YOMEDIA
ADSENSE
Tác động của FTA thế hệ mới đến sự phát triển ngành công nghiệp môi trường của Việt Nam
39
lượt xem 5
download
lượt xem 5
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, con người cũng phải đối mặt với những nguy hại của môi trường do tác động của các hoạt động kinh tế. Với mục tiêu phát triển kinh tế nhưng không đánh đổi môi trường, phát triển kinh tế bền vững đã trở thành đường lối hoạt động của các quốc gia trên thế giới và được đưa vào trở thành một trong những nội dung quan trọng các của Hiệp định thương mại tự do FTA thế hệ mới.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tác động của FTA thế hệ mới đến sự phát triển ngành công nghiệp môi trường của Việt Nam
- TÁC ĐỘNG CỦA FTA THẾ HỆ MỚI ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP MÔI TRƢỜNG CỦA VIỆT NAM Ths. Lƣơng Nguyệt Ánh Trƣờng Đại học Thƣơng mại Tóm lược: Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, con người cũng phải đối mặt với những nguy hại của môi trường do tác động của các hoạt động kinh tế. Với m c tiêu phát triển kinh tế nhưng không đánh đổi môi trường, phát triển kinh tế bền vững đã trở thành đường lối hoạt động của các quốc gia trên thế giới và được đưa vào trở thành một trong những nội dung quan trọng các của Hiệp định thương mại tự do FTA thế hệ mới. Tại Việt Nam, công nghiệp môi trường mới chỉ là một ngành còn non trẻ phải đối mặt với nhiều khó khăn, vướng mắc trong khi những vấn đề iên quan đến môi trường lại xuất hiện ngày càng nhiều, hàng hóa bị nhiều thị trường lớn trên thế giới hạn chế nhập khẩu do không đáp ứng được các tiêu chuẩn về môi trường. Để đảm bảo thực hiện đ ng các cam kết về môi trường và phát triển bền vững theo quy định của các FTA thế hệ mới, nắm bắt cơ hội và hạn chế những thách thức từ các hiệp định này, đòi hỏi bản thân ngành công nghiệp môi trường và cả Chính phủ cần phải nhanh chóng có những giải pháp và hướng đi c thể. Từ khóa: FTA thế hệ mới, công nghiệp môi trường, phát triển bền vững. 1. Khái niệm ngành công nghiệp môi trƣờng Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về ―công nghiệp môi trường‖ (CNMT). Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), ―Công nghiệp môi trường bao gồm các hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ nhằm quan trắc, ngăn chặn, hạn chế, giảm thiểu tác hại môi trường tới nước, không khí và đất cũng như các vấn đề liên quan đến chất thải, tiếng ồn và hệ sinh thái‖. Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa K (USEPA) đưa ra một khái niệm rõ ràng hơn: ―Ngành công nghiệp môi trường bao gồm tất cả các hoạt động mang lại thu nhập gắn liền với (1) sự tuân thủ các quy định luật pháp về môi trường; (2) đánh giá, phân tích và bảo vệ môi trường; (3) kiểm soát ô nhiễm, quản l chất thải và phục sinh các tài sản đã bị ô nhiễm; (4) cung cấp và vận chuyển các tài nguyên môi trường như nước, các vật liệu được thu hồi và nguồn năng lượng sạch; và (5) các công nghệ và các hoạt động góp phần tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và tài nguyên, tăng năng suất sản xuất và tăng trưởng kinh tế bền vững (có khả năng ngăn ngừa ô nhiễm)‖. Như vậy, cũng giống như tất cả các ngành nghề khác, công nghiệp môi trường cũng là một ngành kinh tế trong lĩnh vực môi trường hoạt động với mục tiêu lợi nhuận. Nó bao gồm hai hoạt động chính là sản xuất hàng hóa và dịch vụ môi trường. Trong đó, hàng hóa môi trường là những sản phẩm trực tiếp góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường, góp phần vào hoạt động quan trắc, xử l những vấn đề ô nhiễm phát sinh. 680
- Dịch vụ môi trường được chia thành 4 nhóm chính bao gồm: dịch vụ về nước thải, dịch vụ về rác thải, dịch vụ vệ sinh và dịch vụ môi trường khác (theo WTO). Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã giao Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) chỉ đạo phát triển ngành Công nghiệp môi trường nhưng tại thời điểm đó khái niệm ―Công nghiệp môi trường‖ vẫn chưa được đưa ra trong các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ làm nảy sinh nhiều bất cập về việc thống nhất phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của ngành này. Năm 2010, mặc dù vẫn chưa có khái niệm chính thức về công nghiệp môi trường nhưng trong quyết định số 39/2010/QĐ – TTg ngày 11 tháng 05 năm 2010 của Chính Phủ đã nêu rõ: hàng hóa và dịch vụ môi trường được quy định trong mã ngành E bao gồm: E16 – nước tự nhiên khai thác; E37 – dịch vụ thoát nước và xử l nước thải; E38 – dịch vụ thu gom, xử l và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu; E39 – dịch vụ xử l ô nhiễm và hoạt động quản l chất thải. Đến năm 2014, thuật ngữ ―Công nghiệp môi trường‖ mới chính thức được Luật hóa trong Luật Bảo vệ môi trường với nghĩa là ―một ngành kinh tế cung cấp các công nghệ, thiết bị, dịch vụ và sản phẩm phục vụ các yêu cầu về bảo vệ môi trường‖ và phát triển Công nghiệp môi trường (Điều 153, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014) được quy định là ―đầu tư xây dựng, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật xử l và tái chế chất thải; hình thành và phát triển các khu xử l chất thải tập trung; sản xuất, cung cấp thiết bị, sản phẩm phục vụ các yêu cầu bảo vệ môi trường‖. 2. Một vài hái quát về FTA thế hệ mới 2.1. Tổng quan về FTA thế hệ mới Theo quan điểm truyền thống, FTA là hiệp định hợp tác kinh tế được ký kết giữa ít nhất hai nước, nhằm cắt giảm các hàng rào thương mại, cụ thể là thuế quan, quota nhập khẩu (và các hàng rào phi thuế quan khác), đồng thời thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa các nước này với nhau. Một trong các đặc điểm quan trọng của FTA ―truyền thống‖ là các thành viên của FTA không có biểu thuế quan chung trong quan hệ thương mại với các nước bên ngoài FTA. Các FTA điển hình theo khái niệm này là: FTA ASEAN (AFTA); FTA Trung Âu (CEFTA), … Thuật ngữ ―thế hệ mới‖ hoàn toàn mang tính tương đối, được sử dụng để nói về các FTA có phạm vi toàn diện, vượt ra ngoài khuôn khổ tự do hóa thương mại hàng hóa, như: FTA Việt Nam-EU (EVFTA); Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP); Hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (T-TIP);các hiệp định thành lập EU; FTA Bắc Mỹ (NAFTA); Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR); các FTA ASEAN+1; FTA Australia- Hoa K (AUSFTA); … Các FTA nói trên được coi là ―mới‖ vì 3 lý do sau đây: Thứ nhất, một số FTA thế hệ mới nêu trên bao gồm cả các nội dung vốn được coi là ―phi thương mại‖ như: lao động, môi trường, cam kết phát triển bền vững và quản trị tốt, … Thực tế cho thấy: trong bối cảnh toàn cầu hóa, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng trên cơ sở coi người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm trong thương mại quốc tế, nên trước hết họ phải được bảo đảm các quyền, lợi ích và các điều kiện lao động cơ bản. Đây là cách tiếp cận của các FTA thế hệ mới và đang trở thành 681
- một xu thế trong những năm gần đây trên thế giới. Việc đưa nội dung về lao động vào các FTA còn nhằm bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng giữa các bên trong quan hệ thương mại. Nếu một nước duy trì tiêu chuẩn lao động thấp, tiền lương và các điều kiện lao động không được xác lập trên cơ sở thương lượng, thì được cho là sẽ có chi phí sản xuất thấp hơn so với nước thực hiện những tiêu chuẩn lao động cao, dẫn tới cạnh tranh không bình đẳng dựa trên ―quyền lao động r ‖. Hiện nay, tiến trình toàn cầu hóa đã tạo ra một thị trường lao động trên toàn thế giới và biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, buộc cả các nước phát triển và các nước đang phát triển phải cùng nhau nỗ lực thực hiện những ―chuẩn mực thương mại mới‖ trong các FTA thế hệ mới. Các FTA thế hệ mới không đưa ra tiêu chuẩn riêng về lao động và môi trường, mà chỉ khẳng định lại các tiêu chuẩn lao động của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), và các tiêu chuẩn môi trường và phát triển bền vững của Liên hợp quốc (UN). Thứ hai, nếu so với các FTA trước đây và các hiệp định của WTO, thì các FTA thế hệ mới bao gồm các nội dung mới hơn như: đầu tư, cạnh tranh, mua sắm công, thương mại điện tử, khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển cũng như dành thời gian chuyển đổi hợp l để nước đi sau có thể điều chỉnh chính sách theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển của mình,… Thứ ba, các FTA thế hệ mới xử lý sâu hơn các nội dung đã có trong các FTA trước đây và các hiệp định của WTO như: thương mại hàng hóa, bảo vệ sức khỏe động vật và thực vật trong thương mại quốc tế, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ (IPR) (với ―TRIPS cộng‖ và ―TRIPS siêu cộng‖), tự vệ thương mại, quy tắc xuất xứ, minh bạch hóa và chống tham nhũng, giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài (ISDS), … Như vậy, nếu so sánh với các hiệp định của WTO, thì các FTA thế hệ mới chính là các hiệp định ―WTO cộng‖, với những nội dung trước đây từng bị từ chối, thì nay lại cần thiết phải chấp nhận. 2.2. Qu định của FTA thế hệ mới về môi trường và phát triển bền vững Thời gian gần đây, trong các đàm phán và k kết các FTA song phương và đa phương có một xu hướng mới là đưa nội dung môi trường hay phát triển bền vững vào thành một trong các nội dung đàm phán chính thức, là một chương trong các FTA. Xu hướng này đã được hiện thực hóa trong một số FTA đã được k kết hoặc đang trong quá trình đàm phán dựa trên quan điểm cho rằng các hoạt động kinh doanh thương mại và bảo vệ môi trường, duy trì phát triển bền vững có tính chất tương hỗ không thể tách rời và thúc đẩy lẫn nhau. Một số quốc gia trong quá trình tham vấn để đàm phán FTA đã coi nội dung môi trường là điều kiện tiên quyết, không thể thiếu trong đàm phán FTA. Do vậy, có thể nói rằng nội dung đàm phán liên quan đến môi trường trong các FTA đã và đang dần trở thành một xu hướng trên thế giới hiện nay và trong tương lai, theo đó đã xuất hiện một dạng FTA thế hệ mới, trong đó các nội dung không chỉ giới hạn ở thương mại và dịch vụ mà còn đề cập đến các lĩnh vực khác, trong đó có môi trường và phát triển bền vững. Nội dung môi trường hay phát triển bền vững được 682
- đề cập trong các FTA được xây dựng dựa trên mối quan tâm, lợi ích cũng như điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của hai hay nhiều quốc gia tham gia đàm phán và k kết. Trong một số FTA, mục tiêu của các nội dung môi trường hay phát triển bền vững nhằm thúc đẩy sự hợp tác trong các lĩnh vực cụ thể về thương mại có liên quan đến môi trường mà hai hay nhiều nước thành viên có chung lợi ích và mối quan tâm. Với một số FTA thế hệ mới khác, nội dung về môi trường và phát triển bền vững có yêu cầu và tiêu chuẩn cao hơn thể hiện qua mức độ cam kết cao hơn và các nghĩa vụ nặng nề hơn, thậm chí một số FTA còn sử dụng công cụ kinh tế như áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp có trừng phạt hoặc bồi thường về thương mại nếu xảy ra tranh chấp về thương mại có liên quan đến môi trường. Đối với Hiệp định TPP, trong 30 chương của Hiệp định thì Chương 20 về môi trường bao gồm 23 điều, chia làm 4 nội dung chính: Nhóm điều khoản chung liên quan đến các định nghĩa, mục tiêu và các tuyên bố chung của Hiệp định, gồm 3 điều (1,2 và 3). Nhóm điều khoản liên quan đến các quy định về tính minh bạch và sự tham gia của công chúng, gồm 3 điều (7, 8 và 9). Nhóm điều khoản liên quan đến các hoạt động tổ chức bộ máy, các cơ quan chịu trách nhiệm và cơ chế phối hợp thực hiện, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan giữa các bên tham gia, gồm 6 điều (12, 19, 20, 21, 22 và 23). Nhóm quan trọng nhất bao gồm các điều khoản riêng về các vấn đề môi trường, với 11 điều khoản: Hàng hóa và dịch vụ môi trường; Các hiệp định môi trường đa phương; Bảo vệ tầng ô zôn; Bảo vệ môi trường biển từ ô nhiễm do vận tải biển; Thương mại và đa dạng sinh học; Thương mại và bảo tồn (động thực vật hoang dã); Các loài ngoại lai xâm lấn; Chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp và tự cường; Ngành thủy sản đánh bắt cá trên biển; Các cơ chế tự nguyện để thúc đẩy thực thi môi trường và Hợp tác trách nhiệm xã hội. bao gồm 23 điều, chia làm 4 nội dung chính: Nhóm điều khoản chung liên quan đến các định nghĩa, mục tiêu và các tuyên bố chung của Hiệp định, gồm 3 điều (1,2 và 3). Nhóm điều khoản liên quan đến các quy định về tính minh bạch và sự tham gia của công chúng, gồm 3 điều (7, 8 và 9). Nhóm điều khoản liên quan đến các hoạt động tổ chức bộ máy, các cơ quan chịu trách nhiệm và cơ chế phối hợp thực hiện, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan giữa các bên tham gia, gồm 6 điều (12, 19, 20, 21, 22 và 23). Nhóm quan trọng nhất bao gồm các điều khoản riêng về các vấn đề môi trường, với 11 điều khoản: Hàng hóa và dịch vụ môi trường; Các hiệp định môi trường đa phương; Bảo vệ tầng ô zôn; Bảo vệ môi trường biển từ ô nhiễm do vận tải biển; Thương mại và đa dạng sinh học; Thương mại và bảo tồn (động thực vật hoang dã); Các loài ngoại lai xâm lấn; Chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp và tự cường; Ngành thủy sản đánh bắt cá trên biển; Các cơ chế tự nguyện để thúc đẩy thực thi môi trường và Hợp tác trách nhiệm xã hội. Nội dung của các điều khoản về môi trường chia thành 2 nhóm: Thứ nhất, gồm các hàng hóa, dịch vụ có hỗ trợ, đóng góp cho việc thực hiện tăng trưởng xanh và nền kinh tế các bon thấp, được quy định tại điều 15, điều 18 với các chủ trương về giảm thuế, rào cản thương mại, hợp tác thông qua các dự án song phương và đa phương, thúc đẩy đầu tư giữa các bên. Chưa có các cam kết sâu hơn về cắt giảm thuế hay các cam kết khác. Thứ hai, bao gồm các 683
- nội dung về hạn chế ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên do các hoạt động thương mại. Nhóm này tập trung vào đa dạng sinh học, bảo tồn, cơ chế thực thi môi trường tự nguyện, bảo vệ tầng ô zôn, sinh vật ngoại lai. Nội dung chủ yếu là kêu gọi hợp tác bảo vệ, hạn chế, đặc biệt là ngăn cấm các hoạt động thương mại đối với các hoạt động này. Có 4 vấn đề mới nổi bật lần đầu tiên chính thức được đưa vào trong các cam kết thương mại đa phương, gồm: Các cam kết về hàng hóa và dịch vụ môi trường; Các cam kết về chuyển đổi sang nền kinh tế cácbon thấp; Các vấn đề liên quan đến ô nhiễm đại dương và suy giảm nguồn tài nguyên thủy sản trên biển do hoạt động đánh bắt cá; Thành lập Ủy ban Môi trường, Điểm liên lạc quốc gia và cơ chế giải quyết các vấn đề thương mại - môi trường giữa các quốc gia. Đối với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), tương tự như Chương Môi trường của Hiệp định TPP, Chương Phát triển bền vững của Hiệp định EVFTA cũng có chung mục tiêu là thúc đẩy sự tương hỗ lẫn nhau giữa các chính sách về thương mại và môi trường và hướng tới việc tăng cường bảo vệ môi trường ở mức độ cao thông qua thực thi hiệu quả luật pháp trong nước về bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, Chương Phát triển bền vững cũng hướng đến mục tiêu tăng cường năng lực của các Bên để giải quyết các vấn đề về môi trường liên quan đến thương mại thông qua các giải pháp, trong đó có cả giải pháp mang tính hợp tác. Chương Phát triển bền vững bao gồm hai nội dung chính liên quan đến lao động và môi trường với 17 Điều khoản, trong đó mỗi Điều khoản được chia thành nhiều đoạn văn đề cập các vấn đề liên quan tới các cam kết, nghĩa vụ cụ thể khác nhau. Các cam kết và nghĩa vụ về môi trường của Hiệp định EVFTA cũng có thể chia làm 5 nhóm: (1) Chính sách và các quy định pháp luật môi trường trong nước; (2) Cam kết quốc tế về môi trường; (3) Công khai, minh bạch; (4) Nghĩa vụ đối với một số lĩnh vực cụ thể về môi trường; và (5) Cơ chế tham vấn, giải quyết tranh chấp. Nhóm 1 nêu rõ các nghĩa vụ bao gồm việc đảm bảo đầy đủ luật pháp và chính sách môi trường, khuyến khích việc bảo vệ môi trường ở mức cao và tiếp tục nâng cao các mức độ bảo vệ môi trường; thực thi hiệu quả và nghiêm túc pháp luật về môi trường của mình mà không gây ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư giữa các Bên; không được làm giảm nhẹ hiệu lực pháp l của các đạo luật và quy định môi trường của mình nhằm khuyến khích thương mại hay đầu tư giữa các Bên. Nhóm 2 đưa ra quy định cụ thể các cam kết về môi trường như sau: Tái khẳng định việc thực thi hiệu quả các cam kết liên quan đến môi trường trong các Hiệp định đa phương liên quan đến môi trường (MEAs) mà các quốc gia là thành viên; Trao đổi, chia s thông tin, kinh nghiệm liên quan đến việc thực thi và những sửa đổi về các chính sách trong nước liên quan đến các MEAs. Trong Chương Phát triển bền vững, nhóm các nghĩa vụ về công khai và minh bạch cũng được phân tán rải rác trong các Điều khoản và liên quan đến các nội dung khác nhau, nghĩa vụ bao gồm: Đảm bảo công khai và minh bạch quá trình xây dựng và thực thi pháp luật và các biện pháp liên quan đến bảo vệ môi trường có thể ảnh hưởng tới thương mại và đầu tư; việc xây dựng pháp luật và các biện pháp bảo vệ môi trường cần phải được thông báo trước và cho ph p các bên liên quan được tham gia đóng góp kiến; Đối thoại, trao đổi và chia s thông tin liên quan đến quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách và quy định pháp luật về MEAs, biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, lâm nghiệp (gỗ và các 684
- sản phẩm từ gỗ), thủy sản và tài nguyên biển; Đảm bảo sử dụng một cách thích hợp các thông tin và bằng chứng khoa học, các hướng dẫn và tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình xây dựng và thực thi các biện pháp bảo vệ môi trường. Nhóm 4 quy định rõ nghĩa vụ đối với 1 số lĩnh vực môi trường như Biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, thương mại và lâm nghiệp, tài nguyên biển và thủy sản. Tại nhóm 5 đã nêu rõ, Đối với các vấn đề tranh chấp thương mại liên quan đến môi trường phát sinh trong quá trình thực hiện, Chương Phát triển bền vững của Hiệp định EVFTA chỉ thiết lập cơ chế tham vấn ở cấp chính phủ và giải quyết tranh chấp thông qua Ban chuyên gia (Panel of Experts) gồm 03 thành viên. Các bước giải quyết tranh chấp cũng được nêu rõ tại nhóm 5 này. 3. Thực trạng phát triển ngành công nghiệp môi trƣờng tại Việt Nam Trên thế giới, ngành công nghiệp môi trường đã hình thành và phát triển cách đây hơn 4 thập niên, tập trung tại các nước phát triển như Mỹ, Canada, EU. Tại châu Á cũng đã có nhiều nước thành công trong phát triển công nghiệp môi trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... Ngành công nghiệp môi trường tại Việt Nam đã được sớm hình thành từ những năm 60 ở các thành phố lớn với tiền thân là các công ty môi trường đô thị. Đó là các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ chuyên thu gom, vận chuyển xử l chất thải và vệ sinh đô thị. Cho đến nay hệ thống các công ty này đã phát triển ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước. Hơn nữa, các lĩnh vực hoạt động môi trường hiện nay không ngừng được mở rộng không chỉ môi trường đô thị, mà còn phát triển rất nhanh sang khu vực doanh nghiệp, khu công nghiệp, kiểm soát ô nhiễm, tái chế và quản l tài nguyên, sản xuất thiết bị, công nghệ. Vì vậy, ngoài các công ty môi trường đô thị còn có các doanh nghiệp tư nhân cả trong nước và nước ngoài với các hình thức liên doanh, liên kết. Có thể nói, ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đã có những bước đi ban đầu. Tuy nhiên, phải đến khi Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời k đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ra đời thì ngành công nghiệp môi trường mới được đặt nền gạch cho sự hình thành và phát triển một cách chính thức. Năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường ra đời nhưng phải đến năm 2014 mới có khái niệm chính thức về ―Công nghiệp môi trường‖. Trong suốt giai đoạn này, nhiều chính sách vẫn được vận dụng để phát triển ngành công nghiệp môi trường như: Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực môi trường; Nghị định số 04/2009/NĐ-CP về ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường; Nghị định số 19/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014. Nhiều quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng đã được ban hành để thúc đẩy phát triển ngành Công nghiệp môi trường như: Quyết định số 1030/QĐ-TTg ngày 20/7/2009 phê duyệt ―Đề án phát triển ngành Công nghiệp môi trường đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025‖, Quyết định số 249/QĐ-TTg ngày 10/2/2010 phê duyệt ―Đề án phát triển dịch vụ môi trường đến năm 2020‖, Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5/9/2012 phê duyệt ―Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020‖, Quyết định số 1292/QĐ-TTg ngày 1/8/2014 phê duyệt kế hoạch hành động phát triển ngành Công nghiệp môi trường và tiết 685
- kiệm năng lượng thực hiện chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo quy định tại Khoản 5, Điều 121, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Bộ Công Thương là đơn vị được Chính phủ giao nhiệm vụ chỉ đạo phát triển ngành Công nghiệp môi trường. Năm 2011, Hiệp hội Công nghiệp Môi trường Việt Nam được thành lập và chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Công Thương với mục đích phát triển ngành công nghiệp môi trường thành một ngành có đóng góp quan trọng trong cơ cấu phát triển ngành công nghiệp Việt Nam và giải quyết hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ môi trường, sử dụng bền vững tài nguyên. Hiệp hội có vai trò là đầu mối kết nối các doanh nghiệp, các tổ chức, chuyên gia thực hiện các nhiệm vụ liên quan tới ngành công nghiệp môi trường. Tuy nhiên, đến năm 2013, Phòng Kiểm soát ô nhiễm và Công nghiệp môi trường trực thuộc Bộ Công thương mới ra đời tại Quyết định số 699/QĐ-BCT ngày 31/1/2013 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp. Lúc này, bộ máy quản l nhà nước về phát triển ngành Công nghiệp môi trường mới được định hình. Trong thời gian qua, để đảm bảo cho phát triển ngành CNMT ổn định và chắc chắn, các hoạt động của ngành CNMT luôn bám sát những mục tiêu đã đề ra trong ―Đề án phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025‖ do Bộ Công Thương chủ trì. Trong đó, định hướng phát triển ngành CNMT ở nước ta phải đảm bảo đạt được mục tiêu tổng quát là phát triển ngành CNMT thành một ngành có khả năng cung cấp các công nghệ, thiết bị, dịch vụ, sản phẩm phục vụ yêu cầu bảo vệ môi trường nhằm xử lý, kiểm soát ô nhiễm, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm và cải tạo chất lượng môi trường. Cụ thể, năm 2015, các đơn vị tiến hành xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển ngành CNMT; phát triển các doanh nghiệp, các tổ chức nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ môi trường đủ năng lực đáp ứng cơ bản nhiệm vụ bảo vệ môi trường, sử dụng bền vững tài nguyên; nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc phát triển ngành CNMT. Tầm nhìn đến năm 2025, ngành CNMT sẽ phát triển thành một ngành kinh tế có đóng góp quan trọng trong cơ cấu phát triển ngành công nghiệp Việt Nam; phát triển các doanh nghiệp CNMT, các tổ chức nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao về môi trường có khả năng giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ môi trường, sử dụng bền vững tài nguyên. Các hoạt động nhằm phát triển ngành CNMT tại Việt Nam cần cân đối và hài hòa giữa ba lĩnh vực chính: Dịch vụ môi trường; phát triển công nghệ và sản xuất thiết bị; phát triển và phục hồi tài nguyên thiên nhiên. Tích cực thực hiện mục tiêu được đề ra trong ―Đề án phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025‖, số lượng các doanh nghiệp CNMT đã tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng về lĩnh vực hoạt động. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, năm 2011, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực môi trường là 928 doanh nghiệp, trong đó, có khoảng hơn 10 doanh nghiệp chuyên sản xuất và chế tạo thiết bị công nghệ môi trường như hệ thống lọc khí, bụi, lò đốt 686
- chất thải nguy hại và thông thường, các thiết bị công nghệ phân loại rác, sản xuất phân compost, viên nhiên liệu, 125 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực thoát nước và xử l nước thải (105 nhà máy xử l nước thải cho khu công nghiệp với tổng công suất thiết kế 201.950m3 /ngày đêm, chiếm 61% tổng số khu công nghiệp đang hoạt động, tốc độ tăng trưởng năng lực xử l nước thải khoảng 10%/năm; Khu vực đô thị, cả nước có 20 dự án với tổng công suất 1,75 triệu m3 /ngày đêm, trong đó có 12 nhà máy đang hoạt động với tổng công suất 415 ngàn m3 /ngày đêm); 473 doanh nghiệp làm dịch vụ xử lý chất thải rắn. Đến tháng 5 năm 2012, theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, cả nước có 86 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xử lý chất thải nguy hại, đã được cấp ph p. Ước tính tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị đạt khoảng 83%, ở khu vực nông thôn đạt khoảng 40 - 55%; chất thải nguy hại được thu gom, xử l đạt khoảng 65%; tỷ lệ chất thải rắn y tế được thu gom đạt trên 75%. Với năng lực xử lý hiện tại còn rất thấp, mới chỉ đáp ứng khoảng 1/3 nhu cầu, thì đây sẽ là thách thức không nhỏ cho ngành công nghiệp môi trường. Tính đến cuối năm 2012, theo kết quả điều tra khảo sát của Tổng cục Môi trường, tại 53 tỉnh/thành phố trên cả nước, có 3.982 doanh nghiệp đăng k hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp môi trường. Tổng số doanh nghiệp thành lập mới giai đoạn 2006 - 2012 là 3.581 doanh nghiệp, trong đó giai đoạn năm 2006 đến 2009 là giai đoạn phát triển mạnh nhất về số lượng các doanh nghiệp dịch vụ môi trường (DVMT) lên tới 2.321 doanh nghiệp. Năm 2016, theo báo cáo của Hiệp hội Công nghiệp môi trường, Việt Nam có khoảng gần 4.000 doanh nghiệp được cấp ph p hoạt động trong lĩnh vực môi trường như: thu gom, vận chuyển và xử l chất thải thông thường và chất thải nguy hại. Tuy nhiên, theo số liệu khảo sát, đánh giá của Bộ Công Thương, tính đến hết năm 2016, ngành CNMT Việt Nam mới chỉ đáp ứng 2-3% nhu cầu xử l nước thải đô thị; 15% nhu cầu xử lý chất thải rắn, 14% nhu cầu xử lý chất thải nguy hại. Các doanh nghiệp CNMT còn hạn chế về số lượng lẫn quy mô, vốn điều lệ ít (52,6% doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn dưới 5 tỷ đồng, số lượng doanh nghiệp quy mô lớn, vốn trên 500 tỷ đồng chỉ chiếm khoảng 2,84%). Xét về phân bố, hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp môi trường bao gồm các hoạt động dịch vụ, tư vấn, chế tạo và cung cấp thiết bị môi trường đã có mặt trên hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước. Tuy nhiên, sự phân bố của các doanh nghiệp không đều, phần lớn các doanh nghiệp tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn, khu vực đồng bằng, nơi có hoạt động công nghiệp phát triển mạnh, phát sinh nhiều chất thải và nhận thức của cơ sở sản xuất về bảo vệ môi trường cao, chỉ tính riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã có tới 2.308 doanh nghiệp thực hiện các hoạt động dịch vụ môi trường. Địa bàn hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ môi trường ở các tỉnh, thành phố này cũng rất rộng, vượt ra khỏi phạm vi của một tỉnh, thành phố. Bên cạnh một số lĩnh vực dịch vụ môi trường đã hoạt động từ lâu đời như dịch vụ thu gom, xử l rác thải sinh hoạt, dịch vụ quan trắc và phân tích môi trường thì đa số các lĩnh vực dịch vụ còn lại ở Việt Nam còn tương đối mới m . Trong các doanh nghiệp dịch vụ môi trường được Hiệp hội Công nghiệp Môi trường điều tra năm 2015 cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều đăng k hoạt động từ 2 loại hình dịch vụ môi trường 687
- trở lên, chưa có doanh nghiệp nào có khả năng cung cấp tất cả 09 loại hình dịch vụ, các doanh nghiệp có khả năng cung cấp từ 5 dịch vụ trở lên chiếm tỉ lệ nhỏ, tập trung tại các thành phố như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng… Trong số 493 doanh nghiệp được điều tra của Hiệp hội Công nghiệp Môi trường, các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong dịch vụ tư vấn, đào tạo, cung cấp thông tin về môi trường (chiếm 50%); lĩnh vực dịch vụ thiết kế, chế tạo, xây dựng hệ thống xử l chất thải (chiếm 43%); dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử l chất thải (chiếm 45%); tiếp theo là dịch vụ quan trắc, phân tích môi trường (chiếm 20%); dịch vụ khắc phục và cải tạo môi trường (chiếm 9%); dịch vụ phát triển, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, công nghệ môi trường (chiếm 6%). Các doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực khác còn khá khiêm tốn như doanh nghiệp DVMT đối với máy móc, thiết bị, công nghệ, giám định thiệt hại về môi trường (chiếm 3%); dịch vụ kiểm toán môi trường hầu như chưa có (chỉ chiếm 1%); không có doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường (chiếm 0%). Đối với loại h nh doanh nghiệp CN T, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân. Theo số liệu điều tra của Tổng cục môi trường thì tỷ lệ các doanh nghiệp thực hiện cung cấp dịch vụ tư vấn, đào tạo, cung cấp thông tin về môi trường chiếm 50%; trong đó doanh nghiệp nhà nước (các Công ty Cổ phần, Công ty TNHH mà Nhà nước chiếm vốn điều lệ chủ yếu) và các Trung tâm, Trường, Viện, đơn vị sự nghiệp chiếm 5,5%, doanh nghiệp cổ phần và tư nhân chiếm 94,2%, còn lại 0,3% là các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quy mô của các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ với từ 10 đến 50 lao động và tổng vốn đăng k kinh doanh từ 10-15 tỷ đồng (chiếm 58,5%), doanh nghiệp siêu nhỏ với dưới 10 lao động (chiếm 27,4%), doanh nghiệp quy mô vừa chỉ chiếm 14,1%. Tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện cung cấp dịch vụ quan trắc và phân tích môi trường chiếm khoảng 20%, hầu hết các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đều thuộc các nhóm đối tượng như: Trung tâm thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường (chiếm đa số), Trung tâm quan trắc thuộc viện chuyên ngành, Trung tâm nghiên cứu thuộc các trường đại học/viện nghiên cứu, một số Trung tâm quan trắc thuộc các dự án dài hạn (thường có yếu tố tài trợ nước ngoài). Tỷ lệ các doanh nghiệp thực hiện cung cấp dịch vụ thiết kế, chế tạo, xây dựng hệ thống xử l chất thải chiếm 43%; trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm 7%, doanh nghiệp cổ phần chiếm 24%, doanh nghiệp tư nhân chiếm 67%, còn lại 2% là các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ lớn đến 98%, doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực này chỉ chiếm khoảng 2%. Đặc thù của doanh nghiệp là cung cấp sản phẩm tư vấn và công nghệ do đó nhân sự của các doanh nghiệp này có trình độ chung khá cao (đại học và trên đại học). Hiện nay tất cả các dịch vụ thi công xử l chất thải các doanh nghiệp Việt Nam đều có thể đáp ứng được từ con người đến máy móc thi công, tuy nhiên đối với dịch vụ thiết kế, chế tạo hệ thống xử l của nhiều dự án lớn thường lựa chọn các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Cũng theo số liệu điều tra khảo sát của Tổng cục môi trường cho thấy các doanh nghiệp thực hiện dịch vụ giám định về môi trường đối với máy móc, thiết bị, công nghệ, giám định về môi trường chỉ chiếm 3%, trong đó chủ yếu các Viện, Trung tâm, đơn vị của Nhà nước. Tuy nhiên, 688
- các đơn vị này cũng mới chỉ cung cấp dịch vụ giám định thiệt hại về môi trường theo đơn đặt hàng khi có xảy ra tranh chấp về môi trường trên cơ sở sử dụng đội ngũ chuyên gia trình độ cao, kinh nghiệm lâu năm hiện có. Hầu như chưa có đơn vị tư nhân nào tham gia cung cấp dịch vụ giám định về môi trường đối với máy móc, thiết bị, công nghệ do hiện nay chưa có hành lang pháp l nào cho dịch vụ này. Đối với sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp môi trường tại Việt Nam, hiện vẫn chưa có sự tham gia của loại hình doanh nghiệp này. Tuy nhiên, theo dự báo của Tổng cục Môi trường, nhu cầu tài chính cho công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động xử lý nước thải các khu đô thị, công nghiệp giai đoạn 2017- 2025 khoảng 25.7 - 26.3 tỷ USD trong trường hợp giữ nguyên kế hoạch theo Quyết định 1930/QĐ-TTg phê duyệt định hướng phát triển thoát nước đô thị khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050, mức thiếu hụt này chủ yếu phát sinh vào giai đoạn 2020 – 2025 do nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng cao. Trước thực trạng này, việc huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ là một giải pháp hữu ích nhằm bổ sung nguồn tài chính thiếu hụt cho ngành công nghiệp môi trường. Về qu mô, các doanh nghiệp môi trường nói chung và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ môi trường nói riêng phần lớn được xếp vào doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, ít doanh nghiệp lớn. Cũng theo số liệu điều tra, khảo sát của Hiệp hội công nghiệp môi trường năm 2015 nói trên, vốn đăng k kinh doanh của các doanh nghiệp trung bình là 35.856.404.908 đồng /1 đơn vị. Trong lĩnh vực xử l nước thải công nghiệp, một số công ty có quy mô khá lớn như SEEN, Công ty Môi trường Á Đông, Công ty môi trường ECO; một số công ty nước ngoài chuyên thực hiện các dự án ODA chính phủ trong lĩnh vực này như EBARA (Nhật Bản), xử l các loại nước thải công nghiệp như Glowtec (Singapore), xử l và chế biến rác CSW (Hoa K ). Nhóm doanh nghiệm quy mô vốn từ 1 – 5 tỷ đồng là phổ biến nhất (315 DN, chiếm 28% tổng số DN); nếu tính cả các doanh nghiệp nhỏ hơn, có tới 592 doanh nghiệp, chiếm tới 52,6% tổng số DN. Số doanh nghiệp lớn có số vốn trên 500 tỷ VNĐ chỉ là 32, chiếm 2,84% tổng số doanh nghiệp môi trường. Về năng lực chế tạo thiết bị, cung cấp sản phẩm môi trường, Việt Nam có một số công ty, tổ chức cung cấp thiết bị xử l bụi, khí thải cho nhiều ngành công nghiệp. Tuy nhiên, mới chỉ thực hiện khâu lắp ráp. Các công ty của Việt Nam, nhất là những công ty lớn (SEEN, ASIATECH...) có thể sản xuất được những thiết bị tiền xử l , xử l hóa l (sàng rác, thiết bị tuyển nổi, lắng, lọc thông thường, các thiết bị tự động hóa...). Khó khăn là thiết kế các công nghệ đặc thù, các thiết bị cơ điện (bơm các loại, máy n n khí, các cơ cấu phân tán khí...), linh kiện điện tử, màng lọc... phần lớn phải nhập ngoại. Tuy nhiên, sản xuất ở quy mô công nghiệp gặp khó khăn, do thị trường chưa được tiêu chuẩn hóa. Việt Nam đã sản xuất được các thiết bị, công nghệ phân loại rác trước xử l (tỷ lệ nội địa hóa đã đạt 65 - 70%) và một số thiết bị xử l rác thải đặc thù. Lĩnh vực tái chế rác thải Việt Nam đã có thiết bị công nghệ phân loại, ủ phân hiếu khí sản xuất phân vi sinh từ rác hữu cơ (đã phân loại), sản xuất viên năng lượng, tái chế nhựa d o, phế thải cao su thành dầu RO. Hiện đã có khoảng 30 nhà máy xử l rác sinh hoạt sử dụng công nghệ trong nước và các công nghệ nước ngoài (Tây Ban Nha, Đan Mạch, Bỉ, Pháp, 689
- Hàn Quốc) đang hoạt động tại các địa phương. Việt Nam đã làm chủ được công nghệ một số chủng vi khuẩn, một số hóa chất, vật liệu xử l nước, nước thải (clo sát trùng, phèn, PAC, than hoạt tính, cát lọc, vật liệu mang vi sinh...). Việt Nam đã sản xuất một số thiết bị đo, quan trắc qua tự động thông số môi trường. Tuy nhiên, độ ổn định còn k m, thực chất là thiết bị điện tử, còn đầu đo chính phải nhập ngoại. Về cơ bản, Việt Nam đã tận dụng được các phế thải công nghiệp và sinh hoạt để sản xuất ra các loại nguyên liệu phục vụ sản xuất và tiêu dung theo hướng sử dụng bền vững tài nguyên và phục hồi môi trường. Có thể nhận thấy rằng, hầu như vắng bóng các doanh nghiệp nhà nước về CNMT đủ mạnh để giải quyết các vấn đề môi trường lớn, quan trọng của đất nước như trung tâm xử l chất thải nguy hại cấp vùng/liên tỉnh; doanh nghiệp xử l sự cố tràn dầu; doanh nghiệp xử l chất thải rắn sinh hoạt tập trung, doanh nghiệp xử l nước thải sinh hoạt tập trung liên vùng, liên tỉnh; doanh nghiệp giám định tổn thất về tài nguyên và môi trường, doanh nghiệp thẩm định công nghệ môi trường.... Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp môi trường trong nhiều năm qua đã có sự phát triển đáng kể, tuy nhiên tốc độ phát triển còn chậm, chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành công nghiệp môi trường theo thống kê của Tổng Cục thống kê hàng năm đều chỉ đạt chưa tới 1,1%. Bên cạnh đó, tỷ lệ đóng góp trong tổng sản lượng công nghiệp cũng như GDP còn rất khiêm tốn so với mức trung bình của thế giới. Nguồn: Tổng c c thống kê Hình 1. Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp môi trường Việt Nam giai đoạn 2020 - 2019 Từ việc phân tích thực trạng phát triển của ngành CNMT của Việt Nam trong giai đoạn qua có thể rút ra được những đánh giá chung như sau: - Hầu hết các công ty CNMT chỉ có quy mô vừa và nhỏ, không đủ mạnh để giải quyết các vấn đề môi trường lớn, quan trọng của đất nước khi có sự cố môi trường có tính liên tỉnh hay các lĩnh vực đòi hỏi nguồn vốn lớn. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa hình thành được những 690
- doanh nghiệp, những tập đoàn có thương hiệu lớn, uy tín trong nước và quốc tế. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài thường ít tin cậy các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong nước, thường sử dụng các hệ thống thiết lập sẵn từ bản địa đến và nhà thầu trong nước chỉ thực hiện một số việc nhỏ l như cung ứng vật tư phụ, lắp đặt, kiểm định, lập hồ sơ cam kết ... - Các doanh nghiệp CNMT của Việt Nam còn bị hạn chế về khoa học và công nghệ, không đủ khả năng để giải quyết các vấn đề môi trường phức tạp, do đó đa số các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ không đòi hỏi kỹ thuật cao như tư vấn và giải quyết các vấn đề rác thải thông thường. Lĩnh vực dịch vụ khắc phục, cải tạo môi trường và dịch vụ phát triển, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, công nghệ môi trường là những lĩnh vực có tầm quan trọng lớn đối với hiện trạng của môi trường Việt Nam lại chỉ chiếm 6 – 9%. Bên cạnh đó, năng lực sản xuất chế tạo và cung cấp thiết bị môi trường trong nhiều năm vẫn còn nhỏ l , đơn chiếc và tự phát, mới chỉ thực hiện khâu lắp ráp, sản xuất ở quy mô công nghiệp gặp khó khăn, hầu hết các trang thiết bị máy móc phục vụ cho ngành CNMT đều phải nhập khẩu, tỷ trọng nội địa hóa thấp dẫn tới chi phí cho các dịch vụ môi trường còn cao, hạn chế thu hút khách hàng. Đây chính là trở ngại lớn cho sự phát triển của ngành CNMT Việt Nam. - Cơ chế chính sách, pháp luật liên quan đến CNMT vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: (1) hiện nay vẫn chưa có quy định rõ ràng về điều kiện cấp ph p hành nghề cung ứng dịch vụ môi trường, dẫn tới doanh nghiệp được thành lập tràn lan, nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, dẫn đến hoạt động k m hiệu quả; (2) thiếu cơ chế khuyến khích, tạo thị trường cho các doanh nghiệp CNMT hoạt động; (3) chưa có cơ chế cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước tham gia cung ứng DVMT khi các doanh nghiệp CNMT lớn của Việt Nam vẫn là công ty nhà nước trong khi đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ có quy mô vừa và nhỏ, không đủ sức để cạnh tranh.; (4) chế tài xử l vi phạm pháp luật đối với các doanh nghiệp DVMT có hành vi vi phạm còn chưa chặt chẽ, tạo ra những kẽ hở cho nhiều doanh nghiệp ―lách luật‖; (5) chưa có các cơ chế chính sách ưu đãi riêng nhằm độ hỗ trợ các doanh nghiệp CNMT (ưu đãi về tín dụng, thu hút vốn đầu tư; miễn giảm thuế, phí ở mức hợp l ) để khuyến khích, thu hút doanh nghiệp CNMT tham gia. - Chưa có chính sách phát triển CNMT trên phạm vi cả nước một cách đồng đều mà hiện nay các doanh nghiệp trong lĩnh vực này chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn. Điều này, gây khó khăn không nhỏ cho cơ sở sản xuất tìm kiếm, lựa chọn doanh nghiệp thực hiện DVMT phù hợp với điều kiện thực tiễn của mình với mức chi phí tiết kiệm, hiệu quả nhất để xử l các vấn đề xả thải. Tại nhiều địa phương, lợi dụng việc không có các công ty CNMT cung ứng các dịch vụ xử l môi trường, nhiều doanh nghiệp đã xử l xả thải không đúng theo quy định gây ra những ảnh hưởng nguy hại lớn đến môi trường sống xung quanh. 691
- 4. Cơ hội và thách thức tàu FTA thế hệ mới tới ngành công nghiệp môi trƣờng tại Việt Nam 4.1. Thời cơ cho ngành công nghiệp môi trường Việt Nam từ FTA thế hệ mới Mặc dù để thực hiện các cam kết trong FTA thế hệ mới Việt Nam cần phải chuẩn bị và đưa ra nhiều động thái hành động nhưng không thể phủ nhận những lợi ích mà nó đem tới cho nền kinh tế nói chung và ngành công nghiệp môi trường nói riêng. Thứ nhất, FTA thế hệ mới sẽ giúp tạo ra một thị trường rộng lớn cho các doanh nghiệp công nghiệp môi trường. Những đòi hỏi khắt khe về môi trường khi tham gia vào các FTA thế hệ mới sẽ nhanh chóng được cụ thể hóa thông qua hệ thống chính sách pháp luật của chính phủ Việt Nam, buộc các doanh nghiệp trong nước phải sử dụng các biện pháp xử l chất thải, khí thải để bảo vệ môi trường theo quy định. Như vậy, chính những quy định bắt buộc về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững trong các FTA thế hệ mới đã giúp ngành công nghiệp môi trường của nước ta trong tương lai sẽ đón nhận một thị trường rộng lớn chứ không còn nhỏ l , manh mún như hiện nay. Thứ hai, FTA thế hệ mới sẽ giúp phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam lớn mạnh hơn nhờ mở cửa thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài. FTA thế hệ mới không chỉ mở ra một thị trường với tập khách hàng lớn cho ngành công nghiệp môi trường Việt Nam mà nó còn giúp thu hút đầu tư vào ngành này từ các doanh nghiệp nước ngoài với công nghệ và vốn đầu tư cao. Bên cạnh đó, vì việc cung cấp hàng hóa môi trường cơ bản đòi hỏi mức đầu tư cao, nên sự hiện diện thương mại của các doanh nghiệp nước ngoài có thể đóng góp cho việc tăng mức đầu tư và tạo vốn cũng như cải thiện mức độ bao phủ và chất lượng của các hàng hóa môi trường. Đây là một tác động được ngành công nghiệp môi trường mong chờ trong bối cảnh thiếu hụt nguồn tài chính cho đầu tư phát triển ngành khi ngân sách quốc gia có hạn như đã được phân tích trong phần thực trạng phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam. FTA thế hệ mới có thể giúp Đề án ―Thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho bảo vệ môi trường‖ của Tổng cục môi trường nhanh chóng được thực thi và thành công. Thứ ba, FTA thế hệ mới giúp Việt Nam tiếp cận với công nghệ xử l ô nhiễm tiên tiến, nâng cao được chất lượng môi trường chỉ với khoản chi phí thấp. Không chỉ tiếp nhận công nghệ từ các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp môi trường, tham gia vào các FTA thế hệ mới, nước ta cũng sẽ được tiếp nhận hỗ trợ từ các nước phát triển với tư cách là nước đang phát triển trong các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực trong lĩnh vực môi trường. Việt Nam sẽ có cơ hội để hiện đại hóa ngành dịch vụ môi trường, học hỏi kinh nghiệm quản l , nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Thứ tư, với việc đáp ứng các yêu cầu về môi trường, Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng xuất khẩu, hàng hóa Việt Nam sẽ có uy tín tại các thị trường có tiêu chuẩn môi trường khắt khe sẽ kích cầu đối với ngành công nghiệp môi trường. 692
- Hiện nay, trước sự quan tâm ngày càng lớn của người dân về môi trường và phát triển bền vững thì những quy định, tiêu chuẩn về môi trường của hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu ngày càng cao, đặc biệt là các thị trường lớn nhưng khó tính như EU, Mỹ,... Việc đáp ứng những quy định về môi trường sẽ giúp hàng hóa, dịch vụ có xuất xứ từ Việt Nam được tiêu chuẩn hóa và cơ hội tiếp cận các thị trường trên không còn là khó. Điều này cũng giúp các sản phẩm của nước ta tránh được những tranh chấp về thương mại liên quan đến vấn đề về môi trường hay gặp phải. Sự phát triển của các ngành hàng nhờ đáp ứng yêu cầu về môi trường theo tiêu chuẩn trong các Hiệp định thương mại tự do cũng lại chính là yếu tố kích thích nhu cầu đối với các sản phẩm, dịch vụ môi trường, tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của ngành công nghiệp môi trường 4.2. Thách thức đối với ngành công nghiệp môi trường từ FTA thế hệ mới Đối với Việt Nam, việc thực thi các nghĩa vụ đã cam kết trong các thỏa thuận quốc tế và pháp luật quy định trong nước về môi trường không phải là vấn đề mới, tuy nhiên, trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, các nghĩa vụ này trở thành rào cản lớn đối với các ràng buộc và điều chỉnh về thương mại. Đây chính là thách thức lớn cho Việt Nam khi mà cho đến nay, nước ta vẫn chưa có kinh nghiệm trong vấn đề này. - FTA tạo ra những thách thức đối với hệ thống chính sách, pháp uật của Việt Nam iên quan đến môi trường Là một quốc gia đang phát triển, với điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, nguồn lực dành cho hoạt động bảo vệ môi trường còn hạn chế thì việc thực thi một cách nghiêm túc các nghĩa vụ liên quan đến môi trường trong các cam kết FTA thế hệ mới đặt ra nhiều thách thức và khó khăn cho Việt Nam. Điều này xuất phát từ hệ thống chính sách, năng lực thực thi pháp luật, nhận thức và thức của người dân, nguồn lực và năng lực… Đối với hệ thống chính sách và pháp luật về môi trường thì hiện nay Việt Nam vẫn đang trong quá trình tiếp tục hoàn thiện. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều chính sách, pháp luật về môi trường được ban hành, song khuôn khổ pháp l cho lĩnh vực môi trường còn chưa đầy đủ và thậm chí còn chồng chéo trong một số lĩnh vực cụ thể, gây khó khăn cho việc thực thi các cam kết quốc tế. Việc thực thi pháp luật về môi trường chưa thực sự hiệu quả. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là nhận thức và ý thức bảo vệ môi trường của các cán bộ quản lý, doanh nghiệp và người dân còn chưa cao; kinh tế còn nhiều khó khăn; năng lực của đội ngũ cán bộ trong việc xử lý các vấn đề thương mại quốc tế có liên quan đến môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu còn nguồn lực về tài chính dành cho hoạt động bảo vệ môi trường lại hạn chế. Khó khăn về tài chính sẽ dẫn đến việc không có sự đầu tư thích hợp cho các công nghệ hiện đại và các đầu tư khác cho hoạt động bảo vệ môi trường. Điều này sẽ dẫn đến khó khăn trong việc đáp ứng, tuân thủ các nghĩa vụ và tiêu chuẩn đã cam kết trong các FTA thế hệ mới, đặc biệt là trong Hiệp định TPP và EVFTA mà Việt Nam đã k kết xong. 693
- - Mở cửa thị trường, xóa bỏ rào cản thương mại trong FTA thế hệ mới có thể khiến Việt Nam trở thành “bãi thải công nghiệp” gây nguy hại đến môi trường Bên cạnh đó, trong bối cảnh việc xóa bỏ dần các rào cản thương mại và nhập khẩu hàng hóa, vật tư, công nghệ trong điều kiện quy định tiêu chuẩn về môi trường còn thấp và năng lực kiểm soát tuân thủ còn chưa chặt chẽ sẽ dẫn đến nguy cơ Việt Nam trở thành bãi chứa các thiết bị, dây chuyền lạc hậu, là nơi tiêu thụ các loại hàng hóa kém chất lượng. Các hiệp định FTA nói chung và TPP, EVFTA nói riêng sẽ thúc đẩy tăng trưởng đối với một số ngành công nghiệp như dệt nhuộm, da dày, thủy sản, chế biến gỗ, sản xuất linh kiện điện tử, tuy nhiên những ngành này lại có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Bên cạnh đó, nhiều địa phương đã áp dụng các chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư FDI, dẫn đến việc xem nhẹ các vấn đề liên quan đến môi trường. Những bất cập trên được thể hiện rất rõ trong nhiều năm gần đây khi mà những vụ việc lớn liên quan đến ô nhiễm môi trường do ảnh hưởng của hoạt động kinh tế ngày càng gia tăng như Nicotex Thanh Thái chôn thuốc trừ sâu quá hạn trong khuôn viên nhà máy, công ty Shinhan Vina xả chất độc xianua vượt ngư ng 1.900 lần ra môi trường, Vedan xả thải ra song Thị Vải,… và gần đây nhất là vụ việc xả thải ra biển của Formosa Vũng Áng khiến cá chết hàng loạt tại 4 tỉnh miền Trung gây thiệt hại hàng trăm triệu USD... - Mở cửa thị trường ngành công nghiệp môi trường trong FTA thế hệ mới tạo nên áp ực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Như đã đề cập ở trên, FTA thế hệ mới sẽ giúp thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp môi trường nhờ việc mở cửa thị trường. Tuy nhiên, trong khi các nhà đầu tư nước ngoài có vốn lớn, trình độ công nghệ kỹ thuật cao thì các doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn chỉ ở mức nhỏ về quy mô và yếu k m về trình độ công nghệ. Điều này tạo ra áp lực lớn cho các doanh nghiệp công nghiệp môi trường trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đã quen nhận sự bao cấp của ngân sách. Hệ quả là các doanh nghiệp trong nước sẽ phải chia s thị phần của mình hoặc phải chấp nhận đào thải do làm ăn k m hiệu quả. Như vậy, trước thực trạng môi trường của Việt Nam chưa được quan tâm chú trọng bảo vệ và sự k m phát triển của ngành công nghiệp môi trường nước nhà như đã được nêu ở phần 3 thì những quy định về bảo vệ môi trường trong các FTA thế hệ mới chính là thách thức lớn cho Việt Nam khi tham gia. Nếu không nhanh chóng thay đổi, chú trọng bảo vệ môi trường và phát triển ngành công nghiệp môi trường trong nước nhằm giải quyết các vấn đề môi trường thì chính những quy định khắt khe về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong các FTA thế hệ mới lại đem tới cho Việt Nam những trở ngại cũng như những thiệt hại lớn khi tham gia vào các Hiệp định này. 5. Một số giải pháp và iến nghị nh m phát triển ngành công nghiệp môi trƣờng của Việt Nam trƣớc tác động của FTA thế hệ mới 694
- Ngày 13/02/2017, Thủ tướng Chính phủ đã k ban hành Quyết định số 192/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2025. Theo đó, Đề án đặt ra mục tiêu đến năm 2025, ngành công nghiệp môi trường sẽ trở thành một ngành kinh tế có đóng góp quan trọng trong nền kinh tế, cơ bản đáp ứng nhu cầu về bảo vệ môi trường trong nước; từng bước tiến tới xuất khẩu các công nghệ, thiết bị, dịch vụ và sản phẩm bảo vệ môi trường có lợi thế cạnh tranh. Trước thực trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung năm 2019 do những hậu quả của phát triển kinh tế không bền vững thì việc thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp môi trường lại càng trở nên cấp thiết hơn. Căn cứ vào những hạn chế còn tồn tại của ngành CNMT hiện nay, để đạt được những mục tiêu trên thì trong thời gian tới cần tập trung triển khai các giải pháp chính như sau: a) Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển doanh nghiệp công nghiệp môi trường - Cần thực hiện nghiên cứu và rà soát các quy định về pháp luật một cách chặt chẽ đảm bảo hành lang pháp l cho việc hình thành và hoạt động của các doanh nghiệp CNMT, đảm bảo duy trì và hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Xử l nghiêm vi phạm đối với các doanh nghiệp hoạt động cung cấp dịch vụ môi trường. - Ban hành các quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ, ưu đãi, chính sách khuyến khích của Nhà nước khi tham gia cung cấp các dịch vụ môi trường. Ban hành cơ chế khuyến khích hỗ trợ vay vốn, bảo lãnh tín dụng từ các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp khi tham gia cung cấp dịch vụ môi trường. Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án phát triển ngành công nghiệp môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực hiện nay Việt Nam có rất ít doanh nghiệp tham gia như xử l ô nhiễm và bảo vệ môi trường; sản xuất thiết bị xử l ô nhiễm môi trường xử l chất thải, thiết bị quan trắc và phân tích môi trường; thu gom, xử l nước thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải. - Nhà nước cần có chính sách ưu tiên sử dụng các thiết bị và sản phẩm bảo vệ môi trường được sản xuất trong nước nhằm tạo điều kiện phát triển cho ngành công nghiệp phụ trợ cho CNMT, hướng tới giảm thiểu nhập khẩu, tăng tỷ lệ nội địa hóa để có thể xuất khẩu các DVMT trong thời gian tới. Chủ đầu tư các dự án có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước có trách nhiệm ưu tiên sử dụng thiết bị, vật tư, sản phẩm trong nước chế tạo, sản xuất được, chỉ tổ chức đấu thầu quốc tế đối với sản phẩm, thiết bị vật tư không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của gói thầu. - Trong bối cảnh CNMT tại Việt Nam còn phát triển chưa cao, Nhà nước cần hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần kinh phí cho các cơ sở ngành công nghiệp môi trường tham gia các 695
- chương trình xúc tiến thương mại, triển lãm quảng bá sản phẩm nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư cho ngành đồng thời hướng tới thời cơ xuất khẩu CNMT của Việt Nam. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật của các doanh nghiệp dịch vụ môi trường nhằm phát hiện kịp thời các doanh nghiệp vi phạm, cung cấp dịch vụ k m chất lượng. - Xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực công nghiệp môi trường, các bộ đơn giá dịch vụ môi trường, suất đầu tư theo công nghệ trong xử l môi trường. b) Giải pháp về qu hoạch, phát triển mạng lưới doanh nghiệp môi trường Trước bối cảnh phát triển không đồng đều của CNMT tại Việt Nam hiện nay, Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng và ban hành Quy hoạch phát triển ngành CNMT. Xây dựng quy hoạch phát triển doanh nghiệp dịch vụ môi trường đến năm 2020 của từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cơ sở đánh giá, dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ môi trường trên địa bàn, khả năng đáp ứng dịch vụ của doanh nghiệp ngoài địa bàn. Theo đó, Chính phủ cần đảm bảo sự phát triển CNMT tại tất cả các tỉnh, thành phố nhằm cung ứng cho các doanh nghiệp hoạt động tại địa phương các dịch vụ môi trường để tư vấn, hỗ trợ các vấn đề liên quan đến xả thải nhưng đồng thời cũng là kiểm soát việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp công nghiệp môi trường thuộc khu vực nhà nước cần được xây dựng một lộ trình nhất định và cần được đẩy nhanh triển khai thực hiện nhằm tạo môi trường cạnh tranh công bằng, thúc đẩy khối tư nhân tham gia vào ngành CNMT. c) Giải pháp đặt ra cho chính các doanh nghiệp CN T Để có thể phát triển CNMT không chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ từ phía Chính phủ mà cần có sự hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp CNMT tiến tới hình thành và phát triển mạng lưới doanh nghiệp CNMT. Mặc dù đã có những bước phát triển tốt nhưng nhìn chung ngành CNMT tại Việt Nam vẫn còn non tr , yếu về năng lực và tiềm lực tài chính với quy mô chủ yếu là vừa và nhỏ. Điều này đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong ngành để cùng nhau phát triển và tạo ra khả năng cạnh tranh cao hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam trước sự cạnh tranh ngày càng lớn trên thị trường, đặc biệt là khi chúng ta mở cửa thị trường đối với ngành hàng này. Đồng thời, cũng cần phải có sự liên kết giữa các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm hỗ trợ và doanh nghiệp CNMT nhằm hướng tới việc nội địa hóa sản phẩm nhằm giảm giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Sự hợp tác này cũng giúp các doanh nghiệp có thể tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ nhằm tăng năng suất và hiệu quả của các DVMT. 696
- KẾT LUẬN Công nghiệp môi trường tại Việt Nam tuy đã có những bước phát triển mạnh mẽ nhưng vẫn còn hạn chế về quy mô và năng lực, các doanh nghiệp mới chỉ tập trung hoạt động trong các lĩnh vực không đòi hỏi trình độ khoa học, kỹ thuật cao. Chính sự kém phát triển của các doanh nghiệp này đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất cắt giảm khâu xả thải, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường. FTA thế hệ mới buộc Việt Nam khi tham gia phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về môi trường – điều này tạo ra nhiều thời cơ nhưng cũng đem tới thách thức lớn cho ngành công nghiệp môi trường nước nhà trước thực trạng kém phát triển của chính nội tại ngành và cả hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan. Để thực hiện được mục tiêu phát triển công nghiệp môi trường và thực hiện các quy định của các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã k kết thì cần phải có những giải pháp đồng bộ từ Chính phủ nhưng đồng thời cũng đòi hỏi sự liên kết để tạo thành 1 sợi dây mạnh trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt khi Việt Nam mở cửa thị trường, tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do với nhiều quốc gia và tổ chức kinh tế trên thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hu nh Trung Hải, Nguyễn Đức Quảng (2014), “Một số kinh nghiệm về phát triển công nghiệp môi trường trên thế giới”, Tạp chí Môi trường, số 10. 2. Nguyễn Đình Hiệp (2015), Thực trạng phát triển và hoạt động của doanh nghiệp công nghiệp môi trường Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015, Hiệp hội Công nghiệp Môi trường Việt Nam. 3. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 1030/QĐ-TTg: ―Đề án phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025‖. 4. Đỗ Khắc Uẩn và các tác giả (2010), “Định hướng phát triển công nghiệp môi trưởng ở Việt Nam trong những năm tới”, Kỷ yếu Hội nghị môi trường toàn quốc lần thứ III, Hà Nội, tr 352-358. 5. Website Bộ Tài Nguyên Môi trường, http://www.monre.gov.vn/ 6. Website Hiệp Hội Công nghiệp môi trường Việt Nam, http://veia.com.vn/ 697
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn