intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sử dụng điển cố, điển tích trong thơ Trịnh Hoài Đức

Chia sẻ: ViChoji2711 ViChoji2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

64
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sử dụng điển tích, điển cố là một trong những thư pháp quen thuộc của thơ ca trung đại. Cũng như nhiều nhà thơ Việt Nam khác, Trịnh Hoài Đức sử dụng khá thành công hình thức nghệ thuật này. Trong tác phẩm Gia Định tam thập cảnh, ông đã sử dụng nhiều điển tích, điển cố có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sử dụng điển cố, điển tích trong thơ Trịnh Hoài Đức

TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011<br /> <br /> <br /> SỬ DỤNG ĐIỂN CỐ,<br /> ĐIỂN TÍCH TRONG THƠ TRỊNH HOÀI ĐỨC<br /> <br /> LÊ THỊ KIM ÚT (*)<br /> <br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Sử dụng điển tích, điển cố là một trong những thư pháp quen thuộc của thơ ca trung<br /> đại. Cũng như nhiều nhà thơ Việt Nam khác, Trịnh Hoài Đức sử dụng khá thành công hình<br /> thức nghệ thuật này. Trong tác phẩm Gia Định tam thập cảnh, ông đã sử dụng nhiều điển<br /> tích, điển cố có nguồn gốc từ Trung Quốc. Điều đó đã góp phần làm cho tác phẩm thêm<br /> giàu hình ảnh, hàm súc và cao nhã.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> The use of literary allusion and classic references is one of the familiar skills found in<br /> mediaeval poetry. Like other Vietnamese poets, Trinh Hoai Duc was successful in this skill.<br /> In his poem “Gia Dinh Thirteen Sceneries”, he used a lot of literary allusions and classic<br /> references of Chinese origin, which add a lot of images, refinements and succinctness to<br /> his works.<br /> <br /> (*)<br /> 1. Trong thơ ca trung đại không thể sử, triết học và cả quan niệm thẩm mĩ cổ<br /> thiếu điển cố, điển tích. Nó mặc nhiên phương Đông. Trước hết nó thể hiện tinh<br /> được thừa nhận như một loại hình ngôn thần sùng cổ vì chính Khổng Tử trong<br /> ngữ đặc biệt của thơ ca giai đoạn này. Có Luận ngữ đã phát biểu rằng “Thuật nhi<br /> nhiều quan niệm khác nhau về điển cố, bất tác, tín nhi hiếu cổ” (Thuật lại chứ<br /> điển tích. Có thể nêu ra một số định nghĩa không sáng tạo, tin tưởng và ưa chuộng<br /> của Đặng Đức Siêu, Ngữ liệu văn học, Nxb cái cũ). Đây cũng có thể xem là đặc trưng<br /> giáo dục, 1999; Nguyễn Ngọc San, Từ điển của ý thức con người Trung Hoa thời xưa<br /> điển cố văn học trong nhà trường, Nxb nói riêng, người phương Đông nói chung<br /> Giáo dục, 2001; Mộng Bình Sơn, Điển tích về phương diện sáng tác, đó là xu hướng<br /> chọn lọc, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1989; trở về quá khứ, xem quá khứ là bài học<br /> Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Văn Chiến muôn đời cho quan niệm sống, chết của<br /> Điển cố với các đặc trưng ngôn ngữ và nội con người.<br /> hàm văn hoá của chúng… Có thể nói, điển Một ý thức xã hội như vậy sẽ dẫn đến<br /> cố, điển tích là sự kết tinh từ những chuyện một quan niệm thẩm mĩ tương ứng. Sáng<br /> cũ, tích xưa được trích dẫn từ các sách kinh tác văn học được soi rọi, đánh giá qua tấm<br /> điển và trở thành mẫu mực cho việc diễn gương đạo đức nên thủ pháp lặp lại ý<br /> đạt một nội dung nào đó. tưởng của người trước trong văn chương<br /> Việc sử dụng điển cố là nét đặc thù được xem là đúng đắn, là hay, là đẹp. Thời<br /> trong văn học trung đại, nhất là ở phương đại quá khứ, nhân vật lịch sử là những tấm<br /> Đông. Nó chịu ảnh hưởng bởi nhân tố lịch gương, là những bài học giá trị cho đời sau.<br /> Từ điều xảy ra trước có thể đoán biết được<br /> (*) việc sau. Những câu nói của người xưa có<br /> ThS, Trường Đại học Thủ Dầu Một<br /> <br /> 27<br /> thể làm bài học về tư tưởng, đạo đức cho rộng tài cao, đỗ đạt làm quan, là một công<br /> người đời sau. Đó là những yếu tố cơ bản thần của triều Nguyễn, đã giúp cho vua<br /> của nguyên lí ôn cố tri tân. Trên cơ sở tôn Gia Long rất nhiều về các phương diện<br /> sùng cái cũ, suy tôn kinh, thánh, sử dụng ngoại giao, chính trị và kinh tế. Bộ Gia<br /> điển cố là một phương thức văn học có Định thành thông chí là một công trình có<br /> chiều hướng thiên về quá khứ để tìm về giá trị cao về lịch sử, địa lí và văn hoá của<br /> những hình ảnh, tư tưởng và bài học của miền Nam bộ. Nội dung tập sách ghi chép<br /> người xưa. Với nền văn học trung đại Việt đầy đủ và tỉ mỉ về núi sông, khí hậu, việc<br /> Nam, những ai đã từng qua “cửa Khổng thành lập các trấn, thành trì, cũng như về<br /> sân Trình” không thể không bị ảnh hưởng phong tục tập quán, tính cách và sinh hoạt<br /> bởi quan niệm sáng tác trên. Vì sử dụng của người dân Nam Bộ.<br /> điển cố để tạo hình ảnh sinh động cho câu Riêng Gia Định tam thập cảnh trong<br /> thơ, câu văn, tránh sự khô khan, trần trụi, Gia Định thành không khí, tác giả Trịnh<br /> kích thích sự liên tưởng, gói gọn trong một Hoài Đức sử dụng ba mươi sáu điển cố<br /> vài từ nhưng biểu đạt nội dung phong phú, trong 18/30 bài thơ. Đó là các bài: Gia<br /> sâu sắc. Định kim thành, Hoa Phong cổ luỹ Mai<br /> Với thơ ca thời trung đại, điển cố là khâu túc hạc, Liên chiểu miên âu, Phù Gia<br /> phương tiện tu từ, cũng là chiếc chìa khoá điếu nguyệt, Lâu Viên giác liệp… Điển cố<br /> của bài thơ để đi vào thế giới tâm hồn mỗi xuất hiện với tần suất khá nhiều trong Gia<br /> người. Tuy nhiên, thi nhân Việt Nam sử Định tam thập cảnh, chủ yếu đề cập tới<br /> dụng điển cố theo cách riêng phù hợp với những nhân vật nổi tiếng, các nội dung<br /> tâm hồn người Việt chứ không hẳn rập trích từ Kinh thi và các tích xưa như: Lâm<br /> khuôn theo nguyên tắc, đặc điểm dùng điển Bô - ẩn sĩ đời Tống, Nghiêm Lăng thời<br /> cố của văn học Trung Quốc. Tính chất đa Đông Hán, bà Hậu phi - vợ vua Văn<br /> dạng và linh động của điển cố làm cho câu Vương nhà Hán, Ngũ Đinh - vị thần thời<br /> thơ, câu văn thêm sâu sắc, tinh tế, thanh khai thiên lập địa, vua Phục Hy và Hoàng<br /> nhã, sinh động, nhiều màu sắc và uyên bác. Đế - thời cổ của Trung Hoa, nhà thơ Khuất<br /> Trên cơ sở đó, nhà thơ, nhà văn xưa đã góp Nguyên, Thiệu Bình đời Tống…<br /> nhiều công sức để khẳng định khả năng Dựa vào điển cố, có những lúc tác giả<br /> sáng tạo và tính độc lập của mình về tư đưa người đọc miên man bên dòng suy tư<br /> tưởng, nghệ thuật trong sáng tác, đặc biệt về những chuyện trong quá khứ, về một<br /> là nghệ thuật sử dụng điển cố. tình bạn thuở hàn vi như Nghiêm Quang và<br /> 2. Trịnh Hoài Đức (1765 – 1825) tự Hán Quang Vũ chẳng hạn:<br /> Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai, là một nhà thơ, Tuý ngoạ thương giang tầm vãng sự,<br /> nhà văn và là một sử gia nổi tiếng của Nghiêm Lăng tằng thị bố y giao.<br /> Việt Nam trong thế kỉ XVIII. Quê gốc của (Phù Gia điếu nguyệt)<br /> ông ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Ông (Say nằm nơi dòng sông lạnh mà ôn lại<br /> nội của Trịnh Hoài Đức làm quan dưới việc đã qua,<br /> triều Minh, sau khi triều Minh sụp đổ, Nghiêm Lăng xưa từng là bạn áo vải).<br /> ông đưa cả gia đình sang Việt Nam cư Cũng có lúc tác giả lại mang niềm<br /> ngụ tại dinh Trấn Biên (nay là Biên Hoà, thương cảm đến cho người đọc cũng từ<br /> Tỉnh Đồng Nai). Trịnh Hoài Đức học những nhân vật, những con người của quá<br /> <br /> 28<br /> khứ. Chẳng hạn trong bài Quang Hoá hồ râm mát,<br /> già, chỉ một hồi kèn vang lên nhưng đã Chim le le tắm xong thu lông ngọc<br /> thúc giục nhà thơ trở về với biết bao kí ức. lại (…)<br /> Tiếng kèn nối liền tình hữu nghị thắm thiết Quên đời, khách nhàn gối đầu vào búp<br /> giữa hai đất nước Việt – Miên thơm).<br /> (Campuchia). Tiếng kèn làm lay động đến Bốn bài thơ khác có đến 3 điển cố.<br /> cả không gian, làm cho mây thu cũng ngập Trong đó, bài Gia Định kim thành có: Kim<br /> ngừng bay. Nơi miền biên ải xa xôi ấy, thành (do chữ Kim thành thang trì), cửu<br /> người lính chợt buồn theo cỏ mới, để rồi ngũ long phi (là hào 95 trong quẻ Càn<br /> như thấu hiểu cái chết uất ức của Lí Tướng, sách Chu Dịch, hào từ là Long phi tại<br /> cái thần trong khúc đàn ai oán của Chiêu thiên), tam thiên hổ bái (do chữ hổ bôn<br /> Quân mà nhập điệu cùng nhau. Bài thơ tam thiên); Trong bài Thuỳ Vân quất phố<br /> tưởng chừng như một lời chia sẻ nỗi buồn có: Đắc nhĩ lương nô lũ bất hiềm (do điển<br /> với những người ở tận phương trời Trung Lí Xung trồng quít trong Tương Dương<br /> Hoa nhưng thật ra là lời an ủi, cảm thông kí), Trung phẫn (chỉ nhà thơ Khuất<br /> với vất vả, thiệt thòi của những người lính Nguyên), Hiếu tâm trường cảm bội hương<br /> đang canh gác nơi miền biên ải của nước điềm (do tích số 13 trong Nhị thập tứ<br /> Việt thân yêu… hiếu); Trong bài Mĩ Tho dạ vũ có: Trạc<br /> Đặc biệt Liên chiểu miên âu có đến 4 anh (dựa vào Ngư phủ từ của Khuất<br /> điển cố gồm: phù tung (theo Thi nghĩa sớ), Nguyên), Hòe thị (theo sách Tam phụ<br /> điển vong cơ (trong điển âu lộ vong cơ, hoàng đồ), Tang Lâm (dựa vào tích đời<br /> điển cựu minh (trong điển âu minh), thu Thành Thang nhà Thương)… Những điển<br /> tang thổ (mượn ý ở bài Xi hiệu trong Kinh cố có mặt trong Gia Định tam thập cảnh<br /> thi). Nếu vong cơ trong điển “âu lộ vong nhiều nhất là điển cố về các nhân vật nổi<br /> cơ” được hiểu theo nghĩa bạn với con âu, tiếng, các tích về việc xây dựng đất nước,<br /> con cò mà quên việc đời (tức chỉ người ở về nền thái bình thịnh trị… Đó là tâm<br /> ẩn) và cựu minh do điển “âu minh” cũng trạng của người vừa tham gia chiến tranh<br /> chỉ người ở ẩn chốn mây nước như có ước vừa tự hào với chiến công đạt được, đồng<br /> hẹn làm bạn với chim âu thì đích thực bài thời được thừa hưởng những ân phúc lớn<br /> thơ chính là lời kí thác tâm sự của tác giả. lao của triều đình ban tặng. Vì vậy, Gia<br /> Cái tài của nhà thơ ở chỗ, ông viết về một Định tam thập cảnh lúc nào cũng mang<br /> hình ảnh bình thường nhưng đằng sau nó là âm hưởng của tinh thần lạc quan, của<br /> một sức công phá to lớn. Dẫu có quy ẩn người thành đạt trong cuộc đời. Hơn cả,<br /> hay không thì người hiền sĩ ấy luôn giữ đó là lòng yêu cuộc sống, biết sống vì mọi<br /> phẩm giá và nhân cách trong sạch của người, điều đó đã tạo cho nhà thơ tâm<br /> mình. Liên chiểu miên âu vừa có cái trang trạng an vui như thế.<br /> nhã, vừa mang chất phong lưu thoát tục Cách sử dụng điển cố của Trịnh Hoài<br /> của người hiền sĩ là vậy: Đức không gây cho người đọc cảm giác<br /> Âm âm hạm đạm thủy trung tiêu, khó hiểu, xa vời mà ngược lại. Bởi nhà thơ<br /> Dục bãi sa âu liễm ngọc kiều (…) diễn đạt chúng một cách tự nhiên, thoải<br /> Vong cơ nhàn khách chẩm hương miêu. mái, không khô khan trần trụi, cũng không<br /> (Hoa sen vươn cao lên trong nước, bóng quá trau chuốt, vừa đủ tạo cho người đọc<br /> <br /> 29<br /> sự kích thích liên tưởng. Chính những điển tích Lâm Bô - ẩn sĩ đời Tống, người<br /> ngôn ngữ gián tiếp này biểu đạt một cách không cầu danh lợi để tự khẳng định bản<br /> sâu sắc giá trị nội dung tư tưởng của tác thân:<br /> giả. Chẳng hạn bài thơ Quang Hoá Hồ già: Mộng lí kí bằng Lâm xử sĩ,<br /> Lí tướng ai ngâm đồng nhập điệu, Mạc lai u hác nhiễu khiên triền.<br /> Minh phi oán khúc nhược lưu thần. (Trong mộng gửi nương xử sĩ họ Lâm,<br /> (Cùng nhập điệu với tiếng ngâm buồn Đừng đến chốn thanh u mà quấy nhiễu<br /> của Lí Quảng, mãi).<br /> Có cái thần của khúc đàn ai oán Chiêu Điển cố trong Gia Định tam thập cảnh<br /> Quân). được sử dụng để tăng cường lượng thông<br /> Điển cố đã khơi gợi lại một câu tin biểu đạt, tính hàm súc cho bài thơ.<br /> chuyện, đưa quá khứ hiện diện lên trang Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc<br /> thơ. Điển cố như một loại hình ngôn ngữ thể hiện giá trị biểu cảm của câu thơ. Qua<br /> gián tiếp với hai lần giá trị biểu trưng: đó là những tích đó, sức truyền cảm, tính hàm<br /> những từ ngữ không biểu đạt hàm ý ngay súc của bài thơ càng tăng lên mạnh mẽ. Vì<br /> trong bản thân từ mà thay thế cho một câu chúng trước hết được bắt nguồn từ trong<br /> chuyện, một sự tích. Một lần nữa, những sách vở thánh hiền nhưng khi vào thơ<br /> câu chuyện, sự tích ấy lại chuyển tải một Trịnh Hoài Đức, được ông tái hiện lại một<br /> nội dung ý nghĩa nhất định và nội dung ý cách gần gũi với hiện thực đương thời, làm<br /> nghĩa ấy mới là cái đích hướng tới của các cho người đọc dễ nắm bắt, dễ thông thuộc<br /> tác giả. Đây là hai cấp độ ý nghĩa của điển hơn như:<br /> cố, trong đó cấp độ thứ hai thường gặp Vong cơ nhàn khách chẩm hương<br /> trong văn học hơn cả. Tác giả sử dụng miêu.<br /> chúng nhằm để diễn đạt nội dung chứ nó (Quên đời, khách nhàn gối đầu vào búp<br /> không hẳn khơi gợi nguồn cảm hứng. Vì từ thơm)<br /> hình thức sự vật, người ta nhìn thấy ngụ ý Hoặc:<br /> bên trong. Điển cố luôn mang hai nghĩa, Cựu minh do đãi trục lai triều.<br /> nghĩa đen và nghĩa bóng. Xuyên qua lớp (Hẹn cũ còn chờ nước triều lên)<br /> nghĩa đen, đến lớp nghĩa bên trong mới Cả vong cơ lẫn cựu minh đều chỉ khí<br /> thực sự tìm thấy bản chất của vấn đề. Nếu tiết của người nho sĩ, vì không thích nhập<br /> khéo sử dụng điển cố thì những chữ ngắn thế, họ tìm về chốn mây nước để ở ẩn, để<br /> gọn hàm chứa ý nghĩa sâu xa là phương quên đời, để làm bạn thanh sạch với chim<br /> tiện diễn đạt tốt nhất, giúp lời, ý thêm đậm âu. Muốn nói rõ ý định của mình, tác giả<br /> đà, lí thú. Chọn điển cố hay có thể làm tăng thật khó giải bày cho cặn kẽ. Nhưng khi<br /> cái đẹp, hàm súc trong lời thơ, nhanh khái quát hai điển cố trên, tác giả đã diễn<br /> chóng đạt hiệu quả “ngôn hữu tận nhi ý vô đạt một cách trọn vẹn tâm tư của mình mà<br /> cùng” (lời hết nhưng ý không cùng) [1]. lời thơ vẫn thanh nhã, tinh tế. Vì thế, Liên<br /> Chẳng hạn, khi ca ngợi triều đại thịnh chiểu miên âu nói về chim le nhưng thực ra<br /> vượng, nhà thơ dựa vào điển thuỳ củng nhi là để nói về con người, triết lí chiều sâu<br /> thiên hạ trị (ông vua ngồi một chỗ mà thiên trong thơ Trịnh Hoài Đức luôn làm người<br /> hạ bình trị) trong Kinh thi. Muốn nói lên đọc phải tự vấn là thế. Điển cố chính là<br /> khí tiết cao nhã, trong sạch, tác giả mượn “trợ thủ đắc lực để lời được nhẹ nhàng, ý<br /> <br /> 30<br /> được thanh tao, nghiêm túc”[2]. uyên bác mới có thể sử dụng một cách hiệu<br /> 3. Việc vận dụng hệ thống điển cố quả điển cố để tăng cường khả năng biểu<br /> trong thơ Trịnh Hoài Đức vừa thể hiện đạt của nó, phù hợp với kiểu tư duy hình<br /> được đặc trưng hình thức của thơ ca trung tượng, lối suy nghĩ sâu sắc, thâm thuý, sự<br /> đại, vừa là nét độc đáo trong lối thể hiện ưa chuộng, bộc lộ cái thần, cái cốt lõi, nói<br /> bút pháp nghệ thuật của nhà thơ. Điều đó ít hiểu nhiều của con người Việt Nam thời<br /> chứng tỏ, nhà thơ phải có vốn văn hoá trung đại.<br /> <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> 1. Lixêvic. I. X (2000), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc (Trần Đình Sử dịch), Nxb.<br /> Giáo dục, Hà Nội.<br /> 2. Đoàn Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Nxb. Đại học Quốc gia<br /> Thành phố Hồ Chí Minh.<br /> 3. Nguyễn Lộc (1990), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX,<br /> Nxb. Giáo dục, Hà Nội.<br /> 4. Phương Lựu (2006), Tập 1 - Tuyển tập, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.<br /> 5. Huỳnh Minh (2001), Gia Định xưa, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.<br /> 6. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại, Nxb. Giáo dục,<br /> Hà Nội.<br /> 7. Nhiều tác giả (2002), Nam Bộ đất và người, Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí<br /> Minh, Nxb. Trẻ.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 31<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2