TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế<br />
<br />
Tập 5, Số 2 (2016)<br />
<br />
SỰ KIỆN THẤT THỦ KINH ĐÔ<br />
TRONG HẠNH THỤC CA CỦA NGUYỄN THỊ BÍCH<br />
Lê Văn Thi<br />
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế<br />
Email: thilevan1010@gmail.com<br />
TÓM TẮT<br />
Vào thế kỷ XIX, Thất thủ kinh đô là một sự kiện lớn của Việt Nam nói chung và của người<br />
dân Thừa Thiên Huế nói riêng. Chính biến này đã được rất nhiều tác giả viết thành thơ,<br />
thành truyện… trong đó có bà Lễ tần Nguyễn Thị Bích với tác phẩm “Hạnh Thục ca”. Bài<br />
ca được viết bằng chữ Nôm, dài 1038 câu lục bát, có thể chia làm 5 đoạn. Đoạn thứ nhất:<br />
tóm lược lịch sử nước ta từ đời Hồng Bàng đến Nguyễn; đoạn thứ hai: kể việc Pháp sang<br />
đánh chiếm nước ta; đoạn thứ ba: giao thiệp giữa ta và nước Pháp; đoạn thứ tư: vua Hàm<br />
Nghi đi lánh nạn; và đoạn thứ năm: nói về vua Đồng Khánh và vua Thành Thái. Bài viết<br />
này chủ yếu tập trung vào sự kiện Thất thủ kinh đô năm 1885 và qua đây giúp chúng ta có<br />
cái nhìn đầy đủ về sự kiện đó, đồng thời còn giúp bổ sung nhiều tình tiết lịch sử trong một<br />
giai đoạn bi hùng của đất nước.<br />
Từ khóa: Hạnh Thục ca, Nguyễn Thị Bích, Thất thủ kinh đô.<br />
<br />
Chính biến Thất thủ kinh đô ngày 23 tháng 5 năm Ất dậu (7.1885) là một sự kiện lớn<br />
trong lịch sử Việt Nam. Sự kiện này đã hằn sâu trong tâm thức và trong đời sống tâm linh của<br />
người dân xứ Huế từ đó cho đến nay. Từ đó đã thành lệ, phần lớn các gia đình người Huế đều<br />
thiết lễ cúng cô hồn từ ngày 23 đến 30 tháng 5 âm lịch hằng năm để tưởng nhớ binh lính, những<br />
người dân vô tội đã mất trong chính biến ấy. Nhân dịp 130 năm ngày Thất thủ kinh đô, chúng<br />
tôi xin giới thiệu về sự kiện này qua tác phẩm Hạnh thục ca (幸蜀歌) của Lễ tần Nguyễn Thị<br />
Bích.<br />
<br />
1. Sự kiện Thất thủ kinh đô<br />
Ngày 4 tháng 7 năm 1885 (tức 22 tháng 5 năm Ất dậu), Tôn Thất Thuyết lệnh cho binh<br />
sĩ đặt đại bác hướng về phía tòa Khâm Sứ1 và đồn Mang Cá2 là hai địa điểm đóng quân của<br />
Pháp. Đêm ngày 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885, trong khi người Pháp đang khao thưởng quân<br />
đội thì Tôn Thất Thuyết ra hiệu lệnh cho quân sĩ đồng loạt tấn công vào đồn Mang Cá; đồng<br />
thời, bên kia sông, Tôn Thất Lệ chỉ huy quân sĩ cũng đồng loạt tấn công vào Tòa Khâm Sứ<br />
<br />
1<br />
2<br />
<br />
Nay là khu vực thuộc trường Đại học Sư phạm Huế<br />
Nay là doanh trại quân đội<br />
63<br />
<br />
Sự kiện thất thủ kinh đô trong Hạnh Thục ca của Nguyễn Thị Bích<br />
<br />
Pháp. Tiếng đại bác vang rền khắp kinh thành. Quân Pháp bị bất ngờ nhưng vẫn cố thủ để chờ<br />
trời sáng. Sáng ra, quân Pháp phản công; dưới sự chỉ huy của Pernot, quân Pháp chia quân làm<br />
3 cánh để tiến vào kinh thành. Họ xung phong từng đợt một, chiếm lĩnh các vị trí then chốt và<br />
tràn vào các cửa Đông Ba, Thượng Tứ, Chánh Đông, Chánh Tây, An Hòa rồi tiến vào Đại nội.<br />
Quân lính của triều đình bị phản công bất ngờ, ban đầu còn chống cự rất anh dũng, nhưng về<br />
sau, do lực lượng quân Pháp quá mạnh nên quân ta đã thất bại. Theo Đỗ Bang: “Thiệt hại về<br />
phía Pháp có 4 sĩ quan và 19 binh lính thiệt mạng, 64 tên khác bị thương. Trong khi đó về phía<br />
triều đình có chừng 1.500 quân thương vong và khoảng 7.800 người dân vô tội chết và bị<br />
thương. Lửa đạn chiến tranh đã tiêu huỷ tất cả, Huế trở nên hoang tàn, đổ nát, tràn ngập cảnh<br />
chết chóc, tang thương.”3<br />
Sáng ngày 23 âm lịch, vua Hàm Nghi rời khỏi Huế, xa giá ra Quảng Trị. Nguyễn Văn<br />
Tường được lệnh ở lại sắp xếp mọi việc và Pháp buộc ông trong hai tháng phải thu xếp để đưa<br />
vua Hàm Nghi và Tam cung về kinh thành. Nhưng ông chỉ đưa được Tam cung trở về kinh nên<br />
bị Pháp buộc tội và chịu lưu đày viễn xứ. Trong khi đó, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi<br />
chạy ra Tân Sở (Quảng Trị) rồi phát động phong trào Cần vương.<br />
<br />
2. Lễ tần Nguyễn Thị Bích và tác phẩm Hạnh thục ca<br />
Theo Đại Nam liệt truyện: Lễ tần Nguyễn Thị Bích tự là Lang Hoàn. Người huyện An<br />
Phước, đạo Ninh Thuận4, là con gái thứ 4 của Nguyễn Nhược Sơn làm chức Bố chánh sứ Thanh<br />
Hóa, được hàm Hộ lý Tổng đốc. Mẹ họ Nguyễn, hàm Thục nhân. Lúc mang thai, mộng thấy sao<br />
Bích sa vào miệng, đến lúc sinh con gái, đặt tên là Bích5. Nguyễn Thị Bích lúc bé thông minh<br />
và có tiếng giỏi văn học. Niên hiệu Tự Đức năm đầu (1848), bà mới 19 tuổi6, Phụ chính đại thần<br />
Lâm Duy Nghĩa làm biểu dâng lên vua, trong hôm đó có một buổi ngâm thơ vịnh cảnh, vua Tự<br />
Đức ra đề thơ là Tảo mai7, và bài họa của Nguyễn Thị Bích được nhà vua chấm hay nhất, trong<br />
đó có hai câu thơ nổi tiếng: "Nhược giao dụng nhữ hóa canh vị - Nguyên tác lương thần phụ<br />
hữu Thương"8. Vua khen hay và thưởng cho 20 đĩnh bạc, tuyển vào cung, sung làm việc ở Viện<br />
Thượng nghi. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), phong làm Tài nhân, được hầu trực trong cung,<br />
thường đi theo hầu vua và đã nhiều lần ứng chế. Vua thấy bà là người thông minh, kính cẩn nên<br />
dạy cho cách làm thơ gọi là “Thiên tử nữ môn sinh”9. Năm Tự Đức thứ 13 (1860) được phong<br />
làm Mỹ nhân, rồi phong tiếp làm Quý nhân, và đến năm thứ 21 (1868) được tấn phong làm Tiệp<br />
dư. Khi vua Kiến Phúc và Đồng Khánh chưa lên ngôi, vua Tự Đức sai bà dạy về kinh điển cho<br />
<br />
3<br />
<br />
Xem tài liệu tham khảo số 5.<br />
Nay là tỉnh Ninh Thuận.<br />
5<br />
Hiện nay có một số tài liệu ghi tên bà là Nguyễn Thị Nhược, Nguyễn Thị Nhược Bích. Nhưng theo tôi,<br />
căn cứ vào Đại Nam liệt truyện thì tên thật của bà phải là Nguyễn Thị Bích.<br />
6 Nguyễn Thị Bích sinh vào năm 1829.<br />
7<br />
Nghĩa là hoa mai nở sớm<br />
8<br />
Nghĩa là: Nếu bảo dùng người cho vừa vị canh, thì xin làm người lương thần giúp nhà Thương.<br />
9<br />
Tức là người học trò nữ của vua<br />
4<br />
<br />
64<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế<br />
<br />
Tập 5, Số 2 (2016)<br />
<br />
hai ông và luyện tập công việc cho những người nội đình, do đó trong cung thường gọi bà là<br />
Tiệp dư phu tử. Năm Tự Đức thứ 36 (1883), vua băng hà, phàm những ý chỉ, sắc dụ của hai<br />
cung10 đều do bà Lễ tần làm ra. Vào tháng 5, năm Hàm Nghi thứ nhất (1885), kinh thành Huế có<br />
biến, bà hộ giá hai cung ra Quảng Trị và có làm bài ca bằng chữ Nôm, đặt tên là Hạnh Thục<br />
quốc âm ca11. Khi trở về, các sắc phụng chiếu thư đều do bà viết ra và việc gì cũng xứng ý cả.<br />
Năm Thành Thái thứ 4 (1892) bà Từ Dụ vì thương bà khó nhọc nên tấn phong làm Tam giai Lễ<br />
tần. Đến tháng 11, năm Duy Tân thứ 3 (1909) bà qua đời, thọ 80 tuổi lăng mộ đặt tại làng<br />
Dương Xuân thượng, phường Thủy Xuân, thành phố Huế.<br />
Theo Trần Trọng Kim, bà Nguyễn Thị Bích lấy nhan đề bài thơ là Hạnh Thục ca vì bà<br />
thấy hoàn cảnh triều Nguyễn lúc bấy giờ phải bỏ kinh thành chạy ra Quảng Trị và Quảng Bình<br />
cũng giống như hoàn cảnh triều đình nhà Đường ở Trung Quốc, vua Đường Minh hoàng bị giặc<br />
An Lộc Sơn đánh, phải bỏ kinh thành Trường An chạy vào đất Thục để lánh nạn. Trong chữ<br />
Hán khi vua đi đến đâu thì gọi là “hạnh 幸”, “hạnh Thục” tức là vua đến đất Thục.12<br />
Bài thơ dài 1038 câu được viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát. Trần Trọng Kim đã chia<br />
tác phẩm này thành 50 tiểu đoạn, tiểu đoạn 1: Sự kế truyền ở nước Việt Nam (v.v…) và đến tiểu<br />
đoạn thứ 50: Lễ bát tuần bà Thái hậu. Nhưng theo bản sao tác phẩm Hạnh thục ca của trường<br />
Viễn đông bác cổ thì chúng ta có thể chia tác phẩm này thành 5 đoạn. Đoạn thứ nhất: tóm lược<br />
lịch sử nước ta từ đời Hồng Bàng qua Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê đến Nguyễn; đoạn thứ hai: kể việc<br />
Pháp đánh chiếm nước ta; đoạn thứ ba: việc giao thiệp giữa nước ta và nước Pháp; đoạn thứ tư:<br />
vua Hàm Nghi đi lánh nạn; và đoạn thứ năm: nói về vua Đồng Khánh và vua Thành Thái13. Bài<br />
trường ca này mặc dù chỉ được viết trong một giai đoạn lịch sử khoảng 30 năm từ khi Pháp xâm<br />
lược 1858 đến lúc vua Thành Thái lên ngôi năm 1889, nhưng nó có giá trị rất lớn vì trong thời<br />
gian này đất nước đã trải qua nhiều biến cố lịch sử như Pháp xâm lược; cảnh tứ nguyệt tam<br />
vương14; sự kiện thất thủ kinh đô; phong trào Cần Vương v.v… Về lời văn, việc chép sử theo lối<br />
diễn ca là việc làm khá phổ biến ở nước ta thời quá khứ, ngay trong giai đoạn này, bên cạnh<br />
Hạnh Thục ca còn có các tác phẩm loại sử diễn ca như Đại Nam quốc sử diễn ca15 và Việt sử<br />
diễn nghĩa16.<br />
Trong bài Hạnh Thục ca, sự kiện Thất thủ kinh đô được tác giả viết trong 233 câu lục<br />
bát, từ câu 537 đến câu 770. Qua đó tác giả đã phản ánh những diễn biến xảy ra trong triều đình<br />
nhà Nguyễn từ lúc Tôn Thất Thuyết cho lập đồn quân sự ở Tân Sở, rồi cho quân nổ phát súng<br />
<br />
10<br />
<br />
Hai cung gồm bà Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức và bà Trang Ý, vợ cả của vua Tự Đức.<br />
Bài ca bằng quốc âm nói về xe vua đến đất Thục.<br />
12<br />
Nguyễn Thị Nhược, Hạnh Thục ca, NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1950, Trần Trọng Kim biên, phiên dịch.<br />
13<br />
Bản sao của trường Viễn đông bác cổ mang số hiệu AB 193, Tiêu đề: Hạnh Thục ca; tiền triều Lễ tần<br />
Nguyễn Thị Nhược trứ; Phong An tàng cảo, hiện được lưu trữ tại thư viện trường Đại học Yale – Hoa Kỳ.<br />
14<br />
Trong thời gian 4 tháng đã có 3 vị vua liên tục kế vị đó là Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc.<br />
15<br />
Đại Nam quốc sử diễn ca do Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái biên soạn, sách đã được xuất bản và tái<br />
bản nhiều lần.<br />
16<br />
Việt sử diễn nghĩa do các tác giả Tôn Thất Hân, Hồng Nhung và Hồng Thiết biên soạn., Phan Đăng<br />
phiên âm, chú giải và giới thiệu, NXB Khoa học Xã hội 2015.<br />
11<br />
<br />
65<br />
<br />
Sự kiện thất thủ kinh đô trong Hạnh Thục ca của Nguyễn Thị Bích<br />
<br />
đầu tiên vào quân Pháp, quân ta thất bại, kinh thành thất thủ và vua Hàm Nghi xa giá ra Quảng<br />
Trị để dấy binh khởi nghĩa. Bài thơ miêu tả diễn biến tâm lý tác giả là một phi tần của hoàng<br />
triều, với tâm trạng lo lắng cho an nguy của dân tộc, của triều đình. Trong bài thơ còn thể hiện<br />
những đoạn đối thoại chân thực của vua, hoàng hậu và các vị quan, quân nhà Nguyễn trong lúc<br />
đang tháo chạy ra Quảng Trị.<br />
Song song với Hạnh Thục ca, sự kiện thất thủ kinh đô còn được thể hiện qua những bài<br />
thơ, vè trong dân gian như Vè Thất thủ kinh đô, Thất thủ kinh đô tân truyện... Nhưng những tác<br />
phẩm này thường miêu tả những diễn biến xảy ra bên ngoài kinh thành như cảnh dân chúng<br />
hoang mang tìm đường thoát thân, cảnh chết chóc đau thương, rồi cảnh những người thợ mất<br />
việc làm... Còn tác phẩm Hạnh Thục ca lại miêu tả những diễn biến từ bên trong, mô tả xác thực<br />
cảnh chạy loạn và tâm trạng của vua, tam cung lục viện cùng quan quân trên đường xa giá ra<br />
Quảng Trị. Vì vậy, có thể nói Hạnh Thục ca có giá trị thật sự to lớn đối với việc nghiên cứu,<br />
đánh giá lịch sử và cho chúng ta cái nhìn toàn diện, khách quan hơn về sự kiện thất thủ kinh đô.<br />
Mở đầu sự kiện Thất thủ kinh đô, tác giả nhắc đến sự hiềm khích giữa Tôn Thất Thuyết<br />
với khâm sứ Pháp.<br />
Việc tôn17 vừa mới thảnh thơi, Cậy oai Tây lại dở bài mạn khinh.<br />
…Hiếp lần Tây đã chẳng vì, Chọc gan Tôn Thuyết chiến cơ quyết rầy.<br />
Biết được sự việc chẳng lành nên Tôn Thất Thuyết đã cho lập đồn quân sự ở Tân Sở ở<br />
Quảng Trị, phòng khi thất bại đến đó để nuôi binh, phục quốc.<br />
Việc đồ trước mới liệu phương, Lập nơi Tân Sở tính đường vững chân.<br />
Bao nhiêu bảo vật kim ngân, Chất vào đài gánh dần dần đem đi.<br />
Khi Thống tướng Pháp lúc đó là De Courcy vào Huế và muốn gặp Nguyễn Văn Tường<br />
cùng Tôn Thất Thuyết để bàn việc nước, nhưng Tôn Thất Thuyết đã viện cớ bị bệnh để từ chối<br />
không đến.<br />
Văn Tường trước tới một mình, Trình rằng Tôn Thuyết chưa lành bệnh ngay.<br />
Nhưng viên thống tướng Pháp quyết ép để Tôn Thất Thuyết phải đến gặp:<br />
Nếu mà cứ cưỡng không đi, Quyết rày bắt quách chẳng vì chẳng tha.<br />
Đứng trước tình hình như vậy, Tôn Thất Thuyết đã khởi binh tấn công đồn đóng quân<br />
của Pháp tại Mang Cá và Khâm sứ Pháp ngay trong tối ngày 4 tháng 7 (nhằm ngày 22 tháng 5<br />
âm lịch).<br />
Khuyên can chúng thẩy hết điều, Cất thầm Tôn Thuyết dậy liều nửa đêm.<br />
Phen này may rủi thử xem, Đã đành cô chú quyết thầm đánh vây<br />
<br />
17<br />
<br />
Nói việc tấn tôn vua Hàm Nghi lên ngôi.<br />
66<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế<br />
<br />
Tập 5, Số 2 (2016)<br />
<br />
Chẳng cho ai biết ai hay, Cũng chẳng tấu đạt, một tay thiện hành.<br />
….<br />
Ầm ầm tiếng súng khắp trời, Khói hun mù đất, lửa ngời lòa mây.<br />
Canh tư tháng phụ chưa hay, Canh năm nghe báo rất may mừng lòng.<br />
Bình đài thu phục đã xong, Lầu Tây đương đốt, lửa giong bốn bề.<br />
Phen này Tây ắt phải về, Ngửa nhờ trời đất phù trì lắm thay.<br />
Sau những phát súng đầu tiên đầy khí thế của quân ta, cứ tưởng rằng phía Pháp đã thất<br />
bại, nhưng ai ngờ rằng khi tiếng pháo của ta vừa dứt, thì quân Pháp đồng loạt tấn công khiến<br />
cho quân ta thất bại:<br />
Ai ngờ Tây rất quá khôn, Để ta bắn trước, thảy luồn nép đi.<br />
Ở ta dại chẳng biết chi, Nhưng mà hết sức dương uy bắn dồn.<br />
Liệu chừng thuốc đạn đã mòn, Dấy lên Tây mới thành môn bắn vào.<br />
Dường như sấm sét ầm ào, Dẫu là núi cũng phải xiêu huống thành.<br />
Thất bại ấy đã khiến cho thiên tử, tam cung lục viện cùng quan quân và dân chúng phải<br />
bỏ kinh thành mà chạy.<br />
Quân ta khôn sức đua tranh, Đem nhau trốn chạy tan tành bèo trôi.<br />
Bấy giờ trời đã sáng rồi, Văn Tường liền khiến gửi lời tâu xin.<br />
Khiêm cung nay phải ngự lên, Lánh nơi pháo đạn chẳng nên trễ tràng.<br />
Vua tôi hoảng hốt vội vàng, Hỗ phù thánh giá một đoàn kíp ra.<br />
Tới nơi cửa Hữu xem qua, hai bên lê thứ trẻ già quá đông.<br />
Chen nhau dìu dắt mang bồng, Chực theo từ giá thoát vòng nguy nan.<br />
Khi vừa ra khỏi thành thì gặp Nguyễn Văn Tường, ông được phân công ở lại để sắp xếp<br />
mọi việc ở kinh:<br />
Thấy người trước đón lên đường, Gửi rằng có Nguyễn Văn Tường chực đây.<br />
Phán rằng: Sự đã dường này, Ngươi tu ở lại ngõ rày xử phân.<br />
Khi ra khỏi thành, cảnh người dân chạy loạn rồi khói lửa mù mịt khiến cho tình thế<br />
càng trở nên hỗn loạn:<br />
Trẻ già la khóc vang rầy, Xa trông mù mịt khói bay lửa hồng.<br />
Chặt cầu đốt quán tưng bừng, Là mưu Tôn Thuyết dứt chừng truy binh.<br />
Than thay dân sự tan tành, Loạn ly mới biết thảm tình nỗi ni.<br />
<br />
67<br />
<br />