YOMEDIA
Sự phát sinh sự sống (tiến hoá của các gen)
Chia sẻ: Nguyen Phuonganh
| Ngày:
| Loại File: PDF
| Số trang:12
151
lượt xem
23
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Sự tiến hoá của các gen : a/ Tiến hoá liên quan tới sự xuất hiện các đen mới và các chức năng mới Ngày nay đã biết rất rõ trong thực tế thiên nhiên có những đổi mới rất cơ bản của các loài
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Sự phát sinh sự sống (tiến hoá của các gen)
- Sự phát sinh sự sống
(tiến hoá của các gen)
Sự tiến hoá của các gen :
a/ Tiến hoá liên quan tới sự xuất hiện các
đen mới và các chức năng mới
Ngày nay đã biết rất rõ trong thực tế
thiên nhiên có những đổi mới rất cơ bản
của các loài, ví dụ sự xuất hiện các sinh
vật đa bào hoặc sơ đồ cấu trúc hoàn thiện
của cơ thể động vật có xương sống,...đó
là những đổi mới rất cơ bản, nhưng
không thể nhìn thấy bước “nhảy vọt”
- bằng mắt trần. Thực chất đó là những
thay đổi, dẫn tới tiến hoá ở cấp độ phân
tử (xuất hiện trên mới). Xét ở cấp độ
phân tử, động vật có xương sống thể hiện
hàng loạt đổi mới, như phân tử
haemoglobin có đổi mới rõ rệt, đảm bảo
cho sự cố định và giải phóng oxi đạt hiệu
quả cao, các globulin miễn dịch tạo ra
kháng thể có tác dụng trung hoà các “thể
lạ” từ bên ngoài xâm nhập vào cơ thể,
các phân tử miệng bao quanh sợi thần
kinh cho phép các xung thần kinh dẫn
truyền rất nhanh,... Trong khi đó, ở động
vật không xương sống thì các đặc điểm
nói trên không hề thể hiện hoặc không hề
có các quá trình như thế. Nói cách khác,
những đổi mới của động vật có xương
sống có liên quan tới sự tạo ra các gen
mới đã quyết định các đặc điểm vốn
không hề có ở các loài động vật không
- xương sống tổ tiên. Những đổi mới di
truyền như thế là một loại biến đổi di
truyền quan trọng hơn nhiều so với các
biến đổi chỉ tạo ra một dãy alen tương
ứng với từng đặc điểm quan sát được.
Đôi khi người ta cho rằng khi xem xét
tính di truyền và các chức năng sinh học
ở cấp độ phân tử thì chọn lọc tự nhiên
không thể xem là “nhân tố sáng tạo” của
sự tiến hoá, mà nó chỉ là nhân tố duy trì
hoặc đào thải. Theo cách lý luận suy
diễn, có thể nói nếu tiến hoá thực sự là sự
xuất hiện các chức năng sinh học mới, thì
chắc chắn các gen mới phải được tạo ra.
Đó chính là quan điểm của Susumu
Ohno, người đã bênh vực lý thuyết tiến
hoá cho rằng tiến hoá là do sự nhân đôi
các gen và là cơ chế tạo ra gen mới.
- b/ Chọn lọc tự nhiên bảo tồn các cấu trúc
và chức năng quan trọng đạt được trong
quá trình tiến hoá.
Từ những năm 1960, khi phân tích cấu
trúc protein, người ta đã có quan niệm về
cơ chế tiến hoá ở cấp độ phân tử. Các
protein có hoạt tính sinh học, như các
enzime xúc tác cho các quá trình sinh
học xảy ra trong tế bào sống, thực chất là
do các chuỗi axit amin cấu tạo nên, trong
đó các cấu trúc không gian và mối tương
tác giữa các axit amin xác định. Trong
cấu trúc không gian ba chiều của một
protein có vị trí hoạt động cẩu enzime, đó
là vị trí chính xác của phân tử, mà ở đó
chất nền chịu tác dụng bởi enzime. Hình
thái cấu trúc không gian của vị trí hoạt
động có tầm quan trọng đặc biệt đối với
chức năng xúc tác của enzime, do đó mà
- phân tử nhận ra chất nền phù hợp của
mình. Nhờ phát minh về chuỗi xoắn kép
của phân tử ADN công bố vào năm 1953,
người ta biết chuỗi các axit amin
(polypeptide) của một protein là do
chuỗi các nucleotid quy định. Các
nucleotid là đơn phân (monomer) cấu tạo
nên phân tử ADN (còn chất hoá học
của gen). Thực chất đột biến trên là
sự thay đổi trình tự các nucleotid của
gen đó. Biến đổi này dẫn tới biến đổi
trong trình tự các axit quan cấu tạo nên
enzime do được trên mã hoá. Chỉ cần
một biến đổi nào đó trong đoạn ADN mã
hoá trình tự các axit amin thuộc vị trí
hoạt động của một enzime sẽ làm thay
đổi một axit amin trong trình tự này. Tiếp
theo, sẽ dẫn tới vị trí hoạt động thay đổi
và chức năng xúc tác của enzime sẽ mất
đi. Mặc dầu các enzime đôi khi có vai trò
- rất nhỏ trong hoạt động sống, nhưng đột
biến vẫn trở thành có hại. Có thể nói
nhiều bệnh về máu là do đột biến làm
thay đổi một axit amin trong chuỗi
phân tử haemoglobin. Một số trường
hợp khác, đột biến tạo ra alen mới của
một gen. Ví dụ, đột biến trên mã hoá
tyrozinase (Enzime xúc tác sự tổng hợp
sắc tố làm cho màu lông trở nên sẫm) đã
xuất hiện ở mèo một diện quy định sự
tổng hợp một tyrozinase không có khả
năng xúc tác ở nhiệt độ 370C, mà chỉ có
thể ở nhiệt độ thấp hơn. Đó là một
nguyên nhân khiến cho giông mèo Xiêm
có bộ lông nhạt, trừ phần lông ở đầu và
các chi, vì ở đó nhiệt độ thường thấp hơn
so với các phần còn lại của cơ thể. Theo
S. Ohno, đa số đột biến là có hại và
những gen đột biến sẽ bị chọn lọc tự
nhiên đào thải. Việc hình thành chức
- năng mới của enzime đòi hỏi có một vị
trí hoạt động mới. Nếu nói tiến hoá bao
hàm sự biến đổi do đột biến trên thì
quá trình đó sẽ diễn ra như sau: một
gen mã hoá cho một enzime chức
năng, cần phải có hàng loạt các đột biến
có khả năng tạo ra trình tự mới các axit
amin, dẫn tới xác định một trình tự hoạt
động mới. Thực tế các đột biến xảy ra
ngẫu nhiên, do vậy các đột biến tác động
đến trình tự kéo dài các axit không chỉ
xảy ra một lần. Nếu đột biến xảy ra liên
tiếp thì hiện đột biến trung gian sẽ mã
hoá protein không những mất chức năng
enzime ban đầu, mà có thể còn kéo theo
mất các chức năng khác. Mối liên hệ sinh
học đó tạo ra nhiều cơ hội để chọn lọc tự
nhiên đào thải các thể đột biến trung
gian. Trong trường hợp như thế, chọn lọc
tự nhiên không phải là “nhân tố sáng
- tạo”, mà nói đúng hơn là có xu hướng
đào thải mọi biến đổi gen, đồng thời duy
trì các chức năng sinh học tập nhiễm
được và các gen tương ứng bình thường.
Phân tích trình tự axit quan của protein
trong những năm 1960, các nhà chuyên
môn đã chứng minh rằng vị trí hoạt động
của các enzime được bảo tồn trong quá
trình tiến hoá, còn các trình tự axit amin
ở ngoài vị trí đó thường chịu nhiều đột
biến. Ví dụ, histon IV là một phân tử
protein được tạo thành bởi 102 axit min,
có chức năng góp phần gắn buộc các sợi
ADN dài có khi tới vài decimet ở trong
nhân tế bào nhân chuẩn (Eucariota).
Trong phân tử histon IV của một số loài
cây có hoa, như cây đậu thơm và của bò
(Bostaurus) chỉ có hai axit amin khác
nhau. Thế mà trên những bước đường
- tiến hoá, hai loài này đã phân ly cách đây
khoảng 1,5 tỷ năm. Điều đó chứng tỏ
rằng trình tự axit amin của histon IV đã
được chọn lọc tự nhiên duy trì đầy đủ, có
lẽ chức năng gắn buộc ADN có liên quan
tới phân tử histon hoàn chỉnh, vì đó chính
là vị trí hoạt động tương ứng với toàn bộ
chiều dài của phân tử này. Ngược lại, khi
phân tích trình tự các axit amin của phân
tử fibrinopeptid A ở ngựa và lừa đã thấy
có 4 axit amin khác nhau trong một
trình tự chỉ gồm 16 axit amin. Đã
biết vị trí hoạt động của fibrinopeptid
chỉ do acginin nằm ở một trong hai đầu
của phân tử này quy định. Khi
fibrinopeptid tách khỏi phân tử
fibrinogen, dẫn tới phân tử fibrin bị tách
ra và có thể làm cho máu đông lại.
Trong quá trình này, acginin là axit
amin duy nhất của fibrinopeptid có
- tầm quan trọng riêng biệt, vì nó có thể
nhận biết vị trí phân cắt trên phân tử
fibrinogen.
Nói chung, trong quá trình tiến hoá của
các loài, các biến đổi có thể xảy ra rất
nhanh ở những phần không có chức năng
quan trọng của phân tử protein. Ngược
lại, những phần có chức năng quan
trọng, nghĩa là có các vị trí hoạt
động thì hầu như không xảy ra một đột
biến nào. Như vậy, có thể quan niệm
rằng các tác nhân gây đột biến chủ yếu
làm thay đổi tính chất và vị trí các axit
amin trong phân tử protein, còn CLTN
được xem là nhân tố chủ yếu có tác dụng
duy trì hoặc bảo tồn các vị trí hoạt động
của enzime, và phòng ngừa suy thoái các
chức năng sinh học tích cực vẫn có ở thế
hệ trước. Nghiên cứu sinh học phân tử
- cho thấy các loài động vật có vú và con
người cũng tồn tại tính quy luật nói trên,
thể hiện ở chỗ chúng có nhiều chức năng
sinh học được duy trì,tiếp thu từ thế hệ
trước. Ví dụ, có nhiều protein ở người và
tinh tinh gần như giống nhau hoàn toàn.
Có lẽ, vai trò bảo tồn của CLTN là mạnh
mẽ nhất đối với bộ Linh trưởng
(Primates).
c/ Ý nghĩa của các gen tái bản và cơ chế
tự tái bản gen: Đột biến là nguyên nhân
làm thay đổi ngẫu nhiên trình tự các
nucleotid trong gen, là cơ sở duy nhất
dẫn tới thay đổi ADN. Nhưng thực tế,
đột biến thường biểu hiện sai sót nhiều
hơn là ưu điểm trong những biến đổi có
liên quan tới chức năng của các enzime.
Do đó, các đột biến của ADN tồn tại
trong suốt quá trình cùng kiểu gen có thể
- xuất một nhân tố mới được di truyền và
sự sai sót có thể diễn ra, nhưng không
phương hại đến sự sống sót của các cá
thể, nghĩa là các thể đột biến đó tránh
được tác nhân đào thải là chọn lọc tự
nhiên. Phương thức sinh sản hữu tính dẫn
tới hình thành sinh vật đa bào lưỡng bội
(2n). BỘ NST lưỡng bội đặc trưng cho
loài được hình thành do sự tổ hợp qua
thụ tinh của hai tế bào đơn bội là trứng
và tinh trùng.
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Đang xử lý...