intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SỰ HÌNH THÀNH VƯƠNG QUỐC CHĂM PA VÀ PHÙ NAM

Chia sẻ: Vip Dũng | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

886
lượt xem
72
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Văn hóa Sa Huỳnh (khoảng 1000 năm TCN- cuối thế kỷ thứ 2) ở miền Trung cùng với văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc và văn hóa Óc Eo ở phía Nam đã tạo thành “tam giác văn hóa” của Việt Nam. Và hiện nay các chuyên gia đều thừa nhận rằng, sự ra đời của nhà nước Chăm Pa chính là kết quả từ sự kế tục văn hóa Sa Huỳnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SỰ HÌNH THÀNH VƯƠNG QUỐC CHĂM PA VÀ PHÙ NAM

  1. SỰ HÌNH THÀNH VƯƠNG QUỐC CHĂM PA VÀ PHÙ NAM 1. Sự hình thành vương quốc Chăm Pa 1.1. Cơ sở kinh tế và văn hóa Văn hóa Sa Huỳnh (khoảng 1000 năm TCN- cuối thế kỷ th ứ 2) ở mi ền Trung cùng với văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc và văn hóa Óc Eo ở phía Nam đã tạo thành “tam giác văn hóa” của Việt Nam. Và hiện nay các chuyên gia đều thừa nhận rằng, sự ra đời của nhà n ước Chăm Pa chính là kết quả từ sự kế tục văn hóa Sa Huỳnh. Văn hóa Sa Huỳnh đã bước vào giai đoạn sắt sớm với những thành t ựu đặc sắc trên cơ sở văn hóa thời đại Đồng Thau, từ đó, họ không chỉ giỏi nghề nông, thông thạo nghề biển, mà còn có kỹ thuật rèn sắt rất phát triển. Năm 1909, người ta đã tìm thấy tại đây khoảng 200 chiếc quan tài bằng chum, cùng với rất nhiều công cụ sản xuất, vũ khí, trang sức rất tinh xảo… . Từ đó, người ta nhận định, từ xa xưa, cư dân Sa Huỳnh đã b ắt đầu có sự phân hóa về tầng lớp trong xã hội, đó chính là ti ền đ ề cho vi ệc hình thành nhà nước sau này. 1.2. Cơ sở về dân cư Giáo sư Lương Ninh khẳng định: “Không có một tộc gọi là Chăm riêng biệt ngay từ đầu mà chỉ là một bộ phận dân cư nói tiếng Malayo – Polynesian… sống ở ven biển miền Trung Việt Nam hiện nay, được gọi là Chăm do gắn bó với Chăm Pa, từ khi họ thành lập v ương qu ốc Chăm Pa”. Hiện nay một bộ phận người Chăm còn nói tiếng Malayo – Chamic. Họ thuộc dòng Mã Lai - Đa Đảo, còn người Sa Huỳnh có th ể thu ộc người Indonésien. Rõ ràng dân cư Sa Huỳnh là bộ phận của cộng đồng ng ười tương đối lớn phân bố trên nhiều hải đảo Đông Nam Á thuộc đại chủng Australoid với đặc trưng da đen, tóc xoăn…, họ di cư vào sinh sống t ại ven biển Trung Bộ và Tây Nguyên 1.3. Sự ra đời vương quốc Chăm Pa Ngay từ khi chưa trở thành một đất nước, nơi đây đã có hai bộ lạc là bộ tộc Dừa (Nakirela vams’a) ở phía Bắc, vùng Nghĩa Bình – Qu ảng Ngãi ngày nay, và bộ tộc Cau (Kramuka vams’a) ở phía Nam, vùng Thuận Hải – Phú Khánh, Khánh Hòa ngày nay. Họ vừa liên kết, vừa đ ấu tranh đ ể giành quyền thống trị đất nước, mà trước tiên, bộ tộc Cau đã lập nên một tiểu quốc riêng vào khoảng đầu Công nguyên là Panduranga, kinh đô có th ể đặt tại Phan Rang hoặc Nha Trang. Tuy nhiên, bộ tộc Dừa vẫn chịu sự đô hộ của nhà Hán, nhiều cuộc đấu tranh đã được diễn ra, tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa hai bà Trưng (năm 40), khởi nghĩa của 2.000 dân Tượng Lâm (năm 100), cuộc kh ởi nghĩa c ủa nhân dân đánh huyện Tượng Lâm, đốt phá thành trì, giết trưởng lại (năm 136-137)…
  2. Đến đời Hán sơ bình (190-193), nhân lúc Trung Hoa đang rối loạn, nhân dân huyện Tượng Lâm dưới sự lãnh đạo của Khu Liên, phối hợp với cư dnâ Cửu Chân và Nhật Nam đã nổi dậy giành được chính quy ền, lập nên nước Lâm Ấp. 1.4. Tên gọi Chăm Pa Các thư tịch cổ Trung Hoa gọi nhà nước mới thành lập ấy là Lâm Ấp, đó là tên gọi Tượng Lâm, sau khi bỏ chữ “Tượng” thì được gọi là Lâm Ấp. Tên gọi Chăm Pa còn có thể được tìm thấy qua các bia ký. Đó có th ể là tên một loài hoa đẹp – hoa Đại (Michelia Champaca Linnae), hoặc tên m ột địa danh ở phía Bắc Ấn Độ, hạ lưu sông Hằng Ngoài ra các tài liệu cổ của Trung Hoa còn gọi vương quốc này bằng các tên gọi khác như Chiêm Thành, Chiêm Bà, Chiêm Bất Lao. Khoảng thế kỷ thứ V-VI, Lâm Ấp chính thức đổi tên thành Chăm Pa. Ngoài ra Chăm Pa còn có tên gọi khác là Hoàn Vương, có th ể có nghĩa là vua c ủa các vị vua. 1.5. Địa bàn nước Chăm Pa Sách “Chư phiên chí” viết: Chiêm thành ở phía đông, đường biển thông với Quảng Châu, phía Tây giáp Vân Nam, phía Nam đến Chân lạp, phía Bắc giáp Giao Chỉ, thông với Ung Châu… Đất nước đó đông-tây 700 dặm, nam-bắc 3000 dặm.”. Kết hợp thêm nhiều nguồn sử liệu khác, có th ể xác định địa bàn chính xác của Chăm pa như sau: Lãnh thổ vương quốc Chăm pa cổ xưa nằm dọc theo bờ bi ển mi ền Trung Việt Nam. Đó là dải đất hẹp nằm dưới chân d ải Trường S ơn. M ột số đồi núi nối liền cao nguyên với biển tạo thành các đèo Ngang, Hải Vân và đèo Cả. Giới hạn cực Bắc là dãy Hoành Sơn với di tích Lâm Ấp thổ lũy và với ghi chép thư tịch quy định ranh giới này vào năm 347. Giới h ạn c ực Nam giáp giới tỉnh Thuận Hải với Đồng Nai, thu tịch ghi phía Nam Lâm Ấp giáp Phù Nam nhưng không chỉ định cụ thể Kinh đô đầu tiên của Lâm ấp là Trà Kiệu – Qu ảng Nam, theo Th ủy Kinh Chí thì “Thành ấy ở phía tây khúc sông là kinh đô Lâm ấp, l ập ở Điển Xung, cách bờ biển 40 dặm. Về phía tây nam giáp núi, phía đông bắc trông ra sông. Nhiều lớp hào bao quanh chân thành, và bên ngoài các hào về phía đông nam sông chảy men bờ thành. B ề đông tây của thành thì dài, bề nam bắc thì hẹp. Phía bắc, sông uốn khúc ch ảy t ừ đông tây vào thành. Chu vi 8 lý 120 bộ. Thành xây gạch cao 2 trượng, trên thành có tường gạch cao 1 trượng, trổ lổ vuông, trên dựng ván, trên ván có gác c ất lên, trên gác có mái, trên mái có lầu, lầu cao thì sáu, b ảy tr ượng; l ầu th ấp thì bốn, năm trượng... Cách kiến trúc mạnh nhưng vụng... Trong thành l ại có thành nhỏ chu vi 230 bộ. Nhà họp và điện ngồi đều không trổ cửa về
  3. phương nam...”. Về sau dời đến Đồng Dương – Quảng Nam và cuối cùng là Chà Bàn – Bình Định 1.6. Các giai đoạn tồn tại của Chăm Pa 1.6.1. Giai đoạn Sinhapura (Thế kỷ II – 750) Đây là giai đoạn phát triển tương đối ổn định và hưng thịnh của vương quốc, trừ một vài lần bị Trung Quốc tấn công. Kinh đô bắt đ ầu đ ược xây dựng mang tên Sinhapura (thành phố Sư Tử). Một số nhà nghiên cứu cho rằng Trà Kiệu ngày nay gắn liền với những dấu tích thành lũy, đ ền th ờ và nhà ở là kinh đô của vương triều Sinhapura 1.6.2. Giai đoạn Virapura (750-850) Thời kỳ này kinh đô chuyển về phía Nam và đặt ở Panduranga, nh ưng cũng có khi là Vihapura ở Nha Trang Trung tâm kinh đô là khu vực hoàng cung và đền miếu, trong đó có một ngôi đền tháp lớn là Po Nagar (đền thờ thần Uma, vợ Shiva) Trong khoảng từ năm 750 đến 850, Chăm Pa tuy bị tấn công bởi ng ười Java đến 2 lần nhưng sau đó họ phục hồi và còn ti ến đánh Chân L ạp, t ấn công cả An Nam, tuy nhiên thời kỳ này không kéo dài mà tan rã nhanh chóng 1.6.3. Giai đoạn Indrapura (850-982) Kinh đô mới là Indrapura (thành phố thờ thần Indra), nằm ở Đồng Dương, cách Trà Kiệu khoảng 15km về phía Đông Nam Phật giáo phát triển khá mạnh, nhưng Ấn Độ giáo vẫn không bị bài xích Đến thế kỷ X, ở phía Nam, Chân lạp đánh đuổi được người Java, vua Chân Lạp đánh phá miền Nam Chăm pa, phá hủy đền Po Nagar, làm cho vương quốc suy yếu 1.7. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa Chăm Pa Từ thế kỷ II-X 1.7.1. Chính trị Chăm Pa là nhà nước quân chủ chuyên chế, tức là vua nắm toàn b ộ quy ền lực, các vua thường tự xưng là Đại Vương (Maharaja) hay Đấng tối thượng (Chakravartin). Vương quốc Chăm Pa bị diệt vong, di tích để lại cũng như những ghi chép từ sử liệu không đủ để xác định tất cả các đời vua và các thông tin chi tiết về năm cai trị của tất cả các vua. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào nhi ều nguồn tài liệu, trong đó có cả các bia khảo cổ, di tích của người Chăm, tới nay xác định được khoảng 10 triều đại với gần 100 vị vua Chăm Pa. Các thư tịch cổ Trung Quốc từ Tấn thư đến Nam Tề th ư, Tùy th ư, Cựu Đường thư đều miêu tả vua Chăm với những nét chung: “Vua th ường đ ội mũ thiên quan hay mũ hoa bằng vàng, mặc áo cổ b ối b ạch di ệp (m ột lo ại vải bông), có lúc mặc áo gấm, cổ đeo nhiều chuỗi ngọc như trang sức ở tượng Phật, cuộn tóc đuôi hoa; chân đi giày da. Khi vua đi đâu thì c ưỡi voi
  4. hoặc ngồi kiệu vải mềm có giá gỗ do 4 người khiêng. Hộ giá vua có các tuỳ tùng tay cầm cờ vải cát bối, thổi ốc, đánh trống. Nhân dân thấy vua thì phải quỳ xuống; tử đệ thị thần yết kiến vua chỉ phải vái nhưng không được tới gần.” Nhà nước nước Chămpa không phải là một tổ chức liên hiệp vùng hành chính (bang) hay tộc người. Đây là vương quốc với những dòng vua nối tiếp nhau. Mặc dù không có sự thiết lập phổ hệ liên tục theo dòng cha (do ở đây có chế độ mẫu hệ nên có trường hợp truyền ngôi theo dòng mẹ). Thủ tục lên ngôi vua trong triều đình Chăm khá cầu kì, phải trải qua nhiều giai đoạn như: nhận tước vương, thụ lễ nhận một chức sắc tôn giáo, lên ngôi cầm quyền, làm lễ đăng quang chính thức nhận vương hiệu, làm lễ mang tôn hiệu…Mỗi giai đoạn có khi cách nhau đến dăm năm. Tóm l ại việc người Chăm xây dựng cho mình một quốc gia thống nh ất, m ột vương quyền tập trung là một nhu cầu tất yếu để tự vệ. - Hệ thống hành chính và bộ máy quan lại Vương quốc Chămpa được chia thành những đơn vị hành chính lớn nhỏ. Các thư tịch cổ Trung Hoa (như Tống sử) nói Chiêm Thành có 38 châu, 200 làng. Nhiều nhà nghiên cứu lại căn cứ từ những Pramana và Vijaia – dùng để chỉ các đơn vị lãnh thổ trên bia kí mà cho rằng, nh ững t ừ ch ỉ đ ơn vị lãnh thổ có thể tạm dịch là tỉnh, vùng hay địa khu giống như ở ấn Độ và các nước ấn Độ hoá khác, mặc dù giới hạn của mỗi địa khu không được xác định rõ. Các bia kí và di tích cho phép chúng ta nghĩ rằng trên Vương quốc cổ Chămpa đã hình thành một số vùng như Amaravati (miền Bắc), Vijaia (miền Trung) và Panđuranga (miền Nam). Từ thế kỉ II – XV, Vương quốc Chămpa luôn phải đối phó với các th ế l ực và cường quốc bên ngoài nên thường xuyên có nhu cầu liên k ết, th ống nhất dân cư và thiệt lập một chính quyền trung ương tập trung. Do vậy, bộ máy triều đình, quan lại của Vương quốc chắc đã được tổ ch ức khá hoàn chỉnh để giúp vua trị vì vương quốc. Dưới vua có hai chức quan lớn là Tây na bà đế (có th ể phiên âm từ ch ữ Phạn Senapati), tức người đứng đầu hàng ngũ quan võ và Tát bà đ ại ca (Tapatica), có lẽ là người đứng đầu hàng quan văn. Dưới đó là thu ộc quan chia làm ba bậc, trong số đó có 8 viên quan lại cao c ấp chia nhau n ắm gi ữ các việc hệ trọng; tiếp đó là ngoại quan (có lẽ là quan địa ph ương) với 2 cấp là Phất la (trưởng quan) và khả luân (th ứ quan). Ở các đ ịa ph ương còn có chức quan chuyên thu thuế và cai quản dân gọi là Panrong Prong. Về sau hệ thống quan chức được hoàn chỉnh hơn, có thêm chức Tể tướng mà trong Đại Việt sử kí toàn thư gọi là Bố Để (hay Bố Đề), Tân đường thư của Trung Quốc gọi là Bà Man Địa (bắt nguồn từ chữ Adhipati).
  5. Ngoài ra còn có các tăng lữ Bàlamôn là người ấn Độ, thường xuyên đảm nhiệm những chức sắc cao cấp về tôn giáo và có ảnh hưởng lớn về chính trị, văn hoá ở triều đình Chămpa. * Tình hình xã hội -Giai cấp thống trị: - Quý tộc, quan lại: bao gồm những người có ch ức s ắc phục vụ cho tri ều đình nhà vua từ trung ương đến địa phương. Tầng lớp này được vua ban hiện vật được miễn trừ mọi nghĩa vụ lao dịch. - Tăng lữ Bàlamôn: Tầng lớp phụ trách các vấn đề tế lễ, tang ma, cưới hỏi của nhà nước, có ảnh hưởng không nhỏ đến các công việc chính trị – xã hội của đất nước. - Giai cấp bị trị: - Nông dân công xã: là lực lượng chủ yếu trong xã hôi Chăm, là giai cấp giữ vai trò chủ yếu trong sản xuất cũng như trong xã hội. Đời sống của vua, quan, quý tộc và một phần đáng kể của đền miếu đều dựa chủ yếu trên sự đóng góp của nông dân công xã dưới hình thức lao dịch và thu thu ế bằng sản phẩm. Khi vương quốc có chiến tranh, vai trò của nông dân công xã cũng thể hiện rõ với việc đóng góp lương thực, sản vật và s ức người cho nhà nước. - Nô lệ: Đây là tầng lớp xuất hiện ngay ở giai đoạn đầu c ủa V ương qu ốc cổ Champa. Nguồn gốc của nô lệ (bia kí gọi chung là hulu) khá phong phú, có nô lệ tù binh, có nô lệ nuôi từ nhỏ, có nô l ệ là người ph ạm t ội, nô lệ được mua về, nô lệ ở các đền miếu. Nô lệ đã trở thành một thứ mặt hàng trao đổi buôn bán trong xã hội điều đó chứng tỏ chế độ nô lệ trong xã hội Chăm khá phát triển. Sách Lĩnh ngoại đại giáp chép “ thuyền buôn lấy người làm hàng hoá”. * Quân đội và luật pháp Triều đình Chămpa có quân đội thường trực rất mạnh. V ệ binh có kho ảng 5000 người. Quân đội cả nước có đến 4 – 5 vạn người, gồm nhiều binh chủng (bộ binh, tượng binh, kị binh và thuỷ binh). Khi đánh nhau thường cưỡi voi, lấy mây làm áo giáp, huy động kho ảng 1000 voi, 400 ngựa cùng với thuỷ quân gồm nhiều thuyền chiến. Vũ khí có gươm giáo, cung tên, nỏ tre có tẩm thuốc độc. Lực lượng quân đ ội của Vương quốc Chămpa có nhiệm vụ bảo vệ vua và quan lại, tham gia chống cá thế lực bên ngoài. Do nghề đóng thuyền phát triển nên Chăm pa có đội thuỷ quân rất mạnh. Thuỷ quân thường mặc một áo giáp ngắn, đ ội một mũ giáp hình đài hoa cầm mộc và giáo. Chămpa chưa có luật pháp thành văn. Ai bị tội nhẹ thì đánh bằng gậy từ 50 – 100 gậy. Tội nặng thì treo lên cây, lấy gậy nh ọn đâm vào c ổ hay vào đầu. Tội nặng hơn nữa thì cho voi giày hay quật chết, cũng có khi bắt t ự
  6. tử mà chết. Sách Tân Đường thư phần Liệt truyện có viết: “Không đặt hình pháp, người có tội thì cho voi giày hay quật chết hoặc là đưa ra mũi Bất Lao cho tự tử mà chết”. Sách “Thuỷ phiên chí” cũng viết về phần nước Chiêm Thành cũng nói tới một số quy định về luật pháp khá chi tiết: “Nam nữ phạm tội thông gian đều bị giết. ăn trộm cũng có những hình phạt như chặt ngón tay, ngón chân. Lúc chiến trận, cử 5 người họp thành 1 giáp, nếu b ỏ ch ạy thì ng ười cùng giáp đều chịu tội chết”. Có thể thấy đây là những quy định b ất thành văn, có tính chất như luật tục hay tập quán pháp. Trên thực tế từ các nguồn sử liệu chưa có căn cứ để khẳng định nhà nước Chămpa lu ật pháp thành văn và thể chế. * Tình hình kinh tế - Nông nghiệp + Ruộng đất và quan hệ sở hữu ruộng đất Nông nghiệp là hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Chămpa. Trên văn bia có kể tên nhiều loại ruộng Chăm như: ruộng trũng (huma – anatam), ruộng bậc thang (huma danih), ruộng chua mặn (huma masin). Ngoài ra trên bia Mỹ Sơn còn nhắc đến các loại ruộng đất khác nhau nh ư: sinjob, santam, malik, malan…mà hiện nay chưa rõ là những ruộng gì. Về mặt quan hệ sở hữu ruộng đất: Tài liệu nói về vấn đề này còn hết sức mờ nhạt. Tuy nhiên theo Tống sử thì một số quan lại đã có s ở h ữu ruộng đất riêng và được miễn trừ tất cả các khoản đóng góp cho nhà nước.Tuy nhiên nhà nước đứng đầu là vua là người có quyền sở tối cao về ruộng đất là điều chắc chắn. Chính vì vậy vua có quyền ban cấp ruộng đất cho các đền gọi là ruộng thần và các quan lại gọi là lộc điền. + Trồng trọt và kĩ thuật canh tác Lúa là cây lương thực chủ yếu ở Chămpa. Lúa được cấy theo 2 mùa trong một năm: mùa thu trồng lúa trắng, mùa xuân trồng lúa đỏ. Bên c ạnh lúa còn có các loại cây lương thực và cây ăn quả khác. Sách “Thuỷ phiên chí” của Trung Quốc chép: “Ngũ cốc không có lúa mạch ch ỉ có lúa t ẻ, kê, đay, đậu…quả cây có các loại như sen. mía, chuối, dừa”. Về kĩ thuật canh tác, người Chăm xưa đã kết hợp trồng lúa ở cả ruộng bậc thang và ruộng thấp (mà hiện nay còn thấy ở miền Trung nước ta). Để trồng cấy ở ruộng thấp, họ đã đào nhiều kênh mương dẫn n ước tưới. Họ đã đóng được các guồng nước khổng lồ gọi là bờ xe nước. Ng ười Chăm rất giỏi việc đắp đập, đào kênh mương dẫn nước vào đồng ruộng tiêu biểu như đập Đồng Cam ở xã Hoà Hội, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Người Chăm đã biết việc sử dụng sức kéo trâu bò trong sản xuất nông nghiệp. Sách “Chư phiên chí” ghi người Chăm còn biết đóng hai trâu để kéo cày.
  7. Đặc biệt, người Chăm đã biết tuyển chọn và trồng cấy một s ố giống lúa tốt mà đã được biết đến rộng rãi ở cả nước ngoài. Theo Tống sử, Trung Quốc đã đem nhập và đem trồng phổ biến một thứ lúa ngắn ngày và có sản lượng cao gọi là lúa Chiêm Thành (lúa Chiêm). Mặc dù vậy người Chăm vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất nông nghiệp do điều kiện tự nhiên thường xảy ra hạn hán và lũ lụt. Bên cạnh đó đất đai ở đây cằn cỗi “đất đều là cát trắng, đất cày đ ược r ất ít. Không có dê, lợn, rau cỏ, nhân dân đi lấy hương làm kế sinh nhai”. + Hoạt động thủ công nghiệp và các nghề khác Dệt vải: Người dân Chăm biết trồng dâu, nuôi tằm, nghề dệt lụa khá phát triển. Mặt khác, nhân dân còn dùng cổ bối (một loại cây khi hoa nở giống như lông ngỗng có thể rút lấy sợi như cây đay ở nước ta) và bông gòn đ ể dệt vải, tạo ra nhiều loại vải quý, được đánh giá cao ở các n ước láng giềng. Các thư tịch cổ Trung Quốc và Đại Việt thường nói tới việc các vua Chăm thường cử người sang cống luôn có mặt hàng là vải trắng. Ngày nay, người Chăm ở Ninh Thuận vẫn bảo tồn được ngh ề dệt th ổ cẩm khá độc đáo. Chạm khắc vàng, bạc,đồng: Nghề luyện kim của người Chăm rất phát triển. Đặc biệt là việc chế tác các loại đồ trang sức bằng vàng, bạc, trước hết để phục vụ cho vua và quý tộc. Đó là những mũ miện bằng vàng của vua và hoàng hậu, những klong (hộp đựng mảnh xương người ch ết để giữ lại thờ bằng vàng, bạc); các loại hộp đựng trầu và ống vôi khảm vàng, bạc. Ngoài ra còn có các đồ trang sức bằng đồng như mâm chân quỳ, dao bổ cau, thìa và nhiều thứ vũ khí bằng đồng. Các loại lọ, dao, thìa và nhiều tứu vũ khí bằng vàng, bạc, đồng được chạm khắc. Những vật này đều có hình dáng đẹp, được gia công khéo léo, chạm chổ bằng nhiều hình hoa lá rất tỉ mỉ, th ể hiện trình độ tinh x ảo c ủa các thợ thủ công Chăm. Đóng thuyền: Người Chăm còn có nghề đóng thuyền rất phát triển do nhưu cầu buôn bán và đánh cá. Sách Đại việt sử kí toàn thư chép Chiêm Thành có hơn 1000 thuyền ra đánh cá. Làm gốm: Nghề gốm ở Chămpa rất phát triển. Qua các đợt khai quật khảo cổ học đã phát hiện thấy dấu tích của một khu lò g ốm nh ư: Gò H ời (Tây Sơn- Bình Định), Gò Ké, Gò Cây Me, gò Trường Cửu, song tiêu bi ểu hơn cả là gồm gò Sành. Gò Sành là một gò đất thấp nằm trên bờ sông Côn thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Sau nhiều lần khai quật khảo cổ học đã phát hiện hơn 20 lò gốm cổ với gần 6000 hiện vật khác nhau, bao g ồm: bát, đĩa, cốc, chén, vò, hũ…
  8. Tất cả đều được làm bằng bàn xoay, hình dạng cân đối, chính xác, được trắng men màu xanh nhạt, vàng nhạt, nâu…có văn in khuôn d ập n ổi, kh ắc chìm trên men, dưới men. Sự phong phú, độc đáo của gốm Gò Sành nói riêng và gốm Bình Định nói chung cho thấy sự phát triển về trình độ chế tác gốm của Chămpa. Đánh cá: Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi và biển nhiều cá, kĩ thuật đóng thuyền phát triển nên nghề đánh cá ở đây khá phát triển. Một nhà du lịch nước ngoài đến Chămpa vào thế kỉ XIV đã ghi lại rằng: “Vua có riêng 14.000 con voi…ở nước này, người ta gặp một điều rất kì lạ vì mọi loài cá trên biển đều đến đây, tựa như người ta không th ấy gì trên biển ngoài cá” Hoạt động thương nghiệp: Có thể nói Chăm pa là một đầu mối, trung tâm thương mại liên vùng. Chăm pa có quan hệ buôn Bán với Trung Hoa, Đại Việt, Phi líp pin…Các sản vật từ lâm th ổ sản, các đồ trang s ức và đ ặc biệt là gốm là những mặt hàng buôn bán chủ yếu của các th ương nhân Chăm. * Tình hình Văn hoá - Tôn giáo và tín ngưỡng Chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ. Buổi đầu họ thờ các vị thần sơ khai của người ấn, đứng đầu là thần Inđra – vị chủ của các thần. Khi đạo Hin đu được truyền bá vào họ sùng bái các thần Ấn giáo,và thờ các thần của Hinđu giáo: thần Brahman, Shiva và Visnu. Trong đó th ần Shiva thể hiện rõ qua những lời cầu khấn, sự ưu tiên hình t ượng Siva trên tượng phù điêu và ngẫu tượng Linga. Bên cạnh đó, người Chămpa còn tiếp thu đạo Ph ật phái Đ ại th ừa. M ột s ố vua của thời kì Vijaia vẫn cho dựng tượng Phật Quan âm (Buddhalokesvara) và thực hành dharma (đạo) của Mahayana (Ph ật giáo Đại thừa).Tuy nhiên, xuyên suốt lịch sử Chămpa, Hinđu giáo. Khoảng thế kỉ XIII, đạo Hồi được du nhập đến Chămpa nhưng mức độ ảnh hưởng không nhiều. - Chữ viết: Họ đã tiếp nhận chữ viết của người Ấn đó là chữ Phạn (sancrit). Từ chữ viết của người Ấn người Chămpa đã xây dựng thành một hệ thống văn tự để ghi chép tiếng nói của mình gồm 16 nguyên âm, 31 phụ âm và khoảng 32 dấu âm sắc và chính tả. Niên đại c ủa ch ữ Chăm c ổ sớm nhất, căn cứ trên minh văn Đông Yên là thế kỉ IV. Nguyên li ệu đ ể viết: Chữ Chăm cổ nhất được tìm thấy khắc trên kim loại như mâm, ấm bằng vàng, bạc, đồng…ngoài ra còn được khắc trên bia. - Kiến trúc và điêu khắc Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm khá phát triển. Nh ững thành t ựu trên lĩnh vực này thể hiện ở các đền, tháp…
  9. Người Chăm tin sùng đạo Hinđu cho nên họ đã xây dựng nhi ều Đ ền, tháp để thờ thần Hinđu. Đó là những ngôi tháp gạch, đồng thời cũng là đền thờ thần. Tháp gọi là kanlan theo hình núi Meru, tương truy ền cũng là n ơi ng ự trị của các thần Hinđu. Có tháp ở trên đỉnh đồi cao, có tháp ở dưới đồng bằng, như thể muốn vươn tới trời cao nhưng vẫn bám chặt đất mẹ. Gạch và kĩ thuật xây khá tốt nên trải qua thời gian, nhiều tháp v ẫn còn đ ứng vững như dấu ấn văn hoá một thời còn lưu lại. Có th ể nói, nơi nào có cụm dân cư Chăm thì ở đó có đền, tháp thờ thần. Tiêu biểu trong s ố các di tích tháp Chăm là cụm di tích Mỹ Sơn. Cụm di tích này n ằm ở vùng thung lũng chân nũi, thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, do người Pháp phát hiện năm 1885 và bắt đầu nghiên cứu từ năm 1895. Có khoảng 70 kiểu kiến trúc đền tháp nằm quây quần quanh thung lũng này. Có người gọi khu đền tháp ở Mỹ Sơn là Thánh địa nhưng th ực chất đây là nơi thờ cúng các thần Đạo Hin đu của người Chăm ( sanctuaire). M ột nhà kiến trúc nước ngời là Ph.Stern đã chia cụm kiến trúc Mỹ Sơn thành 6 giai đoạn phát triển, 6 phong cách nghệ thuật. + Nhóm A gồm 13 ngôi trong đó có ngôi A1 là to nhất và đẹp nhất. + Nhóm B gồm 14 ngôi nằm ở gần trung tâm thung lũng. Trong khu này còn lại dấu tích của một bể nước có lẽ đó là nơi chứa nước thiêng dùng trong lễ thánh tẩy. + Nhóm C gồm 7 ngôi tại đây người Pháp đã tìm thấy nhiều đồ thờ quý bằng vàng . + Nhóm D gồm 6 kiến trúc xây dựng theo kiểu nhà dài. + Nhóm E có 9 công trình . + Nhóm F gồm 3 ngôi đền nằm xa trung tâm . Khu đền tháp Mỹ Sơn là một quần thể kiến trúc văn hoá- l ịch sử đ ộc đáo. Năm 1999, khu di tích Mỹ Sơn được UNESCO công nh ận là di sản văn hoá thế giới. Hầu hết các tượng trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa đều là tượng thần, tuy nhiên trong một số trường hợp có thể tìm thấy ở đó tính chất hiện thực, sinh động, tươi tắn và duyên dáng. Chẳng hạn tượng nữ th ần Pacvati, thuộc thế kỉ thứ VIII, trông rất giống một người con gái bình thường, tươi tắn, với nụ cười mỉm, nét mặt thanh tú của người Nam á, chẳng thua kém gì những pho tượng bán thân nổi tiếng trên thế giới. Vũ nữ Trà Kiệu không quá thô cứng và nghiêm nghị như ở Campuchia hay ấn Độ, vừa rất cân đối, mềm mại, duyên dáng và đầy sức sống. Tượng bán thân Devi phát hiện tại Hương Quế- Quảng Nam là một trong những pho tượng tròn đẹp nhất của người Chăm. Đặc điểm nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm:
  10. + Không gian: Các công trình kiến trúc điêu khắc của người Chăm được xây dựng khắp nơi trong địa bàn cư trú của cư dân Chăm, luôn g ần nơi c ư trú của nhân dân và ngay cả nơi ở của vua. + Nguyên liệu xây dựng: Chủ yếu là bằng gạch, đá rất ít được sử dụng trong các công trình kiến trúc trừ những chi tiết đòi hỏi s ự ch ịu l ực cao như bệ, trụ cửa…Có thể nói kĩ thuật làm gạch và xây tháp bằng gạch c ủa người Chăm đạt tới trình độ rất cao. Các công trình kiến trúc, điêu khắc Chăm chịu ảnh h ưởng, chi ph ối m ạnh mẽ của tôn giáo mà cụ thể là của đạo Hin đu. Quy mô của các công trình kiến trúc, điêu kh ắc Chăm t ương đ ối nh ỏ, không đồ sộ, phô trương mà có cái gì đó thần bí. Chính vì quy mô nh ỏ cho nên các đền tháp Chăm không kết hợp luôn là thánh đ ường đ ể di ễn ra các sinh hoạt tôn giáo mà chỉ làm giả thánh đường bằng một cửa cuốn ghạch . Âm nhạc và ca múa: Qua các thư tịch cổ Trung Quốc, thông qua các tài liệu khảo cổ học, các công trình kiến trúc, điêu kh ắc cho chúng ta th ấy sinh hoạt ca múa nhạc của người Chăm khá phát triển. + Nhạc cụ: Có đàn, cầm, đàn tỳ bà, địch, trống, sáo…Nhạc cụ có th ể vay mượn hay không nhưng nhạc cụ vẫn cần phải tự sáng tạo. Hiện nay, chúng ta không được biết về những nhạc điệu ấy, chỉ biết thứ nhạc của Chăm khá phong phú với nhạc cung đình, nhạc lễ, nhạc đám cưới, đám tang, mỗi loại có những giai điệu khác nhau. +Ca múa nhạc: Rất thịnh hành và phát triển.Trong Việt sử có nhắc tới sự kiện vua Lê Đại Hành và Lý Thái Tông khi đi đánh quân Chiêm Thành có bắt về hơn trăm vũ nữ và thông qua đó nền nghệ thuật âm nh ạc cung đình Chămpa đã đến được nước ta. Múa của vũ nữ thường diễn ra ở cung đình, ở đền miếu, múa tập thể trong đám cưới, ngày hội…Các vũ nữ Chăm thường mặc áo ngắn, trang trí lộng lẫy trong các điệu múa uy ển chuyển. Hình các vũ nữ ở tháp A1 Mỹ Sơn , ở Trà Kiệu có mặc váy ngắn, đôi khi “ vật che thân chỉ còn là đồ trang sức.” - Phong tục tập quán +Trong ứng xử xã hội Người Chăm giữ rất lâu một số phong tục của mình. Họ rất l ễ phép, g ặp nhau thường chắp tay vái lạy hay cúi đầu chào. Họ cũng có tục ăn tr ầu và nhuộm răng như người Việt. Do theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ Chăm luôn giữ vai trò cao trong xã hội, trong sản xuất và trong gia đình. +Tục cưới hỏi Trong hôn nhân, người con gái Chăm luôn chủ động và huy ết th ống được tính theo dòng mẹ. Chính vì thế trong bia có ghi nhà gái đi hỏi r ể. Vào ngày cưới, một thầy Bàlamôn dắt chàng rể đến gặp cô dâu. Hai bên n ắm tay nhau, rồi mọi người cùng hô to chúc mừng sự tốt đẹp. Tục cưới hỏi
  11. như vậy đến nay vẫn còn tàn dư. Nhiều nơi vẫn giữ nghi lễ ăn cỗ bên nhà gái và con trai phải ở rể một thời gian. +Tục ma chay Người Chăm thường có tục hoả táng ở ngoài đồng, sau đó h ọ đem th ả xuống sông, biển cùng lúc đó con cháu đi đưa tiễn và khóc lóc th ảm thi ết. Họ chỉ giữ lại một phần xương sọ bỏ vào trong hộp bằng bạc gọi là Klong. Chiếc hộp này được cất chỗ kín vài năm sau m ới mang v ề nhà đ ể thờ. Sách “Tuỳ thư” của Trung Quốc có chép về tục ma chay của người Champa: “Vua chết 7 ngày mới chôn, người có quan chức thì 3 ngày còn thứ dân thì 1 ngày. Lấy bao đựng thây người chết, đánh trống múa nhảy đi theo xe đến sông, sau đó chất củi đốt thây, cốt lấy những xương còn lại. Vu athì bỏ vào bình vàng, nhấn chìm xuống biển; người có quan chức thì dùng bình đồng, đánh chìm ở cửa biển; thứ dân thì lấy bình đ ất đưa ra sông. Trai gái đều cắt tóc đi theo đám tang đến sông, sau đó h ết s ứ th ương khóc rồi thôi, lúc về không khóc nữa. Cứ 7 ngày lại đốt hương, rắc hoa, lại khóc lóc hết sức thảm thiết rồi thôi. Hết 7 lần, 7 ngày như thế rồi thôi. Đến trăm ngày và ba năm cũng làm như vậy + Chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn tại ở người Chăm. Đàn ông lo việc ngoài nhà, đàn bà lo việc trong gia đình và gia ph ả. Phong t ục Chăm qui định con theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần (họ nội). Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang, sau đó mang hài c ốt v ề tr ả l ại cho dòng họ nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được th ừa kế tài s ản, ng ười con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già. 2. Sự ra đời của vương quốc Phù Nam 2.1 Quá trình hình thành phát triển và suy tàn của Phù Nam. *Sự ra đời của Vương quốc Phù Nam Với nguồn tư liệu lịch sử, văn hóa và khảo cổ vô cùng ít ỏi, s ự hình thành vương quốc Phù Nam đến nay vẫn là một ẩn số với các nhà khoa h ọc. Ngay khi phát hiện ra văn hoá Óc Eo sau cuộc khai qu ật kh ảo c ổ h ọc c ủa nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret vào năm 1944, người ta đó coi đó là những dấu vết của Vương quốc Phù Nam, một quốc gia cổ đ ược biết từ trước qua thư tịch cổ Trung Quốc và minh văn trên bia ký. Vậy mối quan hệ giữa nền văn hoá Óc Eo và Vương quốc Phù Nam như thế nào? Nó là cội nguồn hay là một trong nh ững nền văn hoá c ủa V ương quốc Phù Nam. Để là rõ điều này, chúng ta cần nghiên cứu mối quan h ệ giữa văn hoá Óc Eo và Vương quốc Phù Nam trên 3 phương diện: không gian, thời gian và cư dân.
  12. 2.1.1. Thời gian Theo các thư tịch cổ Trung Quốc còn lại cho đến ngày nay, các nhà khoa học đã có ý kiến thống nhất: Vương quốc Phù Nam tồn tại từ đầu thế kỉ I sau Công nguyên đến thế kỉ thứ VII, trải qua 3 triều đại, 19 đời vua. Theo các di chỉ khảo cổ học tìm được cũng cho thấy nền văn hoá Óc Eo tồn tại từ thế kỉ I sau công nguyên đến thế kỉ VII, VIII. Đặc biệt, trong cuộc khai quật này các nhà khảo cổ học cũng đã thấy “một sự tàn phá đ ột ngột” của nền văn hoá này: “Cuộc khai quật của chúng tôi đã phát lộ những thảm cát đứt đoạn chứa những tàn tích của nghề kim hoàn, như nồi nấu còn dính vẩy vàng, đá thử, thoi vàng, đồ trang s ức làm dở…nh ững mảnh vụn của xưởng thợ bị sụp đổ…cho thấy một sự tàn phá đột ngột, thô bạo, hoàn toàn không phải là một sự suy thoái từ từ”. Điều này cũng phù hợp với sự xâm lược của người Chân Lạp đối với vương quốc Phù Nam vào thời gian này. Như vậy, thời gian tồn tại của Vương quốc Phù Nam và nền văn hoá Óc Eo về cơ bản là đồng nhất với nhau. 2.1.2. Không gian Các thư tịch cổ Trung Quốc có ghi lại cương vực của quốc gia Phù Nam như sau: Tấn thư ghi: "Phù Nam cách Lâm Ấp về phía Tây hơn 3000 lí, ở trong vùng Vịnh biển lớn nhất. Đất rộng 3000 lí". Nam Tề thư chép: "Nước Phù Nam ở trong vùng dân Man, phía Tây của biển lớn, ở miền Nam của Nhật Nam, dài rộng hơn 3000 lí, có sông ch ảy về phía Đông ra biển". Lương thư chép và có thêm một vài chi tiết làm cụ th ể hơn: "Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam trong vịnh lớn, phía Tây của bi ển cách, Nhật Nam có đến 7000 lí, cách Lâm Ấp ở phía Tây Nam đến h ơn 3000 lí. Thành cách biển 500 lí (khoảng 200 km), có sông rộng 10 lí, từ Tây B ắc chảy sang Đông nhập vào biển. Nước rộng hơn 3000 lí, đất trong vùng ẩm thấp nhưng bằng phẳng rộng rãi". Căn cứ vào những chi tiết có tính chất tương đối trên đây, so sánh v ới đ ịa lý Đông Dương, các nhà nghiên cứu về cơ bản đã thống nhất v ề v ị trí c ủa nước Phù Nam ngày nay như sau: Nằm ở phía Nam bán đảo Đông D ương, phía Nam quận Nhật Nam (phần đất phía Nam của nước Nam Việt cũ) và Lâm Ấp (từ dưới Quảng Nam trở vào). "Vịnh phía Tây biển lớn" – V ịnh Thái Lan ngày nay. "Các con sông lớn chảy từ hướng Tây đổ ra biển, con sông chảy từ mạn Tây Bắc về hướng Đông rồi đổ ra biển" tương ứng với phần hạ lưu sông Mê Công. "Đất từ trên cao đổ xuống và rất bằng phẳng" là thế đất châu thổ. Đó cũng là hình ảnh của châu th ổ sông Mê
  13. Kông bao gồm khu vực dòng chảy của các sông Hậu, sông Tiền, sông Vàm Cỏ, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Như vậy, không gian của Vương quốc Phù Nam bao gồm lãnh th ổ rộng lớn: Về phía đông đã kiểm soát cả vùng đất Nam Trung Bộ (giáp Chămpa). Về phía Tây Bắc đến trung lưu sông Mê Kông. Về phía Tây đến phần lớn thung lũng sông Mênam (Thái Lan) và cao nguyên Còrạt. Về phía Nam đến các nước ngoài hải đảo thuộc phần đất phía B ắc bán đảo Malaysia ngày nay. Những phát hiện khảo cổ học của các nhà kh ảo cổ Việt Nam v ề n ền văn hoá Óc Eo từ vùng đồi núi Lâm Đồng đến vùng rừng ngập mặn U Minh; Nền chùa (Kiên Giang); Gò Tháp (Đồng Tháp) 1984 và 1993; C ạnh Đền (Kiên Giang) năm 1986; Gò Rộc Chanh và Gò Sao (Long An), năm 1986; khu di tích Bình Tả (Long An) năm 1987 – 1989; Cây Gáo và Đ ồng B ơ (Đồng Nai) năm 1987; Lưu Cừ (Cửu Long) năm 1987; Gò Thành (Ti ền Giang) năm 1988; Kè Nột (Kiên Giang) năm 1990; Chàu Gò (TP Hồ Chí Minh) năm 1991. Ngoài ra, các cuộc khai quật khảo cổ tiếp theo cũng đã phát hiện thấy mật độ di chỉ của nền văn hoá này tập trung khá l ớn ở vùng trũng Đồng Tháp Mười, vùng đất thấp phía Tây sông Hậu và vùng rừng U Minh. Như vậy, những phát hiện khảo cổ của các nhà khảo cổ Việt Nam cũng có niên đại từ thế kỉ I đến thế kỉ VII. Đó cũng là không gian và khung niên đại của văn hoá Óc Eo ở châu thổ sông Cửu Long trùng hợp với m ột ph ần lãnh thổ và một số sự kiện trong lịch sử Phù Nam. 2.1.3. Cư dân Tấn thư ghi: "Người đều đen đúa, xấu xí, búi tóc, thân trần đi đ ất, tính chất phác, thẳng thắn, không trộm cướp, theo nghề cày cấy trồng trọt; một năm trồng thu hoạch 3 năm". Nam Tề thư cũng ghi: "Người Phù Nam thông minh, lanh lợi và giảo quyệt, đánh phá các thành ấp lân cận, bắt dân không phục làm nô tỳ" nhưng sau đó lại viết: "Người tính tình hiền lành, không giỏi chiến trận, thường bị nước Lâm Ấp đánh phá, không thông giao được với Giao Châu". Chu Ứng lại ghi:"Người nước đó ở trần, chỉ có phụ nữ mặc áo chui đầu". Cả Khang Thái và Chu Ứng (hai sứ giả của Trung Quốc) đều nói rằng: "Trong nước thật đẹp, chỉ có người hơi bẩn thỉu, thật quái lạ". Từ những nhận xét trên cho thấy Phù Nam là một xã hội đa dạng và khá phức tạp. Căn cứ vào những điều ghi lại trên, đối sánh với dân tộc học ở Đông Nam Á, các nhà nghiên cứu đều cho rằng: Cư dân Phù Nam g ồm hai bộ t ộc Môn Cổ và Nam Đảo. Bộ lạc Môn Cổ (Vnam, Bnam, Pnong) là b ộ l ạc người miền núi. Bộ lạc này là người vùng núi, sống từ trên các th ềm cao
  14. miền Nam, trải qua quá trình sinh sống họ tiến xuống gần biển, gặp người Biển – Nam Đảo. Quốc gia mới lập theo thói quen được gọi bằng tên tộc người bản địa (Người vùng núi) nên có tên là Phù Nam. Có lẽ họ chính là những chủ nhân của nền văn hoá Đồng Nai thời đại đồ đá, đồng. Bộ lạc thứ hai là Nam Đảo đến sau, h ọ sống ở ven bi ển Đông, v ịnh Thái Lan, hạ lưu sông Mê Nam rồi dần lấn sâu vào nội địa. Trên miền Tây sông Hậu, họ kết hợp các yếu tố núi và biển, cùng nhau xây dựng quốc gia mới, bổ xung cho nhau sức mạnh và s ở trường trên núi và trên biển: người Môn Cổ có khả năng chinh chiến và tổ chức xã hội, còn người Nam Đảo có khả năng khai thác hải sản và buôn bán với n ước ngoài. Cư dân của văn hoá Óc Eo: Trước đây, người ta thường nh ầm l ẫn ch ủ nhân của nền văn hoá này là tổ tiên của người Khmer. Nh ưng nh ững phát hiện khảo cổ học ở Gò Cây Tung (An Giang), Gò Cao Su (Long An), Giồng Cá Vồ (Cần Giờ – TP Hồ Chí Minh)…đặc biệt là bôn có mỏ, rìu tứ giác và gốm văn in là đặc trưng cho vùng bán đảo Mã Lai và Java là nh ững nơi người nói tiếng Nam Đảo cư trú. Hơn nữa, sự phân tích các sọ cổ và xương người cổ ở những di tích văn hoá Óc Eo, các nhà nghiên cứu đều thống nhất, đây thuộc giống người Inđônêxia. Do vậy, có thể khẳng định rằng chủ nhân của nền văn hoá Óc Eo phần lớn là người thuộc nhóm Nam Đảo. Tóm lại, qua xem xét mối quan hệ giữa Vương quốc Phù Nam và n ền văn hoá Óc Eo cho thấy: Văn hoá Óc Eo thực ch ất là văn hoá s ơ s ử và s ơ kì của lịch sử Vương quốc Phù Nam. Nó là một bộ phận quan trọng góp t ạo nên những thành tựu văn hoá đặc sắc của Vương quốc Phù Nam. Vậy cội nguồn của Vương quốc Phù Nam là nền văn hoá nào ? GS. Hà Văn Tấn trong khi nghiên cứu về văn hoá Óc Eo và Vương quốc Phù Nam có cho rằng: có một hay những con đường tiến lên văn hoá Óc Eo từ di chỉ thời đại sắt ở Nam Bộ. Điều đó có nghĩa là có thể tìm th ấy được cội nguồn văn hoá Óc Eo từ bản địa. Nền văn hoá bản địa ở Nam Bộ mà tác giả nói đến ở đây có lẽ là nền văn hoá Đ ồng Nai (t ồn t ại cách ngày nay 7.000 năm). GS. Trần Quốc Vượng khi trình bày về văn hoá Đồng Nai trong cuốn "C ơ sở văn hoá Việt Nam" có đưa ra ý kiến cho rằng: Văn hoá Đồng Nai khi phát triển đến giai đoạn cuối thì kim khí đã chiếm vị trí quan tr ọng và gi ữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế, trên cơ sở đó t ạo ra nh ững ti ền đ ề vững chắc cho sự ra đời của một nhà nước vào đầu công nguyên. Tiếp nối ý kiến này, GS. Lương Ninh trong cuốn "Vương qu ốc Phù Nam, Lịch sử và văn hoá" khi trình bày về nền văn hoá Đồng Nai, tác giả có đưa ra những căn cứ khảo cổ học cho rằng nền văn hoá Đồng Nai có nhi ều
  15. khả năng có mối liên hệ với văn hoá Óc Eo: Gần địa điểm núi Ba Thê, nơi có di chỉ Óc Eo, chỉ cách khoảng 70 km đường chim bay, có tìm thấy những di chỉ có niên đại từ khoảng thế kỉ 6 – 7 TCN đến khoảng th ế kỉ VII – VIII đầu công nguyên. Phải chăng đây là những dấu ấn phát tri ển của nền văn hoá Đồng Nai ? Từ những căn cứ trên, có thể tạm đi đến khẳng định cội nguồn của Vương quốc Phù Nam là nền văn hoá Đồng Nai – m ột n ền văn hoá thu ộc thời đại kim khí ở Nam Bộ. Sự ra đời của Vương quốc Phù Nam 2.2. Tiền đề về kinh tế và văn hoá Căn cứ vào những ý kiến đã trình bày trên, người viết cho rằng: Văn hoá Đồng Nai chính là nền văn hoá tạo những tiền đề về kinh tế và văn hoá cho sự ra đời của Vương quốc Phù Nam. Văn hoá Đồng Nai tồn tại cách ngày nay khoảng 7.000 năm, thuộc th ời đại kim khí (đồng thau và sắt sớm). Văn hoá Đồng Nai là sự tích hợp của nhiều tiểu vùng văn hoá khác nhau, bao gồm 5 tiểu vùng: Ở vùng đồi đá phiến và badan đất đỏ thuộc Đồng Nai có những di tích (cư trú, mộ táng, xưởng) diện tích lớn, tầng văn hoá dày. Đây là vùng phát sinh và quần tụ quan trọng, liên tục nhất của văn hoá Đồng Nai, v ới nh ững di tích Cầu Sắt, Suối Chồn, Phú Hoà, Hàng Gòn. Ở vùng đồi đá phiến và bazan đất đỏ dải cao nguyên Sông Bé có loại hình di tích đặc trưng là công trình đất đắp hình tròn v ới hai vòng thành và hào sâu ở Lộc Ninh – Bình Long. Vùng liên kết đồi bazan - đá phiến – phù sa cổ dọc hệ thống sông Bé, sông Đồng Nai, nơi tập trung dày đặc các di tích, di chỉ, mộ táng, xưởng th ủ công đơn hay đa ngành, tiêu biểu nhất là Suối Linh, Bình Đa, Dốc Chùa. Vùng phù sa đất sám thuộc hệ thống sông Vàm Cỏ với những di chỉ, di chỉ kèm mộ đất như An Sơn, Gò Rạch Rừng, Đinh Ông, Rạch Núi. Vùng đồng bằng phù sa mới miền châu thổ hạ lưu sông Đồng Nai, Vàm Cỏ và những đầm lầy không và nhiễm mặn cận biển tiểu cùng kinh tế – văn hoá, mới tạo thành từ đầu thiên niên kỉ I trước công nguyên nh ư Cái Vạn, Bưng Bạc, Bưng Thơm, Giống Phệt, Giồng Cá Vồ… Có thể nói, văn hoá Đồng Nai là bước mở đầu cho truyền thống văn hoá tại chỗ ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt. Thông qua các di chỉ khảo cổ được tìm thấy có thể chỉ ra vài nét đặc trưng v ề kinh t ế và văn hoá của nó: Về kinh tế, cư dân Đồng Nai trồng lúa trên cạn, không dùng sức kéo của trâu bò, trồng rau đậu, cây có quả, củ bằng phương pháp phát - đốt, đặc thù của nông nghiệp nương rẫy, chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh bắt
  16. tôm cá. Công cụ sử dụng của cư dân Đồng Nai ban đầu ch ủ yếu là đá. Kĩ thuật chế tác đá ở vùng này đã đạt đến trình độ tinh xảo. Kinh tế thủ công nghiệp vùng này rất phát triển, đặc bi ệt là ngh ề làm gốm. Nghề gốm đã xuất hiện và tồn tại trong suốt quá trình lịch s ử của văn hoá Đồng Nai. Họ chỉ chế tạo và sử dụng đồ đun nấu, ăn uống đơn giản về dáng vẻ, mộc mạc và trang trí không cầu kì, song gốm được nung ở nhiệt độ cao bằng kĩ thuật bàn xoay. Về văn hoá, cư dân Đồng Nai có đời sống tinh thần khá phong phú. Điều này được thể hiện qua một loạt các hiện vật về nghệ thuật. Tín ngưỡng đặc sắc nhất là sưu tập thẻ đeo bằng đá cuội, mài dẹt hình gần ôvan hoặc chữ nhật và bán cầu có lỗ thủng tròn hay tạo núm ở đầu, tượng lợn, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng đồng… Ngoài ra, người ta cũng phát hiện thấy nhiều đồ trang sức như vòng, các vật dùng để đeo…Đặc biệt, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy nhiều thanh và mảnh của m ột lo ại đàn đá. Những điều đó chứng tỏ đời sống tinh thần của c ư dân Đ ồng Nai đã khá phát triển. 2.3. Ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ và sự ra đời của Vương qu ốc Phù Nam Theo thư tịch và bia ký, lúc bấy giờ ở vùng đất Nam Bộ Việt Nam sang đến Biển Hồ (tức Campuchia) có 7 liên minh bộ tộc của cư dân bản địa và một số thị tộc, bộ lạc sống lẻ tẻ ở miền núi. Đứng đầu liên minh b ộ t ộc là một nữ chúa mà các sách sử Trung Quốc đều gọi là Liễu Di ệp. Kho ảng thế kỉ thứ I, người Ấn Độ mà sử Trung Quốc gọi là Hỗn Điền đem quân đội theo đường biển tấn công vào Vương quốc của Liễu Diệp, lấy Liễu Diệp làm vợ, thay vợ làm vua đất này. Dần dần, Hỗn Điền chinh phục các thị tộc và bộ lạc khác, lập ra nước Phù Nam. Các thư tịch cổ của Trung Quốc có chép lại sự kiện này. Tấn thư kể sớm nhất về sự kiện này: "Vua nước đó (Phù Nam) vốn là người con gái, tên là Liễu Diệp. Thời đó, có người nước ngoài là Hỗn Hội thờ tiên thần, nằm mộng thấy thần ban cho cây cung, và dạy là ph ải đi thuyền lớn ra biển. Sáng ngày, Hỗn Hội đến đền thờ thần, được cây cung, rồi theo thuy ền lênh đênh ra biển tới ấp ngoài của nước Phù Nam. Liễu Diệp đưa người ra chống lại. Hỗn Điền giương cung bắn, Liễu Diệp sợ hãi xin hàng. Hỗn Hội bèn lấy làm vợ và chiếm cứ đất nước". Nam Tề thư chép lại có khác chút ít: "Người ngoài cõi tên là Hỗn Đi ền đến miếu thờ thần, nhặt được cây cung dưới gốc cây…Hỗn Điền lấy Liễu Diệp làm vợ…cai trị nước đó, con cháu truyền cho nhau". Lương thư có chép lại nhưng chi tiết hơn, hợp lí hơn: "Li ễu Di ệp tu ổi trẻ, khoẻ mạnh như con trai…Người của Liễu Diệp đông, thấy thuy ền
  17. đến thì muốn bắt giữ. Hỗn Điền giương cung bắn, tên xuyên qua bên mạn thuyền, đến theo những kẻ hầu. Liễu Diệp sợ hãi xin hàng. Hỗn Điền lấy Liễu Diệp làm vợ rồi cai trị nước Phù Nam". Như vậy, thư tịch cổ tuy chép có khác nhau về tên nh ưng về cơ bản là thống nhất sự ra đời của Vương quốc Phù Nam như trên đã trình bày. Hỗn Điền cai trị nước Phù Nam, ông không bằng lòng khi th ấy lối trang phục của vợ nên đã lấy vải xếp lại và tròng từ cổ xu ống đ ể che thân cho vợ. Ngoài việc dạy phụ nữ mặc y phục, ông còn đem pháp lu ật, ch ữ vi ết và tôn giáo Ấn Độ truyền vào Phù Nam. Như vậy, từ ngay trong sự ra đời của Vương quốc Phù Nam đã có sự ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ. Sau này trong quá trình phát tri ển, văn hoá Phù Nam tiếp tục tiếp nhận những yếu tố văn hoá của Ấn Độ, khi ến cho n ền văn hoá của quốc gia này mang đậm phong cách văn hoá Ấn. Tuy nhiên, dù có quan trọng đến đâu thì cũng phải kh ẳng định rằng văn hoá c ủa Phù Nam vẫn là văn hoá bản địa, văn hoá Ấn chỉ tiếp thêm sức mạnh vào sự phát triển tự thân của nền văn hoá của Vương quốc này mà thôi. * Tên gọi Phù Nam Phù Nam là cách phát âm theo giọng bạch thoại của Trung Qu ốc trong th ư tịch cổ Trung Hoa "Fou – nan". Nó xuất phát từ ngôn ng ữ Khmer c ổ là Vnam Bnam, Bnơm, Pnông có nghĩa là núi đồi. Đây là ti ếng c ủa các c ư dân miền núi tự gọi mình. Nhiều nhà khoa học đoán định rằng, họ chính là chủ nhân của nền văn hoá Đồng Nai. Do đó, Phù Nam chính là cách phiên âm tên tộc người của bộ lạc Môn Cổ gọi họ là Người miền núi. Vương tước của Phù Nam gọi vua là Sailaraja (tiếng Ph ạn) hay Kurung Bnam có nghĩa là "Vua núi". * Kinh đô của Vương quốc Phù Nam: Theo L. Malleret – người đầu tiên tiến hành khai quật Óc Eo thì kh ẳng định rằng: Óc Eo là cảng còn đô thì ở địa điểm trên th ềm cao phía Tây An Giang, nay gọi là Angco Bôray chuyển âm từ tên cổ Nagarapura (nghĩa là Quốc đô), nay là tỉnh K,rivông và tỉnh Takeo (Campuchia) giáp v ới t ỉnh An Giang (Việt Nam), nơi có dấu vết đền, tháp, thành và nhất là nơi có tượng và gốm hoàn toàn thuộc loại gốm Óc Eo. Một tấm bia tìm được ở Vương quốc Phù Nam thì cho rằng: Tên kinh đô là Vyadhapura (Vyadha: Người đi săn; Pura: Thành phố / Kinh đô). Có nghĩa Kinh đô của Vương quốc Phù Nam là Thành phố của người đi săn. Lý giải về điều này, các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào các th ư t ịch c ổ Trung Quốc và những Thư tịch cổ chép "Vua đặt kinh đô ở Đặc Mục" lại ghi "vua thích đi săn, mọi người cưỡi voi đi săn nhiều tháng, nhi ều ngày". Người ta bắt đầu đi tìm nghĩa của tên Đặc Mục là gì? Năm 1944, một học giả bản sứ đã giải đáp Đặc Mục (dalmak) nghĩa là chiếc thòng lọng; ông
  18. coi đây là dụng cụ bắt voi, là từ nguyên của Đặc Mục, ngữ nghĩa của Vyadha. Từ sự lí giải này càng khẳng định kinh đô của Vương quốc Phù Nam là Vyadhapura có nghĩa là Thành phố của người đi săn. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là giả thuyết, hơn nữa, nơi đây không tìm th ấy b ất kỳ dấu vết nào của kinh và thành gì cả. Trong nhiều giáo trình của các tác giả miền Nam Việt Nam viết về Phù Nam cũng đều cho rằng Kinh đô của Vương quốc Phù Nam Vyâdhapura (nghĩa là Kinh đô của người đi săn). Vậy thực chất kinh đô của Phù Nam nằm ở đâu và tên là gì ? Tác giả Lương Ninh trong cuốn "Vương quốc Phù Nam – Lịch sử và văn hoá" đã khẳng định: Chính tên gọi kinh đô của Phù Nam đã Khmer hoá, tưởng là một từ Khmer nhưng thực ra là chuyển âm từ tiếng Ph ạn, g ọi t ừ thời Phù Nam, Nagara Puranghĩa là Đô thành quốc gia. * Quá trình phát triển của Vương quốc Phù Nam Vương quốc Phù Nam ra đời đầu thế kỉ I sau công nguyên, tồn tại đến đầu thế kỉ VII, chia làm 3 giai đoạn chính: - Thời kì sơ kì: đầu thế kỉ I – đầu thế kỉ III - Thời kì phát triển: đầu thế kỉ III – nửa đầu thế kỉ VI - Thời kì suy vong: nửa đầu thế kỉ VI – nửa đầu thế kỉ VII * Thời kì sơ kì: đầu thế kỉ I - đầu thế kỉ III Đây là giai đoạn lập nước. Liễu Diệp kết hôn cùng Hỗn Điền sinh 7 con trai, phân cho làm vua 7 ấp, rồi Hỗn Bàn Huống cũng làm vua l ập k ế li gián 7 ấp, "nhân đó cử binh đi đánh chiếm, rồi cho con cháu phân chia cai trị các ấp, hiệu là tiểu vương". Qua đó, có th ể th ấy th ời kì này V ương quốc Phù Nam còn tồn tại phân tán, gồm nhiều tiểu quốc. Trong giai đoạn có vua cai trị vương quốc. Đây là giai đoạn kh ắc phục tình trạng phân tán quyền lực, ổn định và phát triển. Đây cũng là giai đoạn định tên nước và kinh đô. * Thời kì phát triển: đầu thế kỉ III – nửa đầu thế kỉ VI Đây là thời kì thịnh đạt của Vương quốc Phù Nam. Do đó, một mặt, Phù Nam sử dụng sức mạnh quân sự cũng như vị trí địa lý thuận lợi để xâm lược một số nước lãng giềng; mặt khác, mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ. 2.4. Phù Nam cũng dùng quân đội để chinh phục các nước Lương thư có chép lại: Trong 10 đời vua đầu của Phù Nam, đến đời vua thứ 5 là Phạm Sư Man (225 – 230) đã mạnh, Phù Nam đem quân chinh phạt các nước lân bang, bắt phải thần phục “đóng tàu to vượt biển l ớn, chinh phục hơn 10 nước” ở phía Tây, gần Ấn Độ. Nước đầu tiên mà Phù Nam chinh phục là Chân Lạp. Chân L ạp là b ộ l ạc Môn Cổ, sinh sống ở hạ lưu Sê Mun và trung lưu sông Mê Kông.Trong
  19. quá trình sinh sống, họ tự lập thành quốc gia, gọi theo tên vua là Bhavapura, mà người Trung Hoa gọi tên là Chân Lạp. Tuy nhiên, Phù Nam quan tâm nhiều hơn đến các nước ở vùng biển phía Tây, vì các nước này có vị trí chiến lược quan trọng. Thứ nhất, nước Đốn Tốn (cửa ngõ phía Tây của Phù Nam). Sách Lương thư tả "cách Phù Nam hơn 3000 lí về phía Nam, ở trên biển cao lởm chởm, đất rộng không quá 1000 lí…hình vòng cung, chạy dài ra bi ển h ơn nghìn lí", "thành cách biển 10 lí (khoảng 20 km), có 5 vua, th ần thu ộc Phù Nam". Như thế, chắc rằng Đốn Tốn nằm trên hạ l ưu sông Chao Praya và phần phía Bắc bán đảo Malaya, đại để từ Chanthabun vòng qua Pra Pathom và Pongtuk xuống phía Nam, đến Chumpon và eo Kra. Đây là nơi chắn ngang đường biển từ Ấn Độ tới biển Đông, nơi họp chợ thế giới. Do là nơi quan trọng như vậy nên Phù Nam đã sớm nắm quy ền chi ph ối, cai quản. Thứ hai là nước Xích Thổ, "Do đất ở kinh đô màu đỏ mà nước gọi là Xích Thổ; nước giáp Ba La Thích ở phía Đông, Bà La Sa ở phía Tây, Kha La Đán ở phái Nam và biển lớn ở phía Bắc, đất rộng vài nghìn lí…" "Thường Tuấn giong buồm đi trong hai tuần…thả neo (nghỉ) ở đảo đối diện Lâm Ấp, rồi đi tiếp về phương Nam, đến gần núi sư tử thì th ấy nh ững hòn núi (đứng) thành chuỗi dài. Hai ba ngày sau, họ bắt đầu nhìn th ấy dãy núi ở nước Lang Nha Tu; họ men theo phía Nam đến đảo Kê Lung (Lồng Gà) thuộc nước Xích Thổ…hơn một tháng sau thì vào kinh đô…". Với những ghi chép trên, rõ ràng là Xích Th ổ không th ể nằm trong đ ất liền được. Ngày nay, người ta biết khá chắc rằng các nước này nằm gọn trên đảo Malaya, gồm cả vùng Chao Praya được gọi là Xích Thổ và Đốn Tốn. Đây là những nước nằm án ngữ trên đường buôn bán Đông – Tây, do đó, Phù Nam đã chinh phục và chiếm lấy. Lý giải về việc Phù Nam có thể chinh phục và buộc nhi ều n ước th ần phục mình, các nhà nghiên cứu cho rằng: Một là, do quân đội Phù Nam mạnh; Hai là, do vị trí chiến lược quan trọng của Phù Nam và ưu thế về kinh tế của Phù Nam so với các nước láng giềng bấy giờ. Trong hai nguyên nhân này, có lẽ nguyên nhân thứ hai là quan trọng hơn. Sau khi chiếm được các nước trên đây, lãnh thổ của Phù Nam được mở rộng, Phù Nam có điều kiện phát triển mậu dịch hàng hải, sớm trở thành một trong những trung tâm buôn bán lớn ở Đông Nam Á thời cổ đại. 2.5. Quan hệ bang giao, hoà hảo với các nước láng giềng khác 2.5.1. Mối quan hệ Phù Nam – Lâm Ấp (Chămpa) Trong một tờ biểu vua Phù Nam dâng nhà Tiền Tống (năm 484) có nói: "Lâm Ấp và Phù Nam vốn cương giới liền nhau, thân thiện…". Sự thực
  20. đúng như tờ biểu này nói. Nơi giáp ranh hẳn là vùng sông Đ ồng Nai - n ơi in đậm dấu tích văn hoá Đồng Nai và văn hoá cổ Phù Nam g ắn v ới Phù Nam; liền kề vùng Phan Thiết – Bình Thuận, nơi phát hi ện đ ược nh ững mảnh gốm Chăm, gốm Trung Hoa, thời Lục Tri ều và Tuỳ (th ế k ỉ V – VI), một số tượng đồng nhỏ, trong đó có hai pho tượng Phật đứng, nhỏ, có thể nằm trong nhóm tượng Phù Nam (thế kỉ IV – V). Như vậy, hai vùng đất liền kề, chắc chắn có quan hệ giao lưu kinh tế, văn hoá "thân thiện", nhưng Đồng Nai đã nằm trong sự phát triển của Phù Nam và Bình Thu ận cũng đã nằm trong sự phát triển của Chămpa, gắn kết với V ương quốc Chămpa từ thời vua Bhavavarman, thế kỉ IV. 2.5.2.Quan hệ với Trung Quốc và Ấn Độ Trong mối quan hệ với Trung Quốc, Phù Nam vừa thần phục và triều cống; vừa có quan hệ thương mại, giao lưu buôn bán và đặc biệt là giao lưu văn hoá. Năm 243, dưới thời Tam quốc, Phạm Chiên đã phái sứ bộ qua triều đình nhà Đông Ngô…khoảng năm 245 – 250, dưới thời Tôn Quyền, triều đình nhà Đông Ngô lại phái Khang Thái và Chu Ứng đi sứ Phù Nam. Năm 535 – 545, triều đình nhà Lương cử một phái bộ đến Phù Nam xin nhà vua cho sưu tầm kinh Phật và thỉnh cầu các cao tăng qua giảng dạy Phật pháp ở Trung Quốc. Nhân việc này, vua Phù Nam cũng phái hoà thượng Ấn Độ là Paramarth (Gunaratra) đang hành đạo ở Phù Nam mang theo 240 bộ kinh sách đến triều đình Trung Hoa. Đối với Ấn Độ, mối quan hệ chủ yếu với Phù Nam là giao lưu văn hóa. Phù Nam liệt truỵên của Khang Thái viết: "Khi xưa, dưới triều Phạm Chiên có một người nước Đàm Dương tên là Gia Tường Lê t ừ Ấn Đ ộ, đi từng chặng đường đã đến mua bàn ở Phù Nam. Người ấy kể với vua Phạm Chiên về những tập quán, vẻ huy hoàng và sự trù phú của Ấn Độ. Phạm Chiên phái tô vật sang sứ Ấn Độ…Quốc vương (Ấn Độ- TG chú) cho người đưa phái bộ đi thăm thú trong nước, và khi họ ra về, ông đã g ửi tặng vua Phù Nam bốn con ngựa của xứ Nguyệt Chi…" Năm 357, Trúc Chiêu Đàn chiếm ngôi của Phù Nam. Đây là giai đoạn loạn lạc vì theo Tấn thư, năm 357, "Trúc Chiêu Đàn tự xưng làm vua". Tuy nhiên, thời kì này cũng đánh dấu bước chuyển quan trọng của Vương quốc PhùNam. Những chinh phục của vương triều Gupta đã thúc đ ẩy đ ợt thiên di của người Ấn Độ về các vùng đất phía Đông Vịnh Bengan, các vùng hải đảo, nội địa Đông Nam Á. Những người này du nhập tiếng Phạn vào Chămpa, Borneo và Giava. Cũng trong bối cảnh đó, Phù Nam lại tiếp thu thêm đợt ảnh hưởng trực tiếp của văn hoá Ấn Độ. 2.6. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội Phù Nam từ thế kỉ II đến thế kỉ VI.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2