intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SỰ ĐỔI MÀU CỦA NHỰA ACRYLIC DƯỚI TÁC DỤNG CỦA TRÀ, CÀ PHÊ VÀ LÀM SẠCH VỚI

Chia sẻ: Nguyễn Thắng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

165
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

SỰ ĐỔI MÀU CỦA NHỰA ACRYLIC DƯỚI TÁC DỤNG CỦA TRÀ, CÀ PHÊ VÀ LÀM SẠCH VỚI NHỮNG BIỆN PHÁP KHÁC NHAU TÓM TẮT Mở đầu: Nhựa acrylic là vật liệu thường được sử dụng để chế tạo răng giả và nền hàm, nhưng vật liệu này có xu hướng đổi màu trong quá trình tồn tại trong môi trường miệng. Mục tiêu của nghiên cứu: là so sánh sự đổi màu của nhựa acrylic khi ngâm trong trà và cà phê, sau khi làm sạch bằng năm phương pháp: (A) Ngâm trong thuốc rửa hàm giả; (B) Rửa bằng xà...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SỰ ĐỔI MÀU CỦA NHỰA ACRYLIC DƯỚI TÁC DỤNG CỦA TRÀ, CÀ PHÊ VÀ LÀM SẠCH VỚI

  1. SỰ ĐỔI MÀU CỦA NHỰA ACRYLIC DƯỚI TÁC DỤNG CỦA TRÀ, CÀ PHÊ VÀ LÀM SẠCH VỚI NHỮNG BIỆN PHÁP KHÁC NHAU TÓM TẮT Mở đầu: Nhựa acrylic là vật liệu thường được sử dụng để chế tạo răng giả và nền hàm, nhưng vật liệu này có xu hướng đổi màu trong quá trình tồn tại trong môi trường miệng. Mục tiêu của nghiên cứu: là so sánh sự đổi màu của nhựa acrylic khi ngâm trong trà và cà phê, sau khi làm sạch bằng năm phương pháp: (A) Ngâm trong thuốc rửa hàm giả; (B) Rửa bằng xà bông; (C) Rửa bằng bàn chải với nước; (D) Rửa bằng bàn chải với xà bông; (E) Rửa bằng bàn chải với kem đánh răng. Phương pháp: 26 thanh nhựa Acrylic trong suốt kích thước 50x 12x 2 mm, chia thành 5 nhóm: (O) nhóm chuẩn-1 thanh; các nhóm A; B; C; D và E mỗi nhóm 5 thanh. Sau khi ngâm trà và cà phê, các thanh nhựa được làm
  2. sạch theo từng nhóm và đánh giá sự đổi màu sau mỗi chu trình nhuộm bằng máy so màu chùm tia UV đơn (uv/visible single beam spectrophotometer). Kết quả: cho thấy có sự nhiễm màu của thanh nhựa acrylic khi tiếp xúc với dung dịch trà và cà phê; Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p
  3. toothbrush and water; (D) Cleaned with toothbrush and soap; (E) Cleaned with toothbrush and toothpaste. Method: Twenty six acrylic specimens (50x12x2 mm) were randomly assigned to five groups: (O) control group-1 specimen; 5 experimental groups A, B, C, D and E, 5 specimens for each group. Following exposure to coffee and tea, a total of 5 bars of acrylic resin of each group was cleaned according to a different method and the color stability evaluated after each dying cycle by uv/visible single beam spectrophotometer. The results showed that there was discoloration of acrylic resins exposed to coffee and tea solution; The discoloration levels among various groups were significantly different (p
  4. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhựa nha khoa là vật liệu thường được sử dụng để chế tạo răng giả và nền hàm, trong đó nhựa acrylic được sử dụng rộng rãi nhất. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh rằng nhựa nha khoa có xu hướng đổi màu trong quá trình tồn tại trong môi trường miệng. Sự đổi màu này bao gồm cả yếu tố nội tại và ngoại lai, kết quả của những thay đổi hoá học của vật liệu và sự ngấm của những chất màu có trong thực phẩm… Điều này ảnh hưởng đến vẻ thẩm mỹ của hàm giả và tâm lý của người mang hàm. Để kéo dài tuổi thọ của hàm giả, ngoài những qui định chặt chẽ về kỹ thuật thực hiện thì việc vệ sinh hàm giả cũng là một yếu tố cần thiết để tránh tích tụ vết dính trên bề mặt. Duy trì thói quen vệ sinh hàm giả tốt không chỉ là vấn đề liên quan đến thẩm mỹ mà còn đóng một vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa các bệnh viêm nhiễm trong miệng do hàm giả gây ra. Quá trình tích luỹ mảng bám, vết dính, vôi răng trên hàm giả cũng tương tự như ở răng thật. Để tránh sự đổi màu của hàm giả có thể sử dụng nhiều biện pháp cơ học và hóa học khác nhau. Chải răng với kem đánh răng là biện pháp vệ sinh răng miệng phổ biến và được thực hiện để làm sạch mảng bám và vết dính ngoại lai.
  5. Kem đánh răng có khả năng trong việc làm sạch theo cơ chế hóa học thông qua hệ thống mài mòn và chất tẩy rửa (Forward, 1991). Để đánh giá hiệu quả làm sạch vết dính trên răng giả và nền hàm, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu như sau: So sánh s ự đổi màu của nhựa acrylic khi ngâm trong trà và cà phê, sau khi làm sạch bằng năm phương pháp: Ngâm trong thuốc rửa hàm giả; Rửa bằng xà bông; Rửa bằng bàn chải với nước; Rửa bằng bàn chải với xà bông; Rửa bằng bàn chải với kem đánh răng VẬT LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Vật liệu nghiên cứu - Nhựa acrylic:sử dụng nhựa acrylic trong suốt, làm thành thanh hình chữ nhật có kích thước 50x12x2 mm. - Dung dịch màu: trà và cà phê . - Bàn chải: Oral-B Classic TwinPack; Kem đánh răng: P/S bảo vệ 2 lần. - Dung dịch xà bông: Sunlight; Dung dịch tẩy rửa: Efferdent. Mô thức nghiên cứu
  6. Nghiên cứu thực nghiệm trong labo (in vitro) theo phương pháp mù đơn, so sánh nhóm. Quá trình thực hiện Chuẩn bị thanh nhựa acrylic - - Làm mẫu sáp, vô khuôn. - Nhựa acrylic được sử dụng là nhựa nấu dưới dạng bột – lỏng, được trộn theo tỉ lệ thể tích 3 bộ: 1 lỏng, đến giai đoạn sợi dẻo thì ép nhựa vào khuôn. - Nấu nhựa để sôi trong 2 giờ, sau đó để nguội ở nhiệt độ phòng. - Đánh bóng và hoàn tất tạo 26 thanh nhựa có c ùng kích thước 50x12x2 mm. Tất cả các thanh nhựa đều trải qua các giai đoạn chế tạo như nhau. Mã hoá thanh nhựa Trừ một thanh nhựa được ngâm nước cất để làm nhóm chuẩn, 25 thanh nhựa còn lại được chia thành 5 nhóm, mã hóa là A,B,C,D,E, mỗi
  7. nhóm gồm 5 thanh nhựa được đánh số thứ tự từ 1 đến 5. Việc mã hóa do một nghiên cứu viên độc lập thực hiện. - Nhóm 0: nhóm chuẩn, gồm một thanh nhựa. - Nhóm A: ngâm trong dung dịch Efferdent, gồm 5 thanh nhựa. - Nhóm B: rửa bằng dung dịch xà bông và nước, gồm 5 thanh nhựa. - Nhóm C: rửa bằng bàn chải và nước, gồm 5 thanh nhựa. - Nhóm D: rửa bằng bàn chải với xà bông, gồm 5 thanh nhựa. - Nhóm E: rửa bằng bàn chải với kem đánh răng, gồm 5 thanh nhựa. Chuẩn bị dung dịch màu: - Trà: trà xanh Thái Nguyên 50g ngâm trong 500 ml nước ở nhiệt độ 100oC trong 5 phút, lọc bỏ lá trà, sau đó để nguội đến 50oC. - Cà phê: 50g ngâm trong 500 ml nước ở nhiệt độ 100oC trong 5 phút, lọc lấy nước sau đó để nguội đến 50oC. Để đồng nhất yếu tố màu, 25 thanh nhựa acrylic cùng được ngâm trong dung dịch trà và cà phê như nhau trong chu trình nhuộm. Chu trình nhuộm:
  8. Giai đoạn nhuộm: - 25 thanh nhựa acrylic đã được mã hoá, ngâm trong dung dịch trà trong 2 giờ. - Tiếp tục ngâm trong dung dịch cà phê trong 2 giờ nữa. Sau đó chuyển thanh nhựa qua giai đoạn làm sạch. Giai đoạn làm sạch: Dựa theo I. Eystein Ruyter, Rer Nat, Philos. Tất cả 25 thanh nhựa acrylic cùng chịu quá trình nhuộm màu bằng dung dịch trà và cà phê như nhau, chỉ khác nhau về quá trình làm sạch: - Nhóm A: các thanh nhựa được ngâm trong dung dịch Efferdent trong 15 phút, rồi rửa lại dưới dòng nước chảy nhẹ. Sau đó được thấm khô bằng giấy lụa. - Nhóm B: các thanh nhựa được ngâm trong dung dịch xà bông trong vòng 15 phút, sau đó rửa lại dưới dòng nước chảy nhẹ rồi thấm khô bằng giấy lụa.
  9. - Nhóm C: hai mặt của thanh nhựa được chải bằng bàn chải trong 2 phút dưới dòng nước chải nhẹ, lông bàn chải tạo một góc 90o so với bề mặt thanh nhựa. Sau đó được thấm khô bằng giấy lụa. - Nhóm D: hai mặt của thanh nhựa được chải bằng bàn chải thấm dung dịch xà bông trong 2 phút, lông bàn chải tạo một góc 90o so với bề mặt thanh nhựa và sau đó được rửa lại dưới dòng nước chải nhẹ, thấm khô bằng giấy lụa. - Nhóm E: hai mặt thanh nhựa được chải bằng bàn chải với một đoạn kem đánh răng như nhau trong 2 phút, phương pháp chải tương tự như đối với nhóm 3, sau đó rửa lại vòi nước chảy nhẹ, thấm khô bằng giấy lụa. Đánh giá sự đổi màu của nhựa acrylic - Đánh giá đổi màu nhựa do một nghiên cứu viên độc lập khác thực hiện. - Việc đánh giá được thực hiện sau mỗi chu trình nhuộm khác nhau, bằng cách sử dụng máy so màu chùm tia UV đơn (uv/visible single beam spectrophotometer) ở bước sóng 295 nm (theo các tác giả Sheen và cộng sự, 2001; D.Dyer, 2000).
  10. - Theo nguyên lý: Chùm tia tới (Po) Chùm tia ra (P) Thanh nhựa acrylic Độ hấp thu quang học A=log (Io/I) càng cao thì khả năng xuyên thấu của tia càng giảm, độ sậm màu của thanh nhựa càng lớn. Trên cơ sở đó ta xác định được mức đổi màu của các thanh nhựa. Xử lý thống kê Các số liệu đo được sau mỗi chu trình nhuộm được xử lý thống kê: Mann – whitney: so sánh các thanh nhựa trong cùng nhóm, Kruskal Wallis: so sánh giữa các nhóm.
  11. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đánh giá khả năng làm sạch chất màu bám dính trên nhựa acrylic dưới những biện pháp chải rửa giống nhau và khác nhau So sánh khả năng làm sạch chất màu bám dính trên những thanh nhựa acylic trong cùng nhóm có biện pháp chải rửa giống nhau Sử dụng phép kiểm ANOVA so sánh sự khác biệt về độ hấp thu quang học (ABS), thực chất là đo màu của các thanh nhựa trong cùng nhóm có biện pháp chải rửa giống nhau (gồm các nhóm: A: ngâm trong dung dịch Efferdent, B: rửa bằng dung dịch xà phòng và nước, C: rửa bằng bàn chải và nước, D: rửa bằng bàn chải với xà phòng, E: rửa bằng bàn chải với kem đánh răng), mỗi nhó m gồm 5 thanh nhựa. Kết quả cho thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa 5 thanh nhựa trong cùng một nhóm (ở cả 5 nhóm A, B, C, D và E) lúc khởi đầu nghiên cứu cũng như tại bất kỳ thời điểm đo đạc nào trong quá trình nghiên cứu. Điều này chứng tỏ khi áp dụng cùng biện pháp chải rửa, khả năng làm sạch chất màu bám trên các thanh nhựa acrylic không khác nhau tại cùng chu trình nhuộm màu và chải rửa (biểu đồ 1).
  12. Mặt khác, áp dụng phép kiểm định phi tham số Kruskal Wallis so sánh sự khác biệt màu của các thanh nhựa trong cùng nhóm chải rửa tại các chu trình ngâm và chải rửa khác nhau cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05). Có nghĩa là càng tiếp xúc nhiều với các chất màu, mặc dù đã có áp dụng các biện pháp chải rửa, có thể chỉ thuần túy hóa học như ngâm thuốc rửa hàm Efferdent, rửa với xà phòng; hay thuần túy cơ học (rửa với bàn chải và nước); hoặc kết hợp cả cơ học và hóa học (rửa bằng bàn chải với xà phòng, rửa bằng bàn chải với kem đánh răng) thì nhựa acrylic vẫn sậm màu dần đáng kể dưới sự phát hiện của máy đo. Tuy nhiên, sự khác biệt màu này vẫn chưa phát hiện được bằng mắt thường cho đến chu kỳ ngâm cuối cùng (biểu đồ 1 và 2). Biểu đồ 1: So sánh độ hấp thu quang học giữa các thanh nhựa trong cùng nhóm tại chu kỳ ngâm thứ nhất.
  13. Biểu đồ 2: So sánh độ hấp thu quang học giữa các thanh nhựa trong cùng nhóm tại chu kỳ ngâm cuối cùng (chu kỳ 8). Trong khi nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hà và Ngô Thị Quỳnh Lan (2003) cho thấy các răng giả đổi màu có ý nghĩa thống kê và mắt thường nhận thấy được ngay sau hai ngày ngâm cary và sau đó rửa bằng xà phòng và nước. Sự sậm màu này ngày càng tăng theo chu trình ngâm và sau chu trình ngâm thứ 10 thì màu răng có màu vàng sậm hơn hẳn mà ai cũng có thể nhận thấy khi so với màu răng nhóm chuẩn. Điều này có thể giải thích vì nhựa acrylic có khả năng thấm hút một lượng nhỏ nước khi đặt trong một môi trường lỏng. Do sự phân cực của các phân tử polymethyl methacrylate nên sự hấp thu nước của nhựa xảy ra dễ dàng qua cơ chế khuyếch tán. Nước thẩm thấu qua nhựa và trú ngụ giữa các chuỗi polymer gây ra hai hiệu ứng quan trọng, đầu tiên, gây ra sự nở nhẹ và sau đó các phân tử nước dính và các mắt xích polymer, dẫn theo sự thấm của
  14. chất màu. Khả năng ngấm nước của nhựa khoảng 0,69 mg/cm2, nước làm tăng 1% trọng lượng của nhựa và làm nở rộng 0,23% đường viền. Hệ số khuyếch tán của nước ở 37oC đối với nhựa nấu là 1,08x10-12 m2/s và của nhựa tự cứng là 2,43x10-12m2/s. Do đó sự hấp thu nước là một yếu tố làm tăng khả năng nhiễm màu của nhựa khi trong dung dịch lỏng có các chất sinh màu như trà, cà phê… So sánh khả năng làm sạch chất màu bám dính trên những thanh nhựa Acylic giữa các nhóm có biện pháp chải rửa khác nhau Có thể chia 5 biện pháp chải rửa nhựa Acrylic trong nghiên cứu này thành các loại như sau: - Loại đơn thuần cơ học: nhóm rửa với bàn chải Oral-B Classic Twin Pack và nước. - Loại đơn thuần hóa học: nhóm ngâm thuốc rửa hàm Efferdent, nhóm ngâm trong dung dịch xà phòng Sunlight. - Loại kết hợp cả cơ học và hóa học: nhóm rửa bằng bàn chải với xà phòng Sunlight , nhóm rửa bằng bàn chải với kem đánh răng P/S (bàn chải Oral-B Classic Twin Pack).
  15. Sử dụng phép kiểm định phi tham số Kruskal Wallis để so sánh mức độ nhiễm màu sau khi được làm sạch của các thanh nhựa của 5 nhóm khác nhau sau 8 chu trình màu cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,00) giữa các nhóm. Nhóm B (ngâm xà phòng 15 phút) cho kết quả làm sạch tốt nhất, các nhóm tiếp theo được xếp theo hiệu quả làm sạch giảm dần là: nhóm D (chải bằng bàn chải và xà phòng trong 2 phút); nhóm A (ngâm thuốc Efferdent trong 15 phút); nhóm E (chải bằng bàn chải và kem đánh răng trong 2 phút); cuối cùng là nhóm C (chải bằng bàn chải với nước trong 2 phút) (bảng 1, biểu đồ 3). Khi so sánh hiệu quả của các biện pháp hóa học, nghiên cứu này cho kết quả nhóm B với phương pháp ngâm trong dung dịch xà phòng Sunlight có hiệu quả hơn so với nhóm A ngâm dung dịch Efferdent trong việc làm sạch vết dính trà và cà phê trên thanh nhựa acrylic. Với cùng một thời gian ngâm như nhau, xà phòng có thành phần chất tẩy rửa cao chiếm 14% nên hiệu quả tẩy rửa mạnh. Efferdent với thành phần chủ yếu là sodium perporate, khi hòa tan trong nước sodium sẽ phân hủy thành dung dịch peroxide kiềm tính, dung dịch này nhanh chóng thải ra oxy, đây là cơ chế loại bỏ các chất màu lắng đọng trên hàm giả. Mặc dù khả năng làm sạch vết dính trà và cà phê của Efferdent thấp hơn xà phòng Sunlight nhưng đây là một loại viên thuốc ngâm làm sạch hàm giả rất phổ biến và đã được công
  16. nhận ở các nước phát triển, có mùi thơm dễ chịu, giúp cho bệnh nhân có cảm giác an tâm và thoải mái. Bảng 1: Độ hấp thu quang học trung b ình của nhựa Acrylic thuộc 5 nhóm sau 8 chu trình nhuộm màu và làm sạch A B C D E P (ngâm (ngâm (bàn (bàn (bàn Efferdent) xà phòng) chải và chải và xà chải và phòng) nước) kem đánh R) Độ 1,576 1,357 1,587 1,491 1,584 0,002 hấp thu quang học Thứ tự màu từ 3 1 5 2 4 sáng nhất đến sậm
  17. nhất Biểu đồ 3: Độ hấp thu quang học trung b ình của nhựa acrylic thuộc 5 nhóm sau 8 chu trình nhuộm và làm sạch. Giữa các biện pháp làm sạch kết hợp hóa học và cơ học, nhóm D chải rửa với xà phòng Sunlight và nhóm E được chải rửa với kem đánh răng P/S, trong đó kem đánh răng P/S có thành phần chủ yếu là các chất làm sạch, đánh bóng răng: Calcium Carbonate, Silica, Trisodium Phosphate và chất tẩy rửa tổng hợp Sodium Lauryl Sulphate, với tác dụng giảm sự thành lập mảng bám, kết tủa các chất lắng đọng và giảm sức căng bề mặt. Nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy với cùng thời gian chải rửa và tác động cơ học của bàn chải giống nhau, chỉ khác nhau ở chất hóa học sử dụng, nhóm D đạt hiệu quả cao hơn trong việc làm sạch chất màu so với nhóm E. Do xà phòng, như
  18. đã được đề cập ở trên, có khả năng tẩy màu cao. Tuy nhiên nhóm D (bàn chải và xà phòng) vẫn cho hiệu quả làm sạch thấp hơn so với nhóm B (ngâm xà phòng) có thể do thời gian ngâm xà phòng dài hơn nhiều (15 phút) so với chải rửa bàn chải với xà phòng (2 phút). Khi xét hiệu quả làm sạch của phương pháp cơ học, nghĩa là chỉ chải với nước, kết quả của nghiên cứu cho thấy hiệu quả làm sạch vết dính trà và cà phê trên thanh nhựa acrylic của nhóm C thấp nhất. Điều này chứng tỏ nếu chỉ áp dụng đơn thuần biện pháp cơ học thì hiệu quả làm sạch các chất màu rất thấp. Từ những kết quả trên cho thấy, các chất làm sạch hóa học đóng một vai trò quan trọng trong việc loại bỏ vết dính trên nhựa acrylic. Dills nhấn mạnh vai trò của các chất ngâm hàm giả, sử dụng đơn độc hay kết hợp với chải rửa thông thường, tác giả này cho rằng mức độ mảng bám vi khuẩn sau khi ngâm sẽ thấp hơn sau khi chải rửa bằng bàn chải.. Mặt hạn chế của các dung dịch ngâm hàm giả có chứa sodium hypochloride vì chất này gây bào mòn kim loại, được xem là không thích hợp cho hàm giả có khung kim loại làm từ nickel choromium, cobalt chromium, những hợp kim này chuyển sang màu đen sậm hơn và không thể sửa chữa để mang lại màu kim loại như ban đầu. Hexametaphosphate, sodium silicate có thể được sử dụng thêm vào để làm giảm mức độ bào mòn kim loại của hypochloride.
  19. Trong đời sống hằng ngày việc tiếp xúc với thức ăn hay n ước uống có chất màu sẽ là điều không thể tránh khỏi. Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến những người có phục hình nhựa acrylic vì theo thời gian, quá tr ình tiếp xúc chất màu sẽ làm tăng mức độ nhiễm màu c ủa nhựa nền hàm và răng giả. Do đó, việc lựa chọn một phương pháp làm s ạch thích hợp giữ vai trò quan trọng. Tuy nhiên, chọ n biện pháp làm sạch nào thì tùy thuộc vào thói quen, trình độ văn hóa, kiến thức y học, sự quan tâm đến thẩm mỹ và tính cách của mỗi bệnh nhân. Chải rửa hàm giả bằng bàn chải, kem đánh răng, xà phòng hay ngâm trong các chất ngâm làm sạch là những biện pháp đơn giản, dễ thực hiện, một mặt nhằm duy tr ì sức khoẻ răng miệng cho bệnh nhân, mặt khác nâng cao tính thẩm mỹ và tuổi thọ của hàm giả. KẾT LUẬN Nghiên cứu “Sự đổi màu của nhựa acrylic dưới tác dụng trà, cà phê và làm sạch với những biện pháp khác nhau” được thực hiện trên 25 thanh nhựa acrylic có kích thước 50x12x2 mm, chia làm 5 nhóm, cùng trải qua các chu trình ngâm trà và cà phê như nhau, sau đó làm sạch với những biện pháp khác nhau. Sau mỗi chu trình làm sạch, các thanh nhựa sẽ được đo độ hấp
  20. thu quang học để đánh giá sự đổi màu. Sau 8 chu trình ngâm màu và làm sạch, nghiên cứu cho phép đưa ra những kết luận như sau: - - Có sự nhiễm màu của thanh nhựa acrylic khi tiếp xúc với dung dịch trà và cà phê. - - Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2