LUẬN VĂN:
Sử dụng đất nông nghiệp để phát triển
nông sản hàng hóa ở tỉnh Bạc Liêu
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quan hệ kinh tế khu vực và quốc tế, Việt Nam hiện có những lợi thế
rất lớn về một số hàng hóa, trong đó có hàng nông sản. Đây là mặt hàng luôn chiếm
một tỷ trọng cao trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Để đẩy mạnh việc sản xuất mặt hàng này nhằm tranh thủ ngày càng tốt hơn
lợi thế của nước ta so với một số nước trong khu vực và trên thế giới thì việc sử
dụng có hiệu quả đất nông nghiệp là một yêu cầu cấp thiết của thực tiễn.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn luôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước ta
quan tâm hàng đầu. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đưa ra chủ trương đổi mới
quản lý kinh tế nông nghiệp và Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khóa VI)
khẳng định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ và nền kinh tế hàng hóa được
thừa nhận. Chính sách đất đai kể từ khi đổi mới đến nay do đó luôn thể hiện sự
tích cực điều chỉnh để phù hợp với tình hình mới, khuyến khích phát triển nông
sản hàng hóa, hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã nêu bật
chủ đề: Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, đất đai với tư cách là “tài sản
quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý” như Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định, đang được sử
dụng ngày một hiệu quả hơn; đem lại những thành công nhất định trong việc sản
xuất nông sản hàng hóa nói riêng và việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Việc sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu cũng nằm trong
xu thế chung của cả nước. Là một tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, thuộc vùng
đất trẻ, được hình thành chủ yếu do sự bồi lắng phù sa ở các cửa biển tạo nên và
với 56 km bờ biển phía đông và đông nam, Bạc Liêu có điều kiện hết sức thuận
lợi để phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, đặc biệt là lương thực và thủy sản.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, động lực phát triển kinh tế gia tăng
mạnh mẽ; đi liền với nó là những chính sách ưu đãi đối với nông nghiệp của
Đảng và Nhà nước đã đưa đến kết quả ngày càng nhiều diện tích đất được khai
phá và sử dụng. Ngày nay trên địa bàn tỉnh chỉ còn một diện tích rất nhỏ thuộc
nhóm đất chưa sử dụng. Phần lớn diện tích đất được khai phá nhằm mục đích
phát triển nông sản hàng hóa; trong đó thủy sản là chủ yếu.
Tuy nhiên, việc sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Bạc Liêu vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng vốn có của nó. Việc sử dụng đất nông nghiệp để phát triển
nông sản hàng hóa nhìn một cách tổng quát vẫn còn thiếu đồng bộ, mang tính tự
phát, đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết như: nâng cao lợi ích của người sử
dụng đất để họ trở thành lực lượng sản xuất đủ mạnh có thể xác lập một nền sản
xuất hàng hóa; việc xử lý mối quan hệ giữa tích tụ ruộng đất - là cơ sở để xây
dựng một nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn với việc đảm bảo được quyền
lợi chính đáng cả về mặt kinh tế và xã hội cho một bộ phận người dân gắn cuộc
sống của họ với mảnh đất ấy; vấn đề thực thi chính sách pháp luật về đất đai…
Việc giải quyết một cách hợp lý, hợp quy luật những vấn đề lý luận và
thực tiễn nêu trên sẽ làm cho việc sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
ngày càng hiệu quả hơn. Từ đó tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng một nền
nông nghiệp hàng hóa, đem lại hiệu quả kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo
cho người dân; trước hết là những người nông dân. Với mong muốn đó, tôi chọn
đề tài: “Sử dụng đất nông nghiệp để phát triển nông sản hàng hóa ở tỉnh Bạc
Liêu” để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Là “tài sản quốc gia” và là một nguồn lực hết sức quan trọng để phát triển
kinh tế - xã hội. Đất đai luôn là vấn đề mang tính thời sự. Việc khai thác và sử
dụng nguồn lực này là một trong những nội dung quan trọng của chiến lược
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và đã có nhiều công trình
nghiên cứu ở nhiều cấp độ và nhiều góc độ khác nhau như:
Công trình “Kinh tế tài nguyên đất” của Ngô Đức Cát, Nxb Nông nghiệp,
Hà Nội, 2000; “Một số vấn đề xã hội và nhân văn trong sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam”, của Hà Huy Thành, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001; “Sản xuất và đời sống của các hộ nông dân không có
đất hoặc thiếu đất ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thực trạng và giải pháp” của
tác giả Nguyễn Đình Hương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
Ở góc độ quản lý kinh tế và kinh tế học có các công trình như: Luận án tiến
sĩ: “Các giải pháp kinh tế chủ yếu để khai thác sử dụng hợp lý đất đồi núi trọc ở
các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam”, năm 1996, của Dương Ngọc
Thí; Luận án tiến sĩ “Những giải pháp kinh tế tổng hợp nhằm khai thác và sử dụng
có hiệu quả vùng đất bãi bồi, mặt nước hoang hóa vùng ven biển Thái Bình”, bảo
vệ tại Viện kinh tế học, thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia,
năm 2002, của Phạm Ngọc Quân.
Ở góc độ Kinh tế chính trị có các công trình đã được bảo vệ tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh như: Luận văn thạc sĩ: “Hệ thống các bảng địa
tô chênh lệch của Mác - Ăngghen và một số vấn đề nông nghiệp Quảng Nam -
Đà Nẵng”, năm 1995, của Nguyễn Văn Mân; Luận văn thạc sĩ “Khai thác nguồn
lực đất đai để phát triển nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai”, năm 2000, của Bùi Thị
Thuận; Luận văn thạc sĩ: “Khai thác tiềm năng đất đai nông nghiệp để phát triển
kinh tế hàng hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ”, năm 2000, của Nguyễn Tiến Khôi;
Luận văn thạc sĩ: “Giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân để phát triển kinh
tế hàng hóa ở Quảng Bình”, năm 2002, của Lê Minh Tuynh và Luận văn thạc sĩ:
“Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Sơn La hiện nay”, năm 2004, của Hà Công
Nghĩa.
Bên cạnh đó, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí trong nước. Về
cơ bản, các công trình nói trên đã đi vào phân tích, đánh giá thực trạng và đề ra
những giải pháp để khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai nhằm đẩy
mạnh sản xuất nông nghiệp, phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông thôn nhưng chủ yếu là ở tầm quốc gia và vùng kinh tế hoặc ở các địa
phương khác. Ở Bạc Liêu chưa có công trình khoa học nào dưới góc độ Kinh tế
chính trị nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở phân tích vai trò của đất nông nghiệp
đối với phát triển nông sản hàng hóa; các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng
đất nông nghiệp cũng như thực trạng của vấn đề này ở địa bàn tỉnh Bạc Liêu, để
đề ra những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm sử dụng đất nông nghiệp
trên địa bàn tỉnh ngày một hiệu quả hơn, góp phần đẩy mạnh sản xuất nông sản
hàng hóa để phát triển kinh tế - xã hội.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ về mặt lý luận vai trò của đất nông nghiệp - là tư liệu sản xuất cơ
bản, là nguồn lực quan trọng để phát triển nông sản hàng hóa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp ở Bạc Liêu trong
giai đoạn thực hiện kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2001 - 2005) theo phê duyệt
của Chính phủ tại Quyết định số 839/QĐ - TTg ngày 24/9/2002, đồng thời làm
rõ những nhân tố tác động đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã được nghiên cứu, luận văn đề xuất một
số phương hướng và giải pháp để sử dụng có hiệu quả đất nông nghiệp trong
tiến trình đẩy mạnh phát triển nông sản hàng hóa trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Về nội dung
Đề tài được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu đất nông nghiệp với tư
cách là một tư liệu sản xuất đặt biệt để phát triển nông sản hàng hóa.
4.2. Về thời gian nghiên cứu
Việc khảo sát hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Bạc Liêu chủ yếu
tập trung vào giai đoạn từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là hệ thống những quan điểm cơ bản
của kinh tế chính trị học Mác - Lênin và quan điểm của Đảng ta về những vấn
đề kinh tế.
- Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị học
Mác - Lênin như: phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp logic thống
nhất với lịch sử và các phương pháp nghiên cứu khoa học chung như mô hình
hóa các quá trình kinh tế, quan sát, thống kê, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và
quy nạp, phương pháp hệ thống để giải quyết những vấn đề thuộc nội dung của
luận văn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của đất nông nghiệp.
- Phân tích, làm rõ thực trạng sử dụng đất nông nghiệp ở Bạc Liêu từ năm
2001 đến nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp phục vụ phát triển nông sản hàng hóa trên địa bàn tỉnh
Bạc Liêu.
- Là một công trình có sự gắn kết giữa phân tích lý luận với tổng kết thực
tiễn địa phương, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc hoạch
định các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bạc Liêu trong
những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ LÝ LUẬN ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Đất nông nghiệp và vai trò của nó đối với phát triển nông sản
hàng hóa
1.1.1. Đặc điểm cơ bản của đất nông nghiệp
- Khái niệm đất nông nghiệp:
Đất đai là một nguồn lực quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, là một trong những thành phần chủ yếu của môi trường sống, đồng thời
là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh quốc phòng... Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX
của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô
cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn
của đất nước” [7, tr.61].
Khái niệm lãnh thổ của một quốc gia không thể tách rời với đất đai của
quốc gia đó. Các cuộc chiến tranh giành lãnh thổ trong lịch sử nhân loại thực
chất là chiến tranh giành đất đai và các nguồn tài nguyên gắn với đất. Đất đai và
con người là những nhân tố không thể thiếu được của một đất nước, một lãnh
địa mà bất cứ một nhà nước cầm quyền nào cũng ra sức giữ và củng cố bằng
mọi giá, dù có phải đổ nhiều của cải và xương máu. Do vị thế kinh tế quan trọng
của đất đai đối với đời sống con người mà đất đai có một vị trí hết sức đặc biệt
trong đời sống văn hóa, chính trị và cả đời sống tâm linh (nhất là ở các nước
phương Đông). Các quan hệ về đất đai giữa các quốc gia, giữa các tộc người với
nhau thường trở thành các vấn đề chính trị về chủ quyền, lãnh thổ; đôi khi bị đẩy
lên thành những điểm nóng trong các giai đoạn lịch sử, làm thay đổi vận mệnh
của nhiều quốc gia, dân tộc.
Trong lịch sử, các quan hệ về đất đai chuyển dần từ quan hệ khai thác,
chinh phục tự nhiên sang các quan hệ kinh tế - xã hội về sở hữu và sử dụng. Vị
thế quan trọng của đất đai làm cho quan hệ đất đai trở thành quan hệ phản ánh lợi ích giai cấp một cách rõ nét.
Cơ sở để hình thành nên những quan hệ đất đai như trên xuất phát từ tầm
quan trọng lớn lao của đất đai đối với đời sống của con người, như C.Mác đã
khẳng định: “...đất là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi sự sản xuất và
mọi hoạt động của loài người” [20, tr.473]. Trình độ khai thác và sử dụng đất đai
để phục vụ cho cuộc sống phản ánh một khía cạnh quan trọng của trình độ chinh
phục thiên nhiên của con người, thông qua đó cũng phản ánh trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Trải qua quá trình
ấy, đất đai được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, và trước hết là để sản
xuất nông nghiệp. Có thể nói đây là mục đích cơ bản nhất và được hình thành
sớm nhất trong đời sống của loài người. Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều
có nền sản xuất xã hội với điểm xuất phát là sản xuất nông nghiệp, trong đó có
Việt Nam - vốn là một quốc gia có nền văn minh lúa nước đậm nét với hoạt
động sản xuất nông nghiệp truyền thống chủ yếu là canh tác lúa nước. Cũng do
đặc điểm này mà theo quan niệm thông thường, sản xuất nông nghiệp ở nước ta
thường được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là việc trồng lúa hay trồng cây hàng năm...
Đất nông nghiệp, vì vậy chỉ hiểu được đơn thuần là ruộng đất, nương rẫy hoặc đất
vườn. Tuy nhiên ở góc độ tiếp cận chính thống về mặt quản lý nhà nước và các
chương trình phát triển kinh tế, nông nghiệp thường được hiểu theo nghĩa rộng,
khái niệm đất nông nghiệp cũng vì thế mà được mở rộng hơn về thành phần.
Điều 42 Luật đất đai năm 1993 của Việt Nam quy định: “Đất nông nghiệp
là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng
trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp”
[18, tr.30]. Trên cơ sở khái niệm đó các văn bản pháp luật ngày càng đi vào xác
định một cách cụ thể hơn các hình thức đất đai thuộc nội hàm đất nông nghiệp.
Theo quy định tại điều 13 Luật Đất đai năm 2003, nhóm đất nông nghiệp bao
gồm các loại đất:
- Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng
vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác;
- Đất trồng cây lâu năm;
- Đất rừng sản xuất;
- Đất rừng phòng hộ;
- Đất rừng đặc dụng;
- Đất nuôi trồng thủy sản;
- Đất làm muối;
- Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ [19, tr.20].
Như vậy, đất nông nghiệp là đất được sử dụng vào mục đích sản xuất
nông nghiệp. Nông nghiệp ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các ngành
nông, lâm, ngư nghiệp và diêm nghiệp. Nói cách khác đây là nền nông nghiệp
toàn diện với trình độ sản xuất ngày càng được nâng lên theo sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Nó là kết quả của một quá trình mang tính lịch sử.
Con người trong quá trình tiến hóa của mình đã biết tạo ra lương thực,
thực phẩm thông qua việc trồng trọt, chăn nuôi trên những thửa đất thích hợp,
biết khai thác rừng để lấy lâm sản phục vụ cuộc sống... Trình độ phát triển của
nhân loại ngày càng cao thì tính chất của các hoạt động ấy cũng biến đổi theo và
mang tính chủ động hơn, con người không chỉ khai thác mà còn biết tác động trở
lại tự nhiên nhằm tái tạo tự nhiên, không chỉ sử dụng đất trồng trọt sẵn có mà
còn mở rộng khai hoang để tăng diện tích; trồng thêm đồng cỏ để chăn nuôi;
trồng rừng để tái tạo nguồn động thực vật; khai thác sử dụng mặt nước tự nhiên
để nuôi trồng thủy sản. Đất nông nghiệp là đối tượng của sự tác động đó và ngày
càng được khai thác một cách hiệu quả hơn. Trong nông nghiệp, đất đai là tư
liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò là môi trường sinh trưởng và phát triển không
thể thiếu được của cây trồng và vật nuôi. Đất đai nông nghiệp rất đa dạng về
chủng loại và chất lượng, tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên của từng vùng. Chất
lượng của đất nông nghiệp là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất của
ngành nông nghiệp. Theo C.Mác ngoài các yếu tố khí hậu và các yếu tố khác thì
độ phì nhiêu tự nhiên của đất nông nghiệp được quyết định bởi cấu thành hóa
học của lớp đất trên mặt hay dung lượng các chất dinh dưỡng cần thiết cho thực
vật, ông cho rằng: “Mặc dù tính chất phì nhiêu ấy là một thuộc tính khách quan của
đất, nhưng về mặt kinh tế thì bao giờ nó cũng bao hàm một mối quan hệ nhất định,
mối quan hệ với trình độ phát triển nhất định của hóa học và của cơ khí trong nông
nghiệp và vì vậy mà nó thay đổi theo trình độ phát triển ấy” [20, tr.296].
Luận điểm này của Mác cho thấy đất nông nghiệp muốn trở thành một tác
nhân kinh tế thì nó phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa những đặc tính tự nhiên và
hoạt động có mục đích của con người.
- Đặc điểm cơ bản của đất nông nghiệp:
Thứ nhất, đất nông nghiệp là sản phẩm của tự nhiên kết tinh sức lao động
của con người.
Là một dạng tài nguyên thiên nhiên, đất nông nghiệp cũng như đất đai nói
chung được hình thành do quá trình phong hóa các loại đá dưới sự tác động của
các yếu tố tự nhiên như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, sinh vật,… phổ biến là quá
trình phong hóa hóa học, quá trình phong hóa vật lý chỉ diễn ra ở những vùng
khô hạn kéo dài. Ở Việt Nam, điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa kết hợp
với địa hình có mạng lưới sông suối dày đặc chia cắt đã thúc đẩy quá trình
phong hóa hóa học diễn ra mạnh mẽ. Nhìn chung các loại đá gốc tham gia quá
trình phong hóa ở nước ta có độ tuổi khác nhau, thuộc cả nguyên đại Cổ sinh (kỷ
đệ nhất) và Trung sinh (kỷ đệ nhị). Do đó sản phẩm phong hóa của chúng tức là
đất đai cũng có sự khác nhau về tính chất và cơ bản đuợc hình thành trong
nguyên đại Tân sinh (kỷ đệ tam và đệ tứ). Ở phần lãnh thổ phía Bắc các đá tuổi
Tiền Cambri phân bố dọc sông Hồng và các đá tuổi từ Cambri đến hết nguyên
đại Trung sinh, tức là cách đây từ 570 triệu năm đến khoảng 65 triệu năm hầu
như phổ biến. Ở Trung Bộ tồn tại các đá thuộc nguyên đại Cổ sinh và Trung sinh
là chủ yếu. Về phía Nam, khối nhô Kon Tum tồn tại các đá tuổi Tiền Cambri. Ở
khu vực này, đầu kỷ Đệ Tứ (cách đây khoảng 2,5 triệu năm) đã có sự phun trào
bazan rộng khắp để hình thành những vùng đất đỏ phì nhiêu. Khi kết thúc quá
trình phong hóa đá, đất đai được hình thành tạo cơ sở cho sinh vật phát triển.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài với nhiều vòng tuần hoàn, thế giới sinh vật lại
làm cho đất đai phong phú thêm bởi nguồn chất hữu cơ được tạo ra trong quá
trình sinh trưởng, phát triển và phân hủy của động thực vật. Dần dần đất đai trở
nên màu mỡ và có cấu trúc phức tạp hơn so với trước, trở thành môi trường sinh
sống ngày càng phù hợp đối với sinh vật và con người trong quá trình tiến hóa.
Tuy nhiên, lực lượng tự nhiên dù có chứa đựng khả năng phục vụ cuộc
sống tốt đến đâu đi nữa cũng chỉ phát huy hiệu quả khi có sự tác động của hoạt
động có mục đích của con người. Tác động lâu dài của con người biểu hiện dưới
hàng loạt các hoạt động sản xuất đã biến hệ thống tự nhiên thuần túy thành một
hệ thống tự nhiên - kỹ thuật. Đất đai được sử dụng vào mục đích phát triển nông
nghiệp, ngoài những đặc tính tự nhiên của nó thuận lợi cho việc canh tác thì nhất
thiết phải có hoạt động khai khẩn của con người để biến những mảnh đất hoang
thành đất trồng trọt. Quá trình khai khẩn có thể diễn ra ở các mức độ thuận lợi
hay khó khăn khác nhau tùy theo các điều kiện tự nhiên của khu vực đó quy
định nhưng đều có sự kết tinh lao động của con người. Vì vậy C.Mác khẳng
định rằng: “Tuy có những thuộc tính như nhau nhưng một đám đất được canh
tác có giá trị hơn là một đám đất bỏ hoang” [20, tr.248].
Trong giai đoạn tiền kỹ thuật của xã hội loài người, sự chinh phục tự
nhiên không phải dễ dàng. Nếu trong giai đoạn hiện nay với tầm hiểu biết sâu
rộng về thế giới tự nhiên, với sự hỗ trợ của nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại,
con người vẫn rất vất vả khi đối mặt với những thách thức của thiên nhiên, thì
trước đây bám trụ được với thiên nhiên để sinh tồn còn khó khăn gấp bội. Điều
đó cho thấy xã hội loài người phát triển cho đến ngày nay là kết quả của rất
nhiều công sức đổ vào công cuộc chinh phục tự nhiên mà điển hình là sức lao
động kết tinh vào đất đai để nó trở thành đất nông nghiệp tạo ra lương thực thực
phẩm nuôi sống con người.
Hơn nữa, đất đai của một đất nước, một dân tộc phải trải qua các cuộc
chiến chống ngoại xâm còn chứa đựng cả xương máu của nhiều thế hệ. Các cuộc
thám hiểm tìm ra những vùng đất mới cũng đều phải trả một giá rất đắt bằng cả
tiền của, mồ hôi và sinh mạng con người. Như vậy đất đai không chỉ đơn thuần
là sản phẩm của tự nhiên, mang những tính chất tự nhiên mà đất đai, theo đúng
nghĩa của nó, tức là có thể phục vụ được cho cuộc sống của con người, còn in đậm
những dấu ấn của con người trong suốt chiều dài lịch sử khai thác và sử dụng.
Ở Việt Nam hiện nay, những hoạt động mở rộng diện tích đất nông nghiệp
thông qua các chương trình khai hoang, phục hóa đi đôi với cải tạo đất đai, thực
hiện thâm canh ruộng đất nhằm nâng cao năng lực sản xuất của đất nông nghiệp
tiếp tục phản ánh sự kết tinh lao động của con người vào đất đai nhưng với hàm
lượng ngày càng cao theo trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật. Nếu chỉ là
sản phẩm tự nhiên thuần túy, thì đất đai không có giá trị. C.Mác khẳng định:
“Thác nước, cũng như đất đai nói chung, cũng như mọi lực lượng tự nhiên,
không có giá trị nào cả, vì không có một lao động nào được vật hóa ở trong nó;
do đó, nó cũng không có giá cả” [20, tr.290]. Ông cho rằng cái giá cả mà chủ đất
sẽ thu được khi bán thác nước chẳng qua chỉ là địa tô đã tư bản hóa: “… không
phải bản thân thác nước có giá trị, và giá cả của nó chẳng qua chỉ là biểu hiện
đơn thuần của số lợi nhuận siêu ngạch bị chiếm đoạt và được tính toán theo kiểu
tư bản chủ nghĩa” [20, tr.291].
Đất nông nghiệp không giống với những lực lượng tự nhiên khác ở chỗ nó
có sự kết tinh sức lao động của con người, do đó đất nông nghiệp có giá trị. Giá
đất về thực chất chính là địa tô do đất đai mang lại trong một số năm nhất định.
Vì vậy, đất đai là một dạng hàng hóa đặc biệt - hàng hóa về quyền sử dụng đất.
Cũng chính vì có sự kết tinh sức lao động của nhiều thế hệ mà đất nông
nghiệp có chủ sở hữu. Quyền sở hữu ruộng đất bao gồm hai nội dung: quyền
chiếm hữu và quyền sử dụng. Hai quyền này có thể cùng tồn tại trong một chủ
thể sở hữu. Tuy nhiên khi nền kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định,
hai quyền này có thể tách rời nhau.
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu. Như vậy về mặt chiếm hữu, đất đai thuộc sở hữu của toàn dân vì đất đai là
tài sản của cả dân tộc, để có được tài sản này đã biết bao thế hệ người Việt Nam
phải đổ mồ hôi và xương máu để cải tạo và gìn giữ. Việc tư hữu hoá đất đai sẽ
cản trở những chương trình, mục tiêu quy hoạch lớn phục vụ cho quốc kế dân
sinh và dẫn đến phân hoá giai cấp. Do đó việc không chấp nhận chế độ tư hữu
đất đai chính là xuất phát từ lợi ích chung của toàn dân tộc. Tuy nhiên để khuyến
khích việc đầu tư thâm canh ruộng đất, nâng cao năng suất nông nghiệp, quyền
sử dụng được trao cho các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế.
Điều 5 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Nhà nước trao quyền sử dụng
đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định” [19, tr.13].
Việc giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cùng với việc mở rộng các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp và góp vốn bằng
giá trị quyền sử dụng đất để sản xuất kinh doanh đã phát huy tác dụng to lớn
trong việc khuyến khích các chủ thể sử dụng đất nông nghiệp tập trung đầu tư
vào đất đai, bảo vệ, khai thác và sử dụng đất một cách hợp lý, có hiệu quả. Nói
cách khác, sự kết tinh sức lao động vào đất đai nông nghiệp ngày càng tăng dẫn
đến việc tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội. Vấn đề này có một ý nghĩa
đặc biệt trong việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa lớn ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, đất nông nghiệp có vị trí cố định và phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên của từng vùng.
Đất nông nghiệp cũng như đất đai nói chung cấu thành nên bề mặt của trái
đất, chúng có vị trí cố định, không thể di chuyển được theo ý muốn của con
người. Con người muốn sử dụng đất sản xuất lương thực, thực phẩm phục vụ
cho cuộc sống thì phải định cư tại những vùng đất thuận lợi cho việc phát triển
nông nghiệp, có nghĩa là sức lao động và tư liệu sản xuất phải di chuyển theo đất
đai. Điều này giải thích tại sao các nền văn minh cổ xưa trên thế giới thường
được hình thành ở những vùng hạ lưu các con sông lớn, là những nơi có điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, tiêu biểu như các nền văn minh
sông Nil ở Ai Cập, sông Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ, sông Hoàng Hà ở Trung
Quốc... Ở các vùng đất trù phú dễ canh tác, ít bị thiên tai sẽ hình thành nên
những điểm quần cư và ngày càng được mở rộng dần ra các khu vực xung
quanh. Không giống như các tư liệu sản xuất khác có thể được di chuyển, được
điều tiết từ nơi này sang nơi khác hoặc tập trung lại ở một khu vực nhất định
nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất của con người trong hoàn cảnh cụ thể, đất
nông nghiệp chỉ có thể được sử dụng tại vị trí chúng đang tồn tại và mang những
tính chất của điều kiện tự nhiên của khu vực đó như điều kiện thổ nhưỡng, thời
tiết, khí hậu, địa hình, vị trí... Ở các khu vực khác nhau trên thế giới, các điều
kiện tự nhiên có sự khác biệt. Đặc điểm này cũng quy định tính đa dạng của
nguồn động thực vật và năng suất cây trồng, vật nuôi của các châu lục, các quốc
gia hay các vùng khác nhau trong mỗi quốc gia. Trong nền sản xuất hàng hóa
những điều kiện này rất quan trọng vì nó là cơ sở để hình thành các vùng nông
nghiệp chuyên môn hóa, thúc đẩy sản xuất đi vào chiều sâu mang tính chất
chuyên canh. Ngoài ra yếu tố vị trí địa lý, địa hình của đất nông nghiệp còn là
những nhân tố kinh tế quan trọng. Theo C.Mác thì vị trí của các khoảnh đất “…
có ý nghĩa quyết định trong trường hợp các đất di dân khai khẩn và nói chung có
ý nghĩa quyết định đối với trình tự theo đó các khoảnh đất có thể lần lượt được
canh tác” [20, tr.295]. Ông cho rằng “…khi khai phá đất hoang ở một nước,
người ta cũng có thể đi từ những đất tốt hơn đến những đất xấu hơn, hoặc ngược
lại” [20, tr.295] là bởi vì “Một khoảnh đất có thể ở vào một vị trí rất tốt nhưng
đồng thời lại rất ít màu mỡ và ngược lại” [20, tr.295]. Vị trí tốt của đất nông
nghiệp được hiểu là gần thị trường tiêu thụ hoặc ở nơi có hạ tầng giao thông
phát triển. Do đó sẽ xác lập được ưu thế cho hoạt động sản xuất kinh doanh vì
giảm được chi phí lưu thông nông sản hàng hóa. Vị trí thuận lợi khác nhau của
các mảnh đất là một trong hai nguyên nhân chính hình thành nên địa tô chênh
lệch I. Tuy nhiên, vị trí của đất đai có thuận lợi hay không đối với sản xuất nông
nghiệp hàng hóa chỉ có tính chất tương đối và mang tính lịch sử do sự tiến bộ
của nền sản xuất xã hội có tác dụng san bằng các chênh lệch về hiệu quả. Sự
phát triển của giao thông vận tải có thể làm thay đổi trật tự thuận lợi ấy. Vì vậy
vấn đề quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp đặt ra mục tiêu phát triển nông
nghiệp cụ thể cho từng khu vực phải căn cứ vào cả yếu tố tự nhiên và xã hội.
Thứ ba, đất nông nghiệp có giới hạn về mặt số lượng và không đồng nhất
về mặt chất lượng.
Về mặt số lượng, đất nông nghiệp là nguồn tài nguyên thiên nhiên có giới
hạn vì nó chỉ là một bộ phận của đất đai cấu thành vỏ trái đất. Trong một quốc
gia thì nó là một bộ phận của đất đai bị giới hạn bởi ranh giới lãnh thổ của quốc
gia đó. Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, tồn tại một cách khách quan, con người
chỉ có thể sử dụng đất phục vụ cho những mục đích khác nhau của mình chứ
không thể tạo ra nó. Trái đất mặc dù có diện tích rất lớn nhưng diện tích đó cũng
chỉ là một con số hữu hạn.
Sự giới hạn về mặt số lượng của đất đai đặt con người trước những quan
hệ phức tạp, biểu hiện tập trung ở quan hệ sở hữu và chiếm hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu này của nông nghiệp.
Theo V.I.Lênin, có hai loại độc quyền trong nông nghiệp đó là độc quyền
kinh doanh ruộng đất và độc quyền sở hữu ruộng đất. Sự giới hạn về mặt số
lượng của đất nông nghiệp gắn với độc quyền kinh doanh ruộng đất trong nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ông viết: “Kết luận duy nhất rút ra một cách logic từ
tình trạng ruộng đất có hạn là toàn bộ ruộng đất sẽ bị bọn phéc - mi - ê chiếm
giữ” [16, tr.141]. Điều này hoàn toàn tương tự việc độc quyền kinh doanh những
lực lượng tự nhiên có hạn khác như C.Mác đã nhận thấy: “Số chủ xưởng đã
chiếm hữu được những thác nước gạt số chủ xưởng không chiếm hữu được thác
nước ra ngoài, không để cho họ lợi dụng lực lượng tự nhiên ấy, vì đất đai - đặc
biệt là đất đai có sẵn sức nước - là có hạn” [20, tr. 287]. Trong chủ nghĩa xã hội,
sự giới hạn đó cũng đặt ra những đòi hỏi về giải pháp sử dụng đất đai phải đảm
bảo sự phát triển bền vững và giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội nảy sinh
trên cơ sở lợi ích do đất đai mang lại.
Sự giới hạn của đất nông nghiệp ngoài những tính chất khách quan do tự
nhiên quy định đóng vai trò chủ yếu, còn có sự ảnh hưởng nhất định bởi mặt xã
hội, biểu hiện ở các chính sách phát triển nông nghiệp, ở định hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của các khu vực, quốc gia hay vùng lãnh thổ.
Về cơ bản, tỷ trọng đất nông nghiệp trong tổng quỹ đất sử dụng giữa các
nước trên thế giới hoàn toàn khác nhau và tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên của
từng nước. Các nước có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, chất đất nghèo nàn thì
đất nông nghiệp thường chiếm một phần rất nhỏ trong tổng diện tích đất sử
dụng. Tình hình cũng diễn ra tương tự đối với các vùng trong cùng một nước, sự
chênh lệch về tỷ trọng này thể hiện rõ nhất giữa các vùng có sự khác biệt về cơ
cấu kinh tế, giữa nông thôn và thành thị.
Khoảng trên 30% diện tích lãnh thổ Việt Nam được sử dụng trực tiếp cho
sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng, tính bình quân theo đầu người vào loại
thấp của thế giới. Ở Việt nam, trong lĩnh vực nông nghiệp luôn diễn ra hai quá
trình trái ngược nhau. Một mặt, có những cố gắng rất lớn để mở rộng diện tích
khai hoang, làm tăng thêm quỹ đất. Mặt khác, xảy ra quá trình ngược lại: đất
trồng lúa và cây lương thực không ngừng giảm, đặt biệt là ở những đồng bằng
châu thổ có đất phì nhiêu. Ở những vùng ven biển có độ cao thấp, đặc biệt là ở
đồng bằng sông Cửu Long, lưu lượng vào mùa khô rất thấp cùng với việc tàn
phá rừng đã làm mặn xâm nhập sâu vào đất liền, giảm diện tích trồng trọt và hạn
chế năng suất cây trồng. Ở các vùng ven biển miền Trung đang diễn ra hiện
tượng cát bay, cát lấn đất rất rõ rệt. Cát lấn dần vào đất liền, lấp đi nhiều diện
tích đất trồng trọt, tại một số vùng ven biển đang xảy ra hiện tượng sạt lở đất. Có
rất nhiều nguyên nhân gây hại môi trường đất và làm thoái hóa chất lượng (độ
phì nhiêu) của đất nhưng các nguyên nhân chính về mặt tự nhiên là địa hình dốc,
lượng mưa lớn tập trung. Địa hình đồi núi chiếm khoảng hơn 3/4 diện tích tự
nhiên của toàn lãnh thổ Việt Nam. Các dãy núi đồ sộ nhất và các đỉnh núi cao
nhất đều phân bố ở phía Tây và Tây Bắc, núi thấp dần về phía Đông và thường
kết thúc bằng một dải đất thấp ven biển. Các thung lũng thường hẹp, sâu là kết
quả của hoạt động xâm thực mạnh của sông suối. Do tác động của ngoại lực vào
mùa mưa lũ, các hiện tượng đá đổ, trượt đất, lũ quét… diễn ra phổ biến.
Nguyên nhân chính về mặt xã hội là tập quán canh tác lạc hậu đốt nương
làm rẫy và phá rừng vì lợi ích trước mắt đã làm cho đất đai của nước ta đứng
trước sự uy hiếp nghiêm trọng. Hiện nay vẫn còn khoảng hai triệu người sống du
canh du cư và di dân tự do phá rừng làm đất sản xuất nông nghiệp. Đó là chưa
kể đến hậu quả của việc phá rừng để làm đất nông nghiệp theo chủ trương tự túc
lương thực với quy mô tỉnh, huyện, xã (trước năm 1990) đã làm cho rất nhiều
diện tích đất dốc có rừng bị phá đi để sản xuất nhưng sau đó không được sử
dụng bền vững nên lại trở thành đất hoang trọc.
Đất nông nghiệp có giới hạn về mặt tuyệt đối, còn về mặt tương đối tính
theo đầu người thì ngày càng bị thu hẹp dần vì sự tăng trưởng mọi mặt của kinh
tế - xã hội và sự gia tăng tự nhiên của dân số. Đặc biệt với tốc độ phát triển công
nghiệp, đô thị và nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng như hiện nay đã dẫn đến một
diện tích rất lớn đất nông nghiệp bị chiếm dụng.
Bình quân đất nông nghiệp theo đầu người ở nước ta liên tục giảm trong suốt thời kỳ từ năm 1980 đến năm 1990 (từ 1290 m2 xuống còn 1056m2) và mới phục hồi dần trong thời kỳ 1991 - 2000 lên mức 1081m2 (năm 2000), dự kiến khoảng 30 năm, sau khi dân số phát triển ổn định thì chỉ còn ở mức khoảng 770m2. Trong tương lai, nhu cầu tăng trưởng kinh tế cao sẽ gây áp lực mạnh đối
với đất đai và dễ dẫn đến tình trạng rối loạn trong khai thác sử dụng đất, nhất là
ở những nơi “đất chật người đông”, kinh tế trù phú có nhiều cơ hội tiếp nhận
đầu tư, lao động. Do đó, sự giới hạn này đặt ra yêu cầu cấp thiết về sử dụng một
cách có hiệu quả đất đai nông nghiệp, không thể tăng thêm số lượng đất đai
nông nghiệp mà phải đi vào nâng cao hiệu suất sử dụng đất, lấy phát triển theo
chiều sâu để bù cho sự hạn chế của phát triển theo chiều rộng.
Về mặt chất lượng, đất nông nghiệp không đồng nhất. Đất đai ở những vị
trí nhất định chịu sự chi phối của các điều kiện tự nhiên của khu vực, dẫn đến
các đặc tính tự nhiên cấu thành nên chất lượng của đất đai có sự khác nhau, do
đó chất lượng của đất sẽ không đồng nhất giữa các vùng, các khu vực khác
nhau. Địa hình và khí hậu tạo ra cái nền cơ bản mà sự sống về sau tận dụng và
chịu ảnh hưởng sâu sắc. Chất lượng của đất đai trong trường hợp chịu ảnh
hưởng của các yếu tố tự nhiên biểu hiện ở độ phì tự nhiên của nó, là dung lượng
khác nhau về các chất dinh dưỡng cần thiết cho sinh vật. Ngoài sự khác nhau về
vị trí thuận lợi, sự khác nhau về độ phì tự nhiên cũng là một nguyên nhân chính
hình thành địa tô chênh lệch I. Vấn đề này có những tác động nhất định đến
phương hướng sử dụng có hiệu quả đất đai để phát triển nền nông nghiệp hàng
hóa trong giai đoạn hiện nay.
Ở Việt Nam, điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm biến động thất thường, các
dạng địa hình luôn thay đổi và được cấu tạo bởi nhiều loại đá mẹ khác nhau làm
cho đất đai có nhiều chủng loại và phân bố xen kẽ nhau một cách phức tạp. Sự
khác biệt về chủng loại đất thể hiện ở sự khác nhau về cấu trúc, độ phì… của
từng loại đất nhất định.
Loại đất điển hình ở vùng đồi núi là đất Feralit đỏ vàng, hình thành trên
nhiều lớp vỏ phong hóa của đá trầm tích, đá mắc ma, có độ phì khá, ít chua,
được sử dụng rộng rãi để phát triển trồng trọt, làm ruộng bậc thang.
Trên các bậc thềm phù sa cổ ven các châu thổ hoặc đồng bằng tồn tại
dạng đất Feralit nâu hoặc xám, có độ phì kém, dễ bạc màu, cấu trúc tầng mặt thô
do sét bị rửa trôi, dễ bị đá ong hóa. Đây là loại đất điển hình ở vùng Trung du
Bắc bộ và Đông Nam Bộ.
Ở vùng đồng bằng, tùy theo vị trí phân bố gần hay xa sông, gần biển hay
xa biển mà đất được chia thành hai nhóm chính: nhóm đất phù sa ngọt và nhóm
đất phù sa mặn. Đất phù sa được sử dụng chủ yếu trong nông nghiệp để trồng
lúa nước, có đặc điểm giàu chất hữu cơ, đạm nitrát. Tất nhiên những đặc tính
này có sự thay đổi giữa các loại đất thuộc châu thổ sông Hồng và châu thổ sông
Cửu Long.
Ngoài ra còn có các loại đất như đất Sialit nhiễm mặn, tồn tại ở các đồng
bằng ven biển, có thành phần cơ giới nặng; đất phèn ở một số tỉnh Tây Nam Bộ
có tính chất mặn, chua, muốn sử dụng được phải có biện pháp xử lý thích hợp;
đất đỏ Bazan phân bố ở một số tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có độ phì
lớn, có khả năng giữ độ ẩm cao; đất cát tơi và một số loại đất khác.
Mặt khác, sự tác động của con người trong quá trình sử dụng đất đai cũng
là một nhân tố làm cho chất lượng của đất giữa các khu vực có sự không đồng
nhất. Sự tác động thể hiện tập trung ở hoạt động sản xuất nông nghiệp của con
người. Trình độ lao động là một nhân tố quan trọng tác động đến độ phì của đất.
C.Mác cho rằng:
Bằng những phương tiện hóa học (chẳng hạn như dùng các loại
phân lỏng đối với những nơi đất sét rắn chắc, hoặc bằng cách đốt những
thửa đất sét nặng), hay những phương tiện cơ khí (như dùng loại cày đặc
biệt đối với đất nặng), người ta có thể loại bỏ những trở ngại làm cho một
thửa đất cũng màu mỡ bằng một thửa đất khác trở nên thực tế kém màu
mỡ hơn [20, tr.296].
Việc đầu tư có mục đích của con người vào những thửa đất nhất định để
cải tạo nó sẽ làm cho thửa đất ấy trở nên màu mỡ hơn những thửa đất cùng loại
nhưng không được đầu tư. Ngoài ra, chất lượng của một thửa đất được đầu tư
cải tạo liên tiếp cũng không đồng nhất nếu xét theo trình tự thời gian. Chất
lượng đất được nâng dần lên phản ánh hiệu quả của quá trình thâm canh trên
thửa đất ấy. Sản lượng thu được trên một đơn vị diện tích do đó cũng tăng lên
lần lượt sau mỗi lần đầu tư. Đây là cơ sở để hình thành địa tô chênh lệch II vì
thâm canh ruộng đất đưa đến việc tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản
xuất, tăng khối lượng sản phẩm. Nó cũng là một xu thế tất yếu trong phát triển
nông nghiệp vì đất nông nghiệp có giới hạn về mặt diện tích, sự phát triển theo
lối quảng canh, mở rộng diện tích có nhiều trở ngại.
Sự tác động của con người, mặt khác, nếu diễn ra không hợp lý sẽ ảnh
hưởng xấu đến chất lượng của đất nông nghiệp. Ở nước ta, tình hình khai thác
tài nguyên đất một cách thiếu khoa học đã và đang là một thách thức lớn đối với
sự phát triển bền vững, nhất là ở các vùng trung du và miền núi với kiểu canh
tác đốt nương làm rẫy mang tính chất du canh du cư. Tập quán canh tác chỉ
hướng vào tận dụng độ màu mỡ tự nhiên của đất đai, không chú ý đến việc cải
tạo đã dẫn đến hậu quả hàng loạt diện tích đất đã trở nên bạc màu. Đến thời
điểm 1994, đã có hơn 13 triệu ha đất trống đồi trọc, trong đó diện tích bị xói
mòn trơ sỏi đá vào khoảng 1,2 triệu ha, số lượng các chất dinh dưỡng bị rửa trôi
hàng năm rất lớn, đạt đến 120 - 170 tấn/ha/năm, số lượng này thay đổi tùy theo
vị trí trên sườn đồi hay trên mặt bằng và tùy theo địa hình có phủ thảm thực vật
hay không.
Ngoài ra, sự phát triển công nghiệp thiếu tính quy hoạch, sự bùng nổ của
các phương tiện giao thông gây ô nhiễm không khí, nguồn nước, ảnh hưởng xấu
đến hệ sinh thái, làm thay đổi khí hậu, thời tiết dẫn đến chất lượng đất đai bị
biến đổi. Như vậy, về mặt thời gian, chất lượng của từng mảnh đất cũng không
đồng nhất. Với những ảnh hưởng xấu như trên thì hiển nhiên chất lượng đất đai
bị biến đổi theo hướng tiêu cực, làm giảm hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Thứ tư, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt của ngành nông
nghiệp và có sức sản xuất được nâng lên theo trình độ phát triển của khoa học
kỹ thuật.
Đất nông nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách vừa là tư liệu
lao động vừa là đối tượng lao động, vì vậy nó là tư liệu sản xuất của ngành nông
nghiệp. Về phương diện lịch sử có thể khẳng định rằng đất nông nghiệp được sử
dụng trước hết với tư cách là tư liệu lao động, sau đó tư cách đối tượng lao động
của nó mới được xác lập.
Lần đầu tiên con người chỉ sử dụng đất nông nghiệp như một tư liệu lao
động, có nghĩa là dùng đất nông nghiệp, thực tế là dùng các chất dinh dưỡng có
trong đất như các chất hữu cơ, chất khoáng… để làm phương tiện chuyển tải lao
động của con người đến cây trồng, tác động đến cây trồng để thúc đẩy nó sinh
trưởng và phát triển. Hoạt động có mục đích này có sự gắn bó mật thiết với các
quy luật tự nhiên. Thông qua việc phân tích thực tiễn của quá trình ấy, con người
rút ra được những kết luận về sự ảnh hưởng của những thuộc tính vốn có của đất
nông nghiệp đối với cây trồng và nhận thức được rằng để nâng cao năng suất
canh tác cần loại bỏ những ảnh hưởng xấu và tăng cường ảnh hưởng tốt của đất.
Muốn thế phải tác động vào đất để thay đổi những thuộc tính lý hóa và những
thuộc tính khác cấu thành chất lượng đất. Lúc này tư cách là đối tượng lao động
của đất nông nghiệp xuất hiện.
Việc trở thành đối tượng lao động của đất nông nghiệp còn do nhu cầu
ngày càng cao về chất lượng và chủng loại sản phẩm nông nghiệp của con người
quy định. Để đáp ứng được nhu cầu này phải có những thay đổi về chất lượng
của đất nông nghiệp bởi sự đa dạng của đất nông nghiệp quyết định tính đa dạng
và hiệu quả của sản phẩm. Khi đó con người sẽ sử dụng các công cụ, phương
tiện thích hợp tác động vào đất đai nông nghiệp nhằm cải tạo đất. Trong thực tế,
việc áp dụng khoa học kỹ thuật để tác động là chủ yếu. Ngoài ra, việc khai thác
hợp lý đất đai dựa vào điều kiện sinh thái của đất, tôn trọng quy luật tự nhiên
cũng rất quan trọng. Trong những trường hợp trên, đất nông nghiệp trở thành đối
tượng lao động, là chủ thể tiếp nhận những hoạt động cải tạo có mục đích của
con người.
Như vậy, đất nông nghiệp chỉ trở thành đối tượng lao động khi con người
có ý thức cải tạo tự nhiên, bắt tự nhiên phải đáp ứng những yều cầu ngày càng
đa dạng trong sản xuất và tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp. Đây cũng là một
bước tiến quan trọng trong công cuộc chinh phục tự nhiên của con người.
Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất của ngành nông nghiệp, hơn nữa còn
là một dạng tư liệu sản xuất đặc biệt thể hiện ở một số điểm cơ bản:
Trước hết, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất hữu hạn. Trong khi những
tư liệu sản xuất khác của nền sản xuất xã hội được tạo ra ngày càng nhiều theo
nhu cầu và trình độ sản xuất, thì đất đai là tư liệu sản xuất có hạn, cũng giống
như thác nước mà C.Mác đã nghiên cứu và chỉ ra rằng: “Ở nơi nào không có
điều kiện tự nhiên ấy thì dù có bỏ ra một số tư bản nhất định người ta cũng vẫn
không thể tạo ra điều kiện ấy được” [20, tr.287]. Vì vậy, việc sử dụng tư liệu sản
xuất này cũng đặt ra những yêu cầu cụ thể không giống như việc sử dụng tư liệu
sản xuất thông thường. Đó là sử dụng phải tôn trọng các quy luật tự nhiên đi đôi
với việc bảo vệ và cải tạo, bồi dưỡng đất.
Bên cạnh đó, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất không thể di chuyển
được theo nhu cầu sản xuất như những tư liệu sản xuất khác mà chỉ được sử
dụng ở những vị trí cố định của bề mặt trái đất, mang những nét đặc trưng của
từng vùng khí hậu, do đó chất lượng của loại tư liệu sản xuất này cũng rất khác
nhau. Hơn nữa tư liệu sản xuất này không thể sử dụng một cách biệt lập với môi
trường tự nhiên như những tư liệu sản xuất mang tính chất kỹ thuật. Nó tồn tại gắn
với tự nhiên và chỉ được sử dụng hiệu quả trong môi trường tự nhiên thuận lợi.
Ngoài ra, các tư liệu sản xuất thông thường sẽ bị hao mòn hữu hình và vô
hình sau một thời gian sử dụng còn đất đai nếu được sử dụng một cách hợp lý,
tuân thủ các quy luật tự nhiên thì độ phì của đất sẽ tăng lên. Theo C.Mác:
Nếu sức sản xuất phát triển một cách nhanh chóng, tất thảy máy
móc cũ cũng cần phải được thay thế bằng những máy móc khác có lợi
hơn, nghĩa là những máy móc cũ phải bị hoàn toàn vứt bỏ. Trái lại,
nếu được xử lý một cách thích đáng thì đất sẽ tốt mãi lên. Ưu thế của
đất là những khoản đầu tư liên tiếp có thể đem lại lợi nhuận mà không
làm thiệt đến những khoản đầu tư trước [20, tr.484].
Như vậy, sức sản xuất của loại tư liệu sản xuất này không ngừng nâng cao
theo trình độ kỹ thuật và sự phát triển của lực lượng sản xuất. C.Mác cho rằng:
“Trong nông nghiệp, người ta có thể đầu tư liên tiếp một cách có hiệu quả, vì
bản thân ruộng đất phát sinh tác dụng như một công cụ sản xuất” [20, tr.484].
Ông phê phán “…cái lý lẽ nông cạn nói rằng trên một thửa đất có hạn về mặt diện
tích, không phải bất cứ một lượng tư bản nào cũng có thể đầu tư được” [20, tr.483].
Xét về phương diện lịch sử, người đầu tiên nêu ra “cái lý lẽ” ấy là học giả tư sản
Tuyếc - Gô với “quy luật ruộng đất ngày càng mất dần màu mỡ” về sau được
các nhà kinh tế học tư sản tầm thường lợi dụng một cách triệt để. Nội dung chủ
yếu của luận điểm này là: Khi đầu tư thêm vào ruộng đất vượt quá mức độ nhất
định thì sản lượng sẽ giảm xuống, có nghĩa là bất cứ sự đầu tư thêm nào vào
ruộng đất vượt quá mức độ nhất định đều thu hoạch ít hơn so với lần đầu tư
trước. Mục đích của lý luận này nhằm che đậy mâu thuẫn của chế độ tư bản, cho
rằng nguyên nhân gây nên sự bần cùng hóa nhân dân lao động là do yếu tố tự
nhiên, do “quy luật ruộng đất ngày càng mất dần màu mỡ”.
V.I.Lênin cũng vạch ra sai lầm của lý luận này là đã vứt bỏ cái chủ yếu
nhất, tức là sự nâng cao trình độ kỹ thuật và sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ông cho rằng trong trường hợp kỹ thuật cải tiến không ngừng, năng suất lao
động không ngừng nâng cao thì việc đầu tư thêm không bao giờ làm cho ruộng
đất ngày càng mất dần màu mỡ. Chỉ có trong trường hợp kỹ thuật không đổi,
đầu tư thêm mới đem lại thu nhập ít. Do đó khoa học kỹ thuật càng phát triển thì
sức sản xuất của đất nông nghiệp - tư liệu sản xuất của ngành nông nghiệp ngày
càng được nâng cao, tăng cường khả năng đẩy mạnh sản xuất kinh doanh nông
sản hàng hóa.
1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp đối với phát triển nông sản hàng hóa
Trong lịch sử loài người từ xưa đến nay, nông nghiệp là nguồn cung cấp
lương thực thực phẩm chủ yếu. Ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu lương thực, thực
phẩm và các sản phẩm khác từ nông nghiệp cho tiêu dùng trong nước và để xuất
khẩu ngày càng tăng. Vì vậy trong quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, việc đưa
nông nghiệp từ kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc chuyển sang kinh tế hàng hóa, từ
sản xuất hàng hóa nhỏ lên sản xuất hàng hóa quy mô lớn và hiện đại là nhiệm vụ
có tính chiến lược lâu dài, gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước. Để thực hiện được nhiệm vụ chiến lược này, đòi hỏi phải phát huy một
cách tối đa các nguồn lực phát triển kinh tế, trong đó đất nông nghiệp là một
nguồn lực cơ bản.
- Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu để sản xuất nông nghiệp hàng hóa:
Đất nông nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách vừa là tư liệu
lao động vừa là đối tượng lao động để trở thành tư liệu sản xuất của ngành nông
nghiệp, hơn nữa còn trở thành tư liệu sản xuất chủ yếu của sản xuất nông nghiệp
hàng hóa lớn trong giai đoạn hiện nay, khi nội bộ ngành nông nghiệp đã có sự
phân công lao động ở trình độ cao và nền kinh tế - xã hội đã bước sang một giai
đoạn phát triển mới.
Thực tế này đã đặt vai trò của đất nông nghiệp trước những đòi hỏi cao
hơn, ngoài việc thực hiện vai trò là tư liệu sản xuất tạo ra một khối lượng nông
sản, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng tự cấp tự túc như trong nền kinh tế
tự nhiên, đất nông nghiệp còn phải tạo ra một khối lượng nông sản hàng hóa đáp
ứng nhu cầu của thị trường. Như vậy đất nông nghiệp phải thực hiện thêm
nhiệm vụ của một nhân tố trong kinh doanh (với tư cách là đối tượng kinh
doanh) nhằm mang lại lợi nhuận, thông qua đó, tạo khả năng tái sản xuất mở
rộng cho người sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là mục đích của việc sử dụng
đất nông nghiệp ở bất cứ nơi nào trên thế giới trong một nền nông nghiệp hàng
hóa, vì mục tiêu kinh doanh.
Trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học, công
nghệ, nhiều mô hình ứng dụng công nghệ mới để sản xuất nông nghiệp mà
không cần sử dụng đất đai đã ra đời, tuy nhiên những mô hình này vẫn chưa
phải là phổ biến. Hơn nữa, việc sản xuất ra nông sản hàng hóa theo phương thức
này có chi phí sản xuất quá cao, nếu xét về mặt hạch toán kinh doanh thì không
mang lại hiệu quả kinh tế. Do đó, đất nông nghiệp vẫn là sự lựa chọn hàng đầu
và không thể thay thế được, nó vẫn là tư liệu sản xuất chủ yếu để sản xuất ra
nông sản hàng hóa trong thời điểm hiện nay.
- Đất nông nghiệp là môi trường không gian để sản xuất nông nghiệp,
cũng đồng thời là môi trường sống:
Sản xuất nông nghiệp khác với các hoạt động sản xuất khác ở chỗ không
thể tách khỏi môi trường tự nhiên với các yếu tố như đất, nước, khí hậu, ánh
sáng, nhiệt độ… Ngoại trừ những trường hợp sử dụng công nghệ cao như sản
xuất nông sản trong môi trường nhân tạo (nhà kính, phòng thí nghiệm) vốn chưa
phổ biến và chưa thể thay thế được phương pháp sản xuất truyền thống. Trong
các yếu tố tự nhiên trên, đất đai là yếu tố có tính chất quyết định nhất. Trong lĩnh
vực trồng trọt, đất nông nghiệp ngoài tư cách là tư liệu sản xuất còn là môi
trường để cây trồng phân bố trên bề mặt của nó, có nghĩa là ngoài vai trò làm
phương tiện chuyển tải lao động của con người đến cây trồng để thúc đẩy nó
sinh trưởng và phát triển, thì đất nông nghiệp còn là điểm tựa cố định cho cây
trong suốt quá trình này, là khoảng không gian để cây trồng thực hiện quá trình
trao đổi chất và tiếp nhận những tác động của các yếu tố tự nhiên khác. Trong
lĩnh vực chăn nuôi, ngoài vai trò tạo ra nguồn thực vật làm thức ăn cho gia súc,
gia cầm, đất nông nghiệp còn là môi trường sinh trưởng, là khoảng không gian
chăn thả vật nuôi, cho dù đó là mô hình chăn nuôi tự nhiên ở các khu vực đất
đồng cỏ hay chăn nuôi tập trung ở các trang trại. Hơn nữa, đất nông nghiệp còn
là môi trường diễn ra các hoạt động thu hoạch sau sản xuất, là không gian tập
kết nông sản và quan trọng hơn, nó còn là môi trường sinh sống của người lao
động nông nghiệp và cư dân nông thôn, gắn liền với các vấn đề sinh hoạt của cộng
đồng. Vì vậy việc thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường đất nông nghiệp trong
quá trình sản xuất cũng chính là bảo vệ môi trường sống cho con người.
- Đất nông nghiệp là phương tiện huy động vốn phục vụ sản xuất nông
sản hàng hóa:
Đất nông nghiệp là nguồn nội lực quan trọng để phát triển nông sản hàng
hóa, do nó còn là hàng hóa đặc biệt để khai thác nhằm tạo ra nguồn vốn đầu tư
cho thâm canh nông nghiệp thông qua việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
với một phần diện tích, từ đó tạo ra lượng nông phẩm hàng hóa ngày càng nhiều.
Bên cạnh đó, những chủ thể sản xuất kinh doanh muốn mở rộng sản xuất
còn có thể vay vốn bằng việc thế chấp quyền sử dụng đất. Việc đảm bảo hoàn lại
vốn vay thông qua con đường thế chấp vừa mang lại sự an toàn tài chính cho
ngân hàng vừa nâng cao được ý thức trách nhiệm của người đi vay đối với
khoản vốn vay để mở rộng sản xuất kinh doanh của họ. Trong điều kiện khan
hiếm vốn đầu tư sản xuất đã trở nên phổ biến, nhất là đối với người nông dân
trong giai đoạn hiện nay, việc chuyển nhượng và thế chấp quyền sử dụng đất đã
phần nào giải quyết được nhu cầu bức xúc của các chủ thể sản xuất nông nghiệp,
đặc biệt là những chủ thể sản xuất nông nghiệp hàng hóa.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khoá IX về
“Tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định đất đai “là nguồn nội lực và
nguồn vốn to lớn của đất nước” [7, tr.61]. Với ý nghĩa đó, vai trò của đất đai
ngày càng trở nên quan trọng đối với việc huy động các nguồn lực phục vụ cho
việc phát triển sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nguồn lực tài chính.
Ngoài ra, đất nông nghiệp trong một số trường hợp cá biệt còn có những
vai trò mang tính chất bổ sung, hỗ trợ, chẳng hạn như những loại đất có đặc tính
thuận lợi để phát triển một loại nông sản nào đó còn cấu thành nên lợi thế cạnh
tranh của nông sản ấy trên thị trường. Hơn nữa, một số sản phẩm nông nghiệp
mang tính chất đặc biệt chỉ có thể sản xuất trên những vùng đất nhất định mà
không thể sản xuất được ở những vùng đất khác có nhiều khả năng trở thành sản
phẩm nông nghiệp độc quyền (ví dụ như vải Thanh Hà, nhãn lồng Hưng Yên,
chè Thái Nguyên, cà phê Buôn Ma Thuột, bưởi Năm Roi, bưởi Đoan Hùng...),
giá cả độc quyền của nó mang lại lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp. Trong
đó vai trò của đất nông nghiệp với những tính chất riêng mang lại lợi thế đặc
biệt cho nông sản có ý nghĩa quyết định.
Như vậy, đất đai chỉ có thể trở thành yếu tố sản xuất khi nó được khai thác
và sử dụng, và chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi con người biết khai thác và sử
dụng nó một cách hiệu quả. Việc sử dụng đất nông nghiệp để phát triển sản xuất
hàng hóa là một trường hợp điển hình.
1.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng và những yêu cầu đặt ra đối với đất
nông nghiệp trong việc phát triển nông sản hàng hóa
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp thể hiện ở việc sử dụng
quỹ đất hợp lý, tiết kiệm và bền vững; sử dụng đúng tiềm năng quỹ đất kết hợp
với phát triển quỹ đất theo hướng làm tăng độ phì của đất; khai hoang, lấn biển
mở rộng diện tích đất nông nghiệp; nâng cao hiệu quả kinh tế đầu tư trên đất;
bảo vệ môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học và tạo hệ sinh thái bền vững. Nâng
cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là điều kiện để đa dạng hóa cây trồng, vật
nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, khai thác được thế mạnh của đất đai từng
vùng trong việc phát triển sản xuất các nông sản đặc thù; từ đó khai thác được
lợi thế so sánh của nông sản hàng hóa thông qua trao đổi trong nước và xuất
khẩu. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp phản ánh năng lực của các chủ thể sản
xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
Điều 12 Luật đất đai năm 2003 quy định việc khuyến khích đầu tư vào đất đai:
Nhà nước có chính sách khuyến khích người sử dụng đất đầu tư
lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học và công nghệ
vào các việc sau đây:
1. Bảo vệ, cải tạo, làm tăng độ màu mỡ của đất;
2. Khai hoang, phục hóa, lấn biển, đưa diện tích đất trống, đồi
núi trọc, đất có mặt nước hoang hóa vào sử dụng;
3. Phát triển kết cấu hạ tầng để làm tăng giá trị của đất [19, tr.19].
Trên cơ sở đó, các chính sách cụ thể được ban hành đã, đang và sẽ góp
phần thúc đẩy quá trình sử dụng đất theo hướng ngày càng hiệu quả trên phạm
vi cả nước.
1.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1.1. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên
Các điều kiện tự nhiên mà chủ yếu là khí hậu với những diễn biến của
thời tiết như mưa, nắng, bão lụt, hạn hán… tác động trực tiếp đến quá trình sử
dụng đất đai phát triển nông nghiệp. Trong thực tế, những vùng đất nông nghiệp
trù phú thường có khí hậu ôn hòa, ít xảy ra những biến động thất thường hoặc
khắc nghiệt về thời tiết, đặc biệt luôn có nguồn nước tưới dồi dào. Ngược lại,
những vùng có khí hậu khắc nghiệt thường trở nên hoang hóa, có hệ sinh vật
kém phát triển mà các hoang mạc trên thế giới là trường hợp điển hình. Ngay cả
trong điều kiện có sự hỗ trợ đắc lực của khoa học, kỹ thuật, người sản xuất nông
nghiệp vẫn không hoàn toàn làm chủ được quá trình sản xuất, mà phải thường
xuyên chịu tác động bởi những diễn biến thất thường của các điều kiện tự nhiên,
trong đó yếu tố thời tiết bất lợi và sâu bệnh có những ảnh hưởng nặng nề nhất.
Bên cạnh đó, đặc điểm thổ nhưỡng và địa hình cũng là nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến quá trình sử dụng đất nông nghiệp, những vùng đất đai tương đối
màu mỡ và có địa hình bằng phẳng (như đồng bằng sông Hồng và đồng bằng
sông Cửu Long) là những vùng có điều kiện thuận lợi cho thâm canh sản xuất
nông sản hàng hóa, đem lại năng suất cao. Khi tiến hành sản xuất trên đất đai
màu mỡ và dễ canh tác thì chỉ trong một khoảng thời gian ngắn hơn người lao
động cũng tạo ra được một khối lượng nông phẩm lớn hơn so với canh tác trên
đất bạc màu. Đất đai màu mỡ đã chứa đựng khả năng có nhiều lao động thặng
dư trong nó. Khả năng này sẽ biến thành hiện thực khi trong nền kinh tế có sự
phân công lao động, có sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy dưới tác động của quy
luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa, điều kiện thổ nhưỡng của vùng đất nào
càng thuận lợi cho canh tác thì vùng đất ấy càng được khai thác và sử dụng
nhiều hơn.
Ngoài ra, tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp bị quy định bởi quy luật
sinh học của cây trồng là một yếu tố tác động đến khả năng sử dụng đất nông
nghiệp. Do vậy, việc tìm ra những biện pháp để giảm bớt tính thời vụ trong nông
nghiệp như tăng vụ, xen canh gối vụ, luân canh sẽ thúc đẩy việc nâng cao hệ số sử
dụng đất, tận dụng được những khoảng trống giữa các chu kỳ tái sản xuất tự nhiên.
Hơn nữa, dù những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của các quốc gia,
các vùng lãnh thổ có khác nhau đến đâu, nông nghiệp vẫn mang tính chất truyền
thống lâu đời, bao gồm những quá trình chọn lọc và phát triển tự nhiên. Muốn
đạt được hiệu quả cao trong việc sử dụng đất nông nghiệp, cần tiến hành quá
trình sản xuất nông nghiệp phù hợp với các quy luật sinh học của mỗi đối tượng
sản xuất. Cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với thổ nhưỡng và điều kiện đất đai
của từng vùng không những cho phép sử dụng hiệu quả đất đai mà còn phát huy
được lợi thế so sánh của mỗi vùng sinh thái trong việc tăng năng suất, mang lại
hiệu quả kinh tế cao hơn. Cơ cấu cây trồng không phù hợp với đất đai thổ
nhưỡng không những cho năng suất thấp mà còn làm thoái hóa đất, ảnh hưởng
đến tính đa dạng sinh học của môi trường.
Việt Nam là một trong những nước có đặc điểm đa dạng sinh học cao,
hiện nay còn tồn tại khoảng 13.000 loài thực vật bậc cao; hàng nghìn loài thực
vật bậc thấp và hàng vạn loài động vật có xương sống, không xương sống phân
bố trên các hệ sinh thái từ biển Đông, thềm lục địa cho đến vùng đồng bằng,
trung du và miền núi. Đây chính là cơ sở, tiềm năng vô cùng quan trọng về mặt
tự nhiên để thúc đẩy việc sử dụng đất nông nghiệp một cách đa dạng, đặc biệt
đối với việc phát triển hệ thống trang trại, là mô hình đòi hỏi phải có sự gắn kết
với tính đa dạng sinh học để thu được hiệu quả kinh tế cao. Các nguồn gen động,
thực vật, vi sinh vật dù là hoang dại hay đã được thuần hóa để trở thành cây
trồng, vật nuôi đều mang tính chất quyết định đến sự sinh trưởng và phát triển
của chúng. Nhờ sự đa dạng của các hệ sinh thái, sự phong phú của các nguồn
gen, cùng với sự giàu có về kinh nghiệm truyền thống trong việc khai thác sử
dụng các nguồn tài nguyên sinh học của cộng đồng dân cư, đất đai sẽ được sử
dụng một cách thích hợp, phát huy một cách có hiệu quả tiềm năng sẵn có trong
tự nhiên.
1.2.1.2. Các nhân tố về điều kiện kinh tế - xã hội
Một là, chính sách pháp luật đất đai.
Chính sách pháp luật đất đai có ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến
việc khai thác và sử dụng nguồn lực đất đai vào các lĩnh vực dân sinh kinh tế,
trong đó có nông nghiệp. Chính sách pháp luật đất đai tiến bộ, phản ánh đúng
quy luật vận động và phát triển của đời sống kinh tế - xã hội sẽ thúc đẩy việc sử
dụng nguồn lực đất đai một cách có hiệu quả và bền vững. Ngược lại, chính sách
pháp luật đất đai không phù hợp với thực tiễn sẽ cản trở sự phát triển lành mạnh
của các quan hệ đất đai, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực này.
Trong đó chủ trương, chính sách quan trọng nhất về đất đai là chế độ sở
hữu toàn dân đối với đất đai.
* Về chế độ sở hữu:
Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai năm 1993 của Việt Nam quy định đất
đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước thống nhất quản lý theo quy định chung.
Chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo ra khả năng
quản lý một cách có căn cứ khoa học nền nông nghiệp và sử dụng hợp lý các
loại ruộng đất. Chỉ trong trường hợp đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước
mới có điều kiện quy hoạch phân vùng kinh tế đảm bảo tính khoa học, hợp lý
trong quá trình chuyên môn hóa sản xuất, xóa bỏ từng bước tính chất manh mún
để xây dựng nền sản xuất hàng hóa tập trung, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Trong trường hợp ruộng đất do tư nhân sở hữu (độc quyền tư hữu ruộng
đất) sẽ hình thành địa vị độc quyền có thể tự ý chi phối ruộng đất của chủ sở hữu
biểu hiện ở việc có thể cho thuê, bán, cầm cố hoặc bỏ hoang ruộng đất một cách
tùy tiện. Dưới chủ nghĩa tư bản, quyền sở hữu ruộng đất đã tách khỏi sản xuất
nông nghiệp. Sự độc quyền sở hữu ruộng đất tồn tại làm cho chủ ruộng đất được
hưởng địa tô chênh lệch, đồng thời nó cũng là nguyên nhân gây ra địa tô tuyệt
đối. C.Mác cho rằng:
Đứng trên quan điểm của một hình thái kinh tế xã hội cao hơn
mà xét, thì quyền tư hữu của một số người cá biệt đối với những bộ
phận nào đó của địa cầu, cũng sẽ hoàn toàn phi lý như quyền tư hữu
của một cá nhân đối với một cá nhân khác. Ngay cả một xã hội, một
nước, và thậm chí tất thảy các xã hội tồn tại trong cùng một thời kỳ
gộp lại, cũng đều không phải là kẻ sở hữu đất đai [20, tr.477].
Hơn nữa, trong nền nông nghiệp hàng hóa, hiệu quả kinh doanh có vai trò
quyết định, nó gắn liền với chủ thể sử dụng đất nông nghiệp mà không bị tác
động bởi tính chất sở hữu. C.Mác đã khẳng định: “Những công lao lớn của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là, một mặt thì hợp lý hóa nông nghiệp,
việc hợp lý hóa này lần đầu tiên đã tạo khả năng kinh doanh nông nghiệp theo
phương thức xã hội, và mặt khác làm cho quyền sở hữu ruộng đất trở thành một
điều phi lý” [20, tr.245].
Như vậy, không có chế độ tư hữu ruộng đất, nông nghiệp tư bản chủ nghĩa
cũng vẫn tồn tại được. Và hơn nữa, càng có lợi cho sản xuất công, nông nghiệp
vì không còn sự ngăn cản đối với việc đầu tư vào đất đai. Do đó, ngay cả nhiều
học giả tư sản cũng nêu ra chủ trương quốc hữu hóa ruộng đất. Tuy nhiên chủ
trương này đã không thể thực hiện được dưới chủ nghĩa tư bản vì điều này sẽ
làm lung lay toàn bộ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, cùng với sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản cũng có tài sản ruộng đất và trở thành
người tư hữu ruộng đất, họ không thể dễ dàng từ bỏ lợi ích của mình.
Trong nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa tồn tại chế độ tư hữu ruộng đất
nên sau khi hợp đồng hết hạn, những lợi ích kinh tế do việc đầu tư thêm sẽ rơi
vào tay chủ ruộng đất dưới hình thức địa tô chênh lệch. Do đó đã làm suy giảm
tính tích cực đầu tư thêm của nhà tư bản thuê đất. Việc phát triển thâm canh
cũng vì thế mà có sự hạn chế. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh thâm canh ruộng đất
để sử dụng một cách có hiệu quả đất nông nghiệp, sản xuất ra ngày càng nhiều
của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu của xã hội, phải dựa trên cơ sở xóa bỏ chế
độ bóc lột và chế độ tư hữu ruộng đất.
Quan hệ sở hữu đất đai là một nhân tố cơ bản trong hệ thống quan hệ sản
xuất ở nông thôn, có vai trò quyết định đến sự phát triển của nông nghiệp nông
thôn. Quan hệ sở hữu đất đai phù hợp sẽ có tác dụng thúc đẩy nền nông nghiệp
phát triển theo chiều hướng tích cực trên cơ sở sử dụng có hiệu quả nguồn lực
đất đai. Chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và
đang thực hiện tốt vai trò này.
* Các chính sách pháp luật đất đai từ khi đổi mới đến nay:
Lần đầu tiên kể từ khi thống nhất, nước ta ban hành Luật đất đai vào năm
1988 với nội dung cơ bản như khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà
nước thống nhất quản lý; Nhà nước giao ruộng đất cho các đơn vị và cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài có thời hạn hoặc tạm thời; người được giao quyền sử dụng
đất đai được chuyển quyền sử dụng và bán thành quả lao động cũng như kết quả
đầu tư trên đất được giao.
Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ra nghị
quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và tháng 3/1989, Nghị quyết
Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khoá VI) khẳng định hộ nông dân là đơn vị
kinh tế tự chủ, nền kinh tế tự cung tự cấp được chuyển sang nền kinh tế hàng
hóa, nền kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và các hộ nông dân được giao
quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, ổn định.
Qua một thời gian thực hiện, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều đổi thay
lớn, đòi hỏi phải tiếp tục điều chỉnh các chỉ tiêu kinh tế - xã hội phù hợp với
thực tiễn của đất nước. Yêu cầu đặt ra đối với hệ thống chính sách pháp luật đất
đai trong giai đoạn tiếp theo phải đáp ứng được tình hình đổi mới quản lý nhằm
chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tháng 7 năm 1993, Quốc
hội khoá IX thông qua Luật đất đai 1993 và luật thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Sau đó Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai được thông qua ngày
02/12/1998, đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng về đổi mới chính sách sử
dụng đất nông nghiệp ở nước ta. Vai trò của Nhà nước trong việc giám sát, điều
tiết vĩ mô đối với đất đai được tăng cường, tạo cơ sở vững chắc cho việc đảm
bảo thực thi chính sách đất đai có hiệu quả. Phạm vi điều chỉnh của Luật đã
hướng tới nội dung kinh tế thiết thực, khơi dậy động lực kinh tế trong việc bảo
vệ và sử dụng đất đai. Trong đó có một số điểm đáng chú ý như: Xác định rõ
quyền của người sử dụng đất, ngoài 5 quyền quy định trong Luật đất đai năm
1993 còn được quyền góp vốn kinh doanh, cho thuê lại. Việc chuyển sang thuê
đất nông nghiệp không bị hạn chế về hạn điền để có điều kiện phát triển mô hình
trang trại, thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào sản xuất nông nghiệp,
khai thác đất hoang hoá, đất trống đồi núi trọc (Nhà nước có chính sách miễn
giảm tiền thuê đất để khuyến khích). Trên cơ sở này Nhà nước ban hành một số
chính sách đất đai liên quan trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh nông nghiệp.
Trong các chính sách thì chính sách thuế nông nghiệp có tác động rất lớn
đến việc sử dụng đất. Trong đó Nghị định số 07/1998/NĐ - CP ngày 15/01/1998
của Chính phủ quy định cụ thể việc thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong
nước, kèm theo là Thông tư hướng dẫn thực hiện việc miễn thuế, giảm thuế. Đến
ngày 17/6/2003, Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 3 thông qua Nghị quyết về việc
miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp với giai đoạn thực hiện từ năm thuế
2003 đến năm thuế 2010. Việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong mức
hạn điền cho các hộ nông dân và trên toàn bộ diện tích đất được giao đối với các
hộ nghèo, các hộ sản xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn theo chương
trình 135 của Chính phủ, hoăc giảm thuế, trợ cước, trợ giá đã tạo động lực mở
rộng sản xuất cho các hộ nông dân, vì vậy diện tích đất được sử dụng cho sản
xuất nông nghiệp ngày càng tăng.
Chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp có tác dụng mở ra cơ hội sử
dụng đất nông nghiệp vào mục đích sản xuất cho các hộ nghèo, hoặc các doanh
nghiệp thiếu vốn. Theo Thông tư số 70 - TC/QLCS ngày 07/10/1997 của Bộ Tài
chính, các tổ chức kinh tế trong nước có quyền góp vốn kinh doanh bằng giá trị
quyền sử dụng đất. Hơn nữa, chính sách đầu tư của Nhà nước vào kết cấu hạ tầng
nông nghiệp, nông thôn và thủy lợi còn khơi dậy những tiềm năng to lớn cho đất đai.
Luật đất đai năm 1993 và các chính sách đất đai có liên quan đã bước đầu
tạo thuận lợi cho việc hình thành và phát triển loại hình sản xuất nông nghiệp
quy mô lớn như kinh tế trang trại, hợp tác xã kiểu mới, đặc biệt là kinh tế trang
trại với hiệu quả cao và bền vững về mặt sinh thái. Việc thực hiện chủ trương
chính sách giao đất giao rừng của Đảng và Nhà nước ta có vai trò quan trọng
trong việc chuyển đổi hình thức hợp tác xã kiểu cũ sang phát triển kinh tế hộ,
dẫn đến việc đẩy mạnh khai thác tiềm năng của đất nông nghiệp và từng bước
hình thành hợp tác xã dịch vụ đa dạng trên cơ sở tự nguyện của nông dân. Việc
giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài có tác dụng khuyến khích nông dân đầu tư
thâm canh, ứng dụng công nghệ mới nhằm thu địa tô chênh lệch II, thúc đẩy
phân công lao động ở nông thôn, phát triển sản xuất nông sản hàng hóa.
Tuy nhiên, Luật đất đai năm 1993 và Luật đất đai sửa đổi bổ sung năm
1998 chưa thực sự theo kịp với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, các văn bản hướng dẫn có
nhiều quy định bất cập so với thực tế. Đến ngày 26/11/2003, Quốc hội đã thông
qua Luật đất đai năm 2003 để khắc phục những bất cập nói trên. Với việc mở
rộng các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp và góp
vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để đẩy mạnh sản xuất, Luật đã khuyến khích
người sử dụng đất đầu tư, bảo vệ, khai thác, và sử dụng đất một cách có hiệu quả
hơn, đất nông nghiệp đã được chuyển dịch, thực hiện quá trình tích tụ và tập
trung để xây dựng các mô hình sản xuất lớn. Quyền sử dụng ruộng đất đã thật sự
trở thành nguồn lực tài chính đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp; các quan
hệ về quyền sử dụng ruộng đất đã trở thành các quan hệ hàng hóa tiền tệ góp
phần hình thành và phát triển thị trường bất động sản.
Như vậy, giải quyết mối quan hệ giữa người nông dân và đất đai là giải
quyết vấn đề cơ bản của kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Ở nước ta, từ khi Nhà
nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho các hộ nông dân, sản xuất nông
nghiệp đã có mức tăng chưa từng có về năng suất và sản lượng (đặc biệt là lúa
gạo). Trong sản xuất nông nghiệp, mọi khả năng đã được phát huy một cách tối
đa và mang tính tự giác.
Có thể khẳng định rằng, những chủ trương, chính sách phát triển kinh tế
nông nghiệp ở nước ta do Đảng và Nhà nước ban hành hoàn toàn dựa trên cơ sở
lý luận về địa tô của C.Mác và có sự vận dụng một cách sáng tạo những vấn đề
lý luận ấy vào thực tiễn của Việt Nam. Các chủ trương chính sách ngày càng
hoàn thiện hơn phản ánh sự nhận thức những tư tưởng của Mác ngày càng rõ
ràng và sâu sắc hơn.
Hai là, cơ cấu sản xuất trong nội bộ ngành nông nghiệp.
Cơ cấu sản xuất tác động rất lớn đến việc sử dụng đất nông nghiệp, nó
quy định cơ cấu sử dụng đất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. Trong giai đoạn
hiện nay, việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh sản xuất lương
thực, thực phẩm và nguyên liệu hàng hóa chất lượng cao sẽ làm thay đổi cơ cấu
dân cư, cơ cấu lao động và cơ cấu sử dụng đất trước đây vốn đã trở nên bất hợp lý.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự thay đổi cơ cấu sản
xuất và phân công lại lao động làm tăng nhu cầu sử dụng đất đai, đặc biệt là đất
đai nông nghiệp phục vụ cho sản xuất nông sản hàng hóa, vì một khi phân công
lao động đã phát triển tất yếu sẽ thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển lên
một trình độ cao hơn. Sự phân công lao động xã hội trong nông nghiệp nông
thôn tạo điều kiện khai thác và phát huy có hiệu quả các nguồn tài nguyên đất
đai, sức lao động và các cơ sở kỹ thuật, phát triển các ngành nghề trong nông
nghiệp và nông thôn, khắc phục được tính chất thuần nông và độc canh lương
thực, thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở
nông thôn. Trên cơ sở đó mở ra triển vọng phát triển sản xuất nông nghiệp hàng
hóa gắn với công nghiệp chế biến và hệ thống thị trường đồng thời khai thác một
cách tối ưu tài nguyên trong vùng, nhất là tài nguyên đất nông nghiệp.
Chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản xuất đặt ra mục tiêu ưu tiên phát triển
nông sản hàng hóa nào thì loại đất nông nghiệp thuận lợi cho sản xuất nông sản
đó được khai thác hiệu quả hơn trên cơ sở thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật nhằm đưa lại năng suất cao.
Tuy nhiên, quá trình phân công lại lao động nông nghiệp và nông thôn
theo hướng sản xuất hàng hóa phải dựa vào điều kiện tự nhiên, đất đai và quy
hoạch phân vùng sản xuất. Trong đó cần đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại kinh tế,
giống cây trồng, vật nuôi và sử dụng nguồn lao động nông thôn. Đa dạng hóa cơ
cấu sản xuất kinh doanh là hướng đi tích cực nhằm tạo thêm việc làm tại chỗ để
sử dụng một cách hợp lý đất đai ở nông thôn, tạo điều kiện cho việc định cư ổn
định, giảm bớt sức ép di dân từ nông thôn ra thành thị.
1.2.1.3. Các nhân tố về tổ chức sản xuất - kỹ thuật
Một là, trình độ khoa học công nghệ.
Thâm canh hóa - nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp luôn luôn
có quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của khoa học, với việc sử dụng những
thành tựu khoa học và kỹ thuật mới nhất. Vì vậy, yêu cầu phát triển sản xuất
nông nghiệp đòi hỏi phải có sự tìm kiếm khoa học thường xuyên, các phát minh
mới thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động.
Tuy diễn ra một cách chậm chạp và kéo dài hơn so với lĩnh vực sản xuất
công nghiệp, nhưng những thay đổi trong kỹ thuật và cách thức tổ chức của sản
xuất nông nghiệp đã làm cho sản lượng và năng suất lao động trong nông nghiệp
tăng lên đáng kể. Sự tăng trưởng này một mặt làm tăng khối lượng hàng hóa
nông sản có thể cung cấp cho xã hội, và do đó có thể chuyển bớt một phần lao
động xã hội từ nông nghiệp sang các ngành sản xuất khác mà không gây ra sự
suy giảm sản lượng nông nghiệp cũng như những đảo lộn trong đời sống xã hội.
Mặt khác, lượng cầu về tư liệu lao động và hàng tiêu dùng trong khu vực nông
nghiệp tăng lên đã kích thích mở rộng sản xuất ở những khu vực phi nông
nghiệp. Quá trình này đã dần dần phá vỡ nền kinh tế tự nhiên để chuyển thành
kinh tế hàng hóa và hình thành thị trường dân tộc.
Trong điều kiện đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp thì một phương
thức canh tác hợp lý: thâm canh, xen canh, tăng vụ đi đôi với việc ứng dụng
khoa học công nghệ sẽ là một phương thức canh tác tốt nhất để nâng cao hệ số
sử dụng đất nhằm tăng khối lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế trên một đơn vị
diện tích. Trong đó công nghệ sinh học có một vai trò đặc biệt quan trọng.
Công nghệ sinh học hiện đại đang tạo ra những chuyển biến cách mạng
trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm nhờ sử dụng rộng rãi kỹ
thuật gen, kỹ thuật tế bào, kỹ thuật lên men mới và kỹ thuật enzim. Trong nông
nghiệp, hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ sinh học thể hiện trước hết trong
việc tạo ra các giống mới cho năng suất cao và có khả năng chống dịch bệnh
ngày càng tăng.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông sản
hàng hóa còn biểu hiện ở các mặt: hóa học hóa, cơ giới hóa, thủy lợi hóa…
Trong giai đoạn phát triển hiện nay của trình độ khoa học - kỹ thuật và
của các điều kiện kinh tế - xã hội, con người có khả năng làm thay đổi môi
trường một cách nhanh chóng. Tuy nhiên điều quan trọng là sự thay đổi môi
trường này phải hướng tới vừa đảm bảo thu được từ thiên nhiên nhiều sản phẩm
nhất phục vụ cho cuộc sống của con người vừa phải nâng cao được tính tái tạo
của tự nhiên, bảo vệ và cải tạo được môi trường sống.
Ở nước ta, nhiều nghị quyết và văn kiện quan trọng của Đảng đều nhấn
mạnh việc đưa nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp và đời
sống ở nông thôn, coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Các kênh hỗ trợ chuyển giao công nghệ ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
- Hỗ trợ theo kênh khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư: Đây là kênh
chính thức và quan trọng nhất của Nhà nước.
- Hỗ trợ qua kênh chương trình, dự án của Nhà nước: Là các chương trình
khoa học và công nghệ trên phạm vi vùng kinh tế hoặc cả nước. Điển hình là
chương trình hỗ trợ các hoạt động khoa học và công nghệ tại các miền núi và
vùng đồng bào dân tộc giai đoạn 1991 - 1995; chương trình phát triển toàn diện
kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam giai đoạn 1991 - 1995 (Chương trình KX - 08)
và chương trình xây dựng mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi giai đoạn 1998 - 2000 (chương trình
nông thôn, miền núi). Phần lớn các dự án thuộc các chương trình khoa học công
nghệ đều chú trọng đến nội dung huấn luyện đào tạo về kỹ thuật, chuyên môn
nghiệp vụ cho cả lao động trực tiếp và lao động quản lý trong nông nghiệp.
- Hỗ trợ thông qua các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (INGO). Bao
gồm các hoạt động chuyển giao công nghệ rất đa dạng ở các lĩnh vực trồng trọt,
chăn nuôi, bảo vệ và trồng rừng, bảo quản nông sản...
Hai là, nguồn nhân lực trong nông nghiệp.
Nguồn nhân lực trong nông nghiệp bao gồm lao động sản xuất trực tiếp và
lao động quản lý trong nông nghiệp. Đối với người lao động sản xuất trực tiếp
trong nông nghiệp (hay nông dân), khả năng sử dụng có hiệu quả đất nông
nghiệp của họ là một phạm trù lịch sử. Ở nền kinh tế nông nghiệp có trình độ
phát triển thấp (chẳng hạn trong chế độ phong kiến), việc sản xuất nhỏ và lạc
hậu đòi hỏi lao động thiên về sử dụng sức lực cơ bắp; tri thức của người lao
động cũng được vận dụng vào sản xuất nhưng chỉ dừng lại ở mức độ tri thức
kinh nghiệm, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ người này sang
người khác và chưa có tính chất khái quát hóa thành khoa học. Như vậy, chỉ cần
có sức khỏe và một số kinh nghiệm nhất định trong lĩnh vực nông nghiệp, người
nông dân đã có thể sử dụng đất nông nghiệp một cách có hiệu quả so với mặt
bằng trình độ phát triển chung ở giai đoạn này, họ có thể khai phá những vùng
đất hoang; chinh phục thiên nhiên để mở rộng sản xuất. Sự hiệu quả chủ yếu
được đánh giá về phương diện số lượng đất đai được mở rộng, sử dụng và số
lượng nông sản được tạo ra. Tuy nhiên, đến giai đoạn nền kinh tế đã có trình độ
phát triển cao, mặc dù sức cơ bắp vẫn là một yếu tố quan trọng để nông dân có
thể thực hiện được các hoạt động lao động sản xuất, nhưng chính trình độ khoa
học kỹ thuật của người lao động mới là yếu tố quyết định đến việc sử dụng một
cách có hiệu quả đất nông nghiệp. Tính hiệu quả của việc sử dụng đất nông
nghiệp trong giai đoạn hiện nay tất nhiên hàm chứa nhiều đòi hỏi mới, đó là sử
dụng đúng khả năng thích nghi của đất; nâng cao được hệ số sử dụng và giá trị
sản xuất trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp, đồng thời sử dụng đất nông
nghiệp một cách bền vững, đảm bảo được tính đa dạng sinh học. Chính vì vậy,
việc sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả hay không là do người nông dân có
khả năng giải quyết được toàn bộ những đòi hỏi trên hay không. Và điều này lại
phụ thuộc hoàn toàn vào vốn tri thức khoa học kỹ thuật của họ trong lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp là một quá trình thống nhất có liên quan chặt chẽ
với nhau từ đầu đến cuối, đòi hỏi người lao động phải đảm đương cả việc tổ
chức sản xuất. Trong đó ứng dụng tiến bộ kỹ thuật là vấn đề then chốt. Việc ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật đòi hỏi người lao động phải có một trình độ tương ứng để
nắm bắt và triển khai thực hiện. Đặc biệt, việc triển khai thực hiện rất cần sự
linh hoạt, sáng tạo, ứng dụng phù hợp vì công nghệ càng cao, kỹ thuật càng hiện
đại thì sự sai sót trong ứng dụng càng mang lại hậu quả khó lường. Trong sản
xuất nông nghiệp người lao động cần hiểu sâu các lĩnh vực để áp dụng các mô
hình khoa học công nghệ phù hợp. V.I.Lênin viết:
Cần phải thấy rằng tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp biểu hiện ra
khác nhau, tùy theo chế độ nông nghiệp, tùy theo chế độ canh tác. Nếu
trong việc trồng ngũ cốc và quảng canh, tiến bộ đó có thể biểu hiện ra
đơn thuần bằng việc mở rộng diện tích gieo trồng và bằng việc giảm
bớt số công nhân, số súc vật v.v... trên mỗi đơn vị diện tích gieo trồng,
thì trong chăn nuôi hoặc trong từng cây công nghiệp, với việc áp dụng
thâm canh, tiến bộ đó có thể biểu hiện ra, ví dụ như bằng việc trồng
cây có củ là thứ cây cần có một số công nhân đông hơn trên mỗi đơn
vị diện tích gieo trồng, hoặc bằng việc chăn nuôi súc vật lấy sữa, trồng
cỏ v.v... [15, tr.74].
Đối với lao động quản lý trong nông nghiệp, việc quản lý, điều hành các
tổ chức kinh tế nông nghiệp phải trên cơ sở giải quyết hài hòa các quan hệ đất
đai, tạo động lực cho người lao động nông nghiệp đẩy mạnh thâm canh, ứng
dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Để giải quyết được vấn đề này,
đòi hỏi đội ngũ lao động quản lý nông nghiệp phải có năng lực quản lý và tổ
chức thực tiễn, trên cơ sở đó tìm ra các phương thức thích hợp để sử dụng quỹ
đất có hiệu quả tùy theo chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình nông - lâm -
ngư trường. Trường hợp không tìm được lối ra thích hợp thì thực hiện giao
khoán đất cho các hộ gia đình hoặc tiến hành cải tổ bộ máy quản lý của các tổ
chức kinh tế nông nghiệp theo hướng đổi mới tư duy. Nếu không đây sẽ là một
trở ngại lớn đối với việc khai thác nguồn lực đất đai, gây nên sự lãng phí nguồn
lực này trên quy mô lớn, mà những hạn chế trong mô hình hợp tác xã nông
nghiệp những năm trước đổi mới là minh chứng điển hình.
Ở nông thôn nước ta, trình độ dân trí còn hạn chế. Đây là cản trở lớn nhất
trong quá trình chuyển giao công nghệ. Đối tượng tiếp thu công nghệ ở địa bàn
nông thôn hiện nay chủ yếu là hộ nông dân, khả năng tiếp thu và xử lý công
nghệ chủ yếu dừng lại ở những dạng công nghệ trung bình.
Lao động ở nông thôn Việt Nam hiện chiếm trên 70% dân số và canh tác
nông nghiệp theo hình thức tiểu nông là chính. Phần lớn sản xuất theo kinh
nghiệm cha truyền con nối, không qua đào tạo. Theo một điều tra của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ có 25% số nông dân được tiếp cận thông tin
thị trường thông qua báo chí và hội chợ. Bên cạnh đó nông dân thiếu kiến thức
về khoa học - kỹ thuật sản xuất hàng hóa. Do đó ảnh hưởng rất lớn đến khả năng
sử dụng đất nông nghiệp.
1.2.2. Yêu cầu đặt ra đối với đất nông nghiệp trong việc phát triển nông
sản hàng hóa
Để phát triển nông sản hàng hóa nhất thiết phải nâng cao hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp gắn với chuyên môn hóa sản xuất. V.I.Lênin cho rằng: “Sự
phát triển của nông nghiệp thương phẩm biểu hiện ra trong việc chuyên môn hóa
nông nghiệp” [15, tr.309]. Việc chuyên môn hóa nông nghiệp gắn với những khu
vực cụ thể, ở đó đất nông nghiệp có chất lượng phù hợp để chuyên canh những
loại cây trồng vật nuôi nhất định, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhằm khai thác
tối đa các lợi thế so sánh của đất đai từng vùng. Theo ông: “Chuyên môn hóa
của nông nghiệp dẫn tới trao đổi giữa các vùng nông nghiệp, giữa các doanh
nghiệp nông nghiệp, giữa các nông sản khác nhau” [15, tr.385].
Tuy nhiên để chuyên môn hóa nông nghiệp đòi hỏi đất nông nghiệp phải
có tính đa dạng để hình thành các vùng chuyên canh. Tính đa dạng của đất nông
nghiệp là yếu tố quyết định đến việc sản xuất hàng hóa. Bởi vì tính đa dạng của
đất đai quy định sự đa dạng của nông sản hàng hóa, nó có sự gắn bó mật thiết
với sự phân công lao động trong nông nghiệp. Phân công lao động đã thúc đẩy
người lao động hạn chế thời gian lao động tất yếu xuống mức thấp nhất, tăng độ
dài và hiệu suất lao động thặng dư lên mức cao nhất để thu được hiệu quả sản
xuất một cách tối ưu. Độ phì của đất đai, sự hào phóng của thiên nhiên mặc dù
đem lại khả năng có nhiều thời gian lao động thặng dư nhưng phân công lao
động mới là nhân tố biến cái khả năng có lao động thặng dư đó thành sản phẩm
thặng dư hiện thực. Thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế xã hội của nước ta cũng
như một số nước Đông Nam Á khác cho thấy rằng sự thuận lợi về độ phì của đất
đai để phát triển lúa nước đã lôi cuốn phần lớn người lao động nông nghiệp vào
nghề trồng lúa làm cho lao động, sản phẩm cũng như nhu cầu của họ căn bản
giống nhau, giữa họ không có sản phẩm gì mới lạ. Do đó đã dẫn đến trao đổi
kém phát triển và khi không có trao đổi thì dù còn rất nhiều thời gian nhàn rỗi
trong năm, người lao động cũng không có động lực để sản xuất thêm lương thực
nữa mà chuyển sang làm những việc khác tuy không chuyên nghiệp nhưng lại
cần thiết cho cuộc sống của họ, chẳng hạn như chế tạo ra các dụng cụ sử dụng
trong gia đình. Như vậy một lượng lao động thặng dư rất lớn trong nông nghiệp
đã bị biến thành lao động tất yếu của hoạt động sản xuất thủ công. Khi không có
phân công lao động và trao đổi thì đất đai dù có độ phì rất lớn, chứa đựng trong
nó khả năng lao động thặng dư rất cao thì lao động thặng dư đó cũng chỉ được
sử dụng một cách phi sản xuất hoặc sản xuất cho những nhu cầu khác với hiệu
suất thấp. Trong khi đó, tính đa dạng của đất đai cho phép phát triển nông phẩm
đa dạng, có thể nuôi trồng các loại cây con khác ngoài cây lúa nước. Đặc tính tự
nhiên của chúng đòi hỏi người lao động phải có những am hiểu nhất định đối
với từng loài, sự phân công lao động bước đầu được hình thành ở những mảng
canh tác lớn và ngày càng có tính chất chuyên sâu. Sự trao đổi giữa các sản
phẩm khác nhau của toàn bộ các hoạt động sản xuất ấy đã thúc đẩy việc sản xuất
nông nghiệp vượt qua giới hạn của sản phẩm tất yếu, tạo ra sự dồi dào của sản
phẩm xã hội.
Như vậy, sự đa dạng của đất đai (đồng nghĩa với sự đa dạng của tư liệu
sản xuất trong nông nghiệp) là một trong những cơ sở tự nhiên của sự phân công
lao động xã hội trong nông nghiệp. Ở nước ta, đồng bằng có đặc tính thuận lợi
cho việc trồng cây lương thực, cây thực phẩm, chăn nuôi gia cầm; trung du và
miền núi thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp và chăn nuôi gia súc; vùng
duyên hải thích hợp với việc nuôi trồng thủy sản và sản xuất muối... Sự phân
công lao động phát triển trên cơ sở của những điều kiện ấy, nó thúc đẩy nền sản
xuất hàng hóa phát triển nhanh chóng. Trong lịch sử phát triển của nông nghiệp,
quá trình phát triển phân công lao động xã hội diễn ra thông qua trước hết là
chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, sau đó nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp.
Trong nội bộ sản xuất nông nghiệp, càng chuyên môn hóa bao nhiêu thì tỷ suất
hàng hóa càng cao bấy nhiêu.
Bên cạnh đó, để phát triển nông sản hàng hóa, sự tích tụ và tập trung
ruộng đất là một trong những yêu cầu khách quan. Bởi vì trong nền sản xuất
nông nghiệp hàng hóa lớn, diện tích thương phẩm (là diện tích sản xuất ra nông
phẩm để bán) và hiệu quả kinh doanh là các yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt,
V.I.Lênin viết: “Sự phát triển của nông nghiệp thương phẩm tạo ra thị trường
trong nước của chủ nghĩa tư bản” [15, tr.385]. Trong đó chuyên môn hóa của
nông nghiệp trên cơ sở thâm canh sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng đất dẫn
tới trao đổi giữa các vùng nông nghiệp, giữa các nông sản khác nhau. Nếu
không nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp thì không thể phát triển một
nền nông nghiệp hàng hóa được; nền kinh tế nông nghiệp khi đó chỉ sản xuất ra
một số lượng sản phẩm nhất định đủ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, dừng lại ở
trình độ tự cấp, tự túc. Diện tích thương phẩm chỉ có thể được thiết lập khi
ruộng đất đã có sự tích tụ, tập trung đến một mức độ nhất định, vượt qua giới
hạn diện tích sản xuất nông sản phục vụ cho chính bản thân người lao động nông
nghiệp, tức là diện tích sản xuất mang tính chất tự cấp, tự túc. Nếu không vượt
được giới hạn diện tích này, sẽ không có nông sản hàng hóa vì khi sản xuất được
bao nhiêu bản thân người lao động nông nghiệp sẽ tiêu dùng hết bấy nhiêu.
Trong thực tế, diện tích sản xuất mang tính chất tự cấp, tự túc có thể được thu
hẹp lại do việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất làm cho năng suất lao
động nông nghiệp tăng lên, lúc này lượng nông sản trên một diện tích nhỏ hơn
của đất nông nghiệp cũng đủ đáp ứng nhu cầu về nông sản như trước đây cho
bản thân người lao động. Vì vậy, trong điều kiện diện tích sản xuất không đổi,
diện tích thương phẩm sẽ tăng lên hoàn toàn giống như cách tăng của thời gian
lao động thặng dư trong phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Từ những vấn đề trên, tầm quan trọng của việc tích tụ, tập trung ruộng đất
đối với sự phát triển nông sản hàng hóa đã được khẳng định: Một mặt, nó tạo ra
diện tích thương phẩm khi vượt qua giới hạn diện tích tự cấp, tự túc, mặt khác
tích tụ, tập trung ruộng đất là điều kiện để đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất
dẫn đến diện tích thương phẩm tăng lên. Năng suất lao động có được do việc
ứng dụng khoa học kỹ thuật càng cao thì diện tích thương phẩm tăng lên càng
nhiều trong một giới hạn đất sản xuất nông nghiệp nhất định.
Chính vì vậy A.V. Traianốp (1888 - 1939), nhà khoa học lớn về kinh tế
nông nghiệp của đất nước Xô Viết, đã cho rằng: Khi vượt ra khỏi kinh tế nửa tự
nhiên (nửa tự cung tự cấp), người nông dân bắt đầu cảm thấy rõ sự cần thiết của
tín dụng, kỹ thuật và công nghệ tiến bộ. Nhưng mặt khác, các quá trình thuần
túy sinh học (trong trồng trọt cũng như trong chăn nuôi) lại đòi hỏi một sự chăm
sóc của từng cá nhân và điều đó lại hạn chế sự phát triển theo chiều rộng của
doanh nghiệp nông dân. Do đó ở kinh tế hộ luôn tiềm ẩn những khả năng hình
thành các hợp tác xã tự nguyện dựa trên các khâu canh tác mà người nông dân
cần đến sự hợp lực để áp dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm tăng năng suất lao động, sử
dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai.
Ở Việt Nam, tài nguyên đất, nhất là đất nông nghiệp quá ít là một khó
khăn lớn đối với nền kinh tế. Vì vậy để nâng cao đời sống người lao động thông
qua việc đẩy mạnh sản xuất nông sản hàng hóa, việc nâng cao hiệu quả sử dụng
đất là một yêu cầu khách quan.
Tính đa dạng của đất nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với một
nền nông nghiệp hàng hóa và để nâng cao được hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp phục vụ cho phát triển nông sản hàng hóa, sự tích tụ và tập trung ruộng
đất là một trong những nội dung cốt lõi, không thể nói đến hiệu quả toàn diện
khi ruộng đất còn manh mún gắn với sản xuất nhỏ, lạc hậu.
Chương 2
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN
NÔNG SẢN HÀNG HÓA Ở TỈNH BẠC LIÊU
2.1. Thực trạng đất nông nghiệp và các đặc điểm tự nhiên, kinh tế -
xã hội ảnh hưởng đến việc sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Bạc Liêu
2.1.1. Nguồn lực đất nông nghiệp của tỉnh Bạc Liêu
Đất đai của Bạc Liêu phần lớn được hình thành trên các trầm tích biển,
sông biển hỗn hợp trong thời kỳ biển lùi gồm các nhóm chính:
- Nhóm đất cát:
Có diện tích 452 ha (chiếm 0,17% diện tích tự nhiên toàn tỉnh), phân bố
dọc theo bờ biển thị xã Bạc Liêu và các khu vực lân cận. Hình thành trên các
giồng cát biển, có địa hình cao nghiêng thoải vào trong đất liền, thành phần chủ
yếu là cát mịn có lẫn thân lá cây mục trên mặt, có thành phần cơ giới nhẹ, khả
năng giữ nước kém, địa hình dốc nhẹ, dễ thoát nước. Hàm lượng các chất dinh
dưỡng đều nghèo, không bị nhiễm mặn, phèn. Phù hợp đối với việc trồng các
loại cây trồng cạn, rau màu và cây ăn quả có giá trị nếu có khả năng đầu tư tốt.
- Nhóm đất mặn:
Có diện tích 89.835 ha (chiếm 34,78% diện tích tự nhiên), gồm: Đất mặn
thường xuyên dưới rừng ngập mặn (đất mặn nặng) phân bố chủ yếu ở phía Nam
quốc lộ 1A và một phần đất mặn ít mùa khô dọc theo phía Bắc quốc lộ 1A. Đất
mặn được hình thành và phát triển trên các trầm tích biển, sông biển hỗn hợp và
trầm tích biển đầm lầy, tuổi Holocence. Đất chịu ảnh hưởng mặn của nước biển
do thủy triều hoặc mặn ngầm mao dẫn. Đất có phản ứng trung tính đến kiềm yếu, hàm lượng Cl- và tổng số muối tan cao, đất bị nhiễm mặn từ dưới sâu lên đến tầng mặt. Hàm lượng chất hữu cơ tầng mặt khá và giảm nhanh theo độ sâu
tầng đất.
- Nhóm đất phèn:
Có diện tích lớn nhất 128.492 ha (chiếm 49,75% diện tích tự nhiên) gồm:
Đất phèn tiềm tàng, đất phèn hoạt động, đất phèn hoạt động bị thủy phân. Nhóm
đất phèn phân bố chủ yếu ở phía Bắc Quốc lộ 1A. Đất phèn hình thành phát
triển trên các trầm tích đầm lầy - biển và sông - biển hỗn hợp, có đặc điểm bồi
tụ chậm, vật liệu trầm tích chứa nhiều hữu cơ và chất sinh phèn (FeS2). Đất có độ phì tiềm tàng khá cao, đất bị nhiễm mặn không nặng, tính chất vật lý của đất
đã tương đối thuần thục và phát triển xuống sâu, nền đất khá ổn định nên thuận lợi
cho việc thực hiện các biện pháp canh tác trong sử dụng đất cho mục đích trồng trọt
nông nghiệp. Hướng sử dụng thích hợp là canh tác các loại cây trồng nông nghiệp
(đặc biệt là lúa một vụ mùa mưa), hoặc nuôi trồng thủy sản nước lợ.
- Nhóm đất phù sa:
Có diện tích 5.064 ha (chiếm 1,96% diện tích tự nhiên). Đất được hình
thành từ các trầm tích trẻ Aluviven của sông rạch lớn, có nguồn gốc sông - đầm
lầy không chứa vật liệu sinh phèn. Độ phì khá cao, thành phần cơ giới nặng.
Hiện nay, với hệ thống ngăn mặn đang xây dựng tương đối hoàn chỉnh của Dự
án ngọt hóa vùng bán đảo Cà Mau, kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp, một phần diện
tích đất phù sa đã được cung cấp nước ngọt ổn định rất thích hợp cho việc trồng
lúa cao sản, thâm canh tăng vụ và trồng xen các loại hoa màu, cây ăn quả khác.
Nhóm đất phù sa gồm các loại đất: Đất phù sa không được bồi có tầng loang lổ
đỏ vàng (Pf) diện tích 3.641 ha (chiếm tỷ lệ 71,9% nhóm đất phù sa); đất phù sa
không được bồi gley (Pg) thường phân bố ở địa hình thấp hơn, có diện tích
1.423 ha (chiếm tỷ lệ 28,1%).
- Nhóm đất nhân tác:
Đất nhân tác là đất có ảnh hưởng tác động của con người, bị xáo trộn do
quá trình lập liếp phục vụ canh tác các loại cây trồng hoặc sử dụng cho các mục đích khác, có diện tích 13.028,87 ha (chiếm 5,04% diện tích tự nhiên toàn tỉnh),
phân bố tập trung dọc theo các kênh rạch, các trục lộ giao thông lớn và các khu
dân cư tập trung. Đất nhân tác thường được sử dụng để đào ao nuôi trồng thủy
sản. Đất có lớp phủ thổ nhưỡng dày hơn 150 cm.
Nhìn chung đất đai ở Bạc Liêu có lớp phủ thổ nhưỡng bao gồm hai đặc
trưng chính là phèn và mặn, cùng với các đặc trưng khí hậu và tài nguyên nước
đã hình thành hai vùng có đặc điểm tự nhiên riêng biệt: Vùng ven biển (phía nam
Quốc lộ 1A), thuận lợi cho sản xuất lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản; vùng nội
địa (phía bắc Quốc lộ 1A), thuận lợi cả cho sản xuất nông nghiệp thâm canh (chủ
yếu là sản xuất lương thực) và các mô hình sản xuất nông - ngư kết hợp.
Trong tổng quỹ đất tự nhiên của tỉnh Bạc Liêu, diện tích đang sử dụng là
239.353,60 ha (chiếm 92,68% tổng diện tích tự nhiên), diện tích đất chưa sử
dụng và sông rạch còn 18.893,02 ha (chiếm 7,32% tổng diện tích tự nhiên).
Trong thực tế, diện tích đất chưa sử dụng có khả năng cải tạo và đưa vào các
mục đích sử dụng là 13.047,19 ha (gồm đất bằng chưa sử dụng 13.017,09 ha; đất
chưa sử dụng khác 30,10 ha). Như vậy trong những năm tới việc khai thác, cải
tạo quỹ đất chưa sử dụng trên địa bàn tỉnh để bổ sung cho các mục đích khác sẽ
bị hạn chế, hướng chủ yếu sẽ tập trung khai thác diện tích bãi bồi được tạo thêm
hàng năm do quá trình bồi lắng phù sa để phục vụ cho nuôi trồng thủy sản và
phát triển rừng ngập mặn.
Dựa theo phương pháp “Đánh giá khả năng thích nghi đất đai” (Land
suitability evaluation) của tổ chức Lương nông thế giới (FAO) vào các năm
1976, 1983, 1996, khả năng thích nghi đất đai của tỉnh Bạc Liêu có thể được
phân chia theo 4 mức thuộc 2 nhóm: thích nghi và không thích nghi thông qua
việc đánh giá yêu cầu đất đai của các loại sử dụng đất (land use type - LUT), có
nghĩa là đánh giá mức độ đòi hỏi về các điều kiện tự nhiên của các loại sử dụng
đất. Do điều kiện sinh thái tự nhiên khác biệt nhau của vùng Bắc và Nam Quốc
lộ 1A trong địa bàn tỉnh, yêu cầu đất đai của các loại sử dụng đất được phân lập
riêng theo từng vùng. Có 12 loại sử dụng đất có triển vọng đã được lựa chọn để
phân tích. Trong đó bao gồm:
Loại sử dụng đất trồng cây nông nghiệp, có 8 LUT:
Lúa 3 vụ có tưới (hoặc 2 vụ lúa + 1 vụ màu);
Lúa 2 vụ có tưới (hoặc 1 vụ lúa + 1 vụ màu);
Lúa 2 vụ có tưới + Cá đồng;
Lúa 1 - 2 vụ cao sản nhờ mưa;
Lúa 1 - 2 vụ nhờ mưa (hoặc 1 vụ lúa + 1 vụ màu);
Lúa 1 vụ nhờ mưa + Nuôi thủy sản nước lợ;
Khóm + Tôm sú;
Cây ăn quả, chuyên rau màu.
Loại sử dụng đất nuôi trồng thủy sản, có 1 LUT:
Chuyên nuôi tôm (ở các dạng: quảng canh cải tiến, bán thâm canh
và thâm canh).
Loại sử dụng đất lâm nghiệp, có 2 LUT:
Rừng ngập mặn;
Rừng ngập mặn (+ Nuôi tôm quảng canh cải tiến).
Loại sử dụng đất chuyên dùng, có 1 LUT:
Làm muối (+ Nuôi tôm quảng canh cải tiến).
Trên cơ sở bản đồ tài nguyên đất đai và bản đồ khả năng thích nghi đất đai
đã được xây dựng cho toàn tỉnh, hướng bố trí sử dụng đất đối với từng khu vực
sẽ là cơ sở vững chắc nhằm khai thác tài nguyên đất của 2 vùng sinh thái của
tỉnh một cách hợp lý. Trong đó:
Vùng Nam Quốc lộ 1A được phân lập thành 10 vùng thích nghi khác
nhau, khả năng thích hợp chủ yếu cho các mô hình chuyên nuôi tôm, tôm - lúa,
làm muối và khôi phục rừng ngập mặn.
Vùng Bắc Quốc lộ 1A được phân lập thành 11 vùng thích nghi khác nhau.
Trong vùng này điều kiện đất đai phía đông thích hợp cho canh tác lúa - màu và
chuyên canh các cây trồng nông nghiệp khác, trong khi các khu vực còn lại ở
phía tây lại thích nghi hơn cho các mô hình nuôi trồng thủy sản.
2.1.2. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của Bạc Liêu ảnh hưởng
đến việc sử dụng đất nông nghiệp
2.1.2.1. Đặc điểm tự nhiên
- Vị trí địa lý:
Bạc Liêu là tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà
Mau - miền đất cực nam của Tổ quốc, phía bắc giáp tỉnh Cần Thơ, phía tây bắc
giáp tỉnh Kiên Giang, đông và đông bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, tây và tây nam
giáp tỉnh Cà Mau, đông và đông nam giáp biển Đông.
Bạc Liêu có diện tích tự nhiên 2.582,46 km2, bằng 1/6 diện tích đồng bằng sông Cửu Long, gồm 07 huyện thị là thị xã Bạc Liêu; các huyện Phước
Long, Hồng Dân, Hòa Bình, Vĩnh Lợi, Giá Rai, Đông Hải. Thị xã Bạc Liêu là
trung tâm hành chính của tỉnh, cách Thành phố Hồ Chí Minh 280 km và Thành
phố Cần Thơ 110 km về phía Bắc theo trục Quốc lộ 1A, cách Thành phố Cà
Mau 67 km về phía Nam.
Toàn tỉnh có 56 km bờ biển với các cửa biển quan trọng như Gành Hào,
Nhà Mát, Cái Cùng, là nơi trung chuyển hàng hóa, nút giao thông đường thủy
quan trọng.
- Địa hình:
Bạc Liêu là vùng đất trẻ được hình thành từ quá trình bồi lắng phù sa, địa
hình bị chia cắt bởi hệ thống kênh rạch chằng chịt, mang đậm nét đặc trưng của
các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long.
Địa hình của tỉnh tương đối bằng phẳng, có độ dốc không đáng kể theo
hướng Đông Bắc - Tây Nam với cao độ ở phía Bắc 0,7 - 0,8 m, ở phía Nam 0,4 -
0,5 m, cao hơn mức bình quân của bán đảo Cà Mau. Khu vực có địa hình cao
nhất là khu vực thuộc thị xã Bạc Liêu - Nhà Mát và hai bên nửa phía bắc của đê
Trường Sơn.
Phía Bắc Quốc lộ 1A địa hình thấp (cao trung bình 0,2 - 0,3 m). Dạng địa
hình như trên tạo thuận lợi tận dụng nước triều để tiêu thoát nước, nhưng cũng
tạo thành những vùng trũng đọng nước chua phèn gây khó khăn cho canh tác
nông nghiệp.
Phía Nam Quốc lộ 1A có địa hình cao hơn (trung bình 0,4 - 0,8 m), do có
những giồng cát biển không liên tục, tạo nên khu vực có địa hình cao ven biển
hướng nghiêng thấp dần từ biển vào nội địa.
Nhìn chung đặc điểm địa hình của tỉnh khá bằng phẳng, độ nghiêng thấp,
nên thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp và giao thông vận tải.
- Khí hậu, thủy văn:
Bạc Liêu nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, thời tiết chia
làm hai mùa rõ rệt, lượng mưa bình quân hàng năm từ 1900 - 2100 mm. Mùa
mưa chủ yếu diễn ra trong các tháng từ tháng 5 đến tháng 11 và chiếm tới 90%
lượng mưa cả năm, các tháng còn lại thuộc mùa khô, ít mưa hoặc hoàn toàn không có mưa. Nhiệt độ trung bình năm là 27oC. Số giờ nắng trong năm đạt
khoảng 2.400 giờ, lượng bức xạ bình quân hàng năm khoảng 2450 kcal/cm2. Độ ẩm không khí trung bình năm là 84%.
Do nằm ở vĩ độ thấp (từ 9o32’ đến 9o38’9” vĩ độ Bắc), Bạc Liêu hầu như ít chịu ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới. Trường hợp cơn bão số 5 năm
1997 đổ bộ vào bán đảo Cà Mau là một trường hợp đặc biệt trong vòng 100 năm
trở lại đây. Tuy thuộc đồng bằng sông Cửu Long nhưng Bạc Liêu không chịu
ảnh hưởng trực tiếp của lũ lụt hệ thống sông Cửu Long mà chịu tác động mạnh
của thủy triều biển Đông. Trong những năm gần đây việc triển khai Dự án ngọt
hóa bán đảo Cà Mau với hàng loạt các công trình ngăn mặn đã hạn chế ít nhiều
sự tác động của thủy triều đối với mọi khu vực trong tỉnh.
Chế độ thủy văn sông Hậu (một nhánh của sông Mê Kông khi đổ vào Việt
Nam) cũng ảnh hưởng khá rõ đến chế độ nước của các kênh rạch thông qua hệ
thống công trình dẫn ngọt Quản Lộ - Phụng Hiệp. Nguồn nước từ sông Hậu
mang hàm lượng phù sa lớn, nhất là vào mùa lũ. Hàm lượng phù sa đạt 1,4 kg/m3 khi nước lên, 1,2 kg/m3 khi nước xuống. Lượng phù sa của các sông đổ ra biển qua các cửa Gành Hào, Cái Cùng, Nhà Mát… hàng năm bồi lấn ra biển.
Tuy nhiên hàm lượng phù sa lớn cùng với hiện tượng dâng nước tạo điều kiện
bồi lắng các kênh rạch đòi hỏi phải nạo vét thường xuyên.
- Thổ nhưỡng:
Phần lớn đất đai trong tỉnh là đất phù sa bồi đắp lâu năm và ổn định,
lượng bùn và đạm cao, thích hợp cho việc phát triển một nền nông nghiệp hàng
hóa toàn diện, trong đó sản xuất lương thực và nuôi trồng thủy sản là hai ngành
có ưu thế lớn. Việc cải tạo đất phèn, đất mặn tương đối công phu với biện pháp
chủ yếu là ngăn mặn, xổ phèn, đào kênh thoát nước, chống úng cục bộ.
Do quá trình bồi tụ ở các cửa sông đi đôi với hiện tượng xâm thực, lở đất
ở một số khu vực ven biển, diện tích các loại đất ở Bạc Liêu vẫn còn nhiều biến
động. Sự biến động nhìn chung theo xu hướng tăng lên vì quá trình bồi nhiều
hơn lở. Có thể thấy rằng sự bồi đắp đồng bằng ở bán đảo Cà Mau trong quá khứ
cũng như hiện nay không đồng đều trên toàn bộ chiều rộng của sườn ngầm. Có
nhiều khu vực không cao hơn bao nhiêu so với mặt biển, bờ biển có đoạn thì bị
xói lở như từ cửa biển Gành Hào kéo dài đến xóm Rạch Gốc thuộc địa phận Cà
Mau; còn nơi khác thì tiếp tục tiến ra biển. Tốc độ lấn ra biển của Bạc Liêu
trung bình hàng năm từ 60 - 80 mét. Hiện nay, đã hình thành một bãi bồi dọc bờ
biển dài khoảng 40 km và rộng từ 1 - 2 km, trải dài từ thị xã Bạc Liêu đến khu
vực Gò Cát thuộc huyện Đông Hải.
- Tài nguyên nước:
Nước mặt: Ngoài nước mưa là nguồn nước chủ yếu phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp và sinh hoạt, nguồn nước ngọt thuộc Dự án ngọt hóa bán đảo Cà
Mau được đưa về từ sông Hậu có vị trí rất quan trọng đối với việc tưới tiêu trong
mùa khô hạn, phục vụ thâm canh nông nghiệp, tăng năng suất canh tác.
Nước ngầm: Nguồn nước ngầm tầng nông nằm sát mặt đất được bổ sung
bằng nước mưa và lượng nước từ kênh rạch. Mực thủy cấp của nguồn nước này
thay đổi tùy theo mùa. Mùa mưa mực nước cách mặt đất từ 0,5 - 1,0 m, mùa khô
mực nước hạ thấp xuống 1 - 3m. Nguồn nước ngầm tầng nông thường bị nhiễm
mặn, phèn do vậy không thể sử dụng cho sản xuất, sinh hoạt. Về mùa khô nước
được chuyển lên mặt đất bằng các mao dẫn mang theo muối và các chất gây độc
không có lợi cho cây trồng (hiện tượng xì phèn).
Nguồn nước ngầm ở tầng sâu khá phong phú với trữ lượng lớn, chất
lượng khá tốt. Có 4 tầng nước ngầm có thể khai thác nằm ở độ sâu khoảng từ 80
- 500 m trong địa bàn tỉnh. Hiện tại tầng nước được khai thác và sử dụng nhiều
có độ sâu trung bình 80 - 100 m. Trữ lượng khai thác có thể đạt từ 3,68 triệu m3/ngày.
Tuy nhiên với độ sâu trung bình 80 - 100 m, thuộc tầng bồi tụ trầm tích
Holocene (cách đây khoảng 45.500 năm) trong thời kỳ biển tiến vào vùng trũng
Nam bộ sau đó hạ xuống như mực nước biển ngày nay, nên mực nước ngầm
được khai thác có thể bị nhiễm phèn. Trong thực tế, việc khai thác nước ngầm
vẫn chưa được quản lý một cách đúng mức.
Nguồn nước mặn và nước lợ không thể tiến hành sản xuất lương thực
nhưng lại là môi trường thuận lợi cho việc khai thác và nuôi trồng thủy hải sản
và sản xuất muối. Nếu xác định giới hạn của vùng cửa sông là nằm trong phạm
vi của đường ranh mặn từ 0,50/00 đến đường ranh mặn 300/00 thì hai vùng sinh thái cửa sông và biển ven bờ có thể kết hợp lại là một. Với đặc tính giàu phù sa
bồi lắng và có độ mặn thích hợp, khu vực này đã và đang chứa đựng một tiềm
năng to lớn để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa phục vụ xuất khẩu.
- Tài nguyên rừng:
Hệ sinh thái rừng của Bạc Liêu thuộc dạng rừng ngập mặn và úng phèn
thiên về giá trị phòng hộ và bảo vệ môi trường; trong đó chủ yếu là rừng phòng
hộ. Rừng ngập mặn Bạc Liêu tồn tại và phát triển tạo nên một lớp thảm thực vật,
hình thành nên hệ sinh thái ngập nước trung gian giữa hệ sinh thái biển và nội
địa khá đặc biệt.
Bạc Liêu hiện có 4.831,65 ha rừng, trong đó rừng phòng hộ ven biển có
diện tích 4.656,82 ha, phân bố dọc khu vực bãi bồi ven biển từ giáp tỉnh Sóc
Trăng đến cửa sông Gành Hào, chủ yếu là cây mắm trắng; rừng đặc dụng có
7,20 ha là diện tích sân chim Bạc Liêu; còn lại là rừng sản xuất. Hệ sinh thái
rừng Bạc Liêu mang nét đặc trưng hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển vùng
đồng bằng sông Cửu Long, có năng suất sinh học cao, với hệ động, thực vật khá
đa dạng. Theo thống kê có 64 loài thực vật (32 loài ngập mặn và 32 loài tham
gia) thuộc 27 họ, chủ yếu là cây đước, vẹt, mắm. Động vật trong rừng ngập mặn
có 21 loài thú, 22 loài bò sát, 9 loài ếch, 41 loài chim đầm lầy, 64 loài tôm và
258 loài cá nước mặn.
Không gian phân bố các loại động, thực vật, vi sinh vật trong rừng ngập
mặn rất phong phú: chim chóc sống trên cây; dưới đất là các loại thú nhỏ, động
vật thuộc lớp bò sát; các loài giáp xác, thân mềm sống trên các bãi bồi, trong
môi trường nước. Đây là một trong những hệ sinh thái có giá trị quan trọng
trong việc bảo tồn đa dạng sinh học cho đới biển ven bờ, đồng thời duy trì
nguồn lợi sinh vật tiềm tàng cho sự phát triển ngành thủy sản bền vững.
- Tài nguyên biển: Bạc Liêu có vùng biển rộng trên 40.000 km2 với 56 km bờ biển. Đây là vùng biển có trữ lượng hải sản lớn và đa dạng về chủng loại, với 661 loài cá, 33
loài tôm. Nhiều loài có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế cao như: cá Thu, cá Chim,
cá Đường, cá Sao, cá Gộc… và nhiều loài tôm có giá trị thương phẩm. Hàng
năm, vùng biển này cho phép đánh bắt từ 240 đến 300 nghìn tấn cá và khoảng
10 nghìn tấn tôm các loại. Bên cạnh đó còn nhiều loài hải sản quý có giá trị dinh
dưỡng cao như mực, sò huyết…
Vùng biển Bạc Liêu còn chứa đựng tiềm năng phát triển vận tải biển phục
vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa và dịch vụ đánh bắt hải sản với các cửa biển nối
liền với hệ thống kênh rạch nội địa. Đây là con đường thuận lợi nhất để chuyên
chở các hàng hóa cồng kềnh, trọng tải lớn với chi phí vận chuyển thấp nhất, chỉ
bằng 1/5 so với đường bộ.
2.1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
* Về phát triển kinh tế:
Là một tỉnh mới được chia tách từ tỉnh Minh Hải và đi vào hoạt động
chính thức từ ngày 01/01/1997. Với những nguồn lực hiện có, Bạc Liêu có nhiều
tiềm năng để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, giai đoạn 1997 - 2000 là 13,8 %/ năm
đến giai đoạn 2001 - 2005 đạt 15,7 %/ năm.
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm trên địa bàn phân theo khu vực kinh tế [4, tr.40]
(Giá so sánh 1994)
Đơn vị tính: Triệu đồng
Dịch vụ
Năm
Tổng số
Nông, Lâm, Ngư nghiệp
Trung ương
2001
2.796.360
Địa phương 1.522.852
Chia ra Công nghiệp và Xây dựng Địa phương 599.220
Trung ương 63.112
Trung ương 66.914
Địa phương 544.262
2002
3.318.122
1.764.335
78.497
765.844
84.814
624.632
2003
3.958.587
2.094.367
97.331
928.944
101.776
736.169
2004
4.535.434
2.441.954
108.931 1.010.104
116.069
858.376
2005
5.075.515
2.732.979
119.831 1.051.617
130.569 1.040.519
- Khu vực kinh tế nông nghiệp:
Khu vực kinh tế nông nghiệp những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu
nổi bật, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát
triển. Năm 2004 GDP khu vực kinh tế nông nghiệp đạt 2.442 tỷ đồng (giá so
sánh năm 1994), chiếm 59,6% GDP của tỉnh, tăng gấp 1,71 lần so với năm 2000.
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 - 2004 đạt 14,35%/năm. Cơ cấu
kinh tế khu vực kinh tế nông nghiệp có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng
giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp; tăng tỷ trọng thủy sản. Một số mặt hàng nông
sản mũi nhọn của tỉnh đã có thị trường tiêu thụ ổn định trong và ngoài nước như
tôm, cá, lúa gạo.
- Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có tốc độ tăng trưởng ổn định:
Giá trị sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2001 -
2005 là 16,95%. Trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,95%; khu
vực ngoài quốc doanh tăng 21,50%. Việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất
công nghiệp có tác dụng thúc đẩy quy mô, chủng loại và chất lượng sản phẩm
không ngừng tăng lên, nhiều mặt hàng đã có chỗ đứng khá vững trên thị trường.
- Thương mại - dịch vụ và du lịch:
Tổng mức bán lẻ hàng hoá tăng từ 2.224 tỷ đồng năm 2000, lên 4.950 tỷ
đồng năm 2005 (tính theo giá thực tế); nhịp độ tăng bình quân hàng năm là
17,35%. Một số chợ và khu buôn bán tập trung được chỉnh trang, mở rộng; nhu
cầu về trao đổi, mua bán… của nhân dân cơ bản được đảm bảo.
Các ngành dịch vụ có bước phát triển tích cực, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư. Giá trị dịch vụ tăng bình quân hàng
năm là 19%. Trong đó, dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, tin học, kỹ thuật, y
tế… thu hút được nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh tham gia.
Lượng khách đến địa bàn tỉnh hàng năm tăng bình quân gần 10%, doanh
thu tăng 4,7%/năm. Nhiều dự án đã và đang được đầu tư phục vụ phát triển du lịch.
- Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Nhìn chung cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001 - 2005 chuyển dịch chậm do tập
trung khai thác tiềm năng đất đai và các điều kiện tự nhiên để phát triển nông nghiêp
và nuôi trồng thủy sản. Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 17,7 % năm
2000 lên 22,11% năm 2005, ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 60,3 % năm 2000
xuống 57,66 % năm 2005, ngành dịch vụ duy trì ở mức trên dưới 21%.
Tuy cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, nhưng trong từng ngành đã có sự
chuyển đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa: đầu tư đổi mới thiết bị;
ứng dụng khoa học, công nghệ; gắn sản xuất với thị trường; nâng cao hiệu quả
và khả năng cạnh tranh.
Trong cơ cấu lao động, lao động công nghiệp tăng từ 6,2% năm 2000, lên
7,5% năm 2005; lao động dịch vụ tăng từ 15,3% năm 2000 lên 20% năm 2005;
lao động nông - lâm - ngư - diêm nghiệp từ 73,5% năm 2000, giảm xuống còn
72,5% năm 2005 (trong đó ngành nông - lâm - diêm nghiệp từ 60,9% năm 2000,
giảm xuống còn 25% năm 2005, riêng ngành thủy sản tăng từ 12,7% năm 2000
lên 48% năm 2005. Đến nay, toàn tỉnh có 68.892 hộ nuôi trồng thủy sản với
193.211 lao động, thu nhập bình quân khoảng 12 triệu đồng/ người / năm).
- Về xây dựng kết cấu hạ tầng:
Từ năm 2001 đến nay đã xây dựng hơn 4.583 km kênh thủy lợi, thủy
nông nội đồng; hoàn thành nhiều tuyến lộ tỉnh, huyện và xã với 967 km đường
nhựa và bê tông, 15 cầu bê tông cốt thép, trên 1.202 cầu kiên cố và bán kiến cố.
Đến cuối năm 2005 có 37/ 54 xã, thị trấn có đường ô tô đến trung tâm, cơ bản
hoàn thành hệ thống giao thông nông thôn; kéo mới 425 km đường dây tải điện
(nâng tỷ lệ hộ dùng điện từ 44% năm 2000, lên 90,4% năm 2005, trong đó hộ
nông thôn đạt 85%); có 97% phòng học được xây dựng kiên cố, trong đó có
40,36% phòng học đạt tiêu chuẩn nhà cấp 3 trở lên; 100% trạm y tế đã được xây
dựng cơ bản; mạng lưới thông tin liên lạc phát triển nhanh với tốc độ tăng bình
quân 41%/ năm.
- Về kinh tế đối ngoại:
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm (2001 - 2005) đạt 534,5 triệu USD, nhịp
độ tăng bình quân hàng năm 15,2%, chủ yếu là nhóm hàng thủy sản chế biến.
Kim ngạch nhập khẩu không đáng kể, khoảng 15,7 triệu USD, chủ yếu là phân
bón phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Tính từ năm 2001 đến nay, tỉnh đã vận động thu hút được 08 dự án ODA
và nhóm dự án tài trợ từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức 15,1 triệu USD,
trong đó có 01 dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng. Nguồn vốn FDI nước
ngoài đầu tư trực tiếp vào địa bàn tỉnh tăng 2 lần, từ 13 triệu USD năm 2000 lên
26 triệu USD năm 2005, chủ yếu là đầu tư nuôi và chế biến thủy sản.
* Về văn hoá - xã hội:
Năm 2004, dân số của tỉnh là 802.512 người, trong đó người Kinh chiếm
88,8%, người Khơmer 8,0%, người Hoa 3,0% còn lại là các dân tộc khác. Dân
số khu vực đô thị 202.819 người chiếm 25,27%, khu vực nông thôn 599.693
người chiếm 74,73%. Trừ các thị trấn và trục đường Quốc lộ 1A, dân cư được
hình thành theo cụm và theo tuyến khá tập trung, còn lại phân bố phân tán thành
rất nhiều cụm và tuyến dân cư nhỏ, không thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng nông thôn.
- Về công tác giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ:
Trong những năm qua lĩnh vực giáo dục - đào tạo có những chuyển biến
tích cực. Quy mô giáo dục - đào tạo phát triển hợp lý, tỷ lệ huy động học sinh
phổ thông trong độ tuổi đến trường đạt 75%. Trình độ chuyên môn của đội ngũ
giáo viên từng bước được bồi dưỡng, nâng cao, có 88% giáo viên được chuẩn
hóa. Cơ sở vật chất, mạng lưới trường lớp, thiết bị dạy và học được đầu tư theo
tiêu chuẩn quốc gia. Hoạt động dạy nghề có bước phát triển, 5 năm qua đã đào
tạo hơn 22.000 lao động kỹ thuật, góp phần phát triển nguồn nhân lực phục vụ
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Công tác nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ có
những tiến bộ mới. Trong 5 năm, đã đầu tư nghiên cứu 78 đề tài khoa học và
công nghệ, trong đó có 18 đề tài ứng dụng chuyển giao khoa học công nghệ vào
trồng trọt, nuôi thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đưa vào sản xuất thành
công 10 loại giống lúa chất lượng cao, giống lúa chịu phèn mặn trồng trên đất lúa
tôm và vùng ngọt hóa; triển khai chương trình phòng trừ tổng hợp IPM trong canh
tác lúa; ứng dụng công nghệ sau thu hoạch; bước đầu ứng dụng công nghệ quản lý
ISO trong doanh nghiệp và cơ quan hành chính công, đã góp phần nâng cao chất
lượng công tác quản lý, tăng năng suất, hiệu quả và thu nhập của người sản xuất.
- Tình hình giải quyết việc làm:
Công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động đuợc
quan tâm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 21,12%, tỷ lệ sử dụng thời gian lao
động ở nông thôn tăng từ 75,6% năm 2000, lên 85% năm 2005; số người thất
nghiệp khu vực thành thị giảm từ 6,1% năm 2000, xuống còn 4,5% năm 2005.
- Công tác dân số và chăm sóc sức khoẻ nhân dân:
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được cải thiện; cơ sở vật
chất, trang thiết bị y tế được tăng cường; bệnh viện đa khoa tỉnh với quy mô 500
giường đã cơ bản hoàn thành và đưa vào sử dụng, các trung tâm y tế huyện thị
được đầu tư nâng cấp, mạng lưới y tế cơ sở không ngừng được củng cố, các
chương trình y tế quốc gia được chú trọng. Công tác chăm sóc sức khoẻ sinh
sản, kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc trẻ em đạt kết quả cao; tỷ lệ sinh bình
quân giảm 0,03% hàng năm. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ
29,8% năm 2000 xuống còn 24% năm 2005.
- Hoạt động văn hoá, thông tin:
Các hoạt động văn hoá ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn
hoá cho nhân dân; phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, xây dựng nếp
sống văn minh đạt được kết quả đáng kể.
Công tác thông tin báo chí, xuất bản, phát thanh truyền hình tiếp tục phát
triển, phục vụ ngày càng tốt hơn nhiệm vụ chính trị của tỉnh trong xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của nhân dân, nhất là đồng bào nông thôn.
Từ thực trạng trên có thể thấy:
Về thuận lợi:
Bạc Liêu có vị trí địa lý kinh tế khá thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã
hội, có nhiều tuyến đường thuỷ, đường bộ có ý nghĩa chiến lược đối với đồng
bằng sông Cửu Long và quốc gia chạy qua. Trong thời gian tới khi thực hiện các
dự án liên kết bờ biển nước ta nói chung, khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng với các nước trong khu vực, tỉnh Bạc Liêu sẽ có những cơ hội lớn để hội
nhập và phát triển.
Nằm trong vùng dự án ngọt hóa Quản Lộ - Phụng Hiệp đồng thời là vùng
giáp ranh chịu tác động của cả thủy triều biển Đông và Tây, Bạc Liêu có đủ các
điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển sản xuất nông - ngư nghiệp toàn diện,
từ trồng các loại cây lương thực năng suất, chất lượng cao đến khai thác và nuôi
trồng thủy sản, phục vụ xuất khẩu. Năng lực hiện có về chế biến thủy hải sản là
một thế mạnh khác của Bạc Liêu. Do tỷ lệ nguyên liệu địa phương qua chế biến
còn thấp nên nhu cầu đầu tư, mở rộng năng lực của công nghiệp chế biến cũng
còn lớn. Cần tiếp tục tạo môi trường đầu tư thuận lợi kêu gọi các nhà đầu tư từ
mọi thành phần kinh tế tham gia.
Bạc Liêu cũng có rất nhiều cơ hội để phát triển các lĩnh vực công nghiệp
và dịch vụ (nguyên liệu nông nghiệp, ngư nghiệp phong phú). Trong tương lai
gần, Bạc Liêu là một trung tâm giáo dục và đào tạo lớn có truyền thống ở đồng
bằng sông Cửu Long. Ngoài đào tạo lực lượng lao động phục vụ nhu cầu tại chỗ,
Bạc Liêu sẽ là một trung tâm cung cấp dịch vụ đào tạo cho các địa bàn lân cận.
Ngoài ra, các yếu tố nội lực quan trọng như tính sáng tạo của người lao
động, chủ trương, định hướng đúng đắn của tỉnh, của các ngành, các cấp là một
nhân tố quan trọng đã và đang góp phần tích cực dẫn tới thành công trong phát
triển kinh tế - xã hội. Trong tương lai, khi nước ta hội nhập đầy đủ vào kinh tế
thế giới và khu vực, những lợi thế hiện có của Bạc Liêu sẽ còn nhiều cơ hội để
khai thác và phát huy.
Những khó khăn, thách thức:
Mặc dù hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật của tỉnh đã hình thành về cơ bản
nhưng chưa đạt tiêu chuẩn và đang bị xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt là giao
thông nông thôn, hệ thống thủy lợi, trạm, trại phục vụ sản xuất nông nghiệp và
thủy sản cần được đầu tư làm mới và nâng cấp.
Quá trình chuyển đổi sản xuất giữa nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản
thời gian qua đã mang lại nhịp độ tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay. Tuy
nhiên còn diễn ra tự phát, bị động, làm ảnh hưởng đến quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất chung của tỉnh. Quy mô phát triển ồ ạt, không có kế hoạch trong khi hệ
thống hạ tầng chưa phát triển kịp thời, đồng bộ đã làm ảnh hưởng đến môi
trường sinh thái. Đồng thời để duy trì tốc độ tăng trưởng đòi hỏi phải có nguồn
vốn đầu tư lớn.
Môi trường bị ô nhiễm và nguy cơ ô nhiễm đang có xu thế gia tăng, trong
khi khả năng kiểm soát rất hạn chế, việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản cũng như
môi trường sinh thái chưa được coi trọng thỏa đáng. Hệ thống dịch vụ thủy sản,
đặc biệt là khâu sản xuất, cung ứng giống và thức ăn cho tôm cũng như việc phát
hiện và xử lý khi tôm bị nhiễm bệnh còn thiếu.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp; số lao động có kỹ thuật đang làm
việc có năng lực trình độ chuyên môn không theo kịp yêu cầu phát triển.
2.2. Việc sử dụng đất nông nghiệp để phát triển nông sản hàng hóa ở
tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn thực hiện kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2001 -
2005) theo phê duyệt của Chính phủ
Ngày 24/9/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 839/QĐ -
TTg phê duyệt kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2001 - 2005) của tỉnh Bạc Liêu. Đây
là cơ sở định hướng quan trọng cho việc hoạch định các chính sách và đề ra các
giải pháp cụ thể nhằm khai thác, sử dụng nguồn lực đất đai một cách có hiệu quả
trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, phục vụ mục tiêu phát triển toàn diện kinh tế - xã hội.
2.2.1. Những chủ chương, chính sách của tỉnh về khai thác và sử dụng
đất nông nghiệp
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong những năm qua, tỉnh Bạc
Liêu đã tiến hành lập quy hoạch sử dụng đất theo hướng đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và ưu tiên phát triển nông sản hàng hóa. Việc quy hoạch cũng như
điều chỉnh quy hoạch đều xuất phát từ những định hướng phát triển vĩ mô và
điều kiện thực tế của địa phương.
Cơ sở pháp lý để khai thác và sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Bạc Liêu:
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Điều 17, 18.
- Luật đất đai nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Nghị quyết số 09/2000/NQ - CP ngày 15/06/2000 của Chính phủ về một số
chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
- Chỉ thị số 05/2004/CT - TTg của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thi
hành Luật đất đai năm 2003.
- Nghị định số 181/2004/NĐ - CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi
hành Luật đất đai.
- Quyết định số 433/QĐ - TTg ngày 03/06/2002 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Quy hoạch sử dụng đất tỉnh Bạc Liêu đến năm 2010.
- Thông tư số 30/2004/TT - BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về việc lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất.
- Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2002 - 2007 được
Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ nhất thông qua.
- Công văn số 2111/BTNMT - ĐKTK ngày 17/6/2005 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường về việc dành quỹ đất cho các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y
tế, văn hoá - thể thao.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn của địa phương, ngày 04/02/2002 Ủy ban
nhân dân tỉnh Bạc liêu có Quyết định số 02/2002/QĐ - UB về việc phê duyệt
phương án quy hoạch chuyển đổi sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp. Cơ
cấu sử dụng đất để sản xuất các mặt hàng nông sản có những biến động lớn.
Đến ngày 20/8/2003 Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số
25/2003 QĐ - UB về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sản xuất nông - lâm -
ngư - diêm nghiệp tỉnh Bạc liêu đến năm 2010. Việc điều chỉnh quy hoạch lần
này dựa trên cơ sở kết quả thực hiện điều chỉnh quy hoạch và kết quả thực hiện
kế hoạch sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu từ
năm 2000 đến tháng 7 năm 2003 với mục tiêu tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt
Nghị quyết số 09/2000/NQ - CP ngày 15/06/2000 của Chính phủ về một số chủ
trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Bên cạnh đó thực hiện việc điều chỉnh, khắc phục những bất hợp lý trong quá
trình tổ chức thực hiện quy hoạch sản xuất được phê duyệt theo Quyết định số
03/2002/ QĐ - UB của Ủy ban nhân dân tỉnh nhằm phát huy lợi thế về điều kiện
tự nhiên, tăng hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích sản xuất, phù hợp với yêu
cầu nguyện vọng của đại bộ phận nông dân trong vùng; đẩy mạnh phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn phát triển theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để cụ thể hóa các mục tiêu này tỉnh đã ban hành các văn bản, bao gồm:
- Quyết định số 111/QĐ - CT ngày 21/3/2005 của chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh Bạc Liêu về phê duyệt quy hoạch phát triển hợp lý vùng bãi bồi ven
biển tỉnh Bạc Liêu.
- Quyết định số 79/QĐ - UB ngày 26/9/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Bạc Liêu về việc phê duyệt đề cương và dự toán dự án "Điều chỉnh quy hoạch -
kế hoạch sử dụng đất tỉnh Bạc Liêu đến năm 2010”.
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân về việc thông qua điều chỉnh quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bạc Liêu đến năm 2010 và tầm
nhìn đến năm 2020.
- Quy hoạch phát triển các ngành có liên quan đến sử dụng đất trên địa
bàn tỉnh.
Các chủ trương này là cơ sở, điều kiện để nhân dân trong tỉnh sử dụng đất
đai, trong đó có đất nông nghiệp, một cách hợp lý và hiệu quả vì mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội.
2.2.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp để phát triển nông sản hàng
hóa ở tỉnh Bạc Liêu từ năm 2001 đến nay
2.2.2.1. Tình hình quản lý đất đai
Năm 1993 Luật đất đai được ban hành và được Quốc hội thông qua ngày
14/7/1993 đã có nhiều điểm tiến bộ mới, mang lại hiệu quả cao về các mặt kinh
tế - xã hội và pháp lý. Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Minh Hải (cũ) đã chỉ
đạo các ngành chức năng quán triệt nội dung của Luật đến nhân dân. Thực hiện
chỉ thị số 857/ TTg ngày 15/11/1996 của Thủ tướng Chính phủ về phân chia và
điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, trong đó có việc tách tỉnh Minh Hải
thành 2 tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau, Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu tiếp tục chỉ
đạo việc thực thi Luật đất đai trên cơ sở các nội dung quản lý nhà nước về đất
đai và công tác đo đạc bản đồ được hoàn thành về cơ bản.
Thực hiện Luật đất đai, dưới sự chỉ đạo của ủy ban nhân dân các cấp,
công tác quản lý nhà nước về đất đai đã đi vào nề nếp và đã đạt được những kết
quả khả quan.
Thứ nhất, về công tác xác lập, quản lý địa giới hành chính:
Tỉnh đã triển khai Chỉ thị 364/CP của Chính phủ về giải quyết tranh chấp đất
đai thông qua việc xác lập địa giới hành chính, đến nay đã cơ bản hoàn thiện. Thực
hiện Nghị định 166/2003/NĐ - CP ngày 24/12/2003 của Chính phủ về việc thành
lập xã - phường trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, trong đó 8 xã, thị trấn đã được triển
khai thực hiện phân định lại ranh giới hành chính. Tháng 7 năm 2005 thực hiện
Nghị định số 96/2005/NĐ - CP của Chính phủ về việc thành lập huyện Hòa Bình,
đến nay tỉnh đã hoàn thành việc phân định ranh giới hành chính của các huyện mới.
Thứ hai, về công tác đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính giao đất, thu hồi
đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho các chủ sử dụng đất. Đến tháng 6 năm 2005 tỉnh đã cấp được 151.037 giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân với diện
tích 218.530,30 ha, trong đó:
- Đất sản xuất nông nghiệp đã cấp được 110.154 giấy, diện tích
209.779,20 ha đạt 93,91% diện tích cần cấp.
- Đất phi nông nghiệp cấp được 40.883 giấy, diện tích 8.751,10 ha đạt
66,83% diện tích cần cấp, trong đó:
+ Đất ở tại nông thôn cấp được 31.250 giấy, diện tích 2.138,92 ha, đạt
65,94% diện tích đất ở cần cấp.
+ Đất ở tại đô thị đã cấp được 9.309 giấy, diện tích 303.67 ha, đạt 32,58%
diện tích đất cần cấp.
Giao đất, cho thuê đất: Trong 2 năm 2004, 2005 Sở Tài nguyên và Môi
trường đã trình Ủy ban nhân dân tỉnh 12 hồ sơ giao đất, cho thuê đất gồm: 7 hồ
sơ giao đất diện tích 100,91 ha (giao đất không thu tiền sử dụng đất 50,58 ha,
giao đất có thu tiền sử dụng đất 50,33 ha); 5 hồ sơ thuê đất diện tích 0,83 ha.
Công tác thu hồi đất phục vụ các dự án trong những năm qua tuy đạt được
tiến bộ rõ rệt nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn do giá đền bù thấp, ý thức của
người dân chưa cao. Một số dự án bị kéo dài thời gian thực hiện do một số hộ
dân trong vùng dự án không chịu di dời, dẫn đến tình trạng diện tích đất đã thu
hồi bị bỏ hoang.
Nhìn chung công tác giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cơ bản đáp ứng nhu cầu sử dụng đất cho các đơn vị, tổ chức, các hộ gia
đình, cá nhân nhằm thực hiện tốt các dự án phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Việc lập hồ sơ địa chính được triển khai thực hiện ở tất cả các xã, phường,
thị trấn. Các xã, phường, thị trấn đều có sổ theo dõi biến động đất đai nhưng
việc cập nhật các thông tin biến động, chỉnh lý biến động trên hồ sơ không được
làm thường xuyên.
Thứ ba, về công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thống kê, kiểm
kê đất đai:
- Công tác lập quy hoạch sử dụng đất:
Đến nay toàn tỉnh đã có 7 huyện, thị xã tiến hành lập quy hoạch sử dụng
đất đến năm 2010 đã được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
- Công tác lập kế hoạch sử dụng đất:
Căn cứ Quyết định số 839/QĐ - TTg ngày 24/9/2002 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2001 - 2005) của tỉnh Bạc
Liêu; đồng thời căn cứ Quy hoạch sử dụng đất tỉnh Bạc Liêu đến năm 2010 đã
được Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 433/QĐ - TTg ngày 03/6/2002 và
xuất phát từ nhu cầu sử dụng đất thực tế, hàng năm Ủy ban nhân dân tỉnh lập kế
hoạch điều chỉnh, bổ sung kế hoạch sử dụng đất trình và được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt.
Nhìn chung công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn
tỉnh có nhiều chuyển biến. Đặc biệt là việc điều chỉnh, bổ sung kế hoạch sử
dụng đất hàng năm của tỉnh kịp thời làm căn cứ pháp lý để thực hiện giao đất,
cho thuê đất theo quy định.
- Công tác thống kê, kiểm kê đất đai:
Thống kê đất đai hàng năm theo hướng dẫn số 1553/HD - TCĐC ngày
12/10/2000 của Tổng cục Địa chính được thực hiện tốt ở cả 3 cấp. Kiểm kê đất
đai năm 2005 đến nay cơ bản đã hoàn thành.
Công tác thanh tra giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực
đất đai thực hiện khá tốt, nhất là khâu kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ và
căn cứ pháp lý để đề xuất giải quyết, do đó những vụ việc thông qua hội đồng tư
vấn phần lớn được chấp thuận. Công tác hòa giải ở cơ sở cũng được tiến hành
thường xuyên và nhiều vụ việc đã hòa giải thành công, góp phần hạn chế việc
khiếu nại lên cấp trên.
2.2.2.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp
Năm 2005, toàn tỉnh có 223.854,78 ha đất nông nghiệp, chiếm 86,68% diện
tích tự nhiên, bình quân 2.821,04 m2/người. Trong đó bao gồm các loại đất sau:
* Đất sản xuất nông nghiệp:
Bạc Liêu có 98.294,89 ha đất sản xuất nông nghiệp, chiếm 43,91% diện
tích đất nông nghiệp và 38,06% diện tích tự nhiên. Bình quân diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên đầu người của tỉnh đạt 1.212,83 m2/người, cao hơn của cả nước (1.150 m2/người). Đất sản xuất nông nghiệp được phân chia thành 2 loại:
Một là, đất trồng cây hàng năm
Đất trồng cây hàng năm có diện tích 79.790,16 ha, bình quân 984,51
m2/người. Gồm:
- Đất trồng lúa 73.669,88 ha, tập trung chủ yếu ở vùng nước ngọt được
giữ ổn định thuộc khu vực Bắc quốc lộ 1A. Bình quân diện tích đất trồng lúa của Bạc Liêu là 908,99 m2/người, cao hơn của cả nước (527 m2). Trong đó:
Đất chuyên trồng lúa nước: 58.847,18 ha chủ yếu thuộc khu vực dự án
ngọt hoá Quản Lộ - Phụng Hiệp.
Đất trồng lúa nước còn lại: 14.822,70 ha. Trong đó có gần 14.000 ha đất
trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản phân bố khu vực giữa kênh Vĩnh Lộc
và Ngan Dừa (thuộc các huyện Hồng Dân, Hoà Bình) và vùng Nam thị xã
Bạc Liêu. Nhìn chung hiệu quả kinh tế trên đất trồng lúa - tôm cao, thu nhập
của người sản xuất đạt từ 30 - 50 triệu đồng/ha, cao hơn độc canh cây lúa từ
5 - 10 triệu đồng. Tuy nhiên do chưa có hệ thống thủy lợi đồng bộ nên nước
thải từ việc nuôi tôm đã làm đất bị tăng nguy cơ ô nhiễm, và tăng độ nhiễm
mặn, phèn.
- Đất trồng cây hàng năm còn lại có diện tích 6.120,28 ha, trong đó chủ
yếu là diện tích gieo trồng các loại cây lương thực ngoài lúa như ngô, khoai, các
loại rau màu như dưa leo, đậu đũa và các loại cây công nghiệp hàng năm như
mía, đay, cói,… Trong đó diện tích trồng ngô năm 2005 là 350 ha, sản lượng
1.100 tấn, đây là loại cây có tốc độ phát triển chậm cả về quy mô, diện tích,
năng suất và sản lượng do nông dân chưa có kinh nghiệm và tập quán canh tác.
Diện tích khoai, sắn trong toàn tỉnh vào khoảng 900 ha, sản lượng 5.700 tấn.
Các sản phẩm này chủ yếu được tiêu thụ tại chỗ hoặc ở các vùng lân cận. Diện
tích đất trồng cây hàng năm tập trung nhiều ở các huyện thuộc Bắc Quốc lộ 1A,
hiện được sử dụng khá hiệu quả góp phần giải quyết nhu cầu tiêu dùng cho người
dân trong tỉnh và cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến nông sản.
Hai là, đất trồng cây lâu năm
Đất trồng cây lâu năm của Bạc Liêu có 18.504,73 ha. Trong đó:
- Đất trồng cây công nghiệp lâu năm có trên 5.000 ha, chủ yếu là diện tích
đất trồng dừa. Cây dừa được trồng phân tán trong khu vực đất vườn của các hộ
dân, sản phẩm chủ yếu tiêu thụ tại địa phương. Do thực hiện chuyển đổi nên
diện tích sản xuất giảm bình quân 5,76%/năm và còn tiếp tục giảm do vườn dừa
già cỗi, bị xâm nhập mặn, hiệu quả sản xuất thấp (sản lượng năm 2005 đạt
khoảng 5.332 tấn).
- Đất trồng cây ăn quả có 5.920 ha, chủ yếu là các loại cây như: khóm
(diện tích 750 ha, sản lượng 41.400 tấn), chuối (diện tích 1.460 ha, sản lượng
15.900 tấn), nhãn (diện tích 155 ha, sản lượng 650 tấn), và các loại cây ăn quả
khác (diện tích 3.555 ha, sản lượng 18.460 tấn), tập trung nhiều ở khu vực huyện
Hồng Dân, huyện Giá Rai và thị xã Bạc Liêu. Diện tích đất trồng cây ăn quả
giảm bình quân 4,24%/năm, sản lượng giảm 3,6%/năm do ảnh hưởng của quá
trình chuyển đổi sản xuất.
- Đất trồng cây lâu năm khác có 7.584,73 ha.
Trong thực tế, diện tích đất trồng cây lâu năm của tỉnh không phát triển
thành các vùng chuyên canh mà phân tán ở các hộ gia đình là chủ yếu, vì vậy
khó khăn cho công tác bảo quản chế biến sau thu hoạch, phần lớn sản phẩm chỉ
tiêu thụ tại chỗ, hiệu quả đạt được chưa cao.
Trong những năm qua thực hiện phương án chuyển đổi cơ cấu sử dụng
đất nông - lâm - diêm nghiệp - thủy sản, diện tích đất sản xuất nông nghiệp
giảm từ 149.269 ha năm 2000 xuống còn 87.832,25 ha năm 2004 (và chỉ tăng
trở lại được khoảng trên 10 ha trong giai đoạn 2004 - 2005), giá trị sản xuất
của trồng trọt do đó giảm từ 1.470.690 triệu đồng xuống còn 1.096.507 triệu
đồng (giá so sánh 1994) vào năm 2004. Sản lượng lương thực quy thóc
893.405 tấn năm 2000 giảm xuống còn 614.382 tấn năm 2004 và 573.000 tấn
năm 2005. Bình quân sản lượng lương thực quy thóc năm 2005 đạt trên 710
kg/người, giảm mạnh so với năm 2000. Tuy nhiên do đầu tư phát triển thủy
lợi giữ ngọt ổn định và phát triển các giống cây trồng phù hợp, năng suất và
hiệu quả sử dụng đất tăng nhanh. Sản lượng lương thực vẫn đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh và hàng năm cung cấp cho thị trường từ 70.000 -
80.000 tấn lúa hàng hóa.
Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi biến động thường xuyên tùy thuộc vào
giá cả thị trường. Năm 2000 giá trị sản xuất ngành chăn nuôi đạt 421.600 triệu
đồng, năm 2003 đạt 301.705 triệu đồng và năm 2004 giảm xuống còn 197.235
triệu đồng.
Số đàn gia súc tăng chậm từ 212 ngàn con lên 228 ngàn con, trong đó:
Đàn lợn tăng từ 206 ngàn con lên 226 ngàn con, đàn bò tăng từ 155 con năm
2000 lên 502 con năm 2004, riêng đàn trâu giảm từ 6.300 con xuống còn gần
1.800 con.
Số lượng gia súc (đặc biệt là các gia súc ăn cỏ như trâu, bò) của tỉnh biến
động do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu nhất là do đất nông
nghiệp thuộc nhóm đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi của tỉnh có diện tích rất hạn
chế, chỉ khoảng 27 ha, và phần lớn chỉ ở dạng đồng cỏ tự nhiên, phân tán, năng
suất thấp. Tỉnh cũng chưa có quy hoạch cụ thể để phát triển các vùng chăn nuôi
gia súc tập trung.
Số lượng gia cầm giảm mạnh từ 3,3 triệu con năm 2000 xuống còn 1,4
triệu con trong năm 2004 nguyên nhân là do tác động của giá cả thị trường và
dịch cúm H5N1.
Bảng 2.2: Giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp [4, tr.51]
( Giá so sánh 1994)
Đơn vị tính: Triệu đồng
Tổng số
1.528.892 1.550.796 1.459.496 1.342.190 1.456.322
Trồng trọt 1.247.710 1.241.208 1.104.195 1.096.507 1.165.796
Chia ra Chăn nuôi 252.706 282.418 301.705 197.235 240.144
Dịch vụ 28.476 27.170 53.596 48.448 50.382
2001 2002 2003 2004 2005
* Đất lâm nghiệp:
Bạc Liêu có 4.831,65 ha đất lâm nghiệp, chiếm 2,16% diện tích đất nông
nghiệp và 1,87% diện tích tự nhiên. Bình quân diện tích đất lâm nghiệp là 60,88 m2/người, thấp hơn mức bình quân chung của cả nước (0,15 ha/người). Đất lâm nghiệp được phân bố ở các xã và vùng bãi bồi ngập mặn thường xuyên của
huyện Hòa Bình (2.263,28 ha); Đông Hải (1.857,36 ha) và thị xã Bạc Liêu
(771,01 ha). Phân theo mục đích sử dụng gồm:
- Đất rừng sản xuất (rừng trồng) 167,63 ha, chủ yếu phân bố ở các xã khu
vực trong đê huyện Đông Hải.
- Đất rừng phòng hộ (rừng tự nhiên) 4.656,82 ha, phân bố dọc theo khu
vực ven biển từ ranh Sóc Trăng đến cửa Gành Hào, thuộc các huyện Đông Hải,
Hòa Bình và thị xã Bạc Liêu. Diện tích đất rừng phòng hộ ven biển đang giữ vai
trò rất quan trọng trong ngăn mặn, chắn sóng cũng như tạo điều kiện cho bồi
lắng phù sa ở khu vực cửa sông với các loại cây như mắm, đước.
- Đất rừng đặc dụng có 7,20 ha, đây là diện tích đất đã được quy hoạch phát
triển khu vực sân chim Bạc Liêu, có giá trị bảo tồn nguồn gen và phục vụ du lịch.
Trong giai đoạn 2001 - 2005 diện tích đất lâm nghiệp giảm 1.157,19 ha để
chuyển sang đất nông nghiệp 21,39 ha, đất nuôi trồng thủy sản 1.056,84 ha, đất
mặt nước chuyên dùng 78,96 ha. Trong cùng thời kỳ toàn tỉnh đã trồng mới
109,84 ha rừng trên diện tích đất trồng cây lâu năm 35,32 ha, trên đất bãi bồi
74,52 ha. Như vậy trong giai đoạn 2001 - 2005 diện tích đất lâm nghiệp thực
giảm 1.047,35 ha.
Năm 2005, giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp của tỉnh đạt 16.974 triệu
đồng, trong đó: Từ trồng và nuôi rừng đạt 10.511 triệu đồng; từ khai thác gỗ,
lâm sản 6.463 triệu đồng. Nhiều mô hình phát triển kinh tế kết hợp trên diện tích
đất rừng ngập mặn ven biển mang lại hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo tính bền
vững được thử nghiệm và nhân rộng như: Tôm - rừng, trồng rừng kết hợp với
nuôi các loại nhuyễn thể.
Công tác bảo vệ và trồng rừng phòng hộ ven biển được các cấp, các ngành
quan tâm chú trọng. Bình quân mỗi năm toàn tỉnh đã trồng mới được gần 15 ha
đất rừng trên diện tích đất khu vực bãi bồi ven biển. Diện tích đất rừng khu vực
trong đê đang được chuyển dần sang nuôi trồng thủy sản cho hiệu quả kinh tế
cao nhằm giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Tiềm năng phát triển
du lịch trên đất rừng đang được quan tâm khai thác bằng việc đầu tư phát triển
hạ tầng.
Bảng 2.3: Giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp [4, tr.85]
(Giá so sánh 1994)
Đơn vị tính: Triệu đồng
Trong đó
Tổng số
2001 2002 2003 2004 2005
16.064 15.648 16.140 15.660 16.974
Trồng và Nuôi rừng 8.019 8.354 9.337 9.093 10.511
Khai thác gỗ, lâm sản 8.045 7.294 6.803 6.567 6.463
* Đất nuôi trồng thủy sản:
Phát huy tiềm năng to lớn về đất đai và các điều kiện tự nhiên, trong
những năm qua ngành nuôi trồng thủy sản có bước phát triển nhảy vọt và là
nhân tố đột phá trong phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Diện tích nuôi trồng
thủy sản tăng từ 42.185 ha năm 1997 lên 54.017 ha năm 2000 và 118.838 ha
năm 2004. Hầu hết diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả đã được chuyển sang
nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt là diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán công
nghiệp đã tăng lên rất nhanh. Đây cũng là vùng có diện tích nuôi tôm công
nghiệp tập trung quy mô lớn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 2005, diện tích đất nuôi trồng thủy sản là 118.712,10 ha, chiếm
53,03% diện tích đất nông nghiệp và 45,97% diện tích tự nhiên, tập trung chủ
yếu ở những huyện phía nam Quốc lộ 1A như Đông Hải 39.443,37 ha; Phước
Long 21.958,12 ha; Giá Rai 20.629,39 ha, Hòa Bình 16.229,19 ha. Trong diện
tích đất nuôi trồng thủy sản có 109.687,47 ha đất nuôi trồng thủy sản nước mặn,
lợ và 9.024,63 ha đất nuôi trồng thủy sản nước ngọt và đất trồng lúa kết hợp với
nuôi trồng thủy sản, và trên 3 nghìn ha đất tôm - rừng.
Nhiều tiến bộ khoa học công nghệ mới được ứng dụng và phát triển, đa
dạng hóa nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản. Phổ biến hiện nay là các mô hình
nuôi trồng thủy sản nước lợ, mặn và nuôi nước ngọt. Nuôi nước ngọt gồm có
nuôi chuyên canh cá ở các ao, mương vườn, nuôi cá xen lúa và nuôi cá dưới tán
rừng. Đây là những mô hình hiện đang có chiều hướng phát triển mạnh, chủ yếu
ở các vùng ngọt hóa, đem lại hiệu quả rõ rệt. Nuôi thủy sản nước lợ phổ biến là
các dạng nuôi chuyên tôm, kết hợp với lúa - rừng với cấp kỹ thuật từ thấp đến
cao, từ quảng canh cải tiến đến nuôi công nghiệp. Hình thành và phát triển mạnh
vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp Nam Quốc lộ 1A và ở những
khu vực đất cao, khó khai thác các loại hình sản xuất khác.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng từ 37.704 tấn năm 2001 lên 110.486
tấn vào năm 2005. Trong đó sản lượng nuôi tôm tăng nhanh từ 28.347 tấn lên
63.616 tấn. Nhịp độ tăng bình quân hàng năm về sản lượng nuôi tôm là 62,3%
giai đoạn 2000 - 2004 (trong giai đoạn 1998 - 2000 là 20,3%).
Nhìn chung diện tích đất nuôi trồng thủy sản được sử dụng khá hiệu quả.
Nhiều mô hình sản xuất mang tính chất thâm canh như mô hình nuôi tôm công
nghiệp và bán công nghiệp được phát triển mạnh. Điều này khẳng định rằng Bạc
Liêu đã xác định đúng lợi thế và nhu cầu phát triển nuôi trồng thủy sản. Thực
hiện chuyển đổi sản xuất trên quy mô lớn 5 năm qua, toàn tỉnh đã chuyển gần
70.000ha đất trồng lúa kém hiệu quả và đất chưa sử dụng sang nuôi trồng thủy
sản. Tổng vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản đạt
4.200 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước 1.000 tỷ đồng, vốn các thành phần
kinh tế 3.200 tỷ đồng; chủ yếu dùng để đầu tư cải tạo đất, ao nuôi, con giống,
thức ăn cho tôm, chế biến và xuất khẩu thủy sản…
Bảng 2.4: Giá trị sản xuất của ngành thủy sản [4, tr.89]
(Giá so sánh 1994)
Đơn vị tính: Triệu đồng
Tổng số
1.700.094 2.167.046 3.037.067 3.927.536 4.633.642
Nuôi trồng Thuỷ sản 1.204.788 1.639.058 2.426.736 3.193.861 3.916.176
2001 2002 2003 2004 2005
Chia ra Khai thác Thuỷ sản 461.306 492.988 510.331 558.675 517.466
Dịch vụ Thuỷ sản 34.000 35.000 100.000 175.000 200.000
Bảng 2.5: Sản lượng thủy sản chủ yếu [4, tr.90]
Đơn vị tính:Tấn
2001 55.050
2002 67.958
2003 65.798
2004 68.493
2005 62.034
38.158 11.521 5.541 37.704
57.140 9.001 1.817 48.953
52.535 10.079 3.184 72.468
52.549 11.800 4.144 97.812
47.344 10.876 3.814 110.486
1. Sản lượng khai thác đánh bắt Cá Tôm Thủy hải sản khác 2. Sản lượng thủy sản nuôi trồng Cá Tôm Thủy hải sản khác
9.357 28.347 190
9.638 37.392 1.923
13.772 55.268 3.428
18.447 73.342 6.023
34.430 63.616 12.420
* Đất làm muối:
Diện tích đất làm muối của tỉnh là 2.001,69 ha, chiếm 0,89% diện tích đất nông nghiệp, phân bố ở Đông Hải 1.461,51 ha; Hòa Bình 325,73 ha và thị xã Bạc Liêu 214,45 ha. Trong giai đoạn 2001 - 2005, diện tích đất làm muối giảm 1.054,42 ha (bình quân mỗi năm giảm 210,88 ha) do chuyển sang đất trồng cây lâu năm 25,21 ha, đất nuôi trồng thủy sản 1.024,76 ha, đất nông nghiệp khác 4,45 ha, đồng thời tăng 185,33 ha do đo đạc chuẩn hóa lại diện tích đất đai. Tuy giảm mạnh về diện tích nhưng sản lượng muối lại tăng bình quân hàng năm 23,66% trong giai đoạn 2001 - 2005, đạt 95.583 tấn vào năm 2005.
Diện tích đất làm muối sử dụng không hiệu quả do sản xuất muối theo thủ
công lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, nhiều yếu tố thời tiết bất lợi, sản phẩm
chủ yếu là muối đen (từ năm 2001 đến nay, sản lượng muối chế biến chỉ đạt khoảng
48.312 tấn) nên thiếu thị trường tiêu thụ, giá muối thấp, giá thành sản xuất muối
cao. Vì vậy dẫn đến tình trạng muối tồn đọng lâu năm gây khó khăn không nhỏ cho
người sản xuất. Hiện nay diện tích đất làm muối đang được chuyển dần sang làm
muối trắng (sản phẩm được tiêu thụ chủ yếu trong khu vực đồng bằng sông Cửu
Long và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản) và mô hình muối - tôm, cua, cá kèo.
Mô hình sản xuất muối kết hợp nuôi trồng thủy sản này được thực hiện chủ yếu
dưới hình thức luân canh, ngày càng được triển khai nhân rộng và phát huy hiệu
quả, đã góp phần nâng cao thu nhập trên một ha đất diêm nghiệp, làm giảm áp lực
chuyển đổi đất nông nghiệp từ sản xuất muối sang nuôi trồng thủy sản.
* Đất nông nghiệp khác:
Bạc Liêu hiện có 14,45 ha đất nông nghiệp khác, chiếm 0,01% diện tích
đất nông nghiệp, được phân bố ở các huyện Đông Hải 10,0 ha, Vĩnh Lợi 4,45 ha.
Diện tích đất nông nghiệp khác chủ yếu là đất phát triển các trại giống tôm, cá.
Diện tích tăng được lấy vào đất trồng cây lâu năm 10 ha, đất làm muối 4,45 ha.
Bảng 2.6: Tình hình sử dụng đất [4, tr.54]
TỔNG DIỆN TÍCH
2001 254.190,54 218.584,34 128.623,34 97.503,00 94.885,00 2.618,00
2002 254.702,32 216.683,68 111.279,66 87,498,25 83.833,42 3.664,83
2003 254.702,48 216.153,50 99.026,30 76.704,13 70.805,69 5.898,44
2004 254.702,64 212.667,47 87.832,25 69.879,47 66.114,68 3.764,79
2005 258.246,62 223.854,78 98.294,89 79.790,16 73.669,88 6.120,28
-
-
- 31.120,34 5.879,00 2.245,80 3.626,00
23.781,41 5.394,98 2.298,00 3.089,78
27,03 22.295,14 5.390,98 2.295,00 3.088,78
27,00 17.925,78 5.820,00 4306,77 1.506,03
18.504,73 4.831,65 4.656,82 167,63
Đơn vị tính: ha
Đất nông nghiệp 1. Đất sản xuất nông nghiệp Cây hàng năm (cid:0) Lúa (cid:0) Màu và cây CN hàng năm (cid:0) Đất đồng cỏ Cây lâu năm 2. Đất lâm nghiệp Rừng tự nhiên (phòng hộ) Rừng trồng (rừng sản xuất) Rừng đặc dụng
7,20
7,20
7,20
7,20
7,20
84.082,00
100.009,04
111.736,22
119.015,22
120.713,79
3. Đất nuôi trồng thủy sản và đất muối 4. Đất nông nghiệp khác
-
-
-
-
14,45
2.2.3. Thành tựu, hạn chế trong việc sử dụng đất nông nghiệp và
nguyên nhân
- Những thành tựu trong việc sử dụng đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội:
Trong những năm qua việc sử dụng nguồn tài nguyên đất đai là một trong
những nhân tố quan trọng mang lại tốc độ tăng trưởng nhanh, góp phần để tỉnh
đạt và vượt các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005.
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng tăng năng suất, chất
lượng và hiệu quả. Diện tích đất trồng lúa có 73.669,88 ha chủ yếu phân bố ở
khu vực giữ ngọt ổn định, sản lượng đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực. Sản
xuất nông nghiệp cơ bản thoát khỏi tập quán canh tác lạc hậu, độc canh, năng
suất thấp.
Nhiều mô hình luân canh (như mô hình 2 vụ lúa - 1 vụ tôm, đưa màu
xuống ruộng…) đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Diện tích đất sử dụng cho việc
phát triển các trang trại nuôi động vật hoang dã như cá sấu, rùa, ba ba, trăn, rắn
và một số loài thủy sản có giá trị kinh tế tăng nhanh. Lợi nhuận thu được trên một
đơn vị diện tích đất sản xuất thuộc mô hình này cao hơn rất nhiều so với các mô
hình sản xuất nông nghiệp khác, trở thành nguồn thu nhập đáng kể cho nông dân.
Việc chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất theo hướng tăng diện tích đất nuôi
trồng thủy sản là nhân tố quan trọng góp phần đạt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
cao. Tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động; thúc đẩy
công tác xóa đói, giảm nghèo; tạo vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Bên cạnh đó, các yếu tố về hiệu quả kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường được
quan tâm giải quyết, đặc biệt là hiệu quả kinh tế không ngừng nâng lên, doanh
thu nuôi trồng thủy sản bình quân 54 triệu đồng /ha/năm, cá biệt có nơi lên đến
500 triệu đồng/ha/năm.
Diện tích đất rừng giảm xuống do ảnh hưởng của quá trình dịch chuyển đê
biển và quá trình khai thác tự do, không có sự quản lý. Song các dự án khôi phục
và phát triển rừng phòng hộ ven biển, phong trào trồng cây phân tán được triển
khai có kết quả, góp phần cải thiện cảnh quan môi trường và tăng độ che phủ lên
2,18%. Diện tích đất rừng phòng hộ ven biển có 4.656,82 ha đóng vai trò quan
trọng trong phát triển du lịch, chắn sóng, ngăn mặn, tạo điều kiện bồi lắng phù sa.
Cơ cấu sử dụng đất của tỉnh nhìn chung đang chuyển dịch theo hướng hợp
lý hơn, phù hợp điều kiện tự nhiên của tỉnh và dần đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội. Phần lớn diện tích đất đã được khai thác đưa vào sử dụng
cho các mục đích dân sinh kinh tế (92,68%). Cơ cấu sử dụng đất trong nội bộ
đất nông nghiệp khá hợp lý đã mang lại tốc độ tăng trưởng khá nhanh ở khu vực
kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Diện tích đất lúa được bố trí thích hợp ở những
vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi nên mặc dù giảm nhưng vẫn đảm bảo sản
lượng ổn định.
- Những hạn chế chủ yếu trong sử dụng đất và các nguyên nhân:
+ Những hạn chế chủ yếu:
Cũng như nhiều vùng nông thôn khác ở đồng bằng sông Cửu Long, nông
thôn Bạc Liêu nặng về sản xuất lương thực và nuôi trồng thủy sản theo quy mô
hộ gia đình với mức đầu tư lao động sống quá cao trên một đơn vị diện tích đất.
Thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu việc làm, quỹ đất nông nghiệp ngày một
thu hẹp, sự phát triển ngành nghề ngoài nông nghiệp chưa đủ sức thu hút được
số lao động ngày một tăng. Với nguồn lao động trong nông thôn còn rất lớn
trong khi công nghiệp và dịch vụ Bạc Liêu lại hạn chế trong việc thu hút thêm
lao động nông nghiệp, các hộ nông dân chưa tìm được ngành nghề mới, vẫn phải
bám trụ với đất nông nghiệp. Do đó việc chuyển nhượng đất nông nghiệp trong
thực tế không nhiều; khả năng tích tụ và tập trung ruộng đất hình thành các mô
hình sản xuất quy mô lớn diễn ra không phổ biến. Hiện nay một nghịch lý đang
tồn tại ở nông thôn Bạc Liêu là người hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp
thiếu vốn để mở rộng quy mô sản xuất nhưng vẫn phải giữ ruộng đất canh tác
quảng canh hoặc cho thuê. Ngược lại, người làm nông nghiệp lại sản xuất trên
những mảnh ruộng phân tán, khó áp dụng những biện pháp thâm canh và khoa
học kỹ thuật. Vì vậy không thể tạo ra được khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn,
chất lượng cao.
Nhìn chung, ruộng đất ở Bạc Liêu vẫn còn tồn tại tính chất manh mún,
chưa phù hợp với yêu cầu của việc sản xuất hàng hóa lớn tập trung. Việc sử
dụng đất để sản xuất nông nghiệp chủ yếu theo quy mô hộ gia đình, phụ thuộc
nhiều vào điều kiện tự nhiên (nắng hạn, ngập úng, đất đai bị nhiễm phèn mặn,
thiếu nguồn nước ngọt…), việc tổ chức các vùng sản xuất hàng hóa tập trung
quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu chưa
được quan tâm đúng mức và đầu tư thỏa đáng.
Mặt khác, do tác động thứ phát của giá cả đất đai đô thị, nhu cầu về nhà ở
và kết cấu hạ tầng dịch vụ tăng cao, giá đất nông nghiệp cũng tăng đột biến.
Trong khi đó giá nông sản hàng hóa không đáp ứng được yêu cầu tăng hiệu quả
đầu tư vào đất đai một cách tương ứng đã dẫn đến tình trạng lĩnh vực nông nghiệp
không đủ sức thu hút các nguồn vốn đầu tư, ảnh hưởng đến khả năng mở rộng sản
xuất, có giai đoạn tình trạng bỏ hoang đất nông nghiệp diễn ra rất phổ biến.
Trong cơ cấu sử dụng đất, đất nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao (86,68%
diện tích tự nhiên), diện tích đất chưa sử dụng còn khá lớn (chiếm 5,04%) trong
khi tỷ lệ đất phi nông nghiệp trong cơ cấu sử dụng đất còn ở mức thấp (8,28% -
thấp hơn so với các tỉnh có nền kinh tế - xã hội phát triển trong vùng như Long
An, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang), điều này cho thấy hệ thống kết cấu hạ
tầng tuy đã đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trước mắt nhưng
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong thời gian tới, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi còn một khoảng cách khá
xa so với yêu cầu phát triển.
Hơn nữa, việc chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp ở một số nơi
trong tỉnh còn mang tính tự phát, không theo quy hoạch như chuyển đất lúa sang
nuôi trồng thủy sản; chặt phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thủy sản trong khi
thiếu hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, khó kiểm soát được dịch bệnh lây lan
gây ô nhiễm môi trường đất và nước. Đặc biệt diện tích đất rừng phòng hộ ven
biển chuyển sang đất nuôi trồng thủy sản một cách tự phát đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến môi trường sinh thái.
Phần lớn diện tích được chuyển đổi đem lại hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên
vẫn còn một số diện tích chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản không phát huy
được tiềm năng sản xuất vì thiếu vốn và kỹ thuật canh tác, dẫn đến năng suất
thấp. Diện tích đất làm muối sử dụng không hiệu quả do muối sản xuất ra chủ
yếu là muối đen không có thị trường tiêu thụ gây nên tình trạng tồn đọng lâu dài.
+ Nguyên nhân:
Môi trường bị ô nhiễm và nguy cơ ô nhiễm đang có xu thế gia tăng, trong
khi khả năng kiểm soát rất hạn chế, việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản cũng như
môi trường sinh thái chưa được coi trọng thỏa đáng. Hệ thống dịch vụ thủy sản,
đặc biệt là khâu sản xuất, cung ứng giống và thức ăn cho tôm cũng như việc phát
hiện và xử lý khi tôm bị nhiễm bệnh còn thiếu. Đội ngũ lao động kỹ thuật phục
vụ cho công tác nuôi trồng và hướng dẫn người sản xuất các biện pháp kỹ thuật
cần thiết còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy hiện tượng tôm chết
hàng loạt diễn ra ở nhiều nơi, gây thiệt hại không nhỏ đến nền kinh tế.
Hệ thống thủy lợi, thủy nông nội đồng của tỉnh Bạc Liêu được quy hoạch
và xây dựng trước đây chủ yếu phục vụ canh tác nông nghiệp, do đó khi chuyển
dịch cơ cấu sản xuất sang nuôi trồng thủy sản với tốc độ nhanh và quy mô lớn
thì các công trình thủy lợi hiện có không đủ khả năng đáp ứng. Việc xây dựng
các công trình, dự án mới triển khai còn chậm (chủ yếu do thiếu vốn), nên khả
năng đáp ứng yêu cầu sản xuất còn hạn chế.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp (khoảng 18% tổng số lao động nông
thôn); số lao động có kỹ thuật đang làm việc có năng lực trình độ chuyên môn
không theo kịp yêu cầu phát triển. Trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã, các chủ
trang trại, tổ hợp tác kinh tế còn nhiều hạn chế. Do đó quá trình cơ giới hóa và
việc áp dụng các quy trình kỹ thuật sản xuất tiên tiến còn diễn ra chậm chạp.
Hầu hết các khâu sản xuất nông nghiệp đều làm thủ công dẫn đến hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp và năng suất lao động rất thấp. Một số tiến bộ kỹ thuật
chậm được đưa vào sản xuất như công nghệ sau thu hoạch, các mô hình sản xuất
đa canh có hiệu quả kinh tế - xã hội chậm được nhân rộng.
Công nghiệp tác động vào nông - lâm - ngư nghiệp còn yếu, đặc biệt là
công nghiệp chế biến nông sản. Đến cuối năm 2005 toàn tỉnh có 220 cơ sở xay
xát lúa gạo, năng lực xay xát khoảng 1,5 triệu tấn/năm, năng lực lau bóng gạo
xuất khẩu chỉ khoảng 100.000 tấn/năm. Hiện có 01 nhà máy chế biến muối iốt,
năng lực chế biến khoảng 29.000 tấn/năm, chủ yếu chế biến muối thực phẩm theo
tiêu chuẩn của Bộ Y Tế. Công nghiệp chế biến thủy sản luôn chiếm tỷ trọng lớn
trong ngành công nhiệp của tỉnh (trên 40%). Trong đó chế biến tôm cá đông lạnh
phát triển tương đối ổn định. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 18 xí nghiệp chế biến
hàng thủy sản xuất khẩu, tổng công suất thiết kế khoảng 36.000 tấn/năm, đáp ứng
được về cơ bản nhu cầu chế biến trên địa bàn. Tuy nhiên các sản phẩm chủ yếu ở
dạng sơ chế, hàm lượng giá trị không cao. Bên cạnh đó công nghệ bảo quản nông
sản nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch còn lạc hậu, các mặt hàng nông sản trên địa
bàn chủ yếu được sử dụng, trao đổi dưới dạng thô, tươi sống. Trong thực tế còn diễn
ra tình trạng giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản chưa có sự gắn kết chặt chẽ
với nhau, do đó ảnh hưởng đến khả năng mạnh dạn mở rộng sản xuất của các chủ
thể sử dụng đất nông nghiệp để tạo ra một khối lượng nông sản hàng hóa lớn.
Nhìn chung thị trường nông sản không ổn định, thiếu tính bền vững, giá cả thay đổi theo chiều hướng bất lợi đối với nông dân. Những sản phẩm nông nghiệp và thủy sản thế mạnh của tỉnh đang phải chịu sức ép lớn từ cạnh tranh ở các thị trường nội địa và quốc tế và các loại hàng rào phi thuế quan khác. Nâng cao khả năng cạnh tranh là yêu cầu bức thiết song cũng là thách thức lớn đối với thực lực kinh tế của tỉnh khi tỷ lệ tích lũy nội bộ còn thấp trong giai đoạn hiện nay.
Việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh về tiêu thụ và
xuất khẩu nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu tiêu thụ nông sản hàng hóa cho
nông dân, các hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho nông dân thường bị các doanh
nghiệp kinh doanh nông sản đơn phương phá vỡ; chưa có sự phân công cụ thể
trách nhiệm quản lý trong lĩnh vực này giữa các sở, ngành chủ quản. Bộ máy
quản lý đất đai ở cơ sở còn yếu về chuyên môn và kinh nghiệm, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phát sinh nên còn tình trạng vi phạm pháp luật đất đai, ảnh
hưởng đến quy hoạch sử dụng đất và tính lành mạnh trong quan hệ đất đai, làm giảm hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
2.2.4. Những vấn đề cần giải quyết trong việc sử dụng đất nông nghiệp
ở tỉnh Bạc liêu
Trong những năm qua công tác quản lý, sử dụng đất đai của tỉnh đã đạt
được nhiều thành tựu nổi bật và từng bước đi vào ổn định. Nguồn tài nguyên đất
đai đã được khai thác có hiệu quả, phù hợp với tiềm năng thế mạnh của tỉnh, từ
đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định trật tự, chính trị, xã hội. Tuy
nhiên còn một số vấn đề cần được giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
đất trong những năm tới cũng như trong phương án quy hoạch là:
Cần phân định rõ vai trò lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện
của các cấp, các ngành trong công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch để giúp
nông dân sử dụng đất có hiệu quả sau khi chuyển đổi, tránh tình trạng có những
lĩnh vực có sự chồng chéo trong quản lý, có những lĩnh vực lại bỏ ngỏ, không ai
chịu trách nhiệm (nhất là đối với các dự án có tính chất đánh trống bỏ dùi, gây
thiệt hại cho người nông dân) như trong giai đoạn vừa qua.
Việc chuyển dịch sản xuất phải gắn với việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng kỹ thuật, đặc biệt là thủy lợi và cơ sở sản xuất giống nhằm đảm bảo tính
chủ động. Trong quá trình chuyển đổi phải tuân thủ trình tự các bước cơ bản,
tránh nóng vội, đốt cháy giai đoạn, cần thiết phải tiến hành xây dựng các điểm
thực nghiệm, các mô hình trình diễn do chính nông dân làm dưới sự hướng dẫn
của cán bộ kỹ thuật, có sự tổng kết, rút kinh nghiệm.
Tình trạng mất đất sản xuất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa cho mục
đích phát triển công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng và đô thị hóa là vấn đề
nan giải tồn tại song song với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy
cần tiến hành các giải pháp cụ thể nhằm giữ vững sự ổn định cơ cấu đất đai, đảm
bảo sự phát triển cân đối của các lĩnh vực trong nền kinh tế - xã hội.
Việc chuyển đất lúa sang nuôi trồng thủy sản không theo quy hoạch, mang
tính tự phát là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu theo nhiều phương diện
nhằm đảm bảo lợi ích cả về kinh tế - xã hội, môi trường để phát triển một cách
bền vững. Việc chuyển dịch phải đi đôi với tổ chức lại sản xuất, phát triển kinh
tế hợp tác và hợp tác xã để giúp nhau về vốn, kỹ thuật sản xuất, thực hiện cơ
giới hóa và tiêu thụ sản phẩm. Theo các nhà khoa học thì mô hình tôm - lúa
được xác định là mô hình bền vững. Tuy nhiên đây là mô hình có 2 đối tượng
sản xuất trên cùng một diện tích đất nông nghiệp nhưng có điều kiện sinh thái
trái ngược nhau (môi trường lợ và môi trường nước ngọt), nếu trong quá trình
thực hiện mô hình không tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật sản xuất sẽ
dẫn đến rủi ro. Vì vậy yêu cầu đặt ra là phải kiểm soát chặt chẽ hệ thống điều
tiết nước, mặt khác đòi hỏi các hộ nông dân cần tuân thủ quy trình kỹ thuật và
lịch thời vụ sản xuất của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và ngành
Thủy sản.
Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia làm thủy lợi,
thủy nông nội đồng, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở cơ sở phải
được thực hiện thường xuyên và sâu rộng, khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại
vào sự hỗ trợ của cấp trên, coi nhẹ khả năng nội lực mà địa phương có thể thực
hiện được.
Trong thời gian tới tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả trên đơn vị diện tích; lựa chọn cơ cấu, quy mô
các loại nông sản dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật
và lao động, về nhu cầu thị trường…, từng bước khắc phục tình trạng mất cân
đối giữa trồng trọt và chăn nuôi; hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung
đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong tỉnh và
hàng hóa xuất khẩu.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
TIẾP TỤC NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG SẢN HÀNG HÓA Ở TỈNH BẠC LIÊU
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp để
phát triển nông sản hàng hóa
3.1.1. Đảm bảo hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia trong quan hệ
đất đai
Việc đẩy mạnh sản xuất nông sản hàng hóa và công nghiệp hoá, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn ở Bạc Liêu tất yếu dẫn đến các dịch vụ phục vụ cho
quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản phát triển, hình thành các trung tâm đô
thị mới. Điều này dẫn đến một phần đất nông nghiệp sẽ bị chuyển đổi mục đích
sử dụng sang đất ở, đất xây dựng kết cấu hạ tầng…, diện tích đất nông nghiệp
của tỉnh sẽ bị giảm. Do đó, việc sử dụng đất cho các mục đích, nhu cầu khác
nhau cần đảm bảo sự cân đối, hài hòa; trong đó bao hàm cả sự hài hòa về lợi ích
của các chủ thể sử dụng đất. Vấn đề cần đạt được là vừa giữ được đất nông
nghiệp để phát triển sản xuất vừa có đất đai để xây dựng cơ sở vật chất phục vụ
cho nền sản xuất hàng hóa ấy vận hành được thông suốt. Việc sử dụng hợp lý,
tiết kiệm, có hiệu quả đất đai vào các mục đích phi nông nghiệp của tỉnh sẽ góp
phần giữ vững an ninh lương thực, phát triển được sản xuất nông nghiệp hàng
hóa đồng thời giảm bớt sức ép về giải quyết lao động nông nghiệp dư thừa do
không còn đất canh tác.
Bên cạnh đó cần chú ý giải quyết thỏa đáng khâu phân phối thu nhập
trong quan hệ kinh tế về đất đai. Thực tế diễn ra trong khu vực sản xuất lâm
nghiệp thời gian qua trên địa bàn tỉnh là một bài học đắt giá về vấn đề này. Theo
một báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu trong
năm 2005, mặc dù đang tồn tại trong cơ chế thị trường, nghề rừng trên địa bàn
tỉnh vẫn chưa tạo ra được mô hình quản lý và kinh doanh có hiệu quả; một số
chính sách về lâm nghiệp chậm được sửa đổi, chưa tương xứng với sức lao động
của người làm nghề rừng như mức khoán quản lý, bảo vệ rừng 50.000 đồng/ha
là quá thấp so với mặt bằng giá hiện nay; hạ tầng phục vụ sản xuất và dân sinh
chưa được quan tâm đầu tư; đời sống vật chất và tinh thần của cư dân trong lâm
phần còn rất khó khăn dẫn đến động lực quản lý, bảo vệ rừng của các hộ dân
cũng giảm sút. Đó là chưa nói đến khía cạnh do cuộc sống quá khó khăn, họ
phải tìm mọi cách để tồn tại, trong đó không loại trừ khả năng phá rừng khai
thác gỗ, săn bắt động vật trong khu bảo tồn… và như vậy, chính những hộ dân
được giao trách nhiệm bảo vệ rừng lại trở thành lực lượng phá rừng nghiêm
trọng nhất. Do đó việc trả thù lao theo lao động đòi hỏi cần phải tính đến các
yếu tố thực tiễn, tránh việc áp đặt một cách chủ quan.
Lý luận kinh tế C.Mác cho rằng trong bất cứ trường hợp nào, trong giai
đoạn phát triển nào của nông nghiệp ở bất cứ nước nào, hễ có sự khác nhau về
độ phì nhiêu thì có lợi nhuận siêu ngạch và có địa tô chênh lệch I. Sự thay đổi về
độ phì nhiêu giữa các loại đất bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, do đó
địa tô chênh lệch I cũng phát sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có nhiều
trường hợp khác nhau [20, tr.293-297]. Từ thực tế này, việc xác định các quan hệ
lợi ích cho các chủ thể sử dụng đất đai ở những khu vực khác nhau trên địa bàn
tỉnh dựa trên việc phân tích thực tiễn bằng lý luận địa tô của C.Mác có một vai trò
đặc biệt quan trọng. Lợi ích bao giờ cũng là vấn đề cốt lõi trong hầu hết các quan
hệ xã hội. Lợi ích do đất đai mang lại đã, đang và sẽ tồn tại, gắn bó chặt chẽ với
mỗi chủ thể sản xuất kinh doanh nông nghiệp, mỗi người dân và toàn xã hội.
Cụ thể là việc tạo ra các điều kiện kinh tế ngang nhau cho các chủ thể sản
xuất nông nghiệp nằm trong các vùng có các điều kiện kinh tế tự nhiên khác
nhau của tỉnh là cơ sở để các chủ thể này có thể sản xuất kinh doanh hiệu quả
(nhất là đối với các hợp tác xã). Để thực hiện được điều này phải dựa trên sự
tính toán đến các quan hệ địa tô đã hình thành giữa nhà nước (chủ sở hữu ruộng
đất) và các hợp tác xã (người sử dụng ruộng đất) về việc sử dụng đất đai. Trong quan hệ này, việc hình thành giá cả sản phẩm nông nghiệp một cách hợp lý phải
dựa trên cơ sở lý thuyết thu nhập ròng và địa tô chênh lệch. Để giải quyết những mâu thuẫn phát sinh giữa các chủ thể tham gia trong
quan hệ đất đai cần quán triệt quan điểm của Nghị quyết Trung ương bảy khóa
IX, đó là chính sách đất đai phải bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích
của người đang sử dụng đất hợp pháp và lợi ích của người đầu tư; trong đó cần
chú trọng ưu tiên lợi ích của Nhà nước [7, tr.78].
Việc đặt vấn đề chú trọng ưu tiên lợi ích của Nhà nước xuất phát từ vai trò
đặc biệt quan trọng của đất đai đối với các chương trình phát triển chung của
toàn xã hội.
Trong quan hệ đất đai hiện nay ở nước ta đang tồn tại một nghịch lý, đó là
đất đai thuộc sở hữu Nhà nước nhưng khi cần thực hiện một dự án cụ thể nào đó
vì mục tiêu phát triển chung, Nhà nước phải bỏ tiền đền bù với giá cao, còn
nông dân đã nhiều đời gắn bó với đồng ruộng lại mất dần tư liệu sản xuất, và
trong nhiều trường hợp chỉ được hưởng phần lợi ích rất nhỏ từ việc chuyển đổi
mục đích sử dụng này. Nghịch lý này xuất phát từ cơ chế xử lý đất đai: Việc
chuyển đổi đất nông nghiệp sang xây dựng phát triển đô thị mới hay quy hoạch
công nghiệp được chính quyền cấp có thẩm quyền thu hồi đất của nông dân sau
đó giao cho các chủ kinh doanh khác. Do những quy định thiếu chặt chẽ, cách
làm này đã nảy sinh những tiêu cực, trong đó phổ biến là trục lợi cá nhân, đầu
cơ... Ở Bạc Liêu thời gian qua hiện tượng này vẫn tồn tại và có tính chất phức
tạp. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất đô thị hoặc
đất xây dựng công trình đã làm địa tô tăng lên nhiều lần nhưng phần lớn việc
phân phối phần chênh lệch còn thiếu công bằng, minh bạch.
Việc tiếp cận đất đai dựa trên quyền sở hữu và sử dụng có ý nghĩa lớn
trong việc phân tích hoạt động nông nghiệp, xử lý đúng những quan hệ này sẽ
tạo nhiều thuận lợi để nông dân phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, đồng thời
tham gia có hiệu quả vào quá trình công nghiệp hóa nông thôn ở Bạc Liêu.
Trong đó việc giải quyết tốt công tác đền bù, giải tỏa là vấn đề cốt lõi. Theo tính
toán thì cứ 1 ha đất nông nghiệp bị thu hồi thì khoảng 15 lao động mất việc làm.
Việc giải quyết thỏa đáng quyền lợi trong quan hệ đất đai sẽ bảo đảm không xảy
ra tranh chấp, khiếu kiện. Hơn nữa phải đặt ra và giải quyết vấn đề kế sinh nhai
của người dân sẽ như thế nào nếu không còn đất sản xuất.
Ở nước ta, trong một thời gian dài trước đổi mới, quan hệ đất đai chưa
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã dẫn đến sản xuất nông nghiệp trì
trệ, cả nước luôn phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực. Khi nông dân
được làm chủ đất đai, các quan hệ lợi ích trong lĩnh vực đất đai được thực hiện
tốt hơn thì sản xuất nông nghiệp từng bước khởi sắc và quan trọng là nông sản
hàng hóa ngày một gia tăng. Trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp để phát
triển nông sản hàng hóa, Bạc Liêu cần phải chú ý đến bài học thực tế này.
3.1.2. Sử dụng đất nông nghiệp phải kết hợp giữa nâng cao hiệu quả
kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái bền vững
Khái niệm “phát triển bền vững” đã xuất hiện trong phong trào bảo vệ
môi trường từ những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ 20. Hội nghị thượng đỉnh
trái đất về Môi trường và Phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazin) năm 1992,
về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburrg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002
đã xác định phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm: phát triển kinh tế (nhất là
tăng trưởng kinh tế); phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội; xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là
xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng
chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh
tế ổn định, thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng
tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và nâng cao được chất lượng
môi trường sống.
Quan điểm phát triển bền vững ở nước ta đã được khẳng định trong Chỉ
thị 36 - CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ
môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; trong đó nhấn
mạnh bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối,
chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành;
là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền
vững, nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp
luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện; nhiều nội dung cơ
bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất
yếu trong sự phát triển của đất nước.
Trong định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, hoạt động
chống tình trạng thoái hóa đất, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất đai
là một trong những hoạt động được ưu tiên hàng đầu. Điều này xuất phát từ tính
chất nghiêm trọng của tình trạng suy thoái đất đai đang diễn ra phổ biến đối với
nhiều vùng rộng lớn của Việt Nam, đặt biệt là vùng đồi núi, nơi tập trung hơn
3/4 quỹ đất. Thoái hóa đất chủ yếu diễn ra ở các dạng: xói mòn, rửa trôi, mất cân
bằng dinh dưỡng, có độ phì thấp, bạc màu, nhiễm phèn, nhiễm mặn, sa mạc hóa,
đất ô nhiễm độc tố hóa học, đất trượt và sạt lở, đất ngập úng. Theo số liệu thống
kê, hiện nay có khoảng trên 50% diện tích đất (3,2 triệu ha) ở vùng đồng bằng
và trên 60% (13 triệu ha) ở vùng đồi núi có những vấn đề liên quan đến suy
thoái đất. Sự suy thoái môi trường đất kéo theo sự suy thoái các quần thể động,
thực vật và chiều hướng giảm diện tích đất nông nghiệp trên đầu người đến mức
báo động. Trong Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam năm 2005 được công
bố trong thời gian vừa qua, Ngân hàng thế giới đã cảnh báo rằng nếu xu hướng
tiếp diễn như hiện nay, thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI sẽ phải chứng kiến một
làn sóng tuyệt chủng của những loài động, thực vật hoang dã của Việt Nam ở
một mức độ chưa từng thấy trong lịch sử kèm theo các thiệt hại về môi trường
và kinh tế. Theo Ngân hàng thế giới, giải pháp cho vấn đề này là tăng cường
quyền và năng lực của các cộng đồng dân cư để quản lý tài nguyên thiên nhiên;
phát triển các cơ hội cho những người nghèo được hưởng lợi từ việc cung cấp
các dịch vụ sinh thái, điển hình là du lịch sinh thái.
Chính vì vậy, khi đẩy mạnh sản xuất nông sản hàng hóa cần quan tâm và
tuân theo nguyên tắc cơ bản trong quá trình quy hoạch thiết kế. Đó là gắn chặt
mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, đảm bảo cân
bằng vật chất, cân bằng năng lượng và cân bằng sinh thái trong khu vực sản
xuất. Không gây ra sự quá tải đối với khả năng đáp ứng và tiêu thụ của một hệ
sinh thái. Đây cũng chính là nội dung xây dựng một hệ thống nông nghiệp sinh
thái nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Hệ thống nông nghiệp sinh thái là một hệ thống hỗn hợp gồm cả yếu tố tự
nhiên và yếu tố xã hội - nhân văn như đất đai, khí hậu, cây trồng, vật nuôi, con
người và mối quan hệ giữa các yếu tố. Nói cách khác, hệ thống nông nghiệp là một
hệ thống sinh thái tự nhiên và xã hội, bao gồm các yếu tố tự nhiên và nhân tạo được
kết hợp lại theo một kiểu cấu trúc hợp lý để tạo ra những thuộc tính mới vốn không
có ở các yếu tố cấu thành, bảo đảm cho nó sự phát triển bền vững và hiệu quả cao
cả về tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường.
Hệ thống nông nghiệp sinh thái của cả nước là hệ thống lớn nhất, cấp 1.
Trong đó, các hệ thống nông nghiệp sinh thái cấp 2 tồn tại ở các vùng với các
đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội - nhân văn riêng có của nó. Trong mỗi vùng,
các hệ thống nông nghiệp sinh thái cấp 2 và 3 tồn tại trong các tiểu vùng nhỏ
hơn. Trang trại là một hệ thống nông nghiệp sinh thái thuộc cấp nhỏ nhất.
Ở Bạc Liêu trong thời gian qua, việc tăng năng suất bằng cách phá vỡ các
hệ thống canh tác cổ truyền, thay thế vào đó bằng những kỹ thuật canh tác
không phù hợp với điều kiện sinh thái, kể cả các điều kiện kinh tế - xã hội của
một số khu vực, đã để lại những hậu quả về mặt môi trường. Việc phá vỡ các hệ
thống sinh thái ở miền nhiệt đới ẩm vốn rất mỏng manh đã phải trả một giá rất
đắt ở những nơi khai hoang vội vã vì một khi đã bị phá vỡ thì các hệ thống sinh
thái ấy rất khó hồi phục lại được. Để giải quyết tình trạng này nhằm sử dụng có
hiệu quả và bền vững tài nguyên đất. Tỉnh Bạc Liêu đã và đang thực hiện các
chính sách và các chương trình thích hợp như giao đất khoán rừng cho hộ gia
đình, trồng rừng phủ xanh đất trống thuộc các khu vực bãi bồi, thực hiện nông
lâm kết hợp, phát triển cây lâu năm trên đất dốc, bảo tồn và sử dụng bền vững
đất ngập nước và đã thu được những kết quả bước đầu. Điều cần làm là phải kết
hợp một cách hài hòa các biện pháp kỹ thuật mới với các hệ thống canh tác cổ
truyền vì các hệ thống này về thực tế đã được thử thách trong lịch sử khai thác
đất đai và đến một chừng mực nhất định đã được chọn lọc để giữ được trạng thái
cân bằng của tự nhiên.
Ngoài ra, tình trạng giảm sút đa dạng gen ở giống cây trồng, vật nuôi do
ảnh hưởng của trào lưu thay thế giống truyền thống bằng giống mới trên địa bàn
tỉnh đang làm cho việc phòng chống sâu bệnh khó khăn hơn. Việc sử dụng phân
hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chất kích thích sinh trưởng một cách
tùy tiện đã có dấu hiệu vượt quá giới hạn cho phép của môi trường sinh thái, dẫn
đến thoái hóa đất, ô nhiễm nguồn nước (đặc biệt là ở những khu vực nuôi trồng
thủy sản theo phương pháp công nghiệp) và gây hại cho sức khoẻ con người.
Tình trạng một số bệnh lạ bùng phát có nguyên do từ việc dùng nông phẩm có
dư lượng độc tố hóa học đã và đang là những bài học đắt giá cho việc quản lý sử
dụng tài nguyên đất đai.
Do đó, việc tiếp cận kinh tế sinh thái phải chú ý tính thích nghi sinh thái
của các nguồn gen động, thực vật, vi sinh vật trên địa bàn tỉnh. Cần mở rộng sản
xuất và mở rộng thị trường nông sản sạch, tăng cường khâu kiểm tra chất lượng
sản phẩm nhằm tạo lập niềm tin cho người tiêu dùng vào mức độ vệ sinh an toàn
thực tế của hàng nông sản. Hoàn thiện và bảo quản tốt hệ thống chế biến và
phân phối sản phẩm. Tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên
tiến để bảo quản, chế biến nông sản.
3.1.3. Sử dụng đất nông nghiệp theo chiều rộng và chiều sâu để có sản
xuất hàng hóa lớn
Trong điều kiện trình độ của lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp như
giai đoạn hiện nay, việc giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân
là một chủ trương giải pháp đúng đắn đã khơi dậy mọi tiềm năng trong nông
nghiệp, tạo ra bước phát triển mới của nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, xét về
mặt tính chất của nền sản xuất và hiệu quả cần đạt được thì đây mới chỉ là bước
quá độ của quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn vì còn những hạn
chế nhất định xuất phát từ sự manh mún, phân tán về ruộng đất trong nông nghiệp. Đó là: - Khả năng tích luỹ từ bản thân kinh tế hộ rất nhỏ dẫn đến hạn chế trong
- Khả năng đổi mới kỹ thuật, quy trình công nghệ và tiếp thu những thành
việc tái sản xuất mở rộng. tựu khoa học mới của hộ nông dân có nhiều khó khăn.
- Khả năng cạnh tranh trên thị trường nông sản hàng hóa không cao, chịu
nhiều sức ép từ bên ngoài.
Sự manh mún của đất đai là một hình ảnh rõ nét của kinh tế tiểu nông, ở
một số địa phương, đất nông nghiệp bị chia nhỏ và ngày càng trở nên nhỏ hơn,
số thửa đất của một hộ còn quá nhiều, với mức trung bình từ 4 đến 8 mảnh cho
mỗi hộ gia đình. Thực trạng này cản trở khả năng tạo những bước chuyển mới
trong hệ thống canh tác. Vì một bài toán đơn giản nhất cũng có thể cho thấy hiệu
quả từ nghề trồng lúa trên diện tích đất quá ít ỏi và phân tán của mỗi hộ nông
dân là rất thấp. Thế nhưng vẫn tồn tại một thực trạng là phần lớn những người
nông dân không thể rời bỏ những mảnh ruộng nhỏ bé của họ. Có nhiều nguyên
do, trong đó việc đủ ăn cũng là một lý lẽ rất thuyết phục, thêm vào đó là tâm lý
gắn bó với đất đai đã được hình thành từ đời này sang đời khác. Thực tế trong
giai đoạn trước đây cho thấy, ở các vùng nông thôn, trừ một số tình huống đặc
biệt, còn lại thì không có chuyện mua bán và sang nhượng ruộng đất, không có
sự tích tụ ruộng đất, thị trường ruộng đất không tồn tại. Nền kinh tế tiểu nông tự
nó đã xác định một ranh giới hạn điền còn dưới mức quy định của Luật đất đai
với một khoảng rất xa.
Trong điều kiện nguồn đất đai để khai phá mới ngày càng thu hẹp lại và
dân số ngày càng tăng lên, đất đai bị chia ra manh mún hơn thì dù có tận lực
thâm canh và nâng cao năng suất thì ngoài khả năng đủ ăn, sự tích luỹ cũng
không thể tăng lên được nhiều. Đành rằng không ai có thể phủ nhận được tính
tích cực của việc chia đất bình quân theo đầu người, đó là đảm bảo công bằng xã
hội cơ bản ở nông thôn, đi liền với nó là sự đảm bảo an toàn lương thực cho mọi
gia đình. Nhưng ngày nay, mục tiêu an toàn lương thực phải được đặt trong yêu
cầu mới của thời đại, nó không còn là vấn đề của từng cá nhân, của từng hộ nữa
mà là vấn đề của quốc gia, của dân tộc; thậm chí còn là vấn đề của khu vực, của
nhân loại. Việc giải quyết vấn đề này phải gắn với những yêu cầu nhất định về
điều kiện đất đai, điều kiện khoa học kỹ thuật mà việc tích tụ ruộng đất để đi lên
sản xuất lớn là một nội dung vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư phải đạt được khi thâm canh. Vì vậy nhóm sản
phẩm nông nghiệp được lựa chọn để phát triển phải thích hợp với điều kiện sinh
thái của tỉnh, cần chú trọng đến những sản phẩm chiến lược để thực hiện thâm
canh có trọng điểm.
Khả năng thâm canh tăng năng suất trong nông nghiệp là một khả năng vô
hạn. Hiện nay thâm canh trở thành xu hướng chủ đạo trong nền nông nghiệp của
tỉnh với việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới về giống, quy trình
canh tác và chế biến sản phẩm tiên tiến, vì địa tô chênh lệch II gắn chặt với
khuynh hướng thâm canh ruộng đất của chủ thể kinh doanh nông nghiệp hàng
hóa nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao trong nông nghiệp. Đây là một xu thế tất yếu
trong quá trình vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
V.I.Lênin cho rằng việc áp dụng tư bản vào nông nghiệp có nghĩa là
những thay đổi kỹ thuật trong nó: “tiến hành thâm canh trong nông nghiệp, là
chuyển sang những chế độ canh tác cao hơn, là tăng cường dùng nhiều phân bón
nhân tạo, là cải tiến công cụ và máy móc, là sự mở rộng việc sử dụng nông cụ và
máy móc, là ngày càng dùng thêm nhiều lao động làm thuê.v.v…” [17, tr.232].
Trong thâm canh hóa sản xuất nông nghiệp thì cơ giới hóa chiếm vị trí hàng đầu.
V.I.Lênin đã khẳng định ý nghĩa kinh tế - xã hội của việc áp dụng máy móc vào
nông nghiệp. Việc đưa máy móc vào nông nghiệp ở mức độ lớn sẽ giúp cho việc
nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp.
Thâm canh hóa đất đai phải được coi là phương hướng cơ bản trong phát
triển nông nghiệp của Bạc Liêu, vì vậy quá trình khai thác phải đi đôi với cải
tạo, nâng cao chất lượng đất đai. Cải tạo đất là nhân tố quan trọng nhất trong
việc thâm canh nông nghiệp. Nó làm giảm sự phụ thuộc của nông nghiệp vào
các lực lượng tự phát của thiên nhiên. Tuy nhiên hoạt động của con người cho
đến ngày nay, và có thể còn rất lâu nữa vẫn không thể làm thay đổi được các yếu
tố đã tham gia cấu tạo đất đai châu thổ trên địa bàn tỉnh, chẳng hạn như triệt tiêu
tầng Holocene gây chua mặn. Sở dĩ như vậy là vì trong các hệ thống tự nhiên
kỹ thuật, tác động của các quy luật tự nhiên về bản chất không thay đổi. Điều
đáng lưu ý là con người không thể ngay một sớm một chiều có thể hiểu được hết
mọi đặc tính của quy luật tự nhiên mà chỉ dần dần phát hiện ra các đặc tính đó
để áp dụng phương pháp cải tạo cho phù hợp.
Tóm lại, việc chuyển nông nghiệp sang sản xuất theo phương thức công
nghiệp đòi hỏi cần phải chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất. Đặc điểm về
mặt chất lượng của chuyên môn hóa trong giai đoạn hiện nay là ở chỗ nó được
thực hiện trên cơ sở liên kết nông - công nghiệp. Vì vậy, việc xây dựng các mô
hình sản xuất quy mô lớn ở tỉnh Bạc Liêu đòi hỏi cần phải tiếp tục hoàn thiện
các hình thức tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp. Hệ thống quản lý này
cần phải đảm bảo tiến hành các chính sách của Nhà nước một cách thống nhất
về các vấn đề nông nghiệp, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chủ quản trên
địa bàn tỉnh, đảm bảo tính độc lập và phát huy sáng kiến của các chủ thể sản
xuất kinh doanh trong việc giải quyết những vấn đề thuộc lĩnh vực sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm.
3.1.4. Sử dụng đất nông nghiệp để phát triển nông sản hàng hóa hướng
đến mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Trong giai đoạn hiện nay, việc gắn phát triển nông nghiệp hàng hóa với
xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, hiện đại, không phải là phủ định
những giá trị truyền thống, mà nâng cao giá trị đó lên tầm cao mới, phù hợp với
yêu cầu của thời đại.
Sử dụng đất nông nghiệp để phát triển nông sản hàng hóa có hiệu quả sẽ
tác động trực tiếp đến sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực khác của nền
kinh tế trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến thủy
sản và các ngành công nghiệp nguyên liệu khác. Trong lý luận về sự phát triển
của nông nghiệp thương phẩm, V.I.Lênin đã viết:
Sự phát triển của việc chế biến về mặt kỹ thuật các nông sản
thường gắn liền với sự tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp, một mặt, bản
thân việc sản xuất nguyên liệu để chế biến thường thường đòi hỏi phải cải
tiến nông nghiệp; mặt khác những phế liệu trong khi chế biến thường đem
dùng vào nông nghiệp, làm cho sản lượng nông nghiệp tăng lên và ít ra
cũng khôi phục một phần nào sự thăng bằng và sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa nông nghiệp và công nghiệp [15, tr.354].
Đất đai là một vấn đề phức tạp, đặt ra nhiều thách thức trong sự phát triển
tương lai. Sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn Bạc Liêu được quyết định bởi
thành công của quá trình đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và sự phát triển song
song của quá trình công nghiệp hóa. Tuy nhiên, các quá trình này lại bị chi phối
bởi những vấn đề xuất phát từ quan hệ ruộng đất. Ở những nơi đất chật người
đông, lao động dư thừa, trình độ canh tác tiên tiến hơn, thì sức ép trên đất đai
ngày càng lớn. Do đó đòi hỏi phải mở mang ngành nghề, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh rằng, nhiều cuộc khủng hoảng ở
nông thôn có nguồn gốc từ sự phân hóa ruộng đất mà nguyên nhân chính là sự
quản lý yếu kém của nhiều quốc gia. Trong thời kỳ tiền tư bản, mâu thuẫn giữa
tập trung đất đai để sản xuất nông sản và bần cùng hóa nông dân nghèo đã từng
tồn tại hoặc các mô hình trang trại với quy mô lớn khó có thể được thực hiện ở
những vùng dân cư đông đúc mà đa số hộ còn canh tác theo hướng sản xuất nhỏ
và có năng suất thấp.
Để mở mang phát triển công nghiệp nông thôn, các doanh nghiệp cần có
đất để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Nhưng muốn có được đất doanh nghiệp
phải trả thêm nhiều chi phí ngoài tiền thuê đất như đền bù, giải phóng mặt bằng,
lệ phí... nên chi phí thực tế phát sinh gấp nhiều lần so với quy định. Thực trạng
này ở Bạc Liêu đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng đầu tư để mở rộng sản
xuất của các doanh nghiệp.
Thực hiện quy hoạch tổng thể đất đai phục vụ cho sản xuất nông sản hàng
hóa, Bạc Liêu đã có chủ trương tập trung sức phát triển nông nghiệp theo hướng
có năng suất chất lượng và hiệu quả bảo đảm độ bền vững về kinh tế và sinh
thái. Xây dựng nông thôn mới văn minh tiến bộ với một cơ cấu kinh tế hợp lý,
có cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại phục vụ cho sản xuất và đời sống
nhân dân.
Tóm lại, việc phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa phải gắn liền với
phát triển một khu vực sản xuất rất quan trọng đó là công nghiệp nông thôn.
Theo một nghiên cứu của UNIDO (Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hiệp
Quốc) thì những nước có trình độ phát triển tương đối cao đều có tỷ lệ lao động
phi nông nghiệp ở nông thôn khoảng từ 20 - 30%. Trong phương án quy hoạch
của Bạc Liêu, tỷ lệ này vào khoảng 15 - 18% vào năm 2010.
Sản xuất nông nghiệp hàng hóa và kinh tế nông thôn phát triển sẽ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh, cung cấp nguyên liệu chế biến, tăng thêm hàng hóa
xuất khẩu. Sản xuất hàng hóa đa dạng gắn với các loại đất khác nhau, phát huy
được lợi thế của từng khu vực sinh thái. Việc khai thác, sử dụng đất nông nghiệp
phải dựa trên nền tảng của sự phát triển khoa học và công nghệ gắn với nâng cao
trình độ dân trí cho nông dân. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng
chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng cao và có quan hệ hợp tác với bên
ngoài là hướng giải quyết cơ bản cho nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn ở Bạc Liêu. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh việc huy động
mọi nguồn lực cho phát triển cho giao thông nông thôn hình thành mạng lưới
đảm bảo lưu chuyển nông sản hàng hóa thông suốt, nhất là ở các vùng sản xuất
hàng hóa tập trung, các vùng nguyên liệu.
3.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp nhằm phát triển nông sản hàng hóa trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
3.2.1. Thực hiện tốt công tác quy hoạch sử dụng đất trong chuyển dịch
cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Quy hoạch sử dụng đất đai là công cụ quản lý nhà nước về đất đai để các
cấp, các ngành quản lý, điều chỉnh việc khai thác, sử dụng đất đai phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn. Ở nội dung đẩy mạnh
phát triển nông sản hàng hóa, quy hoạch sử dụng đất đai có vai trò quyết định
trong việc điều chỉnh, cân đối giữa một bên là nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương
thực, sản xuất ra nhiều nông sản hàng hóa để trao đổi trong nước và xuất khẩu;
và một bên là nhiệm vụ công nghiệp hóa, đô thị hóa, mở mang dịch vụ (thường
dẫn đến tình trạng mất dần đất nông nghiệp).
Để đáp ứng được yêu cầu này, các cơ quan chức năng của tỉnh cần căn cứ
vào nhu cầu sử dụng đất trong từng thời điểm cụ thể và các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội để có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phù hợp, không để
quá thừa hoặc quá thiếu một loại đất nào. Ở Bạc Liêu, việc chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông nghiệp một cách tự phát thời gian qua đã dẫn đến mất cân đối về
cơ cấu sử dụng đất. Thực trạng này cũng là vấn đề có tính chất nghiêm trọng và
phổ biến trên phạm vi cả nước. Trước tình hình đó, ngày 28/4/1995 Thủ tướng
Chính phủ đã đưa ra Chỉ thị 247/TTg về khắc phục tình trạng giảm sút diện tích
đất trồng lúa nước và đất trồng cây nông nghiệp có giá trị cao do việc chuyển
quỹ đất này sang sử dụng vào mục đích khác, nhằm đảm bảo sự phát triển ổn
định của nông nghiệp, đảm bảo an toàn lương thực bền vững trong việc hoạch
định kế hoạch phát triển toàn diện nền kinh tế đất nước.
Thực hiện Luật Đất đai và các văn bản dưới luật, nhận thức được tầm
quan trọng và tính bức xúc của công tác lập quy hoạch sử dụng đất đối với công
cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vai trò quản lý nhà nước về
đất đai, được sự chỉ đạo của Tổng cục Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên và Môi
trường) và Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu, Sở Địa chính tỉnh Bạc Liêu đã phối
hợp với các ngành chức năng tiến hành lập “Quy hoạch sử dụng đất tỉnh Bạc
Liêu đến năm 2010” và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định
số 433/QĐ - TTg ngày 03/06/2002. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của
tỉnh đã góp phần tích cực vào việc hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội trong giai đoạn 2000 - 2005, làm căn cứ cho Ủy ban nhân dân tỉnh
quản lý sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên đất, là cơ sở cho việc xây dựng kế
hoạch sử dụng đất 5 năm và hàng năm của tỉnh Bạc Liêu.
Ngày 20/06/2005, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 150/2005/
QĐ/TTg phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, trong đó đề cập đến việc quy
hoạch sử dụng đất với các nội dung chính là khai hoang mở thêm đất nông
nghiệp năm 2002 đến năm 2010 là 975 nghìn ha. Đất sản xuất nông nghiệp năm
2010 phải đạt 9,67 triệu ha. Tầm nhìn năm 2020 đất sản xuất nông nghiệp 10,18
triệu ha. Cũng theo phê duyệt này, đất nuôi trồng thủy sản đến năm 2010 khoảng
1,44 triệu ha; trong đó nuôi trồng thủy sản nước ngọt: 640 nghìn ha, đất nuôi
trồng thủy sản nước mặn, nước lợ: 800 nghìn ha. Tầm nhìn năm 2020 đất nuôi
trồng thủy sản khoảng 20 triệu ha; trong đó đất nuôi trồng thủy sản nước ngọt
700 nghìn ha, đất nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ 1,3 triệu ha. Đất lâm
nghiệp là 16,7 triệu ha vào năm 2020.
Trong quy hoạch này đáng chú ý là đến năm 2010 sẽ chuyển 102.000 ha
đất trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản và cây trồng khác, đất chuyên lúa còn
3,96 triệu ha. Đầu tư hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi trên diện tích 1 triệu ha lúa
xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long.
Bạc Liêu là tỉnh có tiềm năng về sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy
sản nước mặn và nước lợ do đó việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông
nghiệp theo định hướng quy hoạch tổng thể của cả nước có nhiều thuận lợi. Qua
một thời gian thực hiện, đến nay tình hình kinh tế - xã hội cũng như sử dụng đất
trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu có nhiều đổi thay mang tính chất bước ngoặt, trên cơ
sở đó tỉnh đã tiến hành điều chỉnh các chỉ tiêu kinh tế - xã hội trong tình hình
mới phù hợp với thực tiễn hiện nay cũng như thời cơ và thách thức mới. Từ đó
đòi hỏi phải có những dự báo về nhu cầu và phân bổ lại quỹ đất trong giai đoạn
tiếp theo nhằm đáp ứng được nhu cầu sử dụng đất cho các ngành, các lĩnh vực
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xuất phát từ tình hình đó và căn cứ theo quy định tại khoản 1 (điểm a)
điều 27 Luật đất đai năm 2003 về việc điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất chỉ
được thực hiện trong các trường hợp có sự điều chỉnh mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội. Cuối năm 2005 Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã chỉ đạo Sở Tài
nguyên và Môi trường và các ngành chức năng có liên quan của tỉnh phối hợp
thực hiện “Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 tỉnh Bạc Liêu”.
Dự án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất tỉnh Bạc Liêu đến năm 2010 đã
tổng hợp toàn bộ các thông tin, tài liệu, số liệu, bản đồ về đất đai ở cả 3 cấp
(tỉnh, huyện, xã), là cơ sở cung cấp thông tin để các cấp triển khai cụ thể, chi tiết
việc sử dụng đất theo những mục đích nhất định trên địa bàn do cấp mình quản
lý. Trong đó thể hiện quan điểm bảo vệ diện tích lúa nước hợp lý nhằm đảm bảo
vấn đề lương thực, bao hàm cả lương thực hàng hóa; đảm bảo diện tích phủ rừng
ở mức độ cần thiết để bảo vệ môi trường; tạo điều kiện thuận lợi để nông dân
chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu
quả sản xuất hàng hóa; khuyến khích sử dụng đất vào mục đích có hiệu quả kinh
tế cao như nuôi trồng thủy sản; quy hoạch lại các vùng nguyên liệu cho công
nghiệp; tạo điều kiện để hộ gia đình nông dân tích tụ đất đai theo quy hoạch
nhằm phát triển kinh tế trang trại.
Để thực hiện có kết quả phương án điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất tỉnh Bạc Liêu đến năm 2010 cần thực hiện những giải pháp sau:
- Chính sách về thuế sử dụng đất và các khoản tiền có liên quan đến sử
dụng đất, có ưu tiên theo ngành nghề; đặc biệt là chính sách thuế mở theo hướng
thu hút đầu tư; tạo điều kiện để nông dân dễ dàng chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi trên đất sản xuất nông nghiệp nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất; gắn việc
chuyển đổi đất đai với chuyển đổi lao động.
- Điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh đến năm 2010 cần
được công bố công khai. Tỉnh cần có biện pháp tăng cường phối hợp giữa kế
hoạch phát triển đô thị, đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật với kế hoạch sử dụng đất
hàng năm để nâng cao tính khả thi, tính thực tiễn và hiệu quả sử dụng đất.
- Thực hiện Kế hoạch 05KH/TW ngày 10/9/2003 của Bộ Chính trị và
Quyết định số 273/QĐ - TTg ngày 12/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ về kiểm
tra công tác đầu tư xây dựng và quản lý, sử dụng đất, xử lý triệt để các trường
hợp người quản lý có quyết định giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái với quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đã được xét duyệt và trường hợp người sử dụng đất không sử dụng
hoặc sử dụng đất sai mục đích.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai theo pháp luật và chế
độ chính sách của Nhà nước, nhanh chóng khắc phục những vướng mắc tồn tại
về quản lý đất đai trên địa bàn toàn tỉnh. Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư
thực hiện việc khai thác sử dụng đất có hiệu quả, ổn định lâu dài.
- Đổi mới chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng, bố trí các khu tái định cư có điều kiện thuận lợi, từng bước đẩy nhanh tiến độ thu hồi đất. Đảm bảo đủ quỹ đất theo quy hoạch cho xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất, kinh doanh công nghiệp và dịch vụ, xây dựng các công trình văn hóa, giáo dục -
đào tạo, y tế và thể dục thể thao. Mặt khác tiết kiệm cao nhất diện tích đất trồng
lúa phải chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp.
- Việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp và bố trí các khu, cụm
công nghiệp mới phải dựa trên quan điểm phát triển lâu dài và bền vững. Do vậy
cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng các dự án phát triển, nhất là đánh giá tác động của
các dự án này đối với môi trường và xã hội, phát huy vai trò của quần chúng
trong việc đánh giá các tác động này. Việc xét duyệt các dự án phát triển cần có
sự tham gia đầy đủ của các cơ quan, ban ngành có chức năng hoặc có liên quan.
- Có chính sách thỏa đáng cho người dân bị mất đất sản xuất như: bố trí
lao động bị mất đất vào làm việc trong các khu công nghiệp, nhà máy; phát triển
các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ đồng thời đẩy mạnh công tác đào
tạo nghề để ổn định đời sống cho nhân dân.
Có thể nói, phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010
tỉnh Bạc Liêu được xây dựng trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh đã điều chỉnh, nhu cầu sử dụng đất của các ngành, các cấp, phù hợp với
mục tiêu chung về phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, huyện, thị xã, đảm bảo khai
thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, đặc biệt là tài
nguyên đất đai. Các thông tin về nhu cầu sử dụng đất được điều tra, khảo sát đến
từng công trình. Vì vậy đảm bảo các nguyên tắc: sử dụng tiết kiệm, hiệu quả,
gắn với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường; bảo vệ, tôn tạo di tích lịch sử
văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất tỉnh Bạc Liêu đến năm 2010 là căn cứ
để điều chỉnh phân bố lại dân cư, lao động; khai thác sử dụng hợp lý, có hiệu
quả tài nguyên đất, lao động trên từng địa bàn lãnh thổ; nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần và chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư.
Hiện nay, việc quy hoạch và xây dựng ở nông thôn và các khu đô thị trên
địa bàn tỉnh còn phân tán, do nhiều cơ quan đảm nhận ở nhiều địa phương. Để
khắc phục vần đề này có thể vận dụng chiến lược hình thành các cụm đô thị
nông thôn gắn nông nghiệp với công nghiệp để hình thành đô thị vùng và các
cụm công nghiệp trung tâm, hạn chế phần nào tình trạng mất đất nông nghiệp do
chuyển đổi ở những nơi đất đai vốn màu mỡ và đã có cơ sở hạ tầng tương đối
hoàn chỉnh phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Tỉnh cần sớm đưa ra giải pháp
hạn chế xu hướng chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt gây xáo trộn quy hoạch
như trong giai đoạn vừa qua.
Quá trình tập trung ruộng đất thông qua dồn điền, đổi thửa là giải pháp
tích cực để phát triển sản xuất hàng hóa chất lượng cao, có quy mô lớn ở những
khu vực đất ít người đông. Tuy nhiên tỉnh cần sớm đưa ra những kết luận cụ thể
về nhu cầu của từng vùng để có quy hoạch hợp lý, tránh vận dụng một cách máy
móc, đồng loạt ở mọi nơi nhằm hạn chế những tác động tiêu cực, khiến người
nghèo không có nguồn lực sản xuất, phải bán đất và rơi vào cảnh thất nghiệp.
3.2.2. Xây dựng các mô hình sản xuất quy mô lớn trên cơ sở triển khai
ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ
Để thúc đẩy sự vận động của kinh tế hộ nông dân lên các mô hình sản
xuất lớn đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ các giải pháp tích cực để cải thiện tình
hình sản xuất nông nghiệp, trong đó có giải pháp về đất đai.
Luật đất đai quy định người sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Đó là cơ sở pháp lý thừa nhận sự tích tụ và tập trung ruộng đất nông nghiệp để
từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn (trang trại, hợp tác xã
kiểu mới) trên phạm vi cả nước nói chung và ở Bạc Liêu nói riêng.
Mô hình kinh tế trang trại gắn liền với quá trình tập trung hóa sản xuất,
tích tụ, tập trung ruộng đất với một quy mô nhất định để sản xuất nông sản hàng
hóa phục vụ nhu cầu của thị trường. Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt kinh tế
trang trại với mô hình kinh tế hộ nông dân, kinh tế cá thể. Ưu thế của kinh tế
trang trại là khai thác được một cách tối đa tiềm năng của đất đai, tận dụng được
cả những loại đất mà kinh tế hộ do thiếu vốn và các nguồn lực khác nên không
thể khai thác được chẳng hạn như đất hoang hóa, đất nhiễm phèn, nhiễm mặn,...
Trong mô hình này, phương thức canh tác kết hợp nhiều cây trồng vật nuôi có
tác dụng giải quyết được nhiều lao động, làm tăng thu nhập, tận dụng triệt để
vốn đầu tư bỏ ra trên một đơn vị diện tích, tăng độ màu mỡ cho đất so với
phương thức đơn canh. Ngoài ra nó còn là hình thức chuyển vốn nhanh, lấy
ngắn nuôi dài. Vì vậy mô hình kinh tế trang trại hình thành là một tất yếu của sự
phát triển nông nghiệp hàng hóa. Phát triển kinh tế trang trại là một hướng đi
hợp quy luật có tác dụng thúc đẩy việc khai thác tiềm năng đất đai, phát huy nội
lực để phát triển sản xuất hàng hóa theo quy mô lớn, từng bước thực hiện có
hiệu quả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Nghị quyết 03 ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại đã
khẳng định kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông
nghiệp nông thôn. Có 2 tiêu chí để xác định kinh tế trang trại khác với kinh tế hộ gia
đình là: giá trị hàng hóa, dịch vụ và quy mô sản xuất (diện tích, số lượng đàn gia súc,
gia cầm…). Nhà nước khuyến khích và bảo hộ kinh tế trang trại, hỗ trợ vốn, khoa
học công nghệ, khuyến nông, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, cơ sở hạ tầng.
Chủ trương phát triển kinh tế trang trại bao gồm các nội dung:
Một là, phát huy lợi thế của vùng, của trang trại. Sản xuất theo nhu cầu
của thị trường trong và ngoài nước, nâng cao thu nhập trên từng đơn vị diện tích
của trang trại, Nhà nước hỗ trợ miễn giảm thuế, đầu tư, tín dụng, bảo hiểm... trên
cơ sở xây dựng nông nghiệp bền vững.
Hai là, chủ trang trại chủ động trong việc xây dựng kế hoạch nuôi trồng
dựa trên cơ sở định hướng kế hoạch của Nhà nước đối với vùng, với địa phương,
dựa trên các mô hình sản xuất có triển vọng. Có thể thực hiện chuyên canh, xen
canh, luân canh, đa dạng hóa sản phẩm để tận dụng mặt đất, mặt nước hiện có.
Ba là, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới để đạt năng suất chất lượng cao
với giá thành hạ (từ khâu giống, chăm sóc, tưới tiêu, bảo quản, chế biến…). Có
sự liên kết, hợp tác giữa các chủ trang trại và các thành phần kinh tế khác; có sự
phối hợp với nhà khoa học, quản lý. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành trang
trại, khả năng tiếp cận thông tin và khoa học công nghệ.
Trong thời gian qua, kinh tế trang trại góp phần quan trọng vào phát triển
kinh tế, xã hội, từng bước nâng cao đời sống của người lao động nông nghiệp.
Các mô hình phát triển kinh tế trang trại được nhân rộng ra ở nhiều địa phương
trong cả nước. Hiện nay, cả nước có khoảng 130.000 trang trại với các quy mô
khác nhau. Ở các tỉnh miền núi phía Bắc, các trang trại chủ yếu phát triển cây ăn
quả, trồng rừng và chăn nuôi; các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ phát triển
cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả; ở các tỉnh ven biển từ Hải Phòng đến Cà
Mau có hàng chục ngàn trang trại nuôi trồng thủy sản có giá trị kinh tế cao…
Các trang trại không những phát triển ở nông thôn mà ở một số thành phố lớn
cũng đã hình thành nhiều loại trang trại và đi vào hoạt động có hiệu quả (chăn
nuôi quy mô lớn, trồng cây cảnh…).
Ở Bạc Liêu, kinh tế hộ gia đình sản xuất nhỏ và kinh tế trang trại giữ vai
trò chủ đạo trong sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, toàn tỉnh
hiện có 407 trang trại hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (theo tiêu chí liên
bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Tổng cục thống kê), nhưng thực tế chỉ
có vài chục trang trại có thực lực. Việc phát triển kinh tế trang trại ở các địa
phương trong tỉnh chưa làm tốt công tác quy hoạch, chưa đặt trong mối quan hệ
gắn bó với đặc điểm đa dạng sinh học và các hệ sinh thái.
Để phát triển mô hình kinh tế trang trại ở Bạc Liêu phục vụ sản xuất nông
sản hàng hóa, trước hết cần thực hiện tốt giải pháp tích tụ và tập trung ruộng đất,
được xem là quá trình tất yếu để phát triển sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở khai
thác tiềm năng, phát huy nội lực. Trong thực tế trình độ sản xuất kinh doanh
giữa các chủ thể có sự khác nhau, những chủ thể có kiến thức, kinh nghiệm và
điều kiện sản xuất tốt sẽ tìm mọi cách thuê thêm ruộng đất để tăng diện tích
canh tác. Xét về mặt kinh tế, họ có khả năng sử dụng đất có hiệu quả hơn các
chủ thể khác. Bên cạnh đó, có những người do không đủ khả năng mở rộng sản
xuất hoặc gặp rủi ro trong sản xuất kinh doanh muốn chuyển nhượng quyền sử
dụng đất của mình để chuyển sang ngành nghề khác thích hợp hơn. Làm như
vậy sẽ có lợi hơn là tiếp tục sản xuất. Sự gặp gỡ giữa một bên là người có nhu
cầu chuyển nhượng, một bên có nhu cầu sử dụng đất đai sẽ hình thành việc mua
bán quyền sử dụng đất. Sự tích tụ ruộng đất có thể diễn ra nhanh cho đến khi
quy mô ruộng đất đạt tới giới hạn của sản xuất có hiệu quả nhất trong khuôn khổ
trang trại gia đình.
Như vậy, cần đẩy mạnh quá trình chuyển đổi ruộng đất ở những vùng
ruộng đất manh mún, phân tán; dồn điền đổi thửa để tạo điều kiện thích hợp cho
canh tác theo những phương thức lớn, hiện đại. Áp dụng những hệ thống sản
xuất kết hợp nông - lâm - ngư nghiệp phù hợp với điều kiện sinh thái của từng
khu vực nhằm sử dụng tổng hợp và có hiệu quả các loại tài nguyên đất, nước và
khí hậu.
Tuy nhiên phải hết sức chú ý đến mặt xã hội của việc tích tụ ruộng đất,
nhất là trong điều kiện hiện nay đời sống của một bộ phận không nhỏ nông dân
trong tỉnh còn rất khó khăn, họ không còn tư liệu sản xuất nào ngoài mảnh đất
nông nghiệp, khả năng chuyển sang ngành nghề khác cũng rất mong manh vì
trình độ hạn chế. Đây cũng là thực trạng chung của nhiều vùng nông thôn trên cả
nước. Trong nội dung phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá VIII) đã lưu ý việc phân tích thực tiễn để có những chính sách,
giải pháp xử lý phù hợp vừa đảm bảo không để nông dân bị bần cùng hóa do
không có đất sản xuất, vừa thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất hợp lý theo tiến
trình công nghiệp hóa [5, tr.64].
Kinh tế trang trại ở Bạc Liêu tuy còn hạn chế nhưng đã có tác dụng thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra các vùng chuyên canh sản xuất
hàng hóa làm tiền đề cho sự phát triển của công nghiệp chế biến nông sản, phát
triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
Cùng với các loại hình tổ chức khác nhau của kinh tế trang trại, mà điển
hình là trang trại gia đình, kinh tế hợp tác ở Bạc Liêu trong những năm gần đây
được quan tâm phát triển, hiện nay toàn tỉnh có 81 hợp tác xã, trong đó có 49
hợp tác xã thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Các hợp tác xã được hình thành trên cơ
sở tự nguyện, cùng có lợi, cùng góp vốn sản xuất kinh doanh; hoạt động chủ yếu
là dịch vụ cung ứng vật tư phục vụ sản xuất như lúa giống, phân bón, thức ăn
chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, làm đất, tiêu thụ sản phẩm. Đa số các hợp tác
xã hoạt động có hiệu quả, hiện có 7 hợp tác xã yếu kém cần được củng cố hoặc
giải thể, chuyển sang hình thức khác.
Trong tương lai của nền sản xuất đã chuyển đổi, để gia tăng hiệu quả sử
dụng và quản lý bảo vệ các công trình chung (như hệ thống thủy lợi, thủy nông
nội đồng, cầu, cống, đập, đê bao và đường nông thôn…), đồng thời tạo điều kiện
hỗ trợ nhau, hạn chế tối đa những rủi ro trong sản xuất, các mô hình tổ chức
nông dân cần được khuyến khích và vận động thành lập ở cả tiểu vùng sản xuất
nông nghiệp lẫn tiểu vùng nuôi trồng thủy sản.
Theo kinh nghiệm của một số quốc gia Đông Nam Á (Thái Lan,
Philíppin, Malaysia), việc nuôi trồng thủy sản (đặc biệt là nuôi tôm) trong một
vùng rộng lớn thường không thể thực hiện riêng lẻ ở từng hộ cá thể, vì môi
trường và các yếu tố sản xuất trong vùng nuôi tôm đều liên quan tác động qua
lại với nhau. Do đó trong xu thế hiện nay, việc hình thành các tổ chức nông dân
theo hướng tự nguyện (như tập đoàn, tổ hợp tác hay hợp tác xã) và xu hướng
tích tụ đất để hình thành kinh tế trang trại cũng là một tất yếu khách quan.
Để thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng các mô hình sản xuất
nông nghiệp quy mô lớn, việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản
xuất là một nội dung có ý nghĩa quyết định, đặc biệt là công nghệ sinh học. Chỉ
thị số 50 - CT - TW của Ban Bí thư ngày 04/03/2005 về việc đẩy mạnh phát
triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã khẳng định: “Đối với nước ta, một nước nhiệt đới đi lên từ nông nghiệp,
công nghệ sinh học có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; là một yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm an ninh lương
thực, chuyển đổi cơ cấu và phát triển bền vững kinh tế nông nghiệp, nông thôn”
[8, tr.1].
Về nhiệm vụ phát triển công nghệ sinh học. Chỉ thị nêu rõ:
Trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, công nghệ sinh học phải
góp phần quan trọng trong việc tạo ra giống cây trồng, vật nuôi mới có
năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; đóng góp thiết thực vào
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo ra các công nghệ sản xuất các chế phẩm
bảo vệ cây trồng, vật nuôi; các công nghệ bảo quản và chế biến nông -
lâm - thủy sản nhằm đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm
xuất khẩu và phục vụ tiêu dùng trong nước [8, tr.3].
Và để thực hiện tốt nhiệm vụ này cần “Tập trung nghiên cứu và ứng dụng
công nghệ tế bào thực vật và động vật trong tạo và nhân nhanh giống cây trồng
và vật nuôi có ưu thế về năng suất, chất lượng [8, tr.4].
Ngoài việc coi trọng ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật đã được
công bố trong nước và trên thế giới vào việc sử dụng đất nông nghiệp, sản xuất nông
sản hàng hóa. Công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ phục vụ cho việc
sản xuất trong điều kiện đặc thù của tỉnh Bạc Liêu cũng được đẩy mạnh. Các chương
trình, dự án khoa học chủ yếu của tỉnh từ nay đến năm 2010 bao gồm:
- Phối hợp với các Viện, Trường nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao tiến
bộ kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học,
nâng cao chất lượng giống cây trồng, giống vật nuôi, tạo ra sản phẩm đáp ứng
được yêu cầu cạnh tranh trên thị trường, trước hết là giống lúa chất lượng cao,
lúa đặc sản, lúa sạch, giống lúa chịu mặn cho vùng tôm - lúa. Xây dựng chương
trình sản xuất lúa chất lượng cao giai đoạn 2006 - 2010 với nhiệm vụ cụ thể là
sản xuất 320 tấn giống cấp nguyên chủng trên quy mô 80 ha thuộc trại giống cây
trồng và các cơ sở sản xuất giống để phổ biến và xã hội hóa giống cho nông dân
sản xuất. Chương trình lúa chất lượng cao sẽ sản xuất 2.500.000 tấn lúa đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu trên quy mô 500.000 ha trong giai đoạn này.
- Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ bảo quản kín hạt giống lúa, nâng thời
gian tồn trữ hạt giống lên 9 tháng.
- Đẩy mạnh sản xuất giống cây ăn quả chất lượng cao có thể phát triển
được trong điều kiện tự nhiên của tỉnh như xoài cát Hoà Lộc, bưởi Năm Roi…,
nhằm đa dạng hoá sản phẩm.
- Xây dựng và hoàn thiện mô hình nông - ngư kết hợp khuyến nông làm
tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích, góp phần xoá đói giảm nghèo, hạn chế ô
nhiễm môi trường.
- Áp dụng phương pháp phòng trừ sinh học trong bảo vệ tài nguyên thực
vật bằng cách nhân và thả ong ký sinh diệt bọ cánh cứng hại dừa trên toàn bộ
diện tích trồng dừa của tỉnh.
- Xây dựng khu nông nghiệp công nghệ cao theo hướng tập trung phục vụ
sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.
3.2.3. Hoàn thiện và thực thi chính sách pháp luật đất đai
Nhìn một cách tổng thể trong lĩnh vực đất đai, các chính sách thuộc tầm vĩ
mô đã được hình thành và ngày càng hoàn thiện, tích cực phát huy tác dụng
trong việc điều chỉnh các quan hệ đất đai. Tuy nhiên còn thiếu đồng bộ, chưa
được phổ biến sâu rộng. Còn thiếu các chính sách cụ thể và các văn bản pháp
quy điều tiết các mối quan hệ đất đai trong cơ chế kinh tế thị trường, thiếu quy
định cụ thể về 5 quyền của người sử dụng đất. Các điều khoản xử lý hành chính
các vi phạm pháp luật đất đai còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ trong khi bộ máy quản
lý đất đai ở các cấp, đặc biệt là cấp xã ở Bạc Liêu còn thiếu và chưa đủ năng lực
theo yêu cầu công việc, do đó dẫn đến tình trạng trên địa bàn tỉnh còn diễn ra
tình trạng sử dụng đất tùy tiện, phá vỡ quy hoạch, tranh chấp đất đai… Việc
chuyển nhượng có những nơi diễn ra như một thị trường ngầm sôi động. Trong
một thời gian dài do buông lỏng quản lý nên tài nguyên đất không được khai
thác đầy đủ, việc sử dụng đất còn lãng phí, nguồn thu từ đất bị thất thoát.
Nhiệm vụ đặt ra đối với tỉnh Bạc Liêu là phải trên cơ sở những chính sách
lớn của Nhà nước mà thể chế hoá thành chủ trương chính sách cụ thể, phù hợp
với thực tiễn và yêu cầu của địa phương và nhất là phải tăng cường thực thi
chính sách pháp luật đất đai vào cuộc sống.
Một là, chính sách đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tỉnh cần khẩn trương hoàn thành việc đăng ký đất đai, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với những diện tích đất nông nghiệp còn lại (khoảng
6,09%). Để đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cần thực
hiện các giải pháp cụ thể như:
- Tăng cường công tác đo đạc, lập hồ sơ đất trong tổng thể quy hoạch.
- Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn cho lực lượng cán bộ làm
công tác quản lý về đăng ký đất đai, lập hồ sơ xét duyệt và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
- Đơn giản hóa các điều kiện, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hai là, chính sách thuế.
Việc miễn giảm thuế nông nghiệp theo chủ trương của Nhà nước đã tạo
động lực to lớn cho người nông dân, giúp họ tích cực đầu tư vào sản xuất. Để
thực hiện tốt chủ trương này Bạc liêu cần tăng cường công tác khảo sát thực tiễn
để có cơ sở thực hiện trợ cước, trợ giá cho các hộ nghèo; việc thực hiện phải đảm bảo tính khách quan, công bằng.
Cần chuyển đổi thuế chuyển quyền sử dụng đất thành thuế thu nhập từ
việc chuyển quyền sử dụng đất theo mức lũy tiến nhằm khuyến khích những
nguời có nhu cầu sử dụng đất thật sự làm các thủ tục hợp pháp hóa quyền sử
dụng đất. Đối với những nơi có dự án đầu tư chuyển đổi đất nông nghiệp sang
mục đích sử dụng khác, tỉnh cần thực hiện tốt việc điều tiết phần giá trị gia tăng
của đất do đầu tư mang lại thông qua thuế suất thuế thu nhập từ chuyển quyền
sử dụng đất trước và sau khi có dự án.
Ba là, chính sách bồi thường khi giải phóng mặt bằng.
Về đền bù thiệt hại đất đai, so với các văn bản trước thì Nghị định 90/CP
là văn bản mang tính chất toàn diện hơn cả, nhưng dưới tác động của nền kinh tế
thị trường cùng với số lượng các dự án ngày càng nhiều, công tác giải phóng
mặt bằng càng trở nên khó khăn đòi hỏi phải có sự thay đổi về mặt chính sách.
Đứng trước thực tiễn khi Việt Nam bắt đầu ký kết các hiệp định vay vốn của một
số tổ chức Quốc tế (ADB, WB …). Nghị định 90/CP đã thể hiện một số bất cập
và không phù hợp với tình hình thực tiễn. Khi công tác giải phóng mặt bằng diễn
ra trên quy mô diện tích lớn, phải di chuyển một số lượng lớn dân cư thì công
tác này không chỉ dừng lại ở mức độ đền bù thiệt hại về mặt đất đai, tài sản mà
đòi hỏi Nhà nước phải có biện pháp, chính sách giúp đỡ người dân mau chóng
ổn định cuộc sống, thậm chí phải thực hiện hỗ trợ cho cộng đồng ở nơi di
chuyển dân cư đến, tạo điều kiện hòa nhập cuộc sống giữa hai luồng dân cư mới
và cũ, góp phần giữ vững ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Ngày 24/4/1998, Nghị định 22/CP ban hành với hai nội dung mới: Chính
sách hỗ trợ và lập khu tái định cư. Người bị thu hồi đất có quyền được lựa chọn
1 trong 3 phương án (đền bù bằng đất, bằng tiền hoặc bằng đất và bằng tiền).
Trong đó đổi đất lấy đất bao giờ cũng là phương án chấp nhận được. Tuy nhiên,
đất thay thế phải được tự người bị ảnh hưởng bởi dự án chấp nhận.
Ở Bạc Liêu, trong quá trình phát triển công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ
tầng giao thông nông thôn, đô thị; tỉnh đã có chủ trương bảo vệ quỹ đất nông
nghiệp, hạn chế việc sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích khác. Tuy nhiên còn
thiếu các chính sách cụ thể và chính quyền các cấp còn lúng túng trong việc tổ chức
thực hiện đền bù, giải tỏa, tạo việc làm cho người lao động mất tư liệu sản xuất.
Để đảm bảo công bằng đối với người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu
hồi, việc định giá bồi thường khi giải phóng mặt bằng phải được thực hiện thống
nhất trên địa bàn tỉnh và Ủy ban nhân dân tỉnh phải có trách nhiệm kiểm tra,
giám sát chặt chẽ toàn bộ quá trình này, Sở Tài chính có trách nhiệm thẩm định,
thống nhất đơn giá bồi thường chung. Khi định giá bồi thường thiệt hại về đất và
tài sản trên đất phải đảm bảo nguyên tắc phù hợp với giá thị trường tại thời điểm
có quyết định thu hồi đất.
Bốn là, các chính sách thúc đẩy tích tụ và tập trung ruộng đất trong nông nghiệp.
Các cơ quan chức năng của tỉnh cần tăng cường công tác chỉ đạo, hỗ trợ
việc dồn điền, đổi thửa gắn với việc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
để nông dân yên tâm đầu tư vào đất đai mới chuyển đổi, áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, tăng khả năng sử dụng đất đai.
Cần phát triển đồng bộ các biện pháp phát triển ngành nghề mới ở nông
thôn, đào tạo nghề, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và một số biện pháp
hỗ trợ khác nhằm giải quyết một cách cơ bản việc làm và thu nhập cho nông dân
ở khu vực chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp thông qua tích tụ và tập trung
ruộng đất.
Xử lý nghiêm những trường hợp lợi dụng chính sách tích tụ đất đai để đầu
cơ, trục lợi.
Về chính sách đầu tư: Đẩy mạnh việc đầu tư cho các chương trình phát
triển nông nghiệp bằng nguồn vốn ngân sách của Nhà nước thông qua các dự án
trợ cấp vốn. Tuy nhiên cần xác định phát triển bằng nội lực là chủ yếu. Việc đầu
tư cần tập trung vào các mục tiêu trọng điểm, có tác động mang tính chất quyết
định đến sự phát triển của sản xuất nông sản hàng hoá như kết cấu hạ tầng giao
thông nông thôn, thủy lợi...
Năm là, chính sách giá cả đất đai.
Nhà nước phải xác định giá đất có cơ sở khoa học, phù hợp với sự vận
động của các quan hệ đất đai trong nền kinh tế thị trường để điều tiết các nguồn
thu đối với các quan hệ về tài sản đất đai, điều tiết thu nhập từ đất. Cần xây
dựng nguyên tắc, căn cứ và phương pháp xác định giá trị quyền sử dụng đất
chung. Trên cơ sở đó Chính phủ quy định khung giá đất cho từng khu vực. Dựa
trên những nguyên tắc, phương pháp định giá và khung giá của Nhà nước, căn
cứ vào tình hình thực tiễn của địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu hàng
năm phải xây dựng khung giá quyền sử dụng đất của địa phương mình để làm
căn cứ tính thuế quyền sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất,
bồi thường thiệt hại về đất khi Nhà nước thu hồi đất và giao đất có thu tiền sử
dụng đất, cho thuê đất. Khi xác định giá trị quyền sử dụng đất phải xuất phát từ
thực tiễn của tỉnh, không nên áp đặt một cách máy móc khung giá quy định của
Nhà nước.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước về
đất đai, lành mạnh hóa thị trường bất động sản
Trong cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta, khi người được sử dụng đất đai
thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật thì thị trường chuyển nhượng
quyền sử dụng đất hình thành và phát triển cùng với các loại thị trường khác.
Đảng ta xác định: “Quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Chính sách đất đai
phải chú ý đầy đủ tới các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, bảo đảm hài hòa lợi ích
của nhà nước, người đầu tư và người sử dụng đất, trong đó cần chú trọng đúng
mức lợi ích của nhà nước, của xã hội…” [7, tr.61].
Việc thừa nhận quyền sử dụng đất là hàng hóa cũng đồng nghĩa với việc
thừa nhận quyền sử dụng đất là tài sản của người sử dụng đất. Đã là hàng hóa thì
quyền sử dụng đất phải tham gia trao đổi trên thị trường và chịu tác động của
quy luật cung cầu trong việc hình thành giá cả. Vì vậy, một trong những giải
pháp quản lý có hiệu quả giá đất là nhà nước phải sử dụng cơ chế, chính sách,
pháp luật để tác động vào quan hệ cung cầu, kiểm soát và xử lý những tình
huống mất cân đối, gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Có thể nói rằng tình
trạng sốt giá đất trong giai đoạn vừa qua có nguyên nhân từ thực trạng chưa
quản lý tốt đất đai theo quy luật cung cầu.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
khẳng định: “Hoạt động của thị trường bất động sản không lành mạnh, tình trạng
đầu cơ về đất đai và bất động sản gắn liền với đất rất nghiêm trọng, đẩy giá đất
lên cao” [6, tr.59]. Thực trạng này có nguyên nhân quản lý nhà nước về đất đai
còn nhiều hạn chế, yếu kém, quản lý thị trường bất động sản bị buông lỏng.
Người sử dụng đất chưa thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước, chính sách
tài chính đối với đất đai còn nhiều bất cập.
Ở Bạc Liêu hiện nay cần xây dựng và quản lý một cách chặt chẽ thị
trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất. Tạo môi trường pháp lý,
môi trường kinh tế cho các doanh nghiệp theo hướng xây dựng một thị trường
đất đai công khai, minh bạch. Tính chất lành mạnh của thị trường đất đai là nhân
tố làm tăng khả năng tiếp cận của người dân với ruộng đất, mở ra nhiều khả
năng đầu tư hơn cho thị trường này. Muốn vậy phải có cơ chế hạn chế giá cả sai
lệch do tệ nạn đầu cơ (hiện nay đang diễn ra phổ biến trên địa bàn tỉnh), trong
thực tế, giá đất sai lệch gây cản trở việc trao đổi và hạn chế lớn đến việc thu hút
đầu tư. Để thực hiện được điều này, tỉnh cần ban hành và tổ chức thực hiện cơ
chế xây dựng và quản lý giá quyền sử dụng đất và giá một số loại bất động sản
gắn liền với đất, hoàn thiện cơ chế đấu giá đối với các tổ chức, cá nhân thuê đất
để đầu tư kinh doanh nhà, đất theo quy hoạch. Đối với đất nông nghiệp được
quy hoạch vào mục đích xây dựng đô thị, kết cấu hạ tầng, Nhà nước có thể nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Các ngành chức năng của tỉnh phải tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về đất đai, việc thực
hiện quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, việc thực hiện các quyền, lợi ích và
nghĩa vụ của người sử dụng đất và hiệu quả sử dụng đất. Giải quyết các khiếu
nại, tố cáo và các tranh chấp về đất đai.
Bên cạnh đó, thực hiện chế độ giao dịch với chi phí hợp lý, xác lập được
thể chế trao đổi về những người muốn phát triển sản xuất nông sản hàng hóa và
người có nhu cầu chuyển sang hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp có thể thoả
thuận được việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường. Thị trường
đất đai chỉ có thể phát triển lành mạnh trên cơ sở chiến lược và những quy hoạch
sử dụng đất nông nghiệp, đất công nghiệp và đô thị hóa được xác lập trong một
quy hoạch chung, có sự điều hành thống nhất để định rõ loại hình và nhất quán
trong sử dụng. Thị trường đất đai lành mạnh sẽ tạo thuận lợi cho việc trao đổi,
chuyển mục đích sử dụng đất đai, do đó trở thành tác nhân tích cực trong việc
chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong toàn tỉnh.
3.2.5. Tăng cường năng lực thị trường nội địa, đồng thời mở rộng sự liên
kết ra bên ngoài để giải quyết tốt đầu vào và đầu ra của thị trường nông sản
Vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Bạc Liêu nói riêng có vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Do đó việc
khai thác sử dụng đất và việc tổ chức phát triển kinh tế theo không gian lãnh thổ
phải đặt trong mối quan hệ khu vực và quốc gia.
Trong vùng kinh tế nông nghiệp, không thể không giải quyết mối quan hệ
giữa các ngành sản xuất nông nghiệp với các xí nghiệp công nghiệp có liên
quan, giữa các hoạt động kinh tế với môi trường xung quanh, với dân cư, tài
nguyên lao động, với nhu cầu của nhân dân địa phương, với các mối quan hệ
trong nội bộ vùng và ngoài vùng.
Tỉnh cần nghiên cứu, khảo sát cũng như dự báo nhằm định hướng chiến
lược nông sản hàng hóa, định hướng thị trường đối với những mặt hàng nông
sản dự kiến sản xuất với số lượng lớn mà tỉnh có tiềm năng, cần tránh tình trạng
cứ phổ biến khoa học, chuyển giao công nghệ cho nông dân sản xuất đại trà sau
đó mới tìm thị trường tiêu thụ như hiện nay. Thực tế trong giai đoạn vừa qua,
người nông dân đã nhiều phen điêu đứng, phá sản vì không tiêu thụ được sản
phẩm hoặc phải bán với giá quá thấp, không đủ bù đắp chi phí sản xuất, có khi
phải hủy bỏ hàng loạt để chuyển sang nuôi trồng các loại cây con khác.
Bên cạnh đó cần thiết lập các kênh phân phối chính thức đối với các nông
sản hàng hóa chất lượng cao để đảm bảo uy tín thương hiệu của nông sản hàng
hóa, tránh tình trạng pha trộn sản phẩm kém chất lượng diễn ra trong thị trường
nông sản xuất phát từ mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận một cách không chính đáng.
Nền nông nghiệp hàng hóa muốn phát triển phải dựa trên cơ sở của sự
phát triển thị trường nông nghiệp và nông thôn. Do đó phải tạo lập đồng bộ các
yếu tố thị trường. Cần xây dựng và phát triển các loại thị trường hàng hóa, dịch
vụ phục vụ nông nghiệp và nông thôn; đảm bảo sự lưu thông thuận lợi của nông
sản hàng hóa.
Nhà nước cần có các biện pháp cụ thể điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô để
bảo vệ lợi ích cho người nông dân, bởi vì trong thời gian qua những diễn biến về
mặt giá cả đã gây ra nhiều khó khăn đối với họ, đặc biệt là những người sản xuất
lương thực. Theo báo cáo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
năm 2003 thì giá trị nông sản làm ra trên 1 ha đất bình quân trên cả nước khoảng
17.000.000 đ/năm, tức là khoảng hơn 1000 USD/năm. Như vậy bình quân một
nhân khẩu nông nghiệp chỉ thu nhập khoảng 2.720.000đ/ năm (chưa đến 200
USD/ năm); trong đó thu nhập ròng chỉ là 1.360.000đ/năm (chưa đến 100USD/
năm) kém xa so với thu nhập của các ngành phi nông nghiệp khác. Trong thực tế
tồn tại sự bất công về giá trị so sánh thuần túy kinh tế học giữa giá gạo và các
mặt hàng tiêu dùng. Nghịch lý này có thể dẫn đến việc nông dân không còn gắn
bó với nghề trồng lúa. Trong lúc công nghiệp chưa đủ sức thu hút số lao động
chân tay đã quá dư thừa thì sự sụt giảm của nông nghiệp là một thách thức và
nguy cơ về nhiều mặt. Giá cả lúa gạo thường bị thua thiệt trong khi giá cả các
loại vật tư nông nghiệp để sản xuất lại tăng cao, đặc biệt là phân bón. Ở Việt
Nam hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu gạo thường không sử dụng cách hợp
đồng từ khâu đầu đến khâu cuối với nông dân mà chỉ đơn thuần làm công việc
thu mua sản phẩm, do đó các doanh nghiệp thường chọn thời điểm có thể đưa ra
giá mua có lợi nhất cho bản thân họ. Phần mất mát do giá cả lúa gạo xuống thấp
người nông dân phải gánh chịu. Ngược lại giá vật tư nông nghiệp thường lên cao
theo vụ mùa, tức là lúc người nông dân có nhu cầu sử dụng nhiều nhất. Điều này
có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người nông dân. Vì vậy việc phát triển
sản xuất nông sản hàng hóa để xuất khẩu của nước ta mà chủ lực là lúa gạo cũng
gặp nhiều trở ngại.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu cũng như trên phạm vi cả nước, kinh
tế hộ gia đình có vai trò chủ yếu và đang chuyển từ kinh tế tự túc, tự cấp sang
kinh tế hàng hóa, gắn với thị trường trong và ngoài nước. Do đó phải có sự gắn
kết giữa nông dân với các doanh nghiệp chế biến tiêu thụ nông sản, cung ứng
vật tư và tín dụng, dịch vụ kỹ thuật trên cơ sở hợp đồng gắn lợi ích với trách
nhiệm. Đối với những nông sản xuất khẩu khối lượng lớn cần tạo quan hệ liên
kết với các công ty nước ngoài, nhất là các công ty xuyên quốc gia đang nắm
giữ thị phần lớn trên thế giới để có chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới.
Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trình bày tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XI đã nêu rõ: Các cơ quan có trách
nhiệm của Nhà nước, các Hiệp hội kinh doanh nông sản, thủy sản phải coi trọng
nắm bắt thông tin, nâng cao năng lực dự báo thị trường để có biện pháp chủ
động ứng phó, giúp nông dân và doanh nghiệp điều chỉnh sản xuất kịp thời, hạn
chế thua thiệt trước những biến động bất lợi. Khuyến khích áp dụng các hình
thức bảo hiểm đối với nông sản. Nhà nước đẩy mạnh công tác nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ mới, giống mới cho nông dân, kiểm soát chất lượng vật tư
và dịch vụ sản xuất nông nghiệp, áp dụng các biện pháp tác động đến điều tiết cung
- cầu để ổn định giá và ngăn ngừa những hành vi lợi dụng bắt chẹt nông dân.
Trước hết phải thiết lập tốt sự liên kết bên trong để phát huy nội lực, tạo
cơ sở để thu hút sự đầu tư từ bên ngoài vào. Để giải quyết được vấn đề này, Tỉnh
ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh cần tăng cường chỉ đạo, đồng thời rà soát lại chức
năng nhiệm vụ của các sở ngành, địa phương và mối quan hệ phối hợp trong
việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiêu thụ nông sản hàng hóa. Cụ
thể như: quản lý cấp giấy phép hành nghề; thanh tra, kiểm tra chuyên ngành và
xử lý vi phạm; hướng dẫn kỹ thuật và định hướng sản xuất cho nông dân; cung
cấp thông tin thị trường, giá cả và hỗ trợ nông dân tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh
đó, cần chú trọng đầu tư các nhà máy chế biến hàng nông sản, từng bước nâng
cấp các nhà máy quốc doanh chế biến lúa gạo, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu
xuất khẩu. Nhằm giảm tổn thất gạo sau thu hoạch từ 13 - 15% hiện nay xuống
10% (tương đương Thái Lan), cần xây dựng mô hình trung tâm chế biến lương
thực và dịch vụ sử dụng hệ thống công nghệ sau thu hoạch bao gồm hệ thống
kho, sân phơi, máy sấy, máy xay xát (có chức năng loại bỏ tạp chất, lau bóng,
phân loại, đóng gói). Về chế biến thủy sản, tiếp tục xác định mặt hàng tôm đông
lạnh xuất khẩu là mặt hàng chủ lực trong sản phẩm đông lạnh xuất khẩu. Các xí
nghiệp chế biến hàng xuất khẩu cần sản xuất theo hướng tinh chế, nâng cao chất
lượng và đa dạng hóa sản phẩm. Theo phương án điều chỉnh quy hoạch sản xuất
ở vùng Nam Quốc Lộ 1A, ước tính sản lượng tôm cần chế biến để xuất khẩu lên
đến 70.000 tấn năm 2010, do vậy công suất chế biến thủy sản của tỉnh cần tăng
gấp nhiều lần so với hiện nay. Xây dựng thêm nhà máy chế biến muối Long
Điền Tây (do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ đầu tư), phấn
đấu đạt sản lượng chế biến 52.000 tấn vào năm 2010. Đối với các sản phẩm
khác được sơ chế tiêu thụ trong tỉnh và cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy
chế biến nông sản ở các tỉnh phụ cận và khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh việc khai thác nội lực của thị trường địa phương trên cơ sở thúc
đẩy phân công lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp cũng như trong toàn bộ
các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác trên địa bàn tỉnh. Việc đẩy mạnh sản xuất nông
sản hàng hóa ở Bạc Liêu đòi hỏi tận dụng, nắm bắt tốt các cơ hội liên kết, hợp
tác với các thị trường bên ngoài. Đó là các thị trường:
- Thị trường đồng bằng sông Cửu Long: Đây là một thị trường tiêu dùng
lớn, nhiều tiềm năng, phù hợp với trình độ phát triển của tỉnh. Với trình độ phát
triển tương đối đồng đều, cơ cấu sản xuất tương đối đồng nhất nên Bạc Liêu có
nhiều cơ hội giao dịch ở đây tất cả những sản phẩm của tỉnh có lợi thế tương đối.
- Thị trường Đông Nam Bộ và thị trường trong nước nói chung: Đối với
thị trường này, việc trao đổi hàng hóa và dịch của tỉnh Bạc Liêu mang tính chất
bổ sung, nghĩa là tỉnh sẽ cung cấp các mặt hàng nông sản chất lượng cao (gạo
thơm, rau sạch, cá biển, tôm, cua, sò huyết…) và tiếp nhận các mặt hàng tỉnh
chưa có khả năng sản xuất hoặc sản xuất được nhưng chi phí cao, không có lợi
thế cạnh tranh, đặc biệt là các dạng công nghệ cao và tư liệu sản xuất.
- Thị trường ngoài nước: Đối với mặt hàng lương thực chất lượng cao và
hàng thủy sản đã qua chế biến thì đây là một thị trường có tiềm năng rất lớn.
Đặc điểm này trong tương lai vẫn có tính bền vững vì xu hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của các nước phát triển với việc tăng trưởng chủ yếu vào lĩnh vực
dịch vụ và công nghiệp làm cho nhu cầu về các mặt hàng nông sản phục vụ cho
tiêu dùng trên thị trường các nước này vẫn ở mức cao.
Trong các nước có quan hệ kinh tế đối ngoại với Việt Nam, Nhật Bản là
thị trường để xuất khẩu thủy sản lớn nhất của các nước trong khu vực. Ở thị
trường này, Việt Nam có khả năng cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả, nhất là
đối với sản phẩm cá đánh bắt. Ngoài ra, Mỹ và các nước thuộc Liên minh Châu
Âu (EU) cũng là đối tác nhiều tiềm năng đối với mặt hàng thủy sản của Việt
Nam, trong đó tôm đông lạnh và sản phẩm filê cá da trơn là mặt hàng chủ lực.
Tuy nhiên cần thận trọng trong quan hệ kinh tế với các đối tác này để tránh
những rắc rối về thương mại như giai đoạn vừa qua (chỉ trong 2 năm 2004 và
2005, hàng hóa của Việt Nam đã phải đối mặt với 10 vụ kiện bán phá giá trên thị
trường các nước), làm ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu và thiệt hại về kinh tế.
Để thâm nhập vào các thị trường này cần mạnh dạn đầu tư công nghệ để có sản
phẩm chất lượng cao. Xét trên phạm vi thị trường quốc tế và trong dài hạn, quan
hệ cung cầu các mặt hàng nông sản là bão hòa. Do vậy, nhìn chung giá nông sản
có xu hướng rẻ đi, cánh kéo giá cả giữa nông sản và các sản phẩm phi nông
nghiệp, nhất là dịch vụ, ngày càng mở rộng. Hơn nữa, nhu cầu của thị trường
ngày càng đòi hỏi sản xuất nông nghiệp không, hoặc rất ít sử dụng hoá chất để
bảo vệ sự cân bằng của môi trường sinh thái tự nhiên, đảm bảo an toàn thực
phẩm cho người tiêu dùng. Vì thế, muốn xuất khẩu, nông sản Việt Nam phải có
giá thành hợp lý, chất lượng cao và an toàn, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế,
như HACCP và SA.8000. Đồng thời phải nắm vững các hệ thống pháp luật
thương mại quốc tế để xây dựng chiến lược phát triển phù hợp và chắc chắn.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh nông sản hàng hóa trên địa bàn tỉnh,
cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại theo hướng cụ thể và hiệu quả, tích
cực mở rộng thị trường nhằm giải quyết tốt đầu ra cho các mặt hàng nông sản.
Các cơ quan chức năng cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quan hệ
với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để liên kết phát triển sản xuất kinh
doanh, thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng hoạt động, khả năng cạnh tranh và
thích nghi với tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.
3.2.6. Nhóm các giải pháp hỗ trợ
Một là, giải pháp về kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng là yếu tố rất quan
trọng đảm bảo sự phát triển của nông nghiệp hàng hóa, bao gồm các yếu tố như
kết cấu hạ tầng giao thông, chợ nông thôn, hệ thống dịch vụ ngân hàng tài chính,
và hiện nay cần chú ý đến hệ thống thông tin nông nghiệp và thị trường nông
sản. Việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật đòi hỏi phải có nguồn vốn
lớn và quỹ thời gian dài, phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của nền kinh tế của
đất nước, của địa phương và trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên
sự tác động của nó đối với nền kinh tế là rất to lớn, có ý nghĩa quyết định; nhất
là kết cấu hạ tầng giao thông, nó có ý nghĩa trong việc làm thay đổi trật tự thuận
lợi về vị trí của đất nông nghiệp, do đó làm thay đổi trật tự của ruộng đất trong
mối quan hệ hình thành địa tô chênh lệch I.
Ở Bạc Liêu, việc phát triển mạng lưới giao thông vận tải trong vùng Bắc
Quốc lộ 1A là điều kiện, tiền đề cho việc củng cố và mở rộng nhanh chóng diện
tích nuôi trồng thủy sản, các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu nuôi trồng thủy sản;
đồng thời đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội sẽ tăng nhanh trong vùng
sau khi chuyển đổi sản xuất (từ trồng lúa sang nuôi tôm), đáp ứng nhu cầu phân
bố dân cư theo hướng tập trung theo các trục kênh và đường giao thông.
Ngoài kết cấu hạ tầng giao thông, đối với nông nghiệp, thủy lợi là một
trong những giải pháp then chốt để thực hiện dự án quy hoạch chuyển đổi cơ cấu
sản xuất, vì vậy kết cấu hạ tầng thủy lợi cần được đầu tư đúng mức để có thể hỗ
trợ một cách hiệu quả cho sự phát triển của nông nghiệp. Định hướng phát triển
thủy lợi của tỉnh đến năm 2010 tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
- Vùng Bắc Quốc lộ 1A: Ở các khu vực ngọt hóa tập trung xây dựng hệ
thống đê bao và cống đập dọc tuyến kênh Quản Lộ - Giá Rai tạo ra vùng ngăn
mặn khép kín, chủ động tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hoàn chỉnh hệ
thống thủy lợi, nạo vét các tuyến kênh mương đã xuống cấp để cung cấp nước
ngọt cho diện tích đất sản xuất, phục vụ thâm canh, tăng vụ. Ở các khu vực
chuyển đổi sản xuất, mùa mưa tận dụng nguồn nước mưa và nước ngọt từ sông
Hậu để sản xuất một vụ lúa mùa, mùa khô nuôi tôm sú bằng nguồn nước mặn từ
biển phía Tây qua sông Cái lớn, kết hợp với nguồn nước mặn đưa từ biển Đông
vào qua điều tiết (đóng, mở) hệ thống cống dọc Quốc lộ 1A. Việc điều tiết các
cống này theo thời gian (từ tháng 12 đến tháng 6), không những để khống chế
mức độ mặn và quy mô xâm nhập mặn trong phạm vi tiểu vùng chuyển đổi vào
mùa khô mà còn để tiêu úng và xổ phèn cho vùng ngọt hóa vào mùa mưa. Các
công trình dự kiến xây dựng bao gồm 25 cống qua Quốc lộ 1A; 4 đập theo các
cống (Hộ Phòng, Giá Rai, Láng Tròn, Xóm Lung); nạo vét các kênh cấp I và II
trong các tiểu vùng. Xây dựng mới, tăng thêm mật độ các kênh cấp II ở tiểu
vùng chuyển đổi, hệ thống đê bao và 47 cống (4 cống cấp I; 43 cống cấp II và
III). Trong giải pháp tổng thể, cần hoàn chỉnh hệ thống kênh mương và cống
thoát, phục vụ cho cả hoạt động sản xuất lương thực và nuôi trồng thủy sản.
- Vùng Nam Quốc lộ 1A: Quy hoạch thủy lợi được chia thành 7 tiểu vùng,
phân chức năng cấp và thoát nước riêng cho từng kênh cấp II và III ở từng tiểu
vùng, hệ thống cống dọc kênh trục của từng tiểu vùng được điều chỉnh để lấy và
thoát nước cũng như khoanh đóng từng ô trong trường hợp cần khống chế, xử lý
dịch bệnh tôm, cải tạo môi trường. Nhu cầu đất cho xây dựng kết cấu hạ tầng
thủy lợi của vùng Nam Quốc lộ 1A vào khoảng 1.112 ha.
Bên cạnh đó cần xây dựng mạng lưới trạm quan trắc và cảnh báo ô nhiễm
môi trường theo ô thủy lợi để đo đạc các thông số về diễn biến chất lượng nước,
các chỉ tiêu kỹ thuật. Trạm có trách nhiệm dự báo và thông báo kịp thời tình
hình ô nhiễm, dịch bệnh, các giải pháp hướng dẫn phòng ngừa có hiệu quả.
Ngoài 8 trạm quan trắc môi trường ở vùng Nam Quốc lộ 1A, dự kiến có 6 trạm
quan trắc - cảnh báo ô nhiễm môi trường cần được xây dựng trong tiểu vùng
chuyển đổi ở phía Bắc Quốc lộ 1A. Mạng lưới 6 trạm này phân bố tại các khu
vực kênh chính trong vùng.
Hai là, giải pháp về vốn. Vốn để sản xuất kinh doanh được tồn tại cả ở
dạng tiền tệ, là khoản tích lũy có nguồn gốc từ thu nhập; vừa tồn tại ở dạng vật
chất như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kết cấu hạ tầng, các loại nguyên liệu,
nhiên liệu, thành phẩm... Ngoài ra vốn còn tồn tại dưới dạng phi vật thể như
thông tin, bằng phát minh, sáng chế, kinh nghiệm quản lý...
Vốn sử dụng cho mục đích sản xuất nông nghiệp có thể tồn tại ở dạng vốn
tích lũy để mở rộng sản xuất (đối với những chủ thể sản xuất đã có tiềm lực kinh tế),
hoặc ở dạng vốn đầu tư ban đầu của Nhà nước và các tổ chức kinh tế - xã hội (đối
với những chủ thể chưa có khả năng tài chính, có nhu cầu vay vốn để sản xuất).
Thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước, tỷ lệ lãi suất cho vay đối với
sản xuất nông nghiệp thường có tính ưu đãi hơn so với các ngành khác. Nếu xét
về mặt kinh doanh tiền tệ thì đầu tư cho nông nghiệp mang lại lợi nhuận thấp
cho ngân hàng nhưng nhìn ở góc độ kinh tế xã hội thì việc đầu tư này mang lại
hiệu quả rất lớn.
Ở Bạc Liêu, thực tế đang diễn ra quá trình chuyển đổi sản xuất mạnh mẽ,
ảnh hưởng đến điều kiện vay vốn của nông dân. Do đó, trong giai đoạn đầu khi
chưa thay đổi được mục đích sử dụng (từ trồng lúa sang nuôi thủy sản) trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các hộ nông dân vùng chuyển đổi, có
thể áp dụng hình thức vay vốn “tín chấp” (nông dân vẫn thế chấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hiện có, kèm theo xác nhận của chính quyền địa phương
về hình thức sử dụng đất đã chuyển đổi và phương án sản xuất cần vay vốn)
trong hệ thống ngân hàng địa phương, để đáp ứng nhu cầu vốn và thời gian vay
(trung, dài hạn) của nông dân trong vùng cần chuyển đổi sản xuất.
Tỉnh cần có chính sách hỗ trợ phát triển từ Qũy hỗ trợ đầu tư về nông
nghiệp với các điều kiện và lãi suất ưu đãi đối với cây lâu năm, nuôi trồng thủy
sản và phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Lập Qũy bảo lãnh tín dụng để
tạo điều kiện cho hộ nông dân, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã
vay đủ vốn phát triển sản xuất, trong điều kiện khó đảm bảo về thế chấp. Bên
cạnh đó, cần thành lập Qũy bảo hiểm ngành hàng đối với các loại hàng nông -
thủy sản xuất khẩu chính có kim ngạch lớn (lúa, tôm) của tỉnh.
Ngoài ra, thực hiện hợp tác sản xuất cũng là một giải pháp hữu hiệu về
vốn. Bạc Liêu cần tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các hộ kinh doanh cá
thể, các doanh nghiệp tư nhân tham gia sản xuất, cung ứng dịch vụ (về giống
tôm, thức ăn, vật tư,…) hoặc chế biến, xuất khẩu, trên cơ sở đó thiết lập các hình
thức hợp tác, liên doanh, liên kết để tạo ra nguồn lực lớn hơn trong hệ thống sản
xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.
Ba là, trình độ người lao động. Nền sản xuất hàng hóa được hình thành, tự
nó đã có yêu cầu ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật. Tuy nhiên nền sản
xuất hàng hóa nhỏ, phân tán cũng bộc lộ những giới hạn của nó trong việc áp
dụng kỹ thuật mới. Trình độ thấp của nông dân là một nhân tố hạn chế. Vì vậy,
trước hết cần có cách mạng về lực lượng sản xuất mở đường cho cách mạng
khoa học - kỹ thuật. Để đánh thức tiềm năng của đất hoàn toàn cần đến bàn tay
và khối óc con người.
Thực tế cho thấy những nơi sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả để phát
triển nông sản hàng hóa là những nơi gắn được khoa học với cách mạng về
nguồn nhân lực, là nơi nông dân tạo được thói quen làm thủy lợi, thủy nông nội
đồng, sử dụng giống mới, cải tiến kỹ thuật trong thâm canh, tăng vụ, tăng năng
suất. Tức là cách mạng khoa học - kỹ thuật được tiến hành một cách chủ động,
không những nó tác động đến các khâu của quá trình sản xuất mà còn tác động
đến chính con người sử dụng khoa học - kỹ thuật để phát triển sản xuất.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, khoảng cách về địa lý hầu
như không còn ý nghĩa trong việc ngăn trở việc tiếp thu tri thức. Do đó việc
nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học - kỹ thuật và trình độ quản lý cho
người lao động, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và đội ngũ quản lý kinh tế trên
địa bàn tỉnh Bạc Liêu là hoàn toàn thực hiện được.
Đó là những vấn đề hết sức quan trọng, vừa có tính chất cấp bách vừa có tính
chất chiến lược lâu dài để phát triển một nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn.
Nhận thức được vai trò quan trọng của nhân tố con người trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư cho cơ sở vật chất của giáo dục trên địa bàn
tỉnh đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Từ năm 2001 đến nay, với sự
mở rộng của các hệ thống đào tạo nghề nghiệp của tỉnh, số lao động đã được đào
tạo về chuyên môn kỹ thuật là 22.000 người. Hiện nay tỷ lệ lao động qua đào tạo
đạt 21,12%, đây là lực lượng nòng cốt để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục sắp xếp, điều chỉnh lại hệ thống quản lý trong
các ngành, các lĩnh vực có liên quan đi đôi với việc đào tạo bồi dưỡng, nâng cao
năng lực, trình độ của đội ngũ các nhà quản lý nông nghiệp, cán bộ kỹ thuật và
người lao động nông nghiệp. Trong quá trình chuyển đổi để xây dựng một nền
sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn như mục tiêu đặt ra, kinh tế - xã hội của Bạc
Liêu chỉ có thể phát triển một cách nhanh chóng và bền vững khi có một đội ngũ
lao động có trình độ văn hóa và kỹ thuật, có khả năng tiếp nhận và áp dụng một
cách có hiệu quả các kỹ thuật công nghệ tiến bộ. Trước mắt cần thực hiện một số
giải pháp cụ thể sau:
- Tăng cường hơn nữa số cán bộ có trình độ và đội ngũ kỹ thuật viên phục
vụ công tác khuyến nông, khuyến ngư. Hàng năm mở nhiều lớp huấn luyện
hướng dẫn kỹ thuật canh tác và nuôi trồng (tôm - lúa, chuyên tôm, lúa - màu)
cho nông dân.
- Xây dựng mô hình sản xuất thí điểm để người dân tham gia thảo luận
góp ý và trao đổi kinh nghiệm.
- Xây dựng và phát triển dần mạng lưới khuyến nông, khuyến ngư viên
trong nông dân, hướng đến hoàn thiện dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật sản xuất cho các
vùng chuyên nuôi trồng thủy sản, vùng áp dụng mô hình luân canh và xen canh.
- Phát triển và hoàn thiện dần công tác hướng dẫn kỹ thuật và phòng
chống dịch bệnh để từng bước thực hiện phương thức ký hợp đồng bảo hộ sản
xuất giữa cán bộ khuyến nông - khuyến ngư - giám sát môi trường với nông dân.
Triển khai rộng rãi việc ứng dụng công nghệ hiện đại để bảo quản, sơ chế, chế
biến nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao giá trị hàng hóa.
KẾT LUẬN
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã
tổng kết: “Những đổi mới trong chính sách, pháp luật về đất đai hơn 15 năm qua
đã đưa đến những kết quả tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, đặc biệt là sản xuất
nông nghiệp, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Người sử dụng đất gắn
bó nhiều hơn với đất đai, đất đai được sử dụng có hiệu quả hơn” [7, tr.57].
Ở Bạc Liêu, sự đổi mới này đã đưa đến những hiệu quả nhất định với sự
tăng trưởng cao của nền kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Với những
điều kiện tự nhiên và xã hội tương đối thuận lợi, Bạc Liêu hoàn toàn có khả
năng phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa hướng mạnh vào xuất khẩu trên
cơ sở khai thác một cách có hiệu quả các nguồn nội lực.
Sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh thời gian qua đã khẳng định nâng
cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là một chủ trương, giải pháp đúng đắn,
phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong
điều kiện một tỉnh có thế mạnh về nông nghiệp như Bạc Liêu; là một nhân tố
quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn; là cơ sở vững chắc để ổn định đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội, đóng góp thiết thực vào mục tiêu phát triển chung của đất nước.
Tuy nhiên, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp để phát
triển nông sản hàng hóa cũng đặt Bạc Liêu trước những thách thức to lớn như ô
nhiễm môi trường, sự bất cập của các chính sách pháp luật đất đai đối với thực
tiễn địa phương, sự hạn chế về trình độ của lực lượng sản xuất so với yêu cầu
phát triển, các vấn đề phát sinh trong quan hệ đất đai mà đặc biệt là hệ quả về
mặt xã hội của việc tích tụ và tập trung ruộng đất để đi lên sản xuất lớn...
Chính vì vậy, để việc sử dụng đất nông nghiệp phát triển hàng hóa ở Bạc
Liêu phù hợp với điều kiện cụ thể và đem lại hiệu quả thiết thực cần thực hiện
đồng bộ hệ thống các giải pháp về chính sách đất đai, về tổ chức sản xuất nông
nghiệp và phát triển lực lượng sản xuất, tìm kiếm thị trường. Trước mắt Bạc
Liêu phải xác định những nhóm giải pháp thích hợp với điều kiện đặc thù của
tỉnh trên cơ sở khai thác một cách tối ưu tiềm năng và lợi thế. Đồng thời tiến
hành xây dựng chiến lược phát triển nông sản hàng hóa lâu dài và bền vững có
tính đến những tác động từ việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới của nước
ta trong thời gian tới.
Việc tăng trưởng mạnh mẽ nền kinh tế - xã hội như đã đặt ra trong
phương án phát triển của Bạc Liêu, sẽ dẫn tới một mặt giảm dần đất trồng trọt
do chuyển đổi mục đích sử dụng sang phát triển công nghiệp, đô thị và các mục
đích chuyên dùng khác. Mặt khác, do áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ để
tăng năng suất cây trồng, vật nuôi đòi hỏi phải tích tụ đất đai, sẽ có một số lớn
lao động nông nghiệp chuyển sang các ngành nghề và các loại hình sản xuất phi
nông nghiệp khác hoặc chuyển ra các đô thị, và đây là những xu thế tất yếu. Do
vậy, phương châm là tiết kiệm tối đa, chỉ chuyển đất nông nghiệp sang các mục
đích sử dụng khác khi xác định rõ hiệu quả lâu dài của nó và các xu thế tất yếu
trong quá trình phát triển (công nghiệp hóa, đô thị hóa…), cần đa dạng hóa các
hoạt động kinh tế nông thôn, tránh những căng thẳng về đô thị hóa đồng thời
góp phần vào cải thiện đời sống xã hội ở khu vực nông thôn.
Đất đai là lãnh thổ quốc gia, là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản
xuất đặc biệt, là thành tố hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các
khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng…
Những vấn đề lý luận, thực tiễn quản lý, sử dụng đất đai trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có tầm quan trọng to lớn.
Nhận thức vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đất đai trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển kinh tế xã hội nói chung, đất nông nghiệp để phát triển nông
sản hàng hóa nói riêng có tầm chiến lược quốc gia và toàn cầu đối với nền nông
nghiệp hàng hóa sinh thái học bền vững.
Chỉ có sử dụng, duy trì, tôn tạo đất đai nông nghiệp theo hướng tạo ra sản
phẩm nông sản hữu cơ sinh thái học thì sự phát triển nông sản hàng hóa mới có
sức cạnh tranh toàn vẹn, bền vững đối với thị trường trong nước và thế giới.
Vì vậy, việc quản lý sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả là nhiệm vụ
hàng đầu, tâm điểm của phát triển kinh tế - xã hội ở nông nghiệp, nông thôn
trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, ở Bạc Liêu
nói riêng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Đức Cát (2000), Kinh tế tài nguyên đất, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 2. Chính phủ (2003), Báo cáo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai cả nước đến
năm 2020.
3. Chính phủ (2004), Nghị định số 180/2004/NĐ - CP của Chính phủ về thi hành
Luật đất đai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Cục thống kê tỉnh Bạc Liêu (2005), Niên giám thống kê năm 2005 tỉnh Bạc Liêu.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Chỉ thị số 50 - CT - TW của Ban Bí Thư.
9. Hội khoa học kinh tế Việt Nam (2000), Kinh tế và chính sách đất đai ở Việt
Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
10. Lâm Quang Huyên (1995), Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Đình Hương (1999), Sản xuất và đời sống của các hộ nông dân
không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng sông Cửu Long - Thực trạng
và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Vũ Trọng Khải (2004), Phát triển nông thôn Việt Nam từ làng xã truyền
thống đến văn minh thời đại, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
13. Nguyễn Đình Kháng, Vũ Văn Phúc (2000), Một số vấn đề lý luận của Mác
và Lênin về địa tô, ruộng đất, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Tiến Khôi (2000), Khai thác tiềm năng đất đai nông nghiệp để phát
triển kinh tế hàng hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn thạc sĩ
Khoa học Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
15. V.I .Lênin (1976), Toàn tập, Tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
16. V.I .Lênin (1975), Toàn tập, Tập 5, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
17. V.I .Lênin (1980), Toàn tập, Tập 27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
18. Luật đất đai năm 1993 (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Luật đất đai năm 2003 (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 25, phần II, Nxb Chính trị
quốc gia, Sự thật, Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Mân (1995), Hệ thống các bảng địa tô của Mác - Ăngghen và
một số vấn đề nông nghiệp ở Quảng Nam - Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ
Khoa học Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
22. Ngân hàng Thế giới (2004), Chính sách đất đai cho tăng trưởng và xóa đói
giảm nghèo, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
23. Hà Công Nghĩa (2004), Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Sơn La hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Khoa học Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
24. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu (2005), Báo cáo tổng kết
thực hiện kế hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn 5 năm (2001 - 2005).
25. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu (2005), Báo cáo kết
quả thực hiện 5 năm (2001 - 2005) và phương hướng, mục tiêu, nhiệm
vụ, giải pháp thực hiện Nghị quyết 09/CP trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
đến năm 2010.
26. Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới, Hà Nội.
27. Bùi Tất Thắng (1997), Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa ở Việt Nam, Nxb khoa
học xã hội, Hà Nội.
28. Nguyễn Tân Thịnh (2003), “Chính sách khai thác nguồn lực đất đai phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Tài chính (8).
29. Bùi Thị Thuận (2000), Khai thác nguồn lực đất đai để phát triển nông
nghiệp tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ Khoa học Kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
30. Tỉnh ủy Bạc Liêu (2005), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XIII.
31. Vũ Thị Ngọc Trân (1997), Phát triển kinh tế nông hộ sản xuất hàng hóa ở
vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
32. Nguyễn Đức Triều, Vũ Tuyên Hoàng (2001), Nông dân nông nghiệp nông
thôn Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
33. Trường đại học kinh tế quốc dân (2000), Giáo trình kinh tế tài nguyên đất,
Nxb nông nghiệp, Hà Nội.
34. Lê Minh Tuynh (2002), Giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân để
phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ
Khoa học Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
35. Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu (2001), Báo cáo kế hoạch sử dụng đất 5 năm
(2001 - 2005) tỉnh Bạc Liêu.
36. Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu (2001), Báo cáo quy hoạch sử dụng đất tỉnh
Bạc Liêu đến năm 2010.
37. Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu (2005), Báo cáo điều chỉnh quy hoạch sử
dụng đất đến năm 2010 tỉnh Bạc Liêu.
38. Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu (2005), Báo cáo tóm tắt tình hình kinh tế - xã
hội tỉnh Bạc Liêu năm 2005.
39. Viện Khoa học Xã hội (1982), Một số vấn đề khoa học xã hội về đồng bằng
sông Cửu Long, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
6 Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ LÝ LUẬN ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Đất nông nghiệp và vai trò của nó đối với phát triển nông sản hàng hóa. 6
1.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng và những yêu cầu đặt ra đối với đất nông 24
nghiệp trong việc phát triển nông sản hàng hóa
Chương 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT
42
TRIỂN NÔNG SẢN HÀNG HÓA Ở TỈNH BẠC LIÊU
2.1. Thực trạng đất nông nghiệp và các đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã
hội ảnh hưởng đến việc sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Bạc Liêu 42
2.2. Việc sử dụng đất nông nghiệp để phát triển nông sản hàng hóa ở
tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn thực hiện kế hoạch sử dụng đất 5
năm (2001 - 2005) theo phê duyệt của Chính phủ 56
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TIẾP TỤC NÂNG
CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT
76
TRIỂN NÔNG SẢN HÀNG HÓA Ở TỈNH BẠC LIÊU
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp để phát
triển nông sản hàng hóa 76
3.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp nhằm phát triển nông sản hàng hóa trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu 87
113 KẾT LUẬN
115 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm trên địa bàn phân theo khu vực kinh tế 50
Bảng 2.2: Giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp 64
Bảng 2.3: Giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp 65
Bảng 2.4: Giá trị sản xuất của ngành thủy sản 67
Bảng 2.5: Sản lượng thủy sản chủ yếu 67
Bảng 2.6: Tình hình sử dụng đất 68