,9%. Tổng đầu tư của Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và các nước thuộc Liên minh châu Âu chiếm tới 78% tổng đầu tư cho KH&CN toàn cầu [1]. Để giải quyết vấn đề đầu tư cho KH&CN từ DN, trước hết cần nâng cao nhận thức cho người quản lý, cho người làm chính sách, nhất là cho DN để họ hiểu rằng đầu tư cho KH&CN chính là đầu tư cho chính bản thân DN, để giúp DN ổn định và phát triển bền vững trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt; thứ hai, là NN phải có quy định buộc các DN đầu tư phát triển KH&CN của chính DN mình mà trước tiên là từ các DN NN; thứ ba là khi DN đã dành một phần lợi nhuận đóng góp vào quỹ phát triển KH&CN thì NN cần có các quy định cụ thể, rõ ràng, khả thi để sử dụng quỹ một cách minh bạch, thuận lợi và có hiệu quả nhất. Lựa chọn công nghệ phù hợp để chuyển giao và ng dụng Chúng ta phải biết lựa chọn công nghệ mà ứng dụng và chuyển giao, phù hợp từ nhiều yếu tố ảnh hưởng đến SX, KD trong nước như trình độ công nghệ, nguồn nhân lực, dân số, tài nguyên môi trường, văn hóa XH và cả hệ thống pháp lý chính trị. Muốn phát triển thị trường KH&CN thì SP phải có tính cạnh tranh tại thị trường Việt Nam, tức là phải đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, của DN và có thể cạnh tranh được với hàng nhập ngoại. Công nghệ trong CMCN 4.0 là những công nghệ rất cao, việc lựa chọn đúng công nghệ phù hợp với điều kiện đất nước ta có một vai trò cực kỳ quan trọng. Nếu không sẽ gây lãng phí tiền bạc và công sức mà kết quả đưa lại chẳng bao nhiêu. 363
- INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 Thực hiện tốt chính sách ứng dụng và chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam Đa dạng hóa đối tượng chuyển giao công nghệ phải gắn với chọn lọc lĩnh vực, lựa chọn những đối tác có triển vọng mang lại kết quả tối ưu. Điều này chỉ đạt được trên cơ sở phải hiểu rõ mặt mạnh, mặt yếu về từng loại công nghệ của từng nước, từng hãng có công nghệ chuyển giao; thái độ, ý đồ của họ trong quan hệ KT, chính trị đối với Việt Nam. Muốn vậy, chúng ta cần xây dựng được một hệ thống thông tin đủ độ tin cậy về thực trạng công nghệ của các đối tác muốn chuyển giao công nghệ vào nước ta, cần tổ chức mạng lưới thông tin công nghệ nhằm tạo cách nhìn xác thực về các đối tác. Đa dạng hóa các luồng chuyển giao công nghệ. Chuyển giao công nghệ qua luồng nhập cư chuyên gia là một luồng có nhiều tiềm năng triển vọng. Theo một số điều tra thì số chuyên gia Việt kiều có trình độ cao chỉ đứng sau kiều dân của Trung Quốc và Israel; nhiều người trong số họ có nguyện vọng được trở về nước sinh sống và làm việc. Luồng chuyên gia nữa cần quan tâm là đội ngũ các nhà KH&CN, các chuyên gia tại các nước thuộc khối XHCN cũ, rất giàu kinh nghiệm, có tài năng, có cảm tình với Việt Nam. Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Israel và vùng lãnh thổ Đài Loan đã thành công trong việc sử dụng luồng chuyên gia này. Chuyển giao công nghệ qua con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã và sẽ là luồng quan trọng đối với Việt Nam. Phía nước ngoài thường chuyển giao một cách đồng bộ từ khâu nghiên cứu thị trường, thiết kế, lắp đặt, công nghệ SX đến quản lý SX, KD,... Vì thế, chúng ta cần quan tâm đào tạo và bố trí đội ngũ cán bộ KH&CN và công nhân để làm chủ các công nghệ nhập, trên cơ sở đó có bước cải tiến và tiến tới làm ra được những công nghệ mới, độc lập. Đa dạng hóa các loại hình chuyển giao công nghệ. Việc lựa chọn hình thức nào phụ thuộc vào bản chất công nghệ, chiến lược và năng lực của bên nhận chuyển giao,... Công nghệ càng mới, càng hiện đại thì tính độc quyền cung cấp càng cao. Theo đó, giá trị quyền sở hữu cũng cao hơn. Các công nghệ của cuộc CMCN 4.0 đòi hỏi những kỹ năng vận hành mới. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà chúng ta tìm ra cách thức thích hợp cho mình. Đa dạng hóa nội dung và phương thức chuyển giao công nghệ. Có thể thực hiện đa dạng hóa các nội dung của chuyển giao công nghệ là: Chuyển giao phần cứng SX; chuyển giao phần cứng tổ chức; chuyển giao tài liệu SX; chuyển giao tài liệu tổ chức; chuyển giao các kỹ năng SX và đa dạng hóa phương thức chuyển giao. Ngăn ngừa công nghệ lạc hậu vào Việt Nam, để làm được điều này cần nghiêm túc thực hiện các biện pháp: (1) Những ai là người Việt tiếp tay cho các đối tượng nước ngoài đưa công nghệ hoặc thiết bị lạc hậu vào Việt Nam phải xử lý bằng các chế tài pháp luật, xác định như tội phạm hình sự; (2) Có cơ chế lựa chọn cán bộ đủ tầm, đủ tâm, nhất là những cán bộ tiếp xúc trực tiếp với các đối tác đầu tư nước ngoài. Cán bộ không đủ năng lực KH&CN trong các công việc liên quan tới thẩm định, lựa chọn công nghệ, máy móc, thiết bị thì dứt khoát không giao việc; (3) Công nghệ, thiết bị cùng công nghệ muốn được chuyển giao vào Việt Nam thì phải đã và đang được kiểm chứng, sử dụng rộng rãi ở một số QG có trình độ, có thu nhập cao hơn nước ta từ 3 - 5 lần tùy vào loại công nghệ, lĩnh vực công nghệ cần áp dụng; (4) Tiếp tục xây dựng hành lang pháp lý đủ nghiêm ngặt để hạn chế tối đa các đối tượng nước ngoài lợi dụng đưa công nghệ lạc 364
- HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 hậu vào Việt Nam. Phải thẩm định, kiểm định công nghệ đưa vào một cách chặt chẽ, khoa học, chọn nhà thẩm định có kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyển giao. 3. Kết luận Cuộc CMCN 4.0 đã diễn ra vô cùng nhanh chóng và chưa có tiền lệ, sự tiến bộ của KH&CN TG cũng không hề có ý định dừng lại để chờ đợi bất kỳ ai. Những gì đang diễn ra ở các nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... trong thời gian gần đây đã chứng minh điều đó. Tu duy, tư tưởng là vấn đề cốt lõi cho hành động. Vì thế, chúng ta cần phải thay đổi, cần đổi mới tư duy, tư duy tổng thể toàn cầu, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, mà trong đó nguồn lực, động lực quan trọng nhất là tri thức và sáng tạo, dựa trên nền tảng của cuộc CNCN 4.0. Đó là tư duy tích hợp liên ngành, gắn với SP thông minh, trí tuệ nhân tạo, IoT, ... là sự tích hợp và hội tụ của các công nghệ và sự tương tác của chúng trên các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học. Do đó, đẩy mạnh NCKH, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài và thực hiện đồng bộ các biện pháp sẽ là những chuẩn bị cần thiết để Việt Nam ta có thể thích ứng trong thời đại CMCN 4.0 hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban KT Trung ương (2017), Việt Nam với Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, NXB Đại học KT quốc dân. 2. Jeong Eun Ha (2015). Smart Industry in Korea. Rijksdienst voor Ondernemend Nederland. 3. Kagermann H, Anderl R, Gausemeier J (2016) (Eds.). Industrie 4.0 in a Global Context: Strategies for Cooperating with International Partners, Acatech STUDY, Munich: Herbert Utz Verlag. 4. Lee Sun-young (2016). (Industry 4.0) Future of Korean economy now. The Korea Herald, Herald Corporation, Seoul. 5. Phan Xuân Dũng (2017), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cuộc cách mạng của sự hội tụ và tiết kiệm, NXB Khoa học và kỹ thuật. 6. Tzern Tzuin Toh (2017). Understanding the Role of Governments in Promoting the Industrial Internet of Things. Frost & Sullivan APAC,.4-5. 365
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bản chất của tổ chức hoạt động sự kiện
10 p |
263 |
117
-
Chuẩn bị Sân khấu cho tổ chức sự kiện
6 p |
228 |
99
-
lập Kế hoạch kinh doanh hoàn hảo
10 p |
176 |
36
-
HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ CỦA NHÓM TCSK
2 p |
177 |
30
-
48 câu hỏi khi chuẩn bị tổ chức sự kiện - Phần 1
6 p |
154 |
25
-
Thương hiệu Việt 2012: “Chỉ có thể là Trung Nguyên” và những sai lầm về chiến lược định vị
7 p |
108 |
25
-
Bạn đã chuẩn bị gì cho công việc của mình?
2 p |
195 |
25
-
Công ty của bạn được chuẩn bị cho tình trạng khẩn cấp như thế nào?
6 p |
162 |
25
-
Bài giảng Khởi sự kinh doanh – Bài 1: Khái lược về khởi sự kinh doanh
13 p |
77 |
17
-
Bài giảng Cơ hội kinh doanh online
27 p |
99 |
17
-
Cần có sự chuẩn bị tốt cho cuộc đàm phán
13 p |
136 |
11
-
Tăng cường khả năng bán hàng cho doanh nghiệp
3 p |
91 |
10
-
Năm bí quyết về tài chính giúp doanh nghiệp phát triển tốt trong tương lai
8 p |
93 |
9
-
Làm sao để kinh doanh hiệu quả?
3 p |
140 |
8
-
Bloomberg chuẩn bị cho các chiến lược Marketing lớn
5 p |
101 |
7
-
Xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
10 p |
26 |
5
-
Ba lựa chọn cho sự khởi đầu mới
4 p |
77 |
4
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)