Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 4/2015<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
SỰ PHÁT TRIỂN NOÃN SÀO TRONG MÙA SINH SẢN CỦA CÁ CHẼM<br />
MÕM NHỌN – Psammoperca waigiensis (Cuvier, 1828)<br />
DEVELOPMENTAL STAGES OF OVARIES DURING SPAWNING SEASON<br />
OF WAIGIEU SEAPERCH – Psammoperca waigiensis (Cuvier 1828)<br />
Lê Hoàng Thị Mỹ Dung1, Phạm Quốc Hùng2<br />
Ngày nhận bài: 19/3/2015; Ngày phản biện thông qua: 15/6/2015; Ngày duyệt đăng: 15/12/2015<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Sự thay đổi tổ chức học noãn sào và noãn bào trong chu kỳ sinh sản cá chẽm mõm nhọn được tiến hành<br />
trên đàn cá cái 3+ tuổi, được nuôi trong ao đất tại Khánh Hòa. Noãn sào được thu thập hằng tháng, cố định<br />
trong dung Bouin và được dùng làm tiêu bản tổ chức học để quan sát các giai đoạn phát triển noãn sàotrong<br />
chu kỳ 12 tháng. Nghiên cứu cho thấy noãn bào trải các thời kỳ sinh trưởng nguyên sinh chất, tích lũy noãn<br />
hoàng, thành thục và được chia thành 6 pha. Sự phát triển noãn sào được chia thành 6 giai đoạn dựa vào sự<br />
xuất hiện của các noãn bào ở các pha phát triển. Trong noãn sào xuất hiện nhiều noãn bào ở các pha khác<br />
nhau chứng tỏ đây loài có noãn sào kiểu không đồng bộ và đẻ nhiều lần trong năm. Sự xuất hiện noãn sào ở<br />
giai đoạn tích lũy noãn hoàng, thành thục, và tham gia đẻ trứng cho thấy mùa sinh sản của loài cá này kéo dài<br />
từ tháng 3 đến 10 trong điều kiện nuôi nhốt.<br />
Từ khóa: mùa sinh sản, noãn sào, noãn bào, cá chẽm mõm nhọn, Psammoperca waigiensis<br />
ABSTRACT<br />
Studies on the development of oocytes and ovaries and the seasonal change of gonadal histology were<br />
carried out on 3+ aged Waigieu seaperch captured in sand pond in Khanh Hoa province. Ovaries were monthly<br />
collected, fixed in Bouin solution, and then analyzed by histological method for investigation of ovarian<br />
development. The development of oocytes including primary growth, vitellogenesis and maturation was<br />
divided into 6 phases. Based on the dynamics of oocytes, the development of ovary was defined 6 stages. The<br />
distribution of variant oocytes in different ovarian stages show that Waigieu seaperch have asynchronous<br />
ovaries and are a multiple spawner. Ovaries at vitellogenic, matured, spawning stages were found from March<br />
to October suggest this time is Waigieu seaperch’s reproductive season in captured condition.<br />
Keywords: Spawning season, ovary, oocyte, Waigieu seaperch, Psammoperca waigiensis<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Dựa vào sự biến đổi tổ chức học, tuyến<br />
sinh dục cái ở cá xương được chia thành 3<br />
kiểu bao gồm kiểu đồng bộ (synchronous),<br />
kiểu đồng bộ theo nhóm (group- synchronous)<br />
và kiểu không đồng bộ (asynchronous) [8, 11].<br />
<br />
1<br />
<br />
Noãn sào thuộc kiểu không đồng bộ bao gồm<br />
noãn bào ở nhiều giai đoạn phát triển khác<br />
nhau trong cùng thời điểm [8] và thường bắt<br />
gặp ở các loài cá nhiệt đới [2]. Cả nghiên<br />
cứu sinh học sinh sản lẫn hoạt động sản<br />
xuất giống nhân tạo cá xương đều đòi hỏi sự<br />
<br />
ThS. Lê Hoàng Thị Mỹ Dung, 2 TS. Phạm Quốc Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 27<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 4/2015<br />
<br />
hiểu biết về quá trình phát triển của tuyến<br />
<br />
học tuyến sinh dục trên các loài cá nhiệt đới<br />
<br />
sinh dục trên từng cá thể [12], đặc biệt là<br />
<br />
có noãn sào kiểu không đồng bộ. Mặt khác,<br />
<br />
cá thể cái do sự phức tạp trong tổ chức học<br />
<br />
kết quả nghiên cứu cũng góp phần vào việc<br />
<br />
cũng như khó khăn trong việc kích thích sinh<br />
<br />
nâng cao hiệu quả quản lý đàn cá bố mẹ,<br />
<br />
sản [1, 10]. Có rất nhiều tác giả đưa ra các<br />
<br />
kích thích sinh sản cá chẽm mõm nhọn trong<br />
<br />
bậc thang phát triển noãn sào cho các loài cá<br />
<br />
điều kiện nhân tạo thông qua việc nắm rõ qui<br />
<br />
có tập tính sinh sản khác nhau phụ thuộc vào<br />
<br />
luật phát triển tuyến sinh dục của loài cá này.<br />
<br />
kiểu noãn sào của chúng [5, 12]. Nhìn chung,<br />
các bậc thang đều được xây dựng dựa trên<br />
sự thay đổi về hình thái bên ngoài và đặc biệt<br />
<br />
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
1. Đàn cá thí nghiệm<br />
<br />
là tổ chức bên trong liên quan đến sự xuất<br />
<br />
Đàn cá bố mẹ tuổi 3+, có chiều dài toàn<br />
<br />
hiện và phát triển của noãn bào. Sự phát<br />
<br />
thân dao động 20-34 cm và khối lượng<br />
<br />
triển noãn sào trải qua các giai đoạn bao<br />
<br />
70-580 g/con, được nuôi trong giai, đặt trong ao<br />
<br />
gồm giai đoạn chưa thành thục, phát triển,<br />
<br />
đất, tại khu vực Đồng Bò, Nha Trang từ tháng<br />
<br />
thành thục, tham gia sinh sản, và sau khi<br />
<br />
1 – 12 năm 2008. Nhiệt độ nước trong ao nuôi<br />
<br />
tham gia sinh sản [6, 7]. Hiểu biết về những<br />
thay đổi trong sự phát triển của noãn bào, sự<br />
thay đổi trong tổ chức học của noãn sào có<br />
ý nghĩa quan trọng trong dự báo trạng thái<br />
thành thục của cá cái, phục vụ cho hoạt động<br />
quản lý đàn cá bố mẹ. Cá chẽm mõm nhọn<br />
(Psammoperca waigiensis), giống như một số<br />
loài cá biển khác đang được nuôi phổ biến ở<br />
nước ta như cá mú (Epinephelus spp), cá giò<br />
(Rachycentron canadum), cá hồng (Lutjanus<br />
erythropterus),<br />
<br />
cá<br />
<br />
đù<br />
<br />
mỹ<br />
<br />
(Scyaenops<br />
<br />
dao động 28-32 oC; độ mặn: 26-34‰; pH:<br />
7,8-8,6 và oxy hòa tan (DO): 3,5-4,6 mg/l. Mật<br />
độ nuôi trung bình 3 kg/m3 (20 con/m3) với tỷ<br />
lệ đực cái ước tính 1:1. Cá bố mẹ được cho ăn<br />
“cá tạp” (cá nục hoặc cá cơm) hàng ngày với<br />
khẩu phần bằng 3-5% khối lượng thân. Hàng<br />
tháng, khoảng 10 cá cái được bắt ngẫu nhiên<br />
để thu mẫu noãn sào và mẫu được cố định<br />
trong dung dịch Bouin dùng cho phân tích tổ<br />
chức học.<br />
2. Phương pháp phân tích mẫu<br />
<br />
ocellatus) và cá chẽm (Lates calcarifer), là<br />
<br />
Tiêu bản tổ chức học của noãn sào cá<br />
<br />
loài cá biển nhiệt đới, đẻ nhiều lần trong<br />
<br />
Chẽm mõm nhọn được làm theo qui trình của<br />
<br />
năm. Ở nước ta, các nghiên cứu về tổ chức<br />
<br />
phòng thí nghiệm Bệnh học thủy sản, khoa<br />
<br />
học noãn sào cá xương ở các giai đoạn phát<br />
<br />
Nuôi trồng Thủy Sản, trường ĐH Nha Trang<br />
<br />
triển khác nhau chưa có sự thống nhất trong<br />
<br />
được trình bày trong Phạm Quốc Hùng và Lê<br />
<br />
việc sử dụng bậc thang phát triển và chưa<br />
<br />
Hoàng Thị Mỹ Dung [1]. Tiêu bản tổ chức học<br />
<br />
được chú trọng đúng mức. Nghiên cứu này<br />
<br />
của noãn sào được quan sát trên kính hiển vi<br />
<br />
nhằm mô tả sự thay đổi về mặt tổ chức học<br />
<br />
Zeiss Axioskop 2-Plus light (Zeiss Inc., Vienna,<br />
<br />
của noãn sào trong chu kỳ sinh sản, đặc<br />
<br />
Austria) và chụp hình bằng máy Nikon<br />
<br />
điểm phát triển của noãn bào và noãn sào<br />
<br />
Camera Head DS-5M và Nikon Camera Control<br />
<br />
của cá chẽm mõm nhọn. Các kết quả này sẽ<br />
<br />
Unit DS-L1. Trong nghiên cứu này, chúng tôi<br />
<br />
bổ sung và làm phong phú dữ liệu về tổ chức<br />
<br />
sử dụng bậc thang phát triển tuyến sinh dục ở<br />
<br />
28 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 4/2015<br />
<br />
cá xương Nikolskii [9] và Sakun và Butskaya<br />
<br />
bên trong buồng trứng. Tổ chức học buồng<br />
<br />
[4] để xác định sự phát triển noãn sào cá chẽm<br />
<br />
trứng gồm nhiều thành phần cấu tạo khác<br />
<br />
mõm nhọn.<br />
<br />
nhau với noãn bào là thành phần chủ yếu và<br />
<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
<br />
chiếm tỷ lệ cao nhất. Sự phát triển của noãn<br />
bào là một căn cứ quan trọng để xác định sự<br />
<br />
1. Sự thay đổi tổ chức học noãn sào trong<br />
<br />
phát triển của buồng trứng (noãn sào). Do<br />
<br />
chu kỳ sinh sản<br />
<br />
đó, chúng tôi đề cập đến quá trình phát triển<br />
<br />
Noãn sào cá Chẽm mõm nhọn có sự biến<br />
<br />
của noãn bào trong buồng trứng cá Chẽm<br />
<br />
đổi phức tạp về mặt tổ chức học qua các tháng<br />
<br />
mõm nhọn dựa theo bậc thang của Sakun và<br />
<br />
trong năm. Trong nghiên cứu này, chúng tôi thu<br />
<br />
Butskaya [4] trước khi trình bày sự phát triển<br />
<br />
thập được noãn sào ở giai đoạn II (giai đoạn<br />
<br />
của buồng trứng.<br />
<br />
phát triển) vào tháng 1 và tháng 2. Noãn sào<br />
<br />
Pha 1: Pha nhân - chất nhiễm sắc (Chromatin-nucleus)<br />
<br />
ở giai đoạn tích lũy noãn hoàng bắt đầu xuất<br />
<br />
Noãn bào ở pha nhân – chất nhiễm sắc<br />
<br />
hiện vào tháng 3. Noãn sào ở giai đoạn III, IV,<br />
V, VI- giai đoạn phát triển, thành thục, sinh sản<br />
được tìm thấy trong các tháng 4 – 9 chứng tỏ<br />
đây là mùa vụ sinh sản chính của cá Chẽm<br />
mõm nhọn trong điều kiện nuôi nhốt. Một số<br />
mẫu noãn sào giai đoạn VI vẫn được tìm thấy<br />
vào tháng 10 chứng tỏ hoạt động đẻ trứng vẫn<br />
diễn ra trong thời gian này. Sau khi mùa sinh<br />
sản kết thúc, noãn sào quay lại giai đoạn II<br />
vào tháng 11 và 12, cá trải qua giai đoạn nghỉ<br />
đông, tích lũy dinh dưỡng chuẩn bị cho mùa<br />
sinh sản năm sau. Trong điều kiện tự nhiên tại<br />
Khánh Hoà (12o52’35’’ Bắc – 11o41’53’’Nam),<br />
cá Chẽm mõm nhọn đẻ rải rác từ tháng 3 đến<br />
tháng 8 [3]. Điều này có thể được lý giải bởi<br />
trong điều kiện nuôi nhốt, nhiệt độ cao hơn<br />
ngoài tự nhiên, thức ăn được cung cấp đầy đủ,<br />
yếu tố đực cái đảm bảo nên thời gian đẻ kéo<br />
dài hơn so với ngoài tự nhiên. Tuy nhiên, cần<br />
theo dõi thêm với chu kỳ nhiều năm để có kết<br />
luận chính xác.<br />
2. Sự phát triển của noãn bào<br />
<br />
có tính ưa kiềm mạnh với nhân và nguyên<br />
sinh chất đều bắt màu tím của Hematocine.<br />
Nhân to, nằm giữa tế bào, màng nhân bắt<br />
màu đậm hơn (Hình 1A). Xung quanh tế bào<br />
được bao bởi một màng mỏng. Đây là các<br />
noãn nguyên bào được tạo ra từ các tế bào<br />
sinh dục nguyên thủy qua các lần nguyên<br />
phân tạo nên nguồn dự trữ để bổ sung nguồn<br />
tế bào sinh dục sau khi cá đẻ. Noãn nguyên<br />
bào trải qua những biến đổi đặc trưng tăng<br />
lên về kích thước và phát triển thành noãn<br />
bào. Kích thước noãn bào dao động từ<br />
12,5 – 55 µm.<br />
Pha 2: Pha tiền ngoại vi nhân (Pre - perinucleus)<br />
Noãn bào ở pha ngoại vi nhân hình góc<br />
cạnh, tế bào chất ưa kiềm bắt màu thuốc<br />
nhuộm Hematoxyline bao quanh nhân, nhân<br />
bắt màu nhạt hơn và nằm giữa tế bào. Trong<br />
nhân xuất hiện các hạch nhân bắt màu đậm,<br />
sắp xếp không theo trật tự. Sự sinh trưởng của<br />
tế bào chất làm gia tăng kích thước noãn bào.<br />
Thời kỳ này được gọi là thời kỳ sinh trưởng<br />
<br />
Các giai đoạn phát triển của buồng trứng<br />
<br />
nguyên sinh chất hay sinh trưởng lần thứ nhất<br />
<br />
cá xương được phân chia dựa trên đặc điểm<br />
<br />
(the first growth) (Hình 1B) với kích thước noãn<br />
<br />
hình thái bên ngoài và đặc biệt là tổ chức học<br />
<br />
bào từ 22,5 – 90 µm.<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 29<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 4/2015<br />
<br />
Hình 1. Các pha phát triển của noãn bào<br />
A, Pha nhân – chất nhiễm sắc; B, Pha tiền ngoại vi nhân với một số hạch nhân (†) xuất hiện xung quanh màng nhân;<br />
C, Pha ngoại vi nhân với số lượng hạch nhân (†) xuất hiện xung quanh màng nhân tăng lên; D, Pha không bào hóa với các<br />
hạt không bào (–) và lipid (>) xuất hiện trong tế bào chất; E, Pha thể noãn hoàng thứ nhất với các hạt noãn hoàng (4) có<br />
kích thước nhỏ xuất hiện xung quanh màng tế bào; F, Pha thể noãn hoàng thứ hai với ½ thể tích tế bào chất được lấp đầy<br />
bởi các hạt noãn hoàng (4); G, Pha thể noãn hoàng thứ ba, noãn bào được lấp đầy bởi các hạt noãn hoàng; H, Pha thành<br />
thục với nhân (N) bắt đầu di chuyển về cực động vật; I, Màng nhân tiêu biến (N); K, Màng follicule (Fc) bắt đầu tách ra<br />
khỏi trứng. Thước tỷ lệ 10 µm (hình A-C) và 50 µm (Hình D-K)<br />
<br />
Pha 3: Pha ngoại vi nhân (Perinucleus)<br />
Noãn bào pha ngoại vi nhân có hình tròn<br />
hoặc hình góc cạnh, xuất hiện nang trứng bao<br />
xung quanh tế bào. Tế bào chất tiếp tục gia<br />
tăng làm cho noãn bào phát triển nhanh về kích<br />
thước. Nếu ở pha 2 (pha tiền ngoại vi nhân),<br />
các hạch nhân bắt đầu xuất hiện và sắp xếp<br />
không theo trật tự thì ở pha 3, các hạch nhân<br />
tăng về số lượng, di chuyển ra và phân bố<br />
phía ngoại vi nhân (quanh màng nhân) (hình<br />
1C). Kích thước hạch nhân từ 5 – 7,5 µm(n=5).<br />
<br />
30 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Cuối pha này, noãn bào kết thúc quá trình sinh<br />
trưởng nguyên sinh chất và đạt kích thước tới<br />
hạn trong thời kỳ sinh trưởng thứ nhất. Đường<br />
kính noãn bào đo được từ 80 – 150 µm.<br />
Pha 4: Pha không bào hóa (Corticalization)<br />
Bên ngoài tế bào, độ dày của nang trứng<br />
tăng lên (nang trứng dày khoảng 3,75 – 7,5 µm,<br />
(n = 10)), xuất hiện màng phóng xạ. Nguyên<br />
sinh chất bắt màu tím không còn là khối đồng<br />
nhất do sự xuất hiện các không bào như các<br />
hình tròn rỗng với các kích thước khác nhau<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
(5 – 37,5 µm, (n = 18)). Các không bào bắt đầu<br />
xuất hiện gần màng nhân và số lượng tiếp tục<br />
tăng lên, không bào phân bố khắp nguyên sinh<br />
chất. Nhân hình tròn, bắt màu hồng nhạt, nằm<br />
giữa tế bào, màng nhân không còn phân biệt<br />
rõ như ở pha 1, hạch nhân tiêu biến (hình 1D).<br />
Noãn bào có kích thước 140 – 425 µm. .<br />
Pha 5: Pha thể noãn hoàng (Yolk granule)<br />
Pha thể noãn hoàng gồm các noãn bào ở<br />
pha thể noãn hoàng thứ nhất (primary yolk –<br />
Hình 1E), thứ hai (secondary yolk – Hình 1F),<br />
thứ ba (tertiary yolk – Hình 1G). Ở pha thể<br />
noãn hoàng thứ nhất, các hạt noãn hoàng bắt<br />
đầu xuất hiện và phân bố quanh màng của tế<br />
bào, kích thước các hạt noãn hoãng rất nhỏ.<br />
Pha thể noãn hoàng thứ hai, noãn hoàng tiếp<br />
tục được tổng hợp và tích lũy, chiếm khoảng<br />
½ thể tích nguyên sinh chất, các không bào<br />
bị dồn về phía nhân. Pha thể noãn hoàng thứ<br />
ba, nguyên sinh chất được lấp đầy bởi các<br />
hạt noãn hoàng. Kích thước của các hạt noãn<br />
hoàng tăng lên, chúng dính lại với nhau thành<br />
từng đám. Cuối pha hạt noãn hoàng, các hạt<br />
noãn hoàng và các hạt lipid hòa với nhau, tạo<br />
thành một khối đồng nhất và kích thước noãn<br />
bào khoảng 380 – 425 µm. Nang trứng dày lên<br />
<br />
Số 4/2015<br />
rõ rệt 10 – 15 µm (n = 12) với vành phóng xạ<br />
của màng follicle xuất hiện rõ ràng..<br />
Pha 6: Pha thành thục<br />
Ở pha thành thục, quá trình tích lũy noãn<br />
hoàng kết thúc, noãn bào đạt kích thước tối<br />
đa 400 – 480 µm. Nhân co lại và bắt đầu di<br />
chuyển về cực động vật làm tế bào phân cực<br />
(hình 1H). Màng nhân tiêu biến, nhân chỉ còn lại<br />
một khối chất nhỏ, bắt màu tím nhạt (hình 1I).<br />
Nang trứng bắt đầu tách ra khỏi noãn bào, đó<br />
là công đoạn chuyển tiếp quá trình trứng rụng<br />
(Fc, hình 1K). Hiện tượng nang trứng mỏng dần<br />
được giả thuyết bởi quá trình tăng kích thước<br />
mạnh mẽ của khối tế bào chất, trong khi đó<br />
màng tế bào vẫn giữ nguyên độ dày [6].<br />
3. Các giai đoạn phát triển của noãn sào<br />
3.1. Giai đoạn I (Giai đoạn còn non)<br />
Về hình thái: Noãn sào là hai dải mỏng,<br />
trong suốt, có khi màu hồng nhạt, mắt thường<br />
không phân biệt được tế bào sinh dục. Noãn<br />
sào giai đoạn này chỉ gặp ở những cá thể<br />
thành thục lần đầu.<br />
Về tổ chức học: Noãn sào ở giai đoạn này<br />
bao gồm các noãn nguyên bào và những noãn<br />
bào thuộc thời kỳ sinh trưởng nguyên sinh chất<br />
(noãn bào ở pha 1).<br />
<br />
Hình 2. Hình thái bên ngoài noãn sào (A) và tiêu bản tổ chức học các giai đoạn phát triển của noãn sào<br />
B, noãn sào giai đoạn II với các noãn bào ở pha 2- pha tiền ngoại vi nhân (1) và các noãn bào pha 3- pha ngoại vi nhân<br />
(2); C, Noãn sào giai đoạn III với các noãn bào pha 3 (2), pha 4- pha không bào hóa (3), pha 5- pha thể noãn hoàng (4);<br />
D, Noãn sào giai đoạn IV với các noãn bào có nhân bắt đầu di chuyển về cực động vật (5) và noãn bào có màng nhân tiêu<br />
biến (6); E, Noãn sào giai đoạn V với các noãn bào có nang trứng (màng follicle) tách ra khỏi trứng (7); F, Noãn sào giai<br />
đoạn VI với các noãn bào thành thục nhưng không được đẻ ra ngoài được tái hấp thu (8).Thước tỷ lệ hình B – F là 50 µm.<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 31<br />
<br />