BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ----------------

TRẦN THỊ TRÚC

TÁC ĐỘNG CỦA DI CƢ NỘI ĐỊA TỚI ĐỜI SỐNG CỦA NGƢỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM CHU N NG NH: KINH TẾ HỌC

M SỐ: 9310101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

N ƣờ ƣớn n o ọ :

PGS.TS. GIANG THANH LONG

H NỘI, 2018

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi

cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi

phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

N ên ứu s n

Trần T ị Trú

ii

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới tập thể Ban Giám hiệu, các thầy,

các cô và các nhà khoa học của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt là các

thầy, các cô của của Khoa Kinh tế học và Viện Sau Đại học đã tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ để tác giả hoàn thành luận án.

Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Giang Thanh Long

(Viện Chính sách Công và Quản lý, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) đã tận tình

hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình hoàn thành luận án.

Tác giả xin cảm ơn Ban Giám đốc và đồng nghiệp tại Học viện Chính sách và

Phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã tạo điều kiện và chia sẻ với tác giả trong quá

trình hoàn thành luận án.

Tác giả đặc biệt gửi lời tri ân tới toàn thể gia đình, người thân và bạn bè đã luôn

động viên khích lệ và tạo điều kiện thuận lợi để tác giả hoàn thành luận án.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

N ên ứu s n

Trần T ị Trú

iii

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................................... iii

DANH MỤC BẢNG .......................................................................................................... v DANH MỤC HÌNH ......................................................................................................... vii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1

CHƢƠNG 1 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN ..................................................... 5

1.1. Cơ sở lý t uyết về ƣ và n ƣờ o tuổ ......................................................... 5 1.1.1. Các vấn đề cơ bản liên quan đến di cư .............................................................. 5 1.1.2. Các vấn đề cơ bản liên quan đến người cao tuổi ............................................ 14

1.2. Cá n ên ứu t ự n ệm về tá độn ủ ƣ tớ đờ sốn n ƣờ o tuổ .............................................................................................................................. 15 1.2.1. Về khía cạnh kinh tế ........................................................................................ 16

1.2.2. Về khía cạnh sức khỏe .................................................................................... 25

1.2.3. Về khía cạnh xã hội ......................................................................................... 32

1.3. Cá ả t uyết o ọ .................................................................................... 34

1.4. K un p ân tí lý t uyêt ủ luận án ............................................................ 34

Kết luận ƣơn 1 ............................................................................................................ 36

CHƢƠNG 2 SỐ LIỆU V PHƢƠNG PHÁP NGHI N CỨU .................................. 38

2.1. Số l ệu .................................................................................................................. 38 2.1.1. Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) ....................................... 38

2.1.2. Điều tra người cao tuổi Việt Nam (VNAS) năm 2011 ................................... 39

2.2. P ƣơn p áp n ên ứu .................................................................................. 40 2.2.1. Đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống kinh tế của NCT................ 40

2.2.2. Đánh giá tác động của di cư nội địa lên sức khỏe của NCT ........................... 46

2.2.3. Đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống xã hội của người cao tuổi Việt Nam ................................................................................................................... 49

Kết luận ƣơn 2 ............................................................................................................ 53 CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG DI CƢ NỘI ĐỊA, ĐẶC ĐIỂM V THỰC TRẠNG

ĐỜI SỐNG NGƢỜI CAO TUỔI CÓ CON DI CƢ NỘI ĐỊA ................................... 54 3.1. T ự trạn ƣ nộ đị ở V ệt N m từ năm 1989 đến n y .......................... 54 3.1.1. Xu hướng di cư nội địa theo thời gian ............................................................ 54 3.1.2. Xu hướng di cư nội địa theo luồng di cư và loại hình di cư ........................... 55 3.1.3. Xu hướng di cư nội địa theo vùng và tỉnh ....................................................... 56 3.1.4. Đặc điểm của người di cư ............................................................................... 61

iv

3.2. Đặ đ ểm ủ n ƣờ o tuổ V ệt N m ............................................................ 65 3.2.1. Đặc điểm về nhân khẩu học của người cao tuổi Việt Nam ............................. 65

3.2.2. Đời sống vật chất và bảo trợ xã hội đối với người cao tuổi ............................ 66

3.2.3. Điều kiện nhà ở của người cao tuổi ................................................................ 68

3.2.4. Thực trạng sức khoẻ của người cao tuổi Việt Nam ........................................ 70

3.3. Thực trạng đời sống của người cao tuổi Việt Nam khi con cái di cư nội địa .... 70 3.3.1. Khía cạnh kinh tế thông qua việc nhận tiền gửi .............................................. 70 3.3.2. Tình hình sức khỏe của người cao tuổi khi con cái di cư nội địa ................... 72

Kết luận C ƣơn 3 ........................................................................................................... 79

CHƢƠNG 4 KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ TỪ MÔ HÌNH NGHI N CỨU V MỘT SỐ

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ........................................................................ 81

4.1. Kết quả đán á tá độn ủ ƣ nộ đị lên đờ sốn NCT .................... 81 4.1.1. Đời sống kinh tế .............................................................................................. 81

4.1.2. Kết quả đánh giá tác động của di cư nội địa lên sức khỏe của NCT .............. 87

4.1.3. Kết quả đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống xã hội của NCT .... 93

4.2. Một số p ân tí n oạ suy về tá độn ủ ƣ nộ đị tớ đờ sốn NCT

đến năm 2017 ............................................................................................................. 96

4.3. G ả p áp n ằm ả t ện đờ sốn o NCT V ệt N m, đặ b ệt là NCT ó

on ƣ nộ đị ........................................................................................................ 97 4.3.1. Giải pháp nhằm nâng cao đời sống kinh tế và giảm nghèo ............................ 97

4.3.2. Giải pháp nhằm cải thiện sức khỏe ................................................................. 99

4.3.3. Giải pháp nhằm nâng cao đời sống xã hội .................................................... 100

Kết luận ƣơn 4 .......................................................................................................... 102 KẾT LUẬN V ĐỊNH HƢỚNG NGHI N CỨU TIẾP THEO .............................. 105

1. Kết luận ................................................................................................................ 105

2. Địn ƣớn n ên ứu t ếp t eo ...................................................................... 106

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ Đ CÔNG BỐ ................................ 107 DANH MỤC T I LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 108

PHỤ LỤC ........................................................................................................................ 116

v

DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Giá trị tiền gửi theo loại hình di cư ............................................................ 39

Bảng 3.1. Dân số 5 tuổi trở lên chia theo loại hình di cư, 1989-2014 ........................ 54

Bảng 3.2. 10 tỉnh/ thành phố có tỷ suất nhập cư cao nhất ở Việt Nam qua các giai đoạn ............................................................................................................ 57

Bảng 3.3: 10 tỉnh có tỷ suất xuất cư cao nhất qua các thời kỳ ở Việt Nam ................ 58

Bảng 3.4: 10 tỉnh có tỷ suất di cư thuần cao nhất qua các thời kỳ từ 2004-2014 ở

Việt Nam .................................................................................................... 59 Bảng 3.5: Dân số từ 5 tuổi trở lên vào thời điểm 01/4/2009 và 01/4/2014 chia theo

nơi thực tế thường trú theo tỉnh/ thành phố. ............................................... 60

Bảng 3.6: Tuổi trung bình và trung vị của người di cư theo giới tính và loại hình di

cư qua các giai đoạn từ 1999 to 2014 ......................................................... 61

Bảng 3.7: Cơ cấu giới tính của người di cư và không di cư qua ba cuộc khảo sát: 1999, 2009 và 2014. ................................................................................... 62

Bảng 3.8: Tỷ lệ dân số từ 15-54 tuổi chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật và loại

hình di cư năm 2014. .................................................................................. 63

Bảng 3.9: Tỷ lệ người di cư và không di cư sống trong các hộ gia đình có điều kiện

sống khác nhau ở hai cuộc khảo sát năm 2009 và năm 2014. ................... 64

Bảng 3.10: Đặc điểm xã hội, nhân khẩu học và sắp xếp cuộc sống của NCT. ............ 65

Bảng 3.11. Tỷ lệ người cao tuổi sống trong hộ gia đình nghèo (đơn vị tính: %) ......... 67

Bảng 3.12: Tỷ lệ (%) người cao tuổi được khảo sát theo tình trạng công việc ............ 67

Bảng 3.13. Điều kiện nhà ở của các hộ có người cao tuổi (đơn vị tính: %) ................. 68

Bảng 3.14. Phần trăm các hộ gia đình nhận được tiền gửi tính theo nguồn gốc tiền gửi... 71

Bảng 3.15. Phần trăm của giá trị tiền gửi tính theo nguồn gốc tiền gửi ....................... 71

Bảng 3.16. Tình hình sức khỏe của người cao tuổi có con di cư nội địa và không có

con di cư nội địa ......................................................................................... 73 Bảng 3.17. Việc tham gia các tổ chức xã hội của người cao tuổi................................. 75

Bảng 3.18. Việc nâng cao nhận thức xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng của NCT ........................................................................................... 77 Bảng 4.1. Mô tả thống kê các biến được sử dụng trong mô hình ............................... 81 Bảng 4.2. Kết quả ước lượng mô hình hồi qui 2SLS ................................................. 83 Bảng 4.3. Kết quả kiểm định Khi bình phương đối với sự bằng nhau về tỷ lệ nhóm hộ có người cao tuổi có con di cư nội địa nhận được tiền gửi từ di cư nội địa sống trong nhà tạm so với các nhóm hộ khác ...................................... 84

vi

Bảng 4.4. Kết quả kiểm định Khi bình phương đối với sự bằng nhau về tỷ lệ nhóm hộ có người cao tuổi có con di cư nội địa nhận được tiền gửi từ di cư nội

địa không có nhà vệ sinh so với các nhóm hộ khác. .................................. 85

Bảng 4.5. Kết quả tính hệ số Gini trên thu nhập bình quân đầu người một tháng của hộ gia

đình NCT có con di cư nội địa trước và sau khi nhận tiền gửi từ di cư nội địa. ...... 85 Bảng 4.6. Sự dịch chuyển mức sống của các nhóm hộ gia đình trước và sau khi nhận

tiền gửi (%) ................................................................................................. 86 Bảng 4.7. Mô tả thống kê các biến trong mô hình ...................................................... 87

Bảng 4.8. Kết quả ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến biến con cái di cư nội địa .. 88

Bảng 4.9. Kết quả đánh giá tác động của con cái di cư lên sức khoẻ thể chất và tinh

thần của NCT ............................................................................................. 91

Bảng 4.10. Mô tả thống kê các biến được sử dụng trong mô hình ............................... 93 Bảng 4.11. Kết quả đánh giá tác động của di cư nội địa lên các khía cạnh của đời

sống xã hội của người cao tuổi ................................................................... 94

vii

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Khung phân tích của luận án ...................................................................... 35 Hình 3.1. Tỷ lệ người di cư trong 5 năm chia theo luồng di cư và loại hình di cư,

1999- 2014. ................................................................................................. 55

Hình 3.2. Thể hiện giá trị trung bình của tiền gửi theo loại hình di cư. ..................... 72

1

MỞ ĐẦU

1. Lý o lự ọn đề tà

Với những thành công vượt bậc trong việc thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình trong nhiều thập kỷ qua, dân số Việt Nam đang tiến dần về giai đoạn cuối của

“quá độ dân số” mà ở đó tỷ suất sinh giảm nhanh và tuổi thọ ngày càng được cải thiện

(Giang và Pfau, 2010). So với các quốc gia phát triển thì Việt Nam sẽ đối mặt với tốc

độ già hóa nhanh hơn gấp hai lần trong bốn thập kỷ tới đây. Cụ thể, tỷ lệ người cao tuổi (NCT) từ 65 tuổi trở lên ở Việt Nam sẽ tăng gấp đôi (từ 7% lên 14%) trong thời

gian chưa tới 20 năm, trong khi các nước phát triển (như Thụy Điển, Pháp, Mỹ…) phải

mất từ 75 đến 100 năm (Barbieri, 2006). Báo cáo của Quỹ Dân số Liên hợp quốc

(UNFPA, 2011) cho thấy, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn “bắt đầu già” từ

năm 2011 khi tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên chạm ngưỡng 7%.

Cùng lúc đó, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh cũng đã làm cho việc

sắp xếp cuộc sống của người cao tuổi (sau đây được viết tắt là NCT) thay đổi nhanh

chóng, đặc biệt là NCT ở khu vực nông thôn – nơi có tới gần 70% dân số cao tuổi đang

sinh sống (UNFPA, 2011). Trước đây, mẫu gia đình truyền thống, đặc biệt là các gia đình

ở khu vực nông thôn, là gia đình có nhiều thế hệ cùng sinh sống và chia sẻ nguồn lực. Tuy

nhiên, sự thay đổi từ mẫu gia đình truyền thống sang mẫu gia đình hạt nhân (đặc biệt là

gia đình chỉ có hai vợ chồng cao tuổi sống với nhau hoặc chỉ có ông bà sống với cháu,

chắt) lại ngày càng rõ rệt. Một trong những yếu tố làm thay đổi cuộc sống NCT, đặc biệt

là NCT ở khu vực nông thôn, là việc di cư của những người con trong độ tuổi lao động

nhằm mục đích chính là tìm kiếm các cơ hội phát triển kinh tế. Ở Việt Nam, tốc độ di cư, đặc biệt là di cư nội địa, diễn ra nhanh chóng kể từ giữa những năm 1990 đến nay. Theo

Tổng cục Thống kê (2012), trong giai đoạn 1999-2009, tỷ lệ di cư liên vùng đã tăng gần

1,5 lần (từ 19 người/1000 dân vào năm 1999 tăng lên 30 người/1000 dân vào năm 2009) và con số này ngày càng tăng trong những năm gần đây. Theo Tổng cục Thống kê (2016),

trong số hơn 83 triệu dân từ 5 tuổi trở lên tại thời điểm 01/4/ 2014, trong vòng 5 năm trước thời điểm điều tra thì có 1,7% (tương ứng với 1,4 triệu người) di cư trong huyện; 2% (tương ứng với 1,6 triệu người) di cư giữa các huyện; và 3,1% (tương ứng với 2,6 triệu người) di cư giữa các tỉnh.

Vấn đề di cư để kiếm sống của con cái có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của những người ở lại quê nhà, đặc biệt là cha, mẹ cao tuổi của họ. Nhìn chung, người lao động di cư sẽ có đóng góp tích cực về mặt kinh tế cho gia đình thông qua tiền và hiện vật mà họ gửi về

cho người thân và qua đó cũng góp phần đảm bảo thu nhập cũng như có điều kiện nâng cao

2

sức khỏe cho cha, mẹ già và những người trong gia đình ở lại quê nhà (ví dụ, xem nghiên cứu của Cameron và Cobb-Clark (2005) về người cao tuổi ở Indonesia; Giles và Mu (2006)

về người cao tuổi ở khu vực nông thôn Trung Quốc; Chandore (2009) về đời sống của

người cao tuổi ở Cambodia). Tuy vậy, việc con cái - lực lượng lao động chính trong gia

đình - đi xa đã để lại không ít các tác động bất lợi cho cha, mẹ già ở quê của họ như sự lo lắng cho cuộc sống bấp bênh của con cái họ nơi đô thị, cảm giác cô đơn tuổi già khi con cái

đi xa, phải gánh vác thêm công việc gia đình và xã hội thay con, hay không có người giúp đỡ công việc đồng áng... (ví dụ, xem nghiên cứu của Gautam (1999) về mối quan hệ giữa

người di cư với người cao tuổi ở Nepal; HelpAge International Moldova (2010) về tác động

của di cư đến người cao tuổi ở Moldova; Antman (2011) nghiên cứu về tác động của con

cái di cư ra sang Mỹ đến đời sống của người cao tuổi ở Mexico).

Cho đến nay, ở Việt Nam cũng đã có một số các nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của việc con cái di cư, nhưng các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc đánh

giá vai trò của tiền gửi về từ con cái đi làm xa đối với cuộc sống của cha, mẹ cao tuổi

của họ. Ví dụ, nghiên cứu của Barbieri (2006) cho thấy rằng việc con cái di cư đi làm

ăn xa được kỳ vọng là có những ảnh hưởng tích cực đáng kể và đa chiều lên cuộc sống

của cha, mẹ già ở nông thôn ở Việt Nam - nơi mà các khoản an sinh xã hội cho NCT

còn ít và trách nhiệm chăm sóc NCT phần lớn vẫn là từ người thân trong gia đình và

cộng đồng. Phân tích của Giang và Pfau (2008) cho thấy việc nhận tiền gửi từ con cái

và các chương trình an sinh xã hội đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong giảm

nghèo cho NCT, đặc biệt là những người ở khu vực nông thôn. Tiếp đó, Giang và Pfau

(2010) kết luận thêm rằng việc sống cùng con cái hay nhận tiền gửi về từ con cái di cư

(kể cả di cư nội địa và di cư quốc tế) đang ngày càng giúp NCT giảm nghèo và cải thiện cuộc sống. Nguyễn Việt Cường (2008) chứng minh rằng việc nhận tiền gửi cả từ

di cư ra nước ngoài và trong nước đều làm tăng thu nhập và chi tiêu, đặc biệt là chi

tiêu cho hàng hóa phi lương thực của người nhận tiền gửi (trong đó có NCT). Lê và Nguyễn (2011) cho rằng, việc di cư của con cái có khả năng cải thiện tốt hơn thu nhập

và điều kiện sống của cha, mẹ và những người thân còn lại ở quê nhà thông qua những khoản tiền và hàng hóa gửi về, nhưng nghiên cứu này không phân tích rõ là cha, mẹ họ được hưởng bao nhiêu từ tiền do con cái họ gửi về và ảnh hưởng của người di cư lên

sức khỏe và đời sống tinh thần của cha, mẹ già ở quê như thế nào. Nhìn chung, những nghiên cứu này mới chỉ tập trung chủ yếu vào tác động của tiền gửi tới giảm nghèo và bình đẳng chứ chưa đánh giá một cách toàn diện về cả khía cạnh kinh tế, sức khỏe và xã hội của tác động của di cư tới đời sống của các đối tượng trong gia đình, trong đó

có NCT với tư cách là một trong những nhóm dân số dễ bị tổn thương.

3

Có thể nói, những nghiên cứu hiện có về Việt Nam chưa làm rõ được tác động của việc con cái di cư, đặc biệt là di cư trong nước lên đời sống của cha, mẹ cao tuổi ở

quê một cách toàn diện về cuộc sống vật chất và tinh thần. Trong bối cảnh dân số già

hóa nhanh, đời sống NCT có nhiều thay đổi với nhiều rủi ro về kinh tế, xã hội và sức

khỏe, cũng như xu hướng di cư nội địa ngày càng mạnh và tác động lớn, tác giả lựa chọn đề tài “Tác động của di cư nội địa tới đời sống của người cao tuổi ở Việt Nam”

nhằm cung cấp những bằng chứng khoa học cho việc hoạch định chính sách liên quan tới người lao động di cư, đặc biệt là di cư nội địa và NCT ở Việt Nam.

Luận án sẽ sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm đánh giá tác

động của việc di cư nội địa của con cái lên đời sống của người cao tuổi ở quê nhà lên

cả ba khía cạnh: (1) ảnh hưởng về khía cạnh kinh tế của NCT (cụ thể là giảm nghèo và

vấn đề bình đẳng về phân chia thu nhập, điều kiện nhà ở); (2) ảnh hưởng về mặt sức khỏe của NCT (bao gồm có sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần) và (3) ảnh hưởng

tới đời sống xã hội của NCT (cụ thể là tham gia các hoạt động cộng đồng, tổ chức

chính trị - xã hội tại địa phương hay tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng). Từ

kết quả nghiên cứu, luận án sẽ cung cấp các cơ sở khoa học nhằm đưa ra các giải pháp

liên quan đến người lao động di cư và an sinh xã hội cho NCT khi con cái vắng nhà.

2. Mụ t êu n ên ứu

2.1. Mục tiêu chung

Mục tiêu chung của luận án này là phân tích xem việc con cái di cư trong nước

sẽ tác động như thế nào đến đời sống của cha mẹ cao tuổi ở quê nhà theo các khía cạnh

kinh tế, tình trạng sức khỏe và đời sống xã hội.

2.2. Mục tiêu cụ thể

Để thực hiện được mục tiêu chung, luận án sẽ:

- Tổng hợp lý thuyết về di cư, người cao tuổi, vai trò của tiền gửi của người di

cư đối với người nhận tiền gửi, các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của việc con cái di cư lên thu nhập, sức khỏe và đời sống xã hội của cha, mẹ cao tuổi ở quê nhà.

- Phân tích thực trạng di cư nội địa, đặc điểm của NCT Việt Nam và thực trạng ảnh hưởng của con cái di cư nội địa đến đời sống kinh tế, sức khỏe và đời sống xã hội của NCT.

- Vận dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm phân tích tác động của con cái di cư nội địa lên đời sống của NCT ở quê nhà về các khía cạnh kinh tế, sức

4

khỏe và xã hội để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao đời sống cho người cao tuổi, đặc biệt là NCT ở khu vực nông thôn Việt Nam.

3. Đố tƣợn , p ạm vi và âu ỏ n ên ứu.

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án này đánh giá tác động của lao động di cư nội địa lên cuộc sống của

NCT ở quê nhà ở các khía cạnh kinh tế, sức khỏe và xã hội.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu tác động của lao động di cư nội địa ở Việt Nam đến đời sống NCT

Việt Nam ở ba khía cạnh kinh tế, sức khỏe và xã hội trong các năm 2011 và 2012.

4. P ƣơn p áp n ên ứu

Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu nêu trên, luận án sẽ sử dụng các phương pháp

nghiên cứu sau đây.

Phương pháp nghiên cứu tại bàn (rà soát tài liệu, dữ liệu hiện có): Là

phương pháp tổng hợp, phân tích và đánh giá một cách có hệ thống các nghiên cứu lý

thuyết cũng như các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa người di cư và

những thành viên gia đình còn lại ở quê nhà, đặc biệt là NCT. Sau khi thực hiện phần

nghiên cứu tổng quan, tác giả sẽ tìm ra khoảng trống nghiên cứu và từ đó xây dựng

khung lý thuyết nhằm đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống NCT Việt Nam

trên cả ba khía cạnh: kinh tế, sức khỏe và xã hội.

Phương pháp phân tích thống kê: Dựa trên các số liệu thống kê thứ cấp, luận

án sẽ phân tích đặc điểm của người di cư và thực trạng di cư nội địa ở Việt Nam, cũng

như phân tích đặc điểm nhân khẩu học và đời sống của NCT Việt Nam khi con cái di cư nội địa.

Phương pháp mô hình hóa: Luận án sẽ xây dựng mô hình kinh tế lượng nhằm

xác định các yếu tố liên quan tới việc con cái di cư nội địa và các yếu tố đặc điểm của NCT có con di cư nội địa (như tuổi tác, giới tính, trình độ học vấn, địa bàn sinh sống, tình trạng hôn nhân) có thể tác động lên cuộc sống của NCT ở cả ba khía cạnh cần được nghiên cứu. Dựa trên các số liệu thống kê thứ cấp, tác giả sẽ phân tích tác động của con cái di cư lên đời sống NCT ở cả ba khía cạnh kinh tế, sức khỏe và xã hội. Để

đảm bảo được sự thống nhất về thông tin theo thời gian, luận án sử dụng hai bộ số liệu, gồm có: Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) năm 2012 và Điều tra

Người cao tuổi Việt Nam (VNAS) năm 2011.

5

CHƢƠNG 1 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN

Trong Chương này, luận án sẽ trình bày cơ sở lý thuyết về di cư, người cao tuổi

và tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của di cư đến đời sống của người cao tuổi.

1.1. Cơ sở lý t uyết về ƣ và n ƣờ o tuổ

1.1.1. Các vấn đề cơ bản liên quan đến di cư

1.1.1.1. Khái niệm về di cư, người di cư

Di cư là một hiện tượng phổ biến diễn ra ở tất cả các quốc gia nên có nhiều nghiên

cứu cả quốc tế và trong nước về vấn đề này và đã đưa ra một số khái niệm như sau:

Khái niệm về di cư

Trong báo cáo Phát triển Con người (HDR) năm 2009, UNDP định nghĩa di cư

là hiện tượng người lao động sẽ di cư từ nơi có nền kinh tế phát triển thấp sang nơi có

nền kinh tế phát triển cao hơn. Trên thực tế, người lao động di cư không chỉ ra nước

ngoài mà con di cư trong nước.

Tuy nhiên, theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam và UNFPA (2016) nêu ra khái

niệm về di cư “là sự di chuyển của con người từ một đơn vị hành chính này đến một đơn vị hành chính khác, đó là chuyển đến một xã khác, huyện khác, thành phố hoặc

một tỉnh khác trong một khoảng thời gian nhất định” (trang 8).

Khái niệm về người di cư

Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam và UNFPA (2016) thì “Người di cư là

người di chuyển từ huyện/ quận này sang huyện/quận khác trong vòng 5 năm trước

thời điểm điều tra và thỏa mãn một trong ba điều kiện sau: (1) Đã cư trú ở nơi điều tra từ 1 tháng trở lên; (2) Cư trú ở nơi điều tra mới dưới 1 tháng nhưng có ý định ở từ 1

1.1.1.2. Các loại hình di cư

tháng trở lên; (3) Cư trú ở nơi điều tra mới dưới 1 tháng nhưng trong vòng 1 năm qua đã rời khỏi nơi thường trú đến ở một quận/huyện khác với thời gian tích lũy từ 1 tháng trở lên để lao động kiếm tiền” (trang 1).

Theo UNDP (2009), những người di cư bao gồm di cư quốc tế diễn ra giữa những người lao động từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển, từ các nước

đang phát triển đến các nước đang phát triển, giữa các nước phát triển và di cư nội địa

6

diễn ra trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Tuy nhiên, trong phạm vi luận án, tác giả chỉ quan tâm phân tích dòng di cư nội địa. Việc phân loại các loại hình di cư nội

địa ở Việt Nam được trình bày ở Tổng Cục Thống Kê Việt Nam và UNFPA (2016)

theo hai cách như sau:

(1) Cách phân loại di cư theo cấp hành chính gồm có: (i) Di cư giữa các vùng: bao gồm những người từ 5 tuổi trở lên hiện đang sống ở Việt Nam và cách 5 năm trước

thời điểm Tổng điều tra dân số và nhà ở sống ở vùng khác với vùng hiện đang cư trú; (ii) Di cư giữa các tỉnh: bao gồm những người từ 5 tuổi trở lên hiện đang sống ở Việt

Nam và 5 năm trước thời điểm Tổng điều tra dân số và nhà ở sống ở tỉnh khác với tỉnh

hiện đang cư trú; (iii) Di cư giữa các huyện: bao gồm những người từ 5 tuổi trở lên và

cách 5 năm trước thời điểm Tổng điều tra dân số và nhà ở sống trong cùng tỉnh nhưng

khác quận/ huyện so với nơi thường trú hiện tại; (iv) Di cư trong huyện: bao gồm những người từ 5 tuổi trở lên và cách 5 năm trước thời điểm Tổng điều tra dân số và

nhà ở sống trong cùng quận/ huyện nhưng khác xã/phường/thị trấn so với nơi thường

trú hiện tại;

(2) Cách phân loại theo dòng di cư giữa nông thôn và thành thị: (i) Di cư từ khu vực nông thôn đến nông thôn (NT-NT); (ii) Di cư từ khu vực nông thôn đến thành thị

(NT-TT); (iii) Di cư từ khu vực thành thị đến nông thôn (TT-NT); và (iv) Di cư từ

1.1.1.3. Nguyên nhân di cư

khu vực thành thị đến thành thị (TT-TT).

Di cư là một hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển- nơi mà quá trình

công nghiệp hóa và đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng – nên đã có một số lý thuyết

nghiên cứu nguyên nhân của di cư mà trong đó tiêu biểu là lý thuyết hai khu vực kinh

tế của Lewis (1954) và lý thuyết về di cư của Todaro (1969). Cả hai lý thuyết này đều

nghiên cứu hiện tượng di cư từ các nhân tố „đẩy‟ (khu vực nông thôn với năng suất lao động, thu nhập thấp và thiếu đất canh tác) và các nhân tố „hút‟ (khu vực thành thị với

thu nhập, cơ hội việc làm cao hơn).

Theo Lewis (1954), việc di cư của người lao động từ nông thôn lên thành thị chủ yếu là vì sự chênh lệch về tiền lương thực tế giữa hai khu vực. Khu vực thứ nhất là nông thôn với lao động nông nghiệp truyền thống có dư thừa nhiều lao động và năng suất biên của lao động bằng không nên tiền lương trong khu vực nông nghiệp rất thấp được xác định dựa trên sản phẩm lao động trung bình của khu vực nông nghiệp. Khu vực thứ hai là khu vực công nghiệp đô thị hiện đại với năng suất lao động cao, được

hưởng lợi ích kinh tế nhờ qui mô có và nhiều việc làm nhưng lại thiếu người lao động.

7

Lewis đã giả thiết rằng cơ hội việc làm và lương ở khu vực thành thị cao hơn ở khu vực nông thôn nên lao động ở khu vực nông thôn có xu hướng di cư ra khu vực công

nghiệp thành thị. Quá trình di cư sẽ tiếp tục cho đến khi không còn sự khác nhau về

thu nhập giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị nữa. Tuy nhiên, Todaro (1969)

lại cho rằng, ở các nước kém phát triển việc lao động di cư từ nông thôn lên thành thị như trên mới chỉ là hiện tượng di cư một chiều và người lao động di cư từ nơi có công

việc ở khu vực nông thôn với năng suất lao động và thu nhập thấp sang khu vực thành thị có công việc với năng suất lao động và thu nhập cao. Tuy vậy, trên thực tế, việc

một người di cư từ nông thôn với kỹ năng tay nghề thấp sẽ rất khó tìm được việc ở khu

vực thành thị đòi hỏi trình độ chuyên môn và kỹ năng tay nghề cao. Tác giả cho rằng ở

các nước kém phát triển thì lao động di cư sẽ tuân theo hai giai đoạn như sau: giai

đoạn thứ nhất là người lao động nông thôn với trình độ và kỹ năng tay nghề thấp ban đầu sẽ tìm việc ở khu vực “truyền thống thành thị” và giai đoạn thứ hai sẽ tìm việc ở

khu vực hiện đại hơn. Vì vậy, người lao động sẽ quyết định di cư lên thành phố dựa

trên việc phân tích các cơ hội việc làm sẵn có trên hai thị trường lao động tướng ứng

và quyết định trên cơ sở tối đa hóa thu nhập kỳ vọng được xác định dựa trên chênh

lệch giữa thu nhập thực tế bình quân việc làm giữa nông thôn và thành thị cũng như

khả năng kiếm được việc làm trên thị trường lao động thành thị.

Ngoài ra, có một số nghiên cứu khác phát hiện nguyên nhân di cư như sau:

* Nguyên nhân di cư từ khía cạnh kinh tế:

Pfau và Giang (2010) tổng hợp các trường phái lý thuyết xác định nguyên nhân

di cư từ khía cạnh kinh tế như sau: (i) Lý thuyết kinh tế học Tân Cổ điển (The

Neoclassical Economic Theory) cho rằng nguyên nhân của việc di cư là do sự chênh lệch về lương nên dòng người sẽ di cư thuần từ nơi có lương thấp sang nơi có lương

cao; (ii) Lý thuyết kinh tế học mới về di dân (the New Economics of Migration) đã áp

dụng lý thuyết trên khi nghiên cứu nguyên nhân di cư của các hộ gia đình và cho rằng di cư là một trong những giải pháp nhằm đa dạng hóa nguồn thu nhập và giảm thiểu

rủi ro cho gia đình. Cụ thể, di cư được xem như một nguồn bảo hiểm đương đầu với các cú sốc khi chúng chưa được bảo hiểm trên thực tế, vì vậy tiền gửi có vai trò quan trọng đối với các gia đình khi đưa ra các quyết định di cư ngay cả khi không có sự

chênh lệch về thu nhập giữa nơi đi và nơi đến; (iii) Lý thuyết về thị trường lao động

kép (The Dual Labour-market Theory) cho rằng nguyên nhân của việc di cư là do nhu

cầu ngày càng tăng của các nước tiếp nhận di cư đối với người lao động nước ngoài; và (iv) Lý thuyết về Các hệ thống thế giới (Theory of The World Systems) nêu rằng

8

hoạt động đầu tư nước ngoài dẫn đến lao động di cư nhằm xóa bỏ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu ở các nước đang phát triển.

* Nguyên nhân của di cư cả từ hai khía cạnh “nhân tố hút” và “nhân tố đẩy”:

UNDP (2009) nêu nguyên nhân của việc người lao động di cư cả quốc tế và

trong nước cả từ khía cạnh „nhân tố hút‟ là nhằm tìm kiếm thu nhập cao hơn, có điều kiện tiếp cận giáo dục và y tế tốt hơn và có triển vọng hơn cho tương lai con cái họ; và

cả từ khía cạnh „nhân tố đẩy‟ vì di cư là chiến lược sống còn của các hộ gia đình nhằm tìm cách đa dạng hóa và cải thiện sinh kế của họ.

Khi nghiên cứu cho quá trình đô thị hóa ở Trung Quốc, Zhang và cộng sự

(2003) đã chỉ ra rằng, nguyên nhân chính của lao động di cư từ nông thôn ra thành

thị là sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Chênh lệch thu nhập

ngày càng tăng do tăng trưởng kinh tế đã làm cho lao động di cư từ nông thôn ra

thành thị ngày càng tăng. Bằng việc phân tích chuỗi số liệu chéo, các tác giả đã

chứng minh rằng quá trình di cư trong tỉnh và ngoài tỉnh đều có nguyên nhân từ

chênh lệch thu nhập. Ngoài ra, dân số khu vực thành thị cũng có ảnh hưởng đáng kể

lên di cư trong nội tỉnh đó.

Fan và cộng sự (2008) chứng minh rằng ở các nước đang phát triển sẽ xảy ra

hiện tượng lực lượng lao động có trình độ ở khu vực nông thôn sẽ di cư ra thành phố

do mức lương của khu vực thành phố dành cho người có trình độ cao sẽ cao hơn lương

của khu vực nông thôn dành cho họ. Việc di cư của lao động có trình độ ra khu vực

thành phố sẽ làm cho lương của lao động thiếu tay nghề ở khu vực nông thôn thấp hơn

tương đối và điều này cũng khuyến khích những lao động này di cư ra thành phố ngày

càng tăng nhằm tìm kiếm việc làm với thu nhập cao hơn ở khu vực thành phố. Quá trình di cư của lao động thiếu kỹ năng ở khu vực nông thôn sẽ dừng khi mức lương ở

hai khu vực dành cho họ bằng nhau.

Ngoài ra, một số nghiên cứu khác còn chứng minh rằng ngoài chênh lệch về thu

nhập giữa hai khu vực thì cơ hội tìm kiếm việc làm, cầu về lao động ở khu vực công nghiệp cao, điều kiện tốt hơn để tiếp cận các dịch vụ văn hóa, y tế ở nơi thành thị cũng là những yếu tố hấp dẫn người lao động di cư từ khu vực nông thôn lên thành thị ở các nước đang phát triển (Fields, 1975; Renard, 1984; Williamson, 1988).

* Nguyên nhân của di cư chỉ từ các “nhân tố đẩy”:

Gallina (2007) nghiên cứu hiện tượng di cư phổ biến ở Ecuador và cho thấy rằng do đời sống của người di cư cũng như gia đình họ quá khó khăn, thu nhập thấp và

thiếu việc làm ở khu vực nông thôn nên người di cư mong muốn lên thành phố và

9

những vùng động lực kinh tế nhằm tìm kiếm việc làm với thu nhập cao hơn để có điều kiện cải thiện cuộc sống bản thân và gia đình ở quê nhà. Mặt khác, người di cư cũng

có đóng góp rất lớn cho nền kinh tế như tiền gửi của họ là một khoản thu ngân sách

lớn giúp chính phủ thanh toán nợ, góp phần hỗ trợ nhằm phát triển các doanh nghiệp

vừa và nhỏ thông qua các dự án phát triển tại địa phương.

Lucas và Stark (2011) căn cứ trên quan điểm của kinh tế học di dân mới nhằm

giải thích một trong những nguyên nhân của người lao động di cư là muốn giúp đỡ và góp phần chăm sóc người thân ở lại đặc biệt là đối với các gia đình đa thế hệ thông

qua tiền gửi, ngoài ra người di cư còn gửi tiền về nhà vì tính vụ lợi, quan tâm đến khả

năng được hưởng tài sản thừa kế sau này và gây dựng tài sản như nhà cửa, đất đai để

họ trở về trong tương lai. Nhìn chung, việc gửi tiền về là một phần trong “hợp đồng tự

nguyện” được thiết lập giữa người di cư và những người ở lại trong gia đình mà ở đó những người tham gia “hợp đồng” đều đạt được hiệu quả Pareto và họ coi tiền gửi như

một trong những cách để giảm thiểu rủi ro tài chính và việc di cư là một dự án đầu tư

cho tương lai được đặt ra trong chiến lược di cư.

Lucas and Stark (1988) và Antman (2012) cho rằng một trong những nguyên

nhân để người lao động di cư là nhằm gửi tiền về với mục đích thanh toán cho người

thân về những khoản tiền mà người thân trong gia đình, đặc biệt là cha, mẹ của họ đã

đầu tư trong ngắn hạn và dài hạn cho họ để họ được học tập, trưởng thành và di cư.

Tuy nhiên, nghiên cứu của Rapoport và Docquier (2005) còn đưa thêm những lý do

mang bản chất kinh tế hơn là người gửi tiền nhằm “trả công” cho việc người nhận tiền

về việc chăm sóc người thân, trông coi tài sản của người gửi, hoặc trả ơn cho người

nhận vì đã nuôi dưỡng, giáo dục cũng như chi phí đã bỏ ra để người gửi được di cư, hay vì mục đích được hưởng tài sản thừa kế sau này. Nghiên cứu còn cho biết thêm

rằng tiền gửi về cũng là một nguồn thu nhập nhằm giúp các gia đình ở những vùng hay

có thiên tai giảm thiểu các rủi ro do thiên tai hay hiểm họa gây ra.

* Nguyên nhân của di cư từ các “nhân tố hút”:

Harris và Todaro (1970) nghiên cứu và xây dựng mô hình giải thích nguyên nhân của quá trình di cư ở các nước kém phát triển, đặc biệt là các nước ở khu vực Châu Phi nhiệt đới. Ở đây, các tác giả nghiên cứu trong bối cảnh tương đối khác với

các nghiên cứu của Lewis (1954) và Todaro (1969), đó là người lao động di cư từ khu

vực nông thôn với sản phẩm biên trong khu vực nông nghiệp luôn dương và khu vực nông thôn không có dư thừa lao động ra khu vực thành thị với tỷ lệ thất nghiệp nhất

định nhưng có lực hút của cuộc sống nơi đô thị. Vì vậy, để xây dựng mô hình hai khu

vực của di cư nông thôn-thành thị, các tác giả đưa ra một số giả định rằng: thứ nhất,

10

quá trình di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ còn tiếp diễn khi thu nhập thực tế kỳ vọng biên ở khu vực thành thị lớn hơn sản phẩm biên của khu vực nông nghiệp và người lao

động di cư tiềm năng hành động nhằm tối đa hóa mức thỏa dụng kỳ vọng; thứ hai,

tổng lực lượng lao động ở khu vực thành thị sẽ bao gồm những người lao động hiện có

của khu vực thành thị không có liên quan đến khu vực nông thôn cộng với lượng lao động sẵn sàng di cư từ khu vực nông thôn lên; thứ ba, quá trình lựa chọn việc làm

ngẫu nhiên định kỳ sẽ tồn tại khi số người tìm việc vượt quá số việc làm sẵn có và mức lương khu vực thành thị kỳ vọng sẽ bằng lương tối thiểu cố định khu vực thành

thị (mức lương này sẽ cao hơn thu nhập ở khu vực nông thôn) nhân với tỷ lệ lao động

tìm được việc ở khu vực thành thị. Từ các giả thiết trên, các tác giả đã chứng minh

rằng sự chênh lệch về thu nhập kỳ vọng giữa khu vực nông thôn và thành thị là lực hút

làm cho lao động di cư từ nông thôn ra thành thị. Người lao động sẽ cân nhắc các lợi ích và chi phí của việc di cư và việc di cư sẽ phụ thuộc vào chênh lệch thu nhập kỳ

vọng giữa khu vực nông thôn và thành thị chứ không phải là chênh lệch thu nhập thực

tế giữa hai khu vực này.

Nhìn chung, theo các lý thuyết về di cư trên đây thì việc người lao động di cư

đều xuất phát từ mục đích kinh tế và có thể từ cả các “nhân tố hút” (đó là cơ hội có

việc làm, mức lương và cơ hội phát triển bản thân ở khu vực có nền kinh tế phát triển)

và các “nhân tố đẩy” (đó là khu vực có năng suất lao động thấp, thiếu cơ hội phát triển

và thu nhập thấp, không có việc làm).

* Một số nghiên cứu về di cư từ nông thôn ra thành thị ở Việt Nam với nguyên

nhân từ “nhân tố hút” và/hoặc “nhân tố đẩy” như sau:

Đặng Nguyên Anh (1997) phân tích rằng di cư từ nông thôn ra thành thị ở Việt Nam đều có nguyên nhân từ cả hai phía, đó là từ “nhân tố đẩy” (khu vực nông thôn với

nghề nông, thu nhập thấp và cuộc sống nghèo nàn) và “nhân tố hút” (khu vực thành thị

có cơ hội việc làm với mức thu nhập cao hơn và cuộc sống tốt đẹp hơn).

Jean-Marie Cour (2001) phân tích rằng di dân và di chuyển lao động đều có nguyên nhân liên quan đến các yếu tố “đẩy” ở nơi xuất cư và các yếu tố “hút” ở nơi nhập cư. Tác giả nêu hai nhóm nguyên nhân chính của quá trình di cư là nhóm nguyên nhân kinh tế và nhóm nguyên nhân xã hội. Trong đó, nhóm nguyên nhân kinh tế bao

gồm: thứ nhất là sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế giữa các vùng,

giữa khu vực nông thôn và thành thị tạo nên sự chênh lệch lớn về thu nhập; thứ hai là do khu vực nông thôn đông dân, thiếu tư liệu sản xuất, thiếu đất nông nghiệp canh tác

tạo nên hiện tượng dư thừa lao động. Nhóm nguyên nhân xã hội bao gồm: thứ nhất là

vì mục đích đoàn tụ gia đình, học tập; thứ hai là do sự khác biệt về trình độ phát triển

11

cơ sở hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, trình độ dân trí, các điều kiện học tập, chăm sóc sức khỏe, hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật…. giữa nơi đi và nơi đến; thứ ba là do một bộ

phận dân cư trẻ tuổi muốn rời quê hương đi tới miền đất mới nhằm tìm kiếm cơ hội

phát triển bản thân về kinh tế và văn hóa.

Zhang và cộng sự (2001) đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính nhằm phân tích xu hướng di cư chủ yếu của người Việt Nam qua các thời kỳ. Các tác giả đã

chứng minh rằng, trong giai đoạn từ khi Nhà nước thực hiện chính sách “Đổi mới” thì dòng di cư từ nông thôn lên thành thị xuất phát từ cả phía nông thôn “nhân tố đẩy” do

cuộc sống người lao động và những người trong gia đình nghèo khổ, thiếu đất canh tác

và các nguồn lực để sản xuất, người lao động thiếu việc làm và dân số khu vực nông

thôn đông và cả từ phía thành thị “nhân tố hút” như cơ hội tìm việc làm ở thị trường

lao động phi chính thức khu vực thành phố, sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa thành thị và nông thôn.

Brauw và Harigaya (2007) đã áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với

hai bộ dữ liệu Điều tra mức sống Việt Nam (VLSS) năm 1993 và năm 1998 và kết luận

rằng người lao động di cư từ nông thôn lên thành thị nhằm tăng thêm thu nhập và cải

thiện cuộc sống bản thân cũng như gia đình. Nghiên cứu còn cho biết thêm là các gia

đình có người di cư theo mùa vụ thường có thu nhập thấp hơn các gia đình khác.

Sang (2007) đã áp dụng các mô hình Box-Cox và loga tuyến tính nhằm phân

tích các nguyên nhân của việc di cư ở Việt Nam trong hai giai đoạn 1984-1989 và

1994-1999 và chứng minh rằng tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở khu vực thành thị thấp và

cơ hội việc làm ở các ngành phi nhà nước là những lực kéo chính để thu hút lao động

từ khu vực nông thôn lên thành thị.

Phan and Coxhead (2010), với hai bộ số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở

năm 1989 và năm 1999, đã áp dụng mô hình gia tốc và mô hình logistic nhằm phân tích nguyên nhân người lao động di của giữa các tỉnh và cho thấy rằng người lao động

di cư từ tỉnh có thu nhập thấp sang tỉnh có thu nhập cao, từ nơi đất canh tác ít sang nơi có đất canh tác nhiều và những tỉnh có nhiều ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu sẽ thu hút nhiều lao động di cư từ nông thôn nhất.

Khi nghiên cứu dòng di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp,

Nguyễn Đình Long và cộng sự (2013) đã phân tích nguyên nhân thúc đẩy dòng di cư tự do này là xuất phát từ ba nhóm nguyên nhân chính như sau: thứ nhất, do sự gia tăng dân số và sức ép về lao động việc làm ở khu vực nông thôn ngày càng gia tăng; thứ

hai, do đất dùng để sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp làm cho tư liệu sản xuất của khu

12

vực nông thôn ngày càng khan hiếm làm cho lao động nông thôn bị dư thừa và đó chính là nguyên nhân chính làm cho người lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và

các khu đô thị nhằm tìm kiếm việc làm và thu nhập cao hơn; thứ ba, do chênh lệch về

thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị ngày càng tăng làm cho một bộ phận lao

động ở khu vực nông thôn rời quê hương ra thành phố nhằm tìm kiếm cơ hội việc làm mang lại thu nhập cao.

Khi phân tích và nhận định “phi truyền thống” về luồng di cư nông thôn – thành thị nhằm khuyến nghị những chính sách đối với vấn đề di dân, Nguyễn Đình Cử và

cộng sự (2014) đã phân tích nguyên nhân dẫn đến luồng di cư nông thôn ra các đô thị

lớn là do sự phát triển đô thị không đồng đều đã làm cho các cơ sở kinh tế - xã hội

trọng tâm thu hút người di cư tập trung ở các thành phố lớn và vì thế mà các thành phố

lớn đã thu hút một luồng di cư rất lớn từ nông thôn lên thành thị để tìm kiếm cơ hội việc làm và học tập.

Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam và UNFPA (2015) nguyên nhân chính của

di cư là vì mục đích kinh tế. Người lao động quyết định di cư chủ yếu vì “lực hút” ở

nơi đến với nhiều cơ hội việc làm có thu nhập hấp dẫn và “lực đẩy” ở nơi đi do thiếu

việc làm và thu nhập thấp ở quê nhà.

Các phát hiện trên cũng được chứng minh rõ hơn ở nghiên cứu của Tổng cục

Thống kê Việt Nam và UNFPA (2016). Nghiên cứu cho thấy, với bối cảnh toàn cầu

hóa, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới đã làm xuất hiện các

ngành công nghiệp mới và sinh ra việc làm cho hàng triệu người mỗi năm. Vì vậy, di

cư là kết quả tất yếu của việc tập trung các vùng kinh tế, sự chênh lệch về điều kiện

kinh tế giữa các vùng miền. Quá trình di cư xảy ra luôn có nguyên nhân từ sự khác biệt về đặc trưng giữa hai vùng là vùng đến và vùng đi. Nguyên nhân từ vùng đi hay “nhân

tố đẩy” bao gồm do điều kiện sống khó khăn, thiếu việc làm, thiếu đất canh tác và

nguyên nhân từ vùng đến hay “nhân tố hút” bao gồm điều kiện, yếu tố thuận lợi về tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa hay sự hấp dẫn về cơ hội việc làm với thu

nhập và mức sống cao hơn. Nghiên cứu cho biết thêm rằng di cư vừa là nguyên nhân và vừa là hệ quả của quá trình phát triển. Nghiên cứu còn phân tích sâu nguyên nhân của di cư trong nước của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1989 đến nay như sau: (i)

thập kỉ 1989-1999, xu hướng gia tăng di cư chủ yếu là do chính sách của chính phủ

Việt Nam nhằm khuyến khích di dân đến những vùng kinh tế mới, do sự chuyển đổi

cơ chế kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường cùng với sự phát triển các loại hình giao thông vận tải; (ii) thập kỉ từ 1999-2009 có dân số di cư tăng mạnh là do

ở giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

13

từ nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp chi phối sang nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ chi phối. Ở giai đoạn này các khu công nghiệp và các khu chế xuất phát triển mạnh

mẽ đã thu hút lượng lớn lao động di cư; (iii) giai đoạn 2009-2014 là thời kỳ nền kinh

tế phát triển chậm, các khu công nghiệp không còn thu hút nhiều lao động di cư như

thời kì trước là do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008. Mặt khác, khoảng cách kinh tế giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền được rút ngắn

do chính sách phát triển nông thôn của Việt Nam đã làm giảm số lượng di cư trong giai đoạn này. Đặc biệt trong giai đoạn này, có sự tăng lên của dòng di cư từ thành thị

đến thành thị và hiện tượng di cư đảo của một bộ phận người lao động không tìm được

việc làm ở khu vực thành thị về quê để phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, Lưu Bích Ngọc (2016) đã có những phân tích tổng hợp hơn về

nguyên nhân di cư nội địa của Việt Nam từ năm 1994 đến nay. Theo tác giả, động lực chính để người lao động di cư đều xuất phát từ cả nơi “hút” – là nơi có tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao, có sức hút vốn đầu tư, có tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa

nhanh hoặc có tiềm năng đất đai rộng, hay nơi “đẩy” – là những nơi “thuần nông”. Cụ

thể, nghiên cứu đã phân tích nguyên nhân di cư ở từng giai đoạn khác nhau như sau: (i)

giai đoạn 1994-1999, những vùng thu hút dân nhập cư là những tỉnh thuần nông ở Tây

Nguyên có đất đai rộng lớn và màu mỡ, tuy nhiên lực đẩy xuất cư giai đoạn này được

phân chia đồng đều ở các tỉnh thuần nông ở khắp cả nước bao gồm miền Bắc, miền

Trung và Đồng bằng Sông Cửu Long; (ii) giai đoạn 2004-2009, những nơi thu hút dân

nhập cư mạnh nhất là những tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh như

Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Đà Nẵng, Hà Nội, Cần Thơ hay

những tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên như Đắc Nông, Lâm Đồng, những vùng thuần nông có tiềm năng đất đai rộng, mật độ dân số thưa và có nhiều tiềm năng cho canh tác

vẫn thu hút dân nhập cư nhưng yếu hơn như vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Bắc

Trung Bộ và Đồng bằng sông Hồng; (iii) giai đoạn 2009-2014, các tỉnh tiếp tục đứng đầu về thu hút dân nhập cư vẫn là các tỉnh có tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa cao

nhất hoặc những tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, tuy nhiên sức hút chỉ còn một nửa so với 5 năm trước đó. Trong số các thành phố lớn trực thuộc Trung ương thì chỉ còn Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng là nằm trong tốp 10 tỉnh/ thành phố thu hút nhập

cư đông nhất, trong khi Hà Nội và Cần Thơ không còn nằm trong danh sách này và bị thay thế bởi Nghệ An và Bắc Ninh. Trong giai đoạn này, lực đẩy xuất cư lớn nhất chỉ còn các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ.

Nhìn chung, nguyên nhân di cư, đặc biệt là di cư nội địa kể từ năm 1986 đến

nay ở Việt Nam, đều xuất phát cả từ các “nhân tố hút” (đó là khu vực thành phố với

14

nhiều cơ hội việc làm, thu nhập cao hơn, có đời sống cao hơn) và từ phía các “nhân tố đẩy” (đó là khu vực nông thôn thiếu việc làm, thiếu đất canh tác, thiếu công cụ lao

động và mức sống thấp).

1.1.2. Các vấn đề cơ bản liên quan đến người cao tuổi

1.1.2.1. Khái niệm liên quan đến người cao tuổi

* Khái niệm về “Người cao tuổi” (NCT):

Có rất nhiều quan điểm khác nhau về độ tuổi của một người được xem là “người cao tuổi”. Theo khái niệm do Liên Hợp Quốc đưa ra thì NCT là những người

từ 60 tuổi trở lên (UNFPA và HelpAge International, 2012). Nghiên cứu cũng cho biết

thêm rằng ở các nước phát triển thì NCT là những người từ 65 tuổi trở lên.

Dù có nhiều định nghĩa khác nhau về người cao tuổi, nhưng Luận án này sử

dụng định nghĩa về NCT theo Điều 2, Luật Người cao tuổi năm 2009 như sau: “Người

cao tuổi là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”.

* Khái niệm về “già hóa” dân số; dân số “già”; dân số “rất già” và dân số “siêu già”:

Theo UNFPA (2011), “già hóa” dân số diễn ra khi tỷ lệ dân số ở tuổi từ 60 trở

lên chiếm 10% trong tổng dân số; khi tỷ lệ dân số này chiếm 20% trong tổng dân số thì

dân số được coi là “già”. Theo nghiên cứu này, dân số “rất già” diễn ra khi tỷ lệ người

từ 60 tuổi trở lên chiếm 30% trong tổng dân số và khi tỷ lệ này chiếm từ 35% trở lên

1.1.2.2. Đặc điểm và việc sắp xếp cuộc sống của người cao tuổi

trong tổng dân số thì dân số được coi là “siêu già”.

Nhìn chung, theo UNFPA và HelpAge International (2012) và Uỷ ban về Các

vấn đề xã hội của Quốc Hội (2015), thì NCT có những đặc điểm như sau:

* Các đặc điểm về nhân khẩu học

Thứ nhất, qui mô NCT trên thế giới ngày càng lớn, tốc độ gia tăng dân số cao

tuổi ngày càng mạnh, đặc biệt là tỷ lệ dân số già nhất (từ 80 tuổi trở lên) tăng nhanh hơn các nhóm dân số già khác và tăng nhanh nhất ở các nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Mỹ La tinh và vùng Caribe. Thứ hai, trên toàn cầu, phụ nữ thường sống lâu hơn nam giới nên tỷ lệ phụ nữ cao tuổi thường cao hơn tỷ lệ nam giới cao tuổi (và dẫn tới tình trạng “nữ hóa dân số cao tuổi”).

15

* Các đặc điểm về sức khoẻ của người cao tuổi

NCT thường đối mặt với việc suy giảm chức năng hoạt động của các cơ quan

trong cơ thể nên dễ có nguy cơ bị mắc các bệnh, đặc biệt là bệnh mạn tính. Việc điều

trị và phục hồi sức khoẻ của NCT cũng lâu dài và tốn kém hơn các nhóm tuổi khác.

Tuy nhiên, mặc dù nữ giới cao tuổi sống lâu hơn nam giới cao tuổi nhưng sức khoẻ của họ lại kém hơn nam giới cao tuổi.

* Các đặc điểm về sắp xếp cuộc sống, kinh tế và xã hội của người cao tuổi

Thứ nhất, việc sắp xếp cuộc sống của NCT đang thay đổi nhanh chóng. Cụ thể,

qui mô hộ gia đình giảm và sự chia sẻ nguồn lực giữa các thế hệ cũng đang thay đổi.

Những gia đình nhiều thế hệ hiện nay chỉ còn ở các nước đang phát triển nhưng đó lại

là những gia đình khuyết thế hệ (chỉ có trẻ em và người cao tuổi). Đặc biệt là ở các

khu vực nông thôn, những gia đình khuyết thế hệ là hệ quả của quá trình công nghiệp

hoá và đô thị hoá khi người trong độ tuổi lao động đã di cư đến những khu đô thị để

kiếm sống. Trên thế giới, việc NCT sống độc lập chỉ có một mình hay sống chỉ với vợ/

chồng mình đang chiếm tỷ lệ cao (hơn 70%) ở các quốc gia phát triển, trong khi ở các

quốc gia đang phát triển thì việc NCT sống độc lập chiếm một tỷ lệ rất thấp (chỉ

khoảng 27%);

Thứ hai, ở Châu Á, các thành viên trong gia đình vẫn là người chăm sóc chính

cho NCT khi cần được chăm sóc. Tuy nhiên, nam giới cao tuổi có đời sống khác với

nữ giới cao tuổi ở các khía cạnh như: khi con cái di cư, nữ giới cao tuổi thường được

nhận nhiều các hỗ trợ tài chính và quan tâm tình cảm từ con cái di cư hơn nam giới cao

tuổi và họ cũng thường hay chăm sóc cháu chắt hay người thân bị ốm hơn nam giới

cao tuổi.

Ngoài ra, phụ nữ cao tuổi thường hay bị tổn thương và yếu thế hơn nam giới

cao tuổi vì bị phân biệt giới tính và tuổi tác, họ ít có cơ hội để được tiếp cận với giáo dục, chăm sóc y tế, khả năng thu nhập của họ cũng thấp hơn và bị hạn chế quyền sở

hữu đất. Phụ nữ cao tuổi có tỷ lệ goá cao hơn nam giới nên dễ bị cô đơn và nghèo hơn nam giới.

1.2. Cá n ên ứu t ự n ệm về tá độn ủ ƣ tớ đờ sốn n ƣờ o tuổ

Việc người lao động di cư đã có ảnh hưởng không nhỏ lên đời sống của những người trong gia đình còn lại ở quê nhà, đặc biệt là cha, mẹ già của những người di cư.

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đã đánh giá tác động của lao động di cư lên đời sống

16

của những người còn lại ở quê nhà (trong đó có NCT) lên ba khía cạnh: kinh tế, sức khỏe và xã hội.

1.2.1. Về khía cạnh kinh tế

Có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của di cư đối với đời sống kinh tế của các thành viên trong các hộ gia đình, đặc biệt là của NCT. Một số nghiên cứu đánh giá

cao vai trò của tiền gửi từ con cái di cư lao động đến cuộc sống của NCT ở quê nhà và

một số khác lại coi tiền gửi chỉ có vai trò hỗ trợ và thậm chí không có ý nghĩa đối với

1.2.1.1. Các nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của di cư đối với đời sống kinh tế của người cao tuổi ở một số quốc gia

cuộc sống của NCT trong các gia đình có người di cư như sau:

Các nhà nghiên cứu trên thế giới khi đánh giá tác động của tiền gửi đối với đời

sống kinh tế của người cao tuổi đã sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp nghiên cứu định lượng và phương pháp nghiên cứu định tính và cho ra

những kết quả khác nhau. Trong số đó, một số các nghiên cứu đánh giá cao vai trò của

tiền gửi từ con cái di cư lao động đến đời sống kinh tế của NCT ở quê nhà và một số

khác lại coi tiền gửi chỉ có vai trò hỗ trợ và thậm chí không có ý nghĩa đối với cuộc

sống của NCT trong các gia đình có người di cư. Với phương pháp nghiên cứu định

lượng: khi nghiên cứu cho một số quốc gia, các nhà nghiên cứu thường sử dụng số liệu

chuỗi thời gian; tuy nhiên, khi nghiên cứu cho từng quốc gia, các tác giả thường sử

dụng số liệu hỗn hợp (panel data) của một quốc gia, số liệu của một năm, ứng dụng kỹ

thuật phân tích OLS (bình phương nhỏ nhất), hồi qui tác động cố định (fixed-effect

regression), sử dụng biến công cụ (IV)… nhằm đánh giá tác động của người lao động

di cư lên đời sống kinh tế của những người còn lại trong gia đình ở quê nhà. Cụ thể:

* Các nghiên cứu đánh giá tác động của di cư lên khía cạnh hỗ trợ tài chính,

vấn đề năng suất lao động và thời gian lao động của người cao tuổi ở quê nhà

Lucas (1987) đã nghiên cứu tác động của di cư quốc tế từ năm quốc gia Nam Châu Phi (gồm Boswana, Lesotho, Malawi, Mozambique và Nam Phi) với số liệu chuỗi thời gian từ năm 1946 đến 1978. Tác giả đã sử dụng bốn mô hình: mô hình thứ nhất nhằm xác định các yếu tố quyết định việc người lao động của các quốc gia di cư đến các mỏ của Nam Phi từ phía cầu như cơ hội việc làm và thu nhập ở các mỏ; mô hình thứ hai nhằm xác định việc sản xuất nông nghiệp ở quê nhà bị tác động bởi việc

giảm thu nhập và lao động trong ngắn hạn và trong dài hạn khi người di cư gửi tiền về và có đầu tư vào sản xuất nông nghiệp; mô hình thứ ba nhằm xác định hiệu quả của

việc đầu tư vào chăn nuôi gia súc (loại hình sản xuất mang lại sự thịnh vượng cho

17

người dân ở khu vực Nam Châu Phi); và mô hình cuối cùng xem xét các yếu tố hình thành thu nhập và mức thu nhập của người lao động ở thị trường nội địa các nước có

người lao động di cư. Tác giả đã sử dụng biến công cụ là tổng của mức lương của thợ

mỏ da trắng ở Nam Phi và giá của các loại khoáng sản thu được từ khai thác mỏ. Sau

khi đã cân nhắc tới đặc điểm của từng quốc gia về các khía cạnh như: đặc điểm thị trường lao động, dân số và tình hình chính trị, tác giả đã chứng minh rằng nếu lương ở

các khu mỏ cao hơn lao động nông nghiệp ở quê nhà thì người lao động sẽ di cư đến các khu mỏ, nhưng nếu sản xuất nông nghiệp tốt, thời tiết thuận lợi và năng suất cao

thì sẽ hạn chế người lao động di cư đến các khu mỏ làm việc. Nhìn chung, việc con cái

di cư sẽ làm giảm năng suất lao động trong khu vực nông nghiệp trong ngắn hạn vì số

người lao động trong gia đình giảm xuống, nhưng trong dài hạn sẽ giúp cha, mẹ già và

những người thân ở lại trong gia đình có điều kiện đầu tư nâng cao năng suất lao động trồng trọt và tăng số lượng gia súc nuôi thông qua tiền gửi về của họ.

Khi nghiên cứu trường hợp Botswana, với số liệu từ cuộc Khảo sát Di cư Quốc

gia (NMS) năm 1978-1979 được thực hiện với 3.179 người di cư từ nông thôn ra thành

thị, Stark và Lucas (1988) thực hiện các phép hồi qui với biến phụ thuộc là logarit của

trung bình tiền gửi hàng tháng từ mỗi người di cư về cho gia đình và kết luận rằng tiền

gửi từ con cái di cư là nguồn tài chính hỗ trợ các gia đình nông thôn đương đầu với

những rủi ro trong canh tác nông nghiệp như hạn hán, mất mùa vì khi thời tiết hạn thì

tiền gửi từ con cái di cư về sẽ nhiều hơn. Nghiên cứu còn phát hiện thêm rằng những

người di cư có trình độ học vấn cao thường gửi nhiều tiền hơn vì họ có lương cao hơn.

Với các gia đình có đàn gia súc nuôi lớn, con trai di cư thường gửi nhiều tiền hơn con

gái di cư do một trong những nguyên nhân quan trọng là con trai thường có nhiều khả năng được hưởng di sản thừa kế từ gia đình hơn.

Khi nghiên cứu tình hình lao động của người cao tuổi ở Indonesia, Cameron và

Cobb-Clark (2005) đã sử dụng số liệu về Điều tra đời sống gia đình ở Indonesia (IFLS) năm 1993 để xây dựng mô hình định lượng mối quan hệ giữa việc tham gia lao

động của người cao tuổi với việc cùng chung sống và nhận sự hỗ trợ tài chính của con cái nhằm kiểm định giả thiết là liệu việc sống cùng con cái hay nhận được sự hỗ trợ về tài chính từ con cái sẽ hỗ trợ hay thay thế hoạt động kinh tế của NCT. Nghiên cứu đã

đưa ra kết luận rằng việc nhận tiền gửi từ con cái di cư có vai trò hỗ trợ đối với cuộc sống của NCT, đặc biệt là sẽ làm giảm thời gian hoạt động kinh tế của phụ nữ cao tuổi. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của tiền gửi từ con cái không có ý nghĩa nhiều đối với cuộc sống của bố, mẹ già vì việc gửi tiền của con cái không dự báo trước

18

được và cũng không đủ lớn để thay thế hay giảm đáng kể thời gian lao động của NCT nói chung.

Để đánh giá tác động của di cư lên đời sống NCT ở nông thôn Thái Lan, John

Knodel và cộng sự (2007) sử dụng bộ số liệu từ Khảo sát về tác động của Di cư (MIS)

do Trường Đại học Tổng hợp Chulalongkorn thực hiện vào các tháng 10 và 11 năm 2006 với 1.011 người cao tuổi có ít nhất một người con còn sống và được chia đều cho

ba nhóm tuổi (gồm: nhóm 1 gồm những người trong độ tuổi 50-54; nhóm 2 gồm những người trong độ tuổi từ 60-64 và nhóm còn lại trong độ tuổi 70-79). Nghiên cứu

phát hiện ra rằng phần lớn số người được hỏi trả lời rằng nguồn thu nhập chính của họ

là từ con cái, trong đó đến 90% số người trong nhóm cao tuổi nhất cho rằng nguồn thu

nhập chính của họ là từ con cái và nhận được mức lớn nhất, trong khi thu nhập từ các

nguồn khác có vai trò không đáng kể. Khoảng một nửa số người trả lời rằng có ít nhất một người con cung cấp tiền cho họ hàng tháng hoặc thường xuyên. Tuy nhiên, việc

hỗ trợ kinh tế của những người con sống cùng nhà thường khó phân định hơn những

người con không sống cùng nhà vì những người con sống cùng nhà thường hỗ trợ

người cao tuổi công việc nhà, thực phẩm, trong khi những người con sống xa nhà

thường hỗ trợ tài chính và khoảng cách sống càng xa thì khả năng hỗ trợ tài chính càng

lớn. Những người con di cư đến các khu đô thị sẽ có nhiều khả năng hỗ trợ tài chính

cho NCT hơn những người con di cư đến khu vực nông thôn. Nghiên cứu còn cho biết

thêm rằng con cái di cư đi làm xa sẽ là nguồn hỗ trợ quan trọng cho NCT có được các

tài sàn giá trị và nhà cửa khang trang.

John Gibson (2009) khi nghiên cứu tác động của người lao động ở Tonga di cư

sang New Zealand theo chương trình PAC (The Pacific Access Category) lên sự phát triển của những người còn lại trong gia đình ở Tonga cũng cho kết quả tương tự như

nghiên cứu của Cameron và Cobb-Clark (2005). Cụ thể, thông qua số liệu từ Khảo sát

Di cư từ các Đảo thuộc Thái Bình Dương sang New Zealand (PINZMS), để loại bỏ những ước lượng chệch có thể có, tác giả đã khảo sát bốn nhóm nhỏ, trong đó ba nhóm

đầu được lựa chọn từ PINZMS như sau: nhóm 1 gồm 61 hộ gia đình với 283 cá nhân ở Tonga có người lao động hiện đang di cư ở New Zealand, nhóm này được xem là nhóm tham chiếu; nhóm 2 gồm 26 hộ gia đình với 115 cá nhân có người lao động đã

bốc thăm thành công sang New Zealand nhưng vẫn đang ở lại Tonga chờ ngày hoàn thành thủ tục đi; và nhóm 3 gồm 124 hộ gia đình với 654 cá nhân có người lao động không thành công trong việc bốc thăm được chọn sang New Zealand. Nhóm này được chọn làm nhóm đối chứng; và nhóm 4 gồm 124 hộ gia đình với 727 cá nhân không có

người lao động xin di cư theo chương trình PAC được lựa chọn từ những làng có

19

người xin di cư theo chương trình PAC. Khi ước lượng tác động, tác giả đã không trực tiếp so sánh giá trị trung bình của nhóm tham chiếu và nhóm đối chứng nhằm loại

bỏ ước lượng chệch. Trên thực tế, tác giả đã sử dụng biến công cụ là biến chỉ những

người thành công trong việc bốc thăm di cư có người thân di cư cùng nhằm đánh giá

tác động của người di cư theo chương trình lên người được hưởng lợi từ di cư. Sau khi thực hiện các kỹ thuật hồi qui với biến công cụ và kỹ thuật hồi qui bình phương nhỏ

nhất (OLS), tác giả đưa ra kết quả như sau: ở những gia đình có con di cư thì nhìn chung NCT (tức là bố, mẹ của những người di cư) thường ít phải lao động hơn, nhưng

không có sự khác biệt về giới giữa những NCT này. Về mặt thu nhập, nghiên cứu cho

thấy rằng, thu nhập trong ngắn hạn của những hộ gia đình có người di cư sẽ giảm đi rõ

rệt do thiếu người lao động và phải trả nợ cho những khoản vay nhằm trang trải chi phí

cho người lao động di cư, trong khi trong dài hạn thì chưa có kết quả chắc chắn.

Khi nghiên cứu cho trường hợp của Trung Quốc, Baozhen Luo (2009) chứng

minh rằng khoảng 60% NCT có con di cư từ nông thôn lên thành thị để kiếm sống

nhận được tiền gửi từ con di cư. Tuy nhiên, phần lớn chỉ những NCT chăm sóc cháu

(con của những người di cư) mới được nhận tiền gửi từ con cái di cư, phụ nữ cao tuổi

thường phải chăm cháu và làm việc nhà nhiều nhưng lại nhận được mức tiền gửi ít hơn

nam giới nên có nguy cơ bị nghèo cao hơn nam giới cao tuổi khi con cái di cư.

Hongqin Chang và cộng sự (2011) nghiên cứu tác động của con cái di cư nội

địa (di cư ra ngoài xã) lên thời gian lao động của cha, mẹ cao tuổi ở quê nhà ở nông

thôn Trung Quốc. Tác giả sử dụng số liệu từ các cuộc Khảo sát Sức khoẻ và Dinh

dưỡng Trung Quốc qua các năm từ 1989 đến 2006 và phân tích bằng phương pháp đa

biến. Để giải quyết vấn đề nội sinh liên quan đến biến con cái di cư, các tác giả đã sử dụng biến công cụ là tỷ lệ các hộ gia đình có con di cư trong xã để tìm việc làm

(không bao gồm các hộ gia đình có con di cư nội địa ra ngoài xã). Nghiên cứu chứng

minh rằng con cái di cư nội địa làm tăng thời gian lao động cả công việc đồng áng và việc nhà cho những người cao tuổi còn lại ở quê. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy rằng

phụ nữ cao tuổi phải lao động nhiều giờ hơn nam giới cao tuổi khi con cái di cư.

Với trường hợp của Mexico, Antman (2011) nghiên cứu tác động của con cái di cư sang Mỹ lên cha, mẹ ở Mexico ở hai khía cạnh là tài chính và thời gian giúp đỡ từ

tất cả những người con. Tác giả đã sử dụng bộ số liệu đại diện quốc gia từ các cuộc

Khảo sát về Già hóa và Sức khỏe của Mexico (MHAS) năm 2001 và 2003. Tác giả đã

xây dựng ba phương trình ước lượng: (1) phương trình thể hiện quan hệ giữa đóng góp về tài chính của những người con di cư với tổng thời gian và tài chính hỗ trợ cha mẹ

của những người anh, em của những người di cư; (2) phương trình thể hiện mối quan

20

hệ giữa việc đóng góp tài chính của những người con không di cư với tổng thời gian và tài chính hỗ trợ cha, mẹ của những người anh, em của những người không di cư; và

(3) phương trình thể hiện mối quan hệ giữa thời gian giúp đỡ cha mẹ với tổng thời gian

và tài chính hỗ trợ cha mẹ của những anh, chị em. Ở mỗi phương trình, để giải quyết

tính đồng thời những đóng góp của các anh, chị, em, tác giả đã sử dụng phương pháp biến công cụ là những đặc điểm của những người anh, chị, em không trực tiếp được

đưa vào các mô hình nhưng có ảnh hưởng tới sự đóng góp cho NCT. Nghiên cứu cho kết quả rằng là tổng thời gian giúp đỡ từ những người con đối với cha, mẹ già trong

các gia đình đông con mà có ít nhất một trong những đứa con di cư sang Mỹ giảm từ

60 giờ xuống còn 56 giờ và sự khác biệt về hỗ trợ về tài chính từ tất cả những người

con không đáng kể và không có ý nghĩa thống kê khi so sánh hai thời điểm trước khi

và sau khi người con di cư.

* Các nghiên cứu nhằm phân tích tác động của tiền gửi từ người di cư lên

khía cạnh giảm nghèo và nâng cao mức sống của người cao tuổi ở quê nhà

Wenger và cộng sự (2003) đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính nhằm

nghiên cứu tác động của người thân di cư quốc tế đối với NCT còn lại ở quê nhà ở hai

quốc gia Nam Á: Ấn Độ và Bangladesh. Nghiên cứu đã chọn ba vùng có lượng người

di cư sang Liên Hiệp Anh nhiều ở hai nước là Punjab và Gujarat của Ấn Độ và Sylhet

của Bangladesh nhằm chứng minh cho ba giả thuyết nghiên cứu: (1) những NCT còn

lại ở khu vực nông thôn ở các gia đình có người di cư có đời sống cao hơn những NCT

ở cùng khu vực sống trong các gia đình không có người di cư; (2) những NCT ở trong

các gia đình có người di cư được nhận hỗ trợ xã hội không chính thức ít hơn những

NCT khác; và (3) cộng đồng cũng được hưởng lợi từ những người di cư. Đối với giả thuyết thứ nhất, nghiên cứu đã chứng minh rằng các gia đình có người di cư, đặc biệt

là gia đình có con di cư ra nước ngoài, đều có thu nhập khá hơn, sống sung túc hơn

những gia đình khác. Những gia đình này có điều kiện nhà ở tốt hơn do họ nhận được tiền gửi từ người thân nên những người cao tuổi trong các gia đình có con cái di cư có

đời sống sung túc hơn những NCT sống trong các gia đình khác. Tiền gửi về thường được các thành viên còn lại trong gia đình ở quê nhà chi tiêu cho cuộc sống gia đình và sửa chữa nhà cửa… nên các gia đình có người di cư thường có nhà cửa khang trang

hơn các gia đình không có người di cư. Đối với giả thuyết thứ hai, nghiên cứu đã không chứng minh được vì 86% số người cao tuổi có con di cư ra nước ngoài hiện đang sống cùng với ít nhất một người con còn lại trong gia đình. Đối với giả thuyết thứ ba thì các tác giả kết luận rằng những người di cư đã đóng góp rất lớn để xây dựng

cộng đồng và góp phần văn minh hóa đời sống của cộng đồng quê nhà như góp tiền

21

mở đường, xây trường học, chùa chiền và những nơi văn hóa linh thiêng. Mặc dù nghiên cứu đã đánh giá tác động tích cực của người di cư đối với cuộc sống của những

NCT ở quê nhà, nhưng những người di cư thường xuất thân từ những gia đình khá giả

vì chi phí di cư quốc tế, đặc biệt là sang Liên Hiệp Anh, thường cao và mẫu nghiên

cứu tương đối nhỏ nên nghiên cứu chưa làm rõ được sự khác biệt về vai trò của di cư giữa những gia đình xuất thân giàu có và những gia đình phụ thuộc hoàn toàn vào tiền

gửi của người di cư và nghiên cứu cũng chưa làm rõ được các tác động khác của di cư đối với đời sống của những người thân ở lại.

John Knodel và cộng sự (2007) đã chứng minh rằng con cái di cư nâng cao mức

sống cha, mẹ già thông qua việc hỗ trợ phần lớn trong việc mua sắm các thiết bị gia

dụng cơ bản như tivi, tủ lạnh, điện thoại, máy giặt, xe hơi, máy tính hay lò vi sóng…

nhằm nâng cao đời sống kinh tế cho cha, mẹ già. Ngoài ra, nghiên cứu còn chứng minh rằng con cái di cư, đặc biệt là di cư khác huyện hay xa hơn thường hỗ trợ tài chính cho

cha, mẹ già ở quê trong việc xây dựng hay sửa sang nhà ở mới, còn con cái ở trong cùng

huyện thường hỗ trợ công xây dựng giúp cha mẹ xây mới hay sửa sang nhà ở.

Chandore (2009) nghiên cứu tác động của con cái di cư lên đời sống của NCT ở

Cam-pu-chia. Tác giả đã khảo sát 265 người tuổi từ 60 đến 70 ở hai xã Traeng và

Talos của tỉnh Battambang, trong đó mỗi người có từ 4 con trở lên và đều có con di cư.

Phân tích cho thấy người con di cư sẽ có đóng góp tích cực về mặt tài chính, giúp cho

cha, mẹ già trong các hộ gia đình đông con ở Campuchia giảm nghèo và nâng cao mức

sống vì các gia đình này không có đất hay có ít đất canh tác và thu nhập từ việc làm

ruộng không đủ cho cuộ sống của họ. Tuy nhiên, Sochanny (2011) khi sử dụng cả

phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính nhằm nghiên cứu tác động của con cái di cư đối với cuộc sống của cha, mẹ già ở quê ở Campuchia lại cho rằng chỉ những

con cái di cư ra nước ngoài mới hỗ trợ tài chính tích cực và giúp cha, mẹ họ giảm

nghèo, trong khi người con di cư nội địa không có đóng góp nhiều về mặt tài chính cho cha, mẹ già ở quê.

Nghiên cứu về Moldova, Grant (2009) sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua phỏng vấn sâu 27 người cao tuổi có con di cư và phỏng vấn 15 nhóm (mỗi nhón từ 6 đến 8 người) trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2009 ở ba

khu vực: thứ nhất là ở thủ đô Chisinau; thứ hai là ở thị trấn Gagauzia; và thứ ba là ở

làng Cimislia. Tiếp đó, HelpAge International Moldova (2010) đã thực hiện nghiên

cứu thông qua khảo sát 1.205 hộ gia đình (trong đó có 610 hộ có ít nhất một người con di cư và nhận được tiền gửi và 595 hộ gia đình không có con di cư hoặc không nhận

được tiền gửi) ở 32 quận của hai thành phố lớn Chisinau và Balti của Moldova trong

22

khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 8 năm 2010. Cả hai nghiên cứu này đều cho những phát hiện khá giống nhau là tiền gửi của con di cư lao động là một nguồn tài

chính hỗ trợ quan trọng và là động lực để người lao động di cư. Tuy vậy, các nghiên

cứu này đều cho rằng tiền gửi không phải là một nguồn thu nhập ổn định, đáng tin cậy

1.2.1.2. Các nghiên cứu trong nước nhằm đánh giá tác động của di cư đối với đời sống kinh tế của người cao tuổi

và giúp NCT thoát nghèo.

Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số nghiên cứu sử dụng các bộ dữ liệu Điều

tra mức sống Hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) và ứng dụng phương pháp nghiên cứu

định lượng hoặc định tính nhằm đánh giá tác động tiền gửi của con cái đi làm xa đối

với cha mẹ cao tuổi ở quê về khía cạnh kinh tế, thu nhập, giảm nghèo và sự bình đẳng.

Barbieri (2006)sử dụng hai bộ dữ liệu là Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm

1999 và Điều tra mức sống dân cư Việt Nam (VLSS) năm 1998 và cho thấy hơn 20%

NCT nhận được tiền gửi từ con cái di cư, trong đó phụ nữ cao tuổi thường nhận được

ít tiền gửi về hơn so với nam giới cao tuổi. Tác giả cho rằng việc con cái di cư đi làm

ăn xa được kỳ vọng là có những ảnh hưởng tích cực đáng kể và đa chiều lên cuộc sống

của cha, mẹ già ở nông thôn ở Việt Nam – những nơi mà các khoản an sinh thu nhập

còn thiếu và trách nhiệm chăm sóc người già vẫn thuộc về người thân trong gia đình

và cộng đồng. Tuy nhiên, một vấn đề cũng được phát hiện trong nghiên cứu này là khi

con cái di cư thì NCT ở quê phải lao động nhiều hơn.

Giang và Pfau (2008) đã sử dụng dữ liệu Điều tra mức sống Hộ gia đình Việt

Nam (VHLSS) năm 2004 nhằm xác định các yếu tố tác động tới xác suất bị nghèo của NCT. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc nhận tiền gửi về từ con cái đi làm xa nhà

đang ngày càng giúp các hộ gia đình có NCT ở nông thôn giảm nghèo và cải thiện

cuộc sống. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng có những hạn chế về số liệu vì việc nhận tiền gửi cũng chỉ dừng lại ở số liệu tiền gửi cho hộ gia đình và chưa rõ ai sẽ là người

được hưởng cụ thể và vì thế việc chi tiêu cũng chỉ mới dừng lại ở mức hộ gia đình và cũng chưa nêu rõ được NCT trong các hộ gia đình này được nhận bao nhiêu tiền gửi và chi tiêu như thế nào… Mặt khác, nghiên cứu cũng chưa nêu rõ được vai trò của tiền gửi từ người di cư nội địa ảnh hưởng như thế nào tới đời sống của NCT ở nông

thôn Việt Nam.

Phát triển tiếp nội dung này, Pfau và Giang (2010) sử dụng các bộ số liệu VLSS năm 1993 và năm 1998 và VHLSS năm 2002 và năm 2004 để nghiên cứu mối quan hệ

giữa việc nhận tiền gửi hay sống cùng con cái với khả năng giảm nghèo và giảm bất

23

bình đẳng trong thu nhập và chi tiêu của NCT. Các mô hình hồi qui logistic được các tác giả sử dụng nhằm giải thích các yếu tố tác động đến tiền gửi và các yếu tố tác động

đến tình trạng nghèo của NCT nhằm xác định xem yếu tố nào có ý nghĩa sau khi đã

loại bỏ các ảnh hưởng không tốt tới mô hình. Ở mô hình thứ nhất nghiên cứu mối quan

hệ giữa tiền gửi với đời sống NCT, các tác giả phát hiện ra rằng việc nhận tiền gửi cũng không giống nhau giữa các vùng, giới. NCT ở thành thị nhận tiền gửi nhiều hơn

NCT ở nông thôn. Phụ nữ là chủ hộ nhận tiền gửi về nhiều hơn nam giới. NCT ở nhóm tuổi cao hơn nhận nhiều tiền gửi hơn. Tuy nhiên, NCT sống với con cái thì cơ hội nhận

tiền gửi sẽ giảm và số con sống xa gia đình càng tăng thì sẽ làm tăng khả năng nhận

được tiền gửi cho cha mẹ. NCT đang làm việc thì ít có cơ hội nhận được tiền gửi hơn

NCT không làm việc. Mô hình thứ hai thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố tác động

đến khả năng giảm nghèo và đời sống NCT. Kết quả hồi qui cho thấy, các đặc điểm về nhân khẩu học như tình trạng hôn nhân, giới tính, tuổi và số con sống cùng trong một

gia đình không có quan hệ tới việc giảm nghèo của NCT. Tuy nhiên, có sự giảm nghèo

đáng kể diễn ra ở những gia đình có con cái di cư, điều này cho thấy rằng con cái di cư

có vai trò ngày càng lớn trong việc hỗ trợ cha, mẹ cao tuổi ở quê thông qua tiền gửi.

Sau khi nghiên cứu tác động của tiền gửi từ di cư lên đời sống và khả năng giảm nghèo

của NCT, các tác giả đã tính hệ số Gini và phát hiện thêm rằng việc nhận tiền gửi từ

con cái di cư cả nội địa và di cư quốc tế giúp NCT Việt Nam có sự bình đẳng về thu

nhập và chi tiêu hơn. Mặc dù nghiên cứu này đưa ra nhiều phát hiện hơn những nghiên

cứu trước nhưng vẫn gặp hạn chế lớn về mặt số liệu vì các bộ số liệu VHLSS 2002 và

2004 không thể hiện mối quan hệ giữa người gửi tiền và nhận tiền, không cho biết hộ

gia đình là người gửi tiền hay nhận tiền gửi ròng; chưa thể hiện số người con đi xa hay sống cùng bố mẹ già, chưa thể hiện được việc chi tiêu của những người nhận tiền và ở

kết quả nghiên cứu cũng chưa giải chứng minh được một cách thuyết phục tại sao

NCT đang làm việc lại ít có cơ hội nhận tiền gửi từ con cái trong khi những NCT có

lương hưu thì vẫn nhận được tiền con cái gửi về.

Nguyễn Việt Cường (2008) đã sử dụng hai bộ dữ liệu VHLSS năm 2002 và năm 2004 nhằm phân tích vai trò của tiền gửi từ di cư quốc tế và di cư nội địa lên đời sống các hộ gia đình, trong đó có hộ gia đình có NCT, thông qua hai khía cạnh chi tiêu

và thu nhập của những người còn lại trong các hộ gia đình nhận tiền. Nghiên cứu phát hiện rằng việc nhận tiền gửi cả từ di cư nội địa và quốc tế đều làm tăng thu nhập và chi tiêu của người nhận. Tuy nhiên, tác động lên khía cạnh chi tiêu cho các hàng hóa phi thực phẩm sẽ lớn hơn tác động lên chi tiêu cho hàng hóa thực phẩm. Tác động của

kiều hối lên thu nhập lớn hơn tác động lên chi tiêu của người nhận vì phần lớn kiều hối

24

được sử dụng cho mục đích tiết kiệm và đầu tư của các hộ gia đình. Tuy nhiên, phần lớn tiền gửi từ di cư nội địa lại dành cho mục đích tiêu dùng. Nhìn chung, nghiên cứu

này cũng chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu vai trò của tiền gửi đối với thu nhập và

chi tiêu của cả hộ gia đình nói chung mà chưa thể hiện được tác động của tiền gửi từ di

cư tới các hộ gia đình có NCT.

Nghiên cứu sâu hơn tác động của di cư quốc tế lên đời sống của các hộ gia đình

Việt Nam, Nguyễn Việt Cường và cộng sự (2011) đã sử dụng hai bộ số liệu VHLSS 2004 và 2006 để phân tích bằng các phương pháp đánh giá tác động khác biệt kép

(DID, difference-in-difference) để đánh giá tác động của tiền gửi từ những người di cư

quốc tế (kiều hối) lên đời sống của các hộ gia đình Việt Nam, trong đó có hộ gia có

NCT, ở các khía cạnh thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người, động lực lao động,

giảm nghèo và bất bình đẳng. Nghiên cứu chứng minh rằng kiều hối làm tăng thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người. Tuy nhiên, điều này cũng làm giảm động lực lao động

của các thành viên còn lại trong gia đình. Nghiên cứu còn phát hiện thêm rằng tiền gửi

về sẽ không có tác dụng giảm nghèo trong ngắn hạn nhưng lại làm tăng sự bất bình

đẳng về thu nhập. Ở nghiên cứu này, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu

được tác động của kiều hối lên thu nhập, chi tiêu bình quân đầu người, giảm nghèo và

bất bình đẳng của các hộ gia đình Việt Nam có người di cư nói chung (trong đó có hộ

gia đình có NCT) chứ chưa phân tích tác động của tiền gửi từ di cư nội địa, đặc biệt là

tác động của tiền gửi từ di cư nội địa đối với đời sống của các hộ gia đình có NCT.

Lê và Nguyễn (2011) sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu ở hai tỉnh Thái

Bình và Tiền Giang, các tác giả đã chọn ngẫu nhiên 1.400 người từ khoảng 800 hộ

gia đình có người di cư và 900 người từ khoảng 600 hộ gia đình không có người di cư. Nghiên cứu chứng minh rằng 61,8% số người trả lời cho rằng con cái di cư khiến

cha, mẹ ở nhà phải làm việc nhiều hơn. Tuy nhiên, việc di cư của con cái có khả

năng cải hiện tốt hơn thu nhập và điều kiện sống của cha, mẹ và những người thân còn lại ở quê nhà thông qua những khoản tiền và hàng hóa gửi về, nhưng nghiên cứu

này cũng không phân tích được tác động của tiềm gửi từ con cái di cư lên khía cạnh giảm nghèo, thu nhập và giảm bất bình đẳng của người cao tuổi, đặc biệt là NCT ở nông thôn.

Nhìn chung, các nghiên cứu ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở đánh giá vai trò

của tiền gửi quốc tế đối với đời sống của những người còn lại trong các hộ gia đình,

trong đó có hộ gia đình có NCT, ở các khía cạnh thu nhập, chi tiêu bình quân đầu người, giảm nghèo và bất bình đẳng chứ chưa làm rõ được vai trò của tiền gửi từ di cư

25

nội địa lên đời sống kinh tế của những hộ gia đình có người cao tuổi, đặc biệt là các hộ gia đình có NCT ở khu vực nông thôn.

1.2.2. Về khía cạnh sức khỏe

1.2.2.1. Các nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của di cư lên sức khỏe của người cao tuổi ở một số quốc gia.

* Các nghiên cứu quốc tế cho rằng con cái di cư tạo điều kiện tài chính tốt

hơn để người cao tuổi tiếp cận các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe.

Zhang and Wu (2003) (theo trích dẫn trong Xiang Biao, 2006) đã khảo sát 252

NCT ở ba làng của tỉnh An Huy của Trung Quốc và phát hiện ra rằng mặc dù con cái

di cư làm cha, mẹ họ cảm thấy cô đơn nhưng nhìn chung là họ thỏa mãn với cuộc sống

hàng ngày của họ. Cụ thể, trong số những NCT có con di cư thì 87,5% người cảm thấy

cô đơn, trong khi tình trạng này chỉ diễn ra ở 31,4% NCT không có con di cư, nhưng có 73,5% NCT có con di cư khẳng định họ rất hài lòng với cuộc sống hàng ngày của

họ, trong khi sự hài lòng này chỉ có ở 65,7% NCT không có con di cư. Nghiên cứu

còn cho biết thêm rằng những NCT có con di cư thường nhận được nhiều quà, nhiều

tiền mặt và được chăm sóc sức khỏe tốt hơn những NCT không có con di cư. Tuy

vậy, các tác giả cũng kết luận thêm rằng, mặc dù con cái di cư hiện tại chưa có

những tác động tiêu cực lên đời sống NCT ở quê nhà nhưng về lâu dài nó tiềm ẩn

những hệ lụy đối với hệ thống chăm sóc NCT nông thôn dựa vào hộ gia đình hiện tại

của Trung Quốc.

Cũng nghiên cứu về tác động của di cư đến sức khỏe của NCT ở Trung Quốc,

Giles và Mu (2006) đã sử dụng ba bộ số liệu từ các cuộc khảo sát bổ sung và khảo sát

hộ gia đình của Trung Tâm nghiên cứu Kinh tế Nông thôn Trung Quốc giai đoạn

1986-2003 và Khảo sát Dinh dưỡng và Sức khỏe Trung Quốc các năm 1991, 1993,

1997 và 2000 nhằm phân tích mối quan hệ giữa sức khỏe cha, mẹ cao tuổi và quyết định di cư của con cái. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng tình trạng sức khỏe

không tốt của cha, mẹ già trong các gia đình có một con, đặc biệt là con trai ở nông thôn, sẽ có ảnh hưởng không tốt lên quyết định di cư của người con. Tuy nhiên, nếu các gia đình có từ hai con trở lên thì sẽ không ảnh hưởng và việc người con di cư vẫn hoàn thành tốt trách nhiệm chăm sóc cha, mẹ ở quê thông qua việc hỗ trợ tài chính cho người con còn lại ở quê hay thuê người chăm sóc bố mẹ. Kết quả nghiên cứu cũng cho

thấy thêm rằng cha, mẹ có sức khỏe bình thường trong các gia đình có con di cư sẽ phải làm việc nhiều và lâu hơn và về lâu dài sẽ ảnh hưởng không tốt lên sức khỏe.

26

John Knodel và cộng sự (2007) khi đánh giá ảnh hưởng của con cái di cư lên sức khỏe của NCT ở Thái Lan lên các khía cạnh cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe

đã kết luận rằng khoảng một phần tư NCT cho rằng những người có con di cư khác

huyện đều cung cấp điều kiện tốt để NCT được chăm sóc sức khỏe ở nơi sống của

người con di cư hoặc ở nơi không cùng nơi sống của NCT. Tuy nhiên, nhóm NCT trẻ nhất ít được tạo điều kiện hơn vì họ thường có sức khỏe tốt. Nghiên cứu còn cho biết

thêm rằng những người con di cư lên Băng-Cốc hay các vùng đô thị sẽ có hiểu biết và khả năng tiếp cận tốt hơn các cơ sở chăm sóc sức khỏe và họ sẽ tạo điều kiện để cha,

mẹ học được hưởng các điều kiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt khi họ bị ốm hay cần

chăm sóc.

Chandore (2009) nghiên cứu tác động của con cái di cư lên đời sống của người

cao tuổi ở Campuchia. Ngoài việc đánh giá tác động của con cái di cư lên đời sống kinh tế của NCT như trên, nghiên cứu còn cho biết thêm rằng nhờ có sự hỗ trợ tài

chính từ con cái di cư mà cha, mẹ ở quê được tiếp cận tốt hơn các dịch vụ y tế, khám

chữa bệnh nhằm nâng cao sức khỏe.

*Các nghiên cứu quốc tế đánh giá tác động của con cái di cư lên hai khía

cạnh tự đánh giá về tình trạng sức khỏe nói chung (Self-rated health-SRH) và các

hoạt động hàng ngày (ADLs) cũng như các khía cạnh khác về sức khỏe thể chất và

tinh thần của người cao tuổi

Kuhn và cộng sự (2011) đã áp dụng mô hình logistic nhằm phân tích tác động

của con cái di cư, đặc biệt là di cư nội địa lên đời sống sức khỏe của những người từ

50 tuổi trở lên ở khu vực nông thôn của Indonesia bằng việc sử dụng số liệu từ ba

vòng của Khảo sát Đời sống Gia đình Indonesia (IFLS). Cụ thể, IFLS1 được thực hiện từ năm 1993 bao gồm các thành viên từ 46 tuổi trở lên của 7.224 hộ gia đình từ 13 tỉnh

đại diện cho 83% dân số Indonesia; IFLS2 được thực hiện từ năm 1997 với các thành

viên từ 50 tuổi trở lên thuộc 94,4% số hộ gia đình được thực hiện từ IFLS1; IFLS3 được thực hiện vào năm 2000 với 95,3% số hộ gia đình được thực hiện từ IFLS1.

Nghiên cứu chỉ chú trọng vào nhóm người có độ tuổi trên 50 vào thời điểm thực hiện cuộc khảo sát IFLS2 và họ đều sống ở nông thôn tại thời điểm thực hiện IFLS1. Nghiên cứu đã sử dụng biến sức khỏe của những người còn sống ở IFLS3 (biến phụ

thuộc) được xác định theo hai khía cạnh: tình trạng sức khỏe tự đánh giá (self-reported

health-SRH) và tình trạng sức khỏe để thực hiện các hoạt động thường ngày của cuộc

sống (activities of daily living-ADLs). SRH là biến nhị phân cho biết tình trạng sức khỏe là tốt hay xấu, trong đó nhóm tham chiếu là nhóm có SRH tốt và rất tốt; ADLs

được xác định bằng tám hoạt động thường ngày (gồm: mang vật nặng, quét nhà, đi bộ

27

5km, cúi, ngồi xổm và quì gối, tự mặc quần áo, tự đứng dậy và tự tắm rửa). Các biến giải thích bao gồm: (1) biến di cư của con cái là biến nhị phân được xác định là việc

đối tượng có ít nhất là một người con di cư (từ một đến sáu người con) sống trong

nước nhưng không cùng quận với cha, mẹ, nhóm tham chiếu là những đối tượng

không có con di cư; (2) biến kiểm soát là những biến mô tả đặc điểm nhân khẩu học như tuổi, giới tính. Kết quả của nghiên cứu cho thấy, con cái di cư năm 1997 có ảnh

hưởng tích cực lên sức khỏe của cha, mẹ năm 2000, cụ thể: NCT không có con cái di cư có tỷ lệ chết gấp gần hai lần những NCT có con di cư (6% so với 3,3%) và trong số

những NCT còn sống thì số người có con di cư có tình trạng SRH, ADLs không tốt ít

hơn ở NCT không có con di cư. Ngoài ra, nghiên cứu còn cho biết thêm rằng những

NCT có ít nhất một người con di cư thường có số con nhiều hơn, con cái được học

hành tốt hơn và có gia đình nhiều hơn, có nhiều tài sản gia đình hơn và có mức chuyển giao ròng nhiều hơn.

John Knodel và cộng sự (2007) đánh giá ảnh hưởng của con cái di cư lên sức

khỏe của NCT ở Thái Lan lên các khía cạnh chăm sóc NCT khi họ bị ốm nặng hay hỗ

trợ NCT khi họ gặp khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày. Nghiên cứu cho thấy rằng

việc di cư của con cái sẽ không ảnh hưởng đến sức khỏe của NCT nếu sức khỏe của

NCT vẫn tốt và có sự liên lạc thường xuyên giữa người con di cư với NCT ở quê. Tuy

nhiên, nghiên cứu chứng minh rằng dù những người con đi xa không có điều kiện

chăm sóc lâu dài cho những NCT bị mắc các chứng bệnh kinh niên nhưng họ vẫn sẽ

về trong trường hợp NCT bị ốm nặng. Một nửa số người trả lời rằng người con di cư

của họ về chăm sóc họ khi họ bị ốm nặng nhất, trong đó 1/3 số người trong hai nhóm

tuổi trẻ nhất và 2/3 số người trong nhóm tuổi còn lại có con chăm sóc khi ốm nặng. Đối với những NCT gặp các khó khăn trong các sinh hoạt hàng ngày (gồm các hoạt

động như nấu ăn, chi tiêu tài chính cho cả hộ gia đình, làm việc nhà, giặt quần áo và đi

lại) thì những người con sống cùng nhà và gần sẽ có điều kiện chăm sóc NCT tốt hơn những người con di cư.

Ramesh và cộng sự (2011) đã sử dụng số liệu từ cuộc khảo sát quốc gia về NCT ở Thái Lan năm 2007 với mẫu gồm 28.677 người từ 60 tuổi trở lên có ít nhất một người con di cư lại. Nghiên cứu đã ứng dụng hai cách phân tích đơn biến nhằm mô tả

các đặc điểm nhân khẩu học và đa biến thông qua mô hình hồi qui logistics nhằm đánh giá tác động ròng của con cái di cư lên sức khỏe, việc chăm sóc sức khỏe của cha, mẹ ở quê nhà sau khi đã kiểm soát các biến về nhân khẩu học và kinh tế. Các tác giả đã sử dụng biến phụ thuộc là tình trạng sức khỏe của NCT ở năm khía cạnh cụ thể: (1) có

triệu chứng sức khỏe tinh thần kém trong vòng một tháng trước cuộc khảo sát (như

28

cảm thấy căng thẳng, cảm thấy buồn, thất vọng, cảm thấy vô dụng, cô đơn); (2) tình hình sức khỏe tốt hay xấu; (3) có bệnh kinh niên (như huyết áp cao, tim mạch, tiểu

đường, ung thư, đột quị, liệt); (4) có triệu chứng bị ốm trong vòng 5 năm trước khảo

sát; và (5) việc chăm sóc sức khỏe (như việc NCT bị ốm trong khoảng thời gian 5 năm

trước khảo sát có đến cơ sơ chăm sóc sức khỏe hay không). Biến độc lập trong mô hình bao gồm (1) biến con cái di cư là việc có ít nhất một người con sống không cùng

tỉnh với NCT và các biến nhân khẩu học và kinh tế xã hội của NCT. Phần phân tích đơn biến của nghiên cứu cho thấy rằng hơn một nửa số người ở độ tuổi từ 60-69, cứ

bảy người thì có một người có tuổi từ 80 trở lên, cứ 5 người thì có 3 người là phụ nữ,

phần lớn NCT có trình độ cao nhất ở bậc tiểu học. Các tác giả còn cho biết thêm rằng

trung bình các gia đình có NCT có con di cư có 4 người con, cứ 5 người thì có 3 người

sống ở khu vực nông thôn và một nửa trong số họ có mức thu nhập hộ gia đình hàng năm khoảng 30.000 Bạt hoặc thấp hơn; cứ 10 người thì có một người sống cô đơn.

Ngoài ra, kết quả còn thể hiện thêm rằng, có 2/3 số người có ít nhất một người con di

cư và 79% người có ít nhất một con di cư nhận được tiền gửi từ con cái trong vòng 12

tháng trước khi có cuộc khảo sát. Về tình hình sức khỏe, số liệu thống kê cho thấy rằng

có 59% số người có con di cư cho biết họ gặp triệu chứng sức khỏe tinh thần không

tốt, trong khi tình trạng này chỉ có ở 56% NCT không có con di cư. Về tình trạng sức

khỏe nói chung thì hơn một nửa số NCT có con di cư cho biết họ có tình trạng sức

khỏe không tốt và gần một nửa cho biết họ bị mắc các chứng bệnh kinh niên và

khoảng 2/3 trong số họ cho biết họ bị ốm trong khoảng thời gian 5 năm trước khi có

khảo sát, tuy nhiên tình hình cũng tương tự như ở NCT không có con di cư. Nghiên

cứu còn cho biết thêm, khoảng 88% NCT bị ốm có đến các cơ sở y tế để chữa, trong số đó thì tỷ lệ NCT có con di cư đi chữa bệnh cao hơn tỷ lệ NCT không có con di cư.

Ở phần phân tích đa biến thông qua việc áp dụng mỗi mô hình hồi qui logistic cho

từng trường hợp sức khỏe, các tác giả chứng minh rằng việc di cư của con cái có quan

hệ chặt chẽ với tình trạng sức khỏe tinh thần không tốt ở NCT ở quê nhà, nhưng việc di cư của con cái lại không thể hiện mối quan hệ chặt với tình trạng sức khỏe thể chất

của NCT. Nghiên cứu còn chứng minh thêm rằng việc con cái di cư sẽ tạo điều kiện tốt hơn để NCT ở quê có điều kiện khám, chữa bệnh.

Khi nghiên cứu về Mexico, một số tác giả đã sử dụng các phương pháp khác nhau và đều có chung kết luận rằng con cái di cư có tác dụng không tốt lên sức khỏe NCT. Cụ thể, Antman (2010) đã sử dụng số liệu từ Cuộc khảo sát về Già hóa và Sức khỏe của Mexico (MHAS- Mexican Health and Aging Study) với mẫu gồm 6.730

NCT nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa việc di cư của con cái với sức khỏe NCTở

29

quê nhà ở Mexico trên hai khía cạnh sức khỏe tinh thần và thể chất. Từ phân tích số liệu thống kê, tác giả cho thấy rằng tỷ lệ cha, mẹ có ít nhất một người con di cư sang

Mỹ có sức khỏe không tốt (cụ thể 21%) cao hơn tỷ lệ cha mẹ không có con di cư sang

Mỹ có sức khỏe không tốt (14%). Ngoài ra, phụ nữ cao tuổi, có gia đình và ít được học

hành có xu hướng có con di cư sang Mỹ nhiều hơn các đối tượng khác. Nghiên cứu còn cho biết thêm, những cha, mẹ có con di cư thường ít nhận được các khoản thu

nhập từ các nguồn thu nhập, ít có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế, có đông con và cháu hơn và thường sống ở khu vực nông thôn. Sau khi phân tích bằng hồi qui

probit, tác giả kết luận rằng việc có một con di cư sẽ làm tăng 3,6 điểm phần trăm xác

suất cha, mẹ có sức khỏe không tốt; làm tăng 1,1 điểm phần trăm xác suất cha, mẹ có

sức khỏe thể chất không tốt như bị bệnh đau tim hay đột quị; và làm tăng 3,2 điểm

phần trăm xác suất cha, mẹ có sức khỏe tinh thần không tốt. Tác giả còn cho biết thêm rằng phụ nữ thường có tình trạng sức khỏe nói chung và sức khỏe tinh thần không tốt

khi con cái họ di cư.

Tuy nhiên, Antman (2013) đã sử dụng biến công cụ là tỷ lệ con cái di cư đã lập

gia đình và giới tính của con cái di cư vì con trai đã có gia đình thường có xu hướng di

cư nhiều hơn con gái và con trai chưa có gia đình nhằm chứng minh rằng trong các gia

đình có con di cư sang Mỹ thì việc di cư của người con sẽ làm cho cha, mẹ có tình

trạng sức khỏe kém cả về thể chất và tinh thần vì họ cảm thấy cô đơn và lo lắng cho

những người con phải di cư kiếm sống. Đặc biệt, những gia đình có con di cư bất hợp

pháp sang Mỹ thì tình trạng này còn tồi hơn và có thể góp phần gây nguy cơ đau tim

hay đột quị cho cha, mẹ. Nghiên cứu này còn cho biết thêm rằng cha, mẹ trong các gia

đình có con di cư ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn và thường sống ở các khu vực ngoại ô.

Với số liệu từ Khảo sát Lực lượng Lao động Quốc gia (The National Labor

Force Survey) của Moldova năm 2011, Marcus Bohme và cộng sự (2013) phân tích tác động của con cái di cư lên sức khỏe của NCT ở quê nhà. Để giải quyết vấn đề nội

sinh trong quyết định di cư của người di cư, các tác giả lựa chọn hai biến công cụ là thông tin về di cư ở địa phương và sự hiện diện của lực lượng quân sự Nga tại địa phương trước năm 1990. Nghiên cứu kết luận rằng những người con di cư sẽ có tác

động tích cực lên sức khỏe thể chất của NCT thông qua việc cải thiện chỉ số Khối cơ thể (BMI-Body Mass Index), sự năng động và sự tự đánh giá sức khỏe của chính NCT. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng không có sự liên hệ nào giữa việc người con di cư với sức khỏe tinh thần và trí tuệ của NCT ở quê nhà. Bên cạnh đó, thông qua tiền

30

gửi về từ con cái di cư, NCT sẽ có những cải thiện trong chế độ ăn uống và phân bổ thời gian hợp lý hơn trong việc nghỉ ngơi và việc đồng áng hàng ngày.

Nghiên cứu của Jennifer Waidler và cộng sự (2016) sử dụng số liệu về Khảo sát

hộ gia đình của Moldova năm 2011-2012 nhằm phân tích tác động của con cái di cư

quốc tế lên sức khỏe của NCT với mẫu nghiên cứu gồm 3.255 hộ gia đình, trong đó có 1.743 hộ gia đình có ít nhất một NCT. Nghiên cứu lựa chọn ra 1.322 NCT có đầy đủ

các đặc điểm phù hợp với mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi qui probit và hồi qui biến công cụ nhằm đánh giá tác động của con cái di cư lên các

khía cạnh sức khỏe thể chất, đời sống tinh thần, và đời sống xã hội của NCT ở quê

nhà. Các tác giả sử biến công cụ là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và mạng lưới

di cư của nước tiếp nhận di cư nhằm nội sinh hóa những yếu tố có ảnh hưởng lên việc

di cư của con cái nhưng không quan sát được. Cụ thể, sức khỏe thể chất của NCT được đánh giá thông qua chỉ số Khối cơ thể; khả năng tự uống thuốc mà không cần có sự trợ

giúp, khả năng thực hiện các hoạt động hàng ngày (ADLs); đời sống tinh thần gồm

việc NCT hài lòng với cuộc sống của họ và không thất vọng hay buồn chán; đời sống

xã hội gồm việc liên hệ thường xuyên với những người thân trong gia đình và bạn bè;

điều kiện về nhà ở bao gồm việc sống trong ngôi nhà có nền nhà, chất lượng nhà ở và

điều kiện sống hợp lý, được sử dụng điện và nước sạch. Nghiên cứu cho kết quả rằng

những NCT có con di cư thì xác suất để có ít nhất một chỉ số sức khỏe thể chất tốt sẽ

cao hơn. Tuy nhiên, sau khi sử dụng phương pháp biến công cụ để hiệu chỉnh việc lựa

chọn biến di cư thì kết quả cho thấy rằng con cái di cư không có tác động gì lên bất cứ

khía cạnh sức khỏe thể chất, tinh thần, kinh tế hay xã hội nào của NCT.

* Các nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của con cái di cư lên sức khỏe

tinh thần của người cao tuổi ở một số quốc gia

Một số nghiên cứu lại chứng minh việc con cái di cư mặc dù tạo điều kiện tốt

hơn về mặt tài chính để cha, mẹ họ chữa bệnh và cũng không phải là nguyên nhân để những NCT mắc các chứng bệnh kinh niên hay sức khỏe thể chất kém nhưng lại có

ảnh hưởng không tốt lên tình trạng sức khỏe tinh thần của NCT.

HelpAge International Moldova (2010) nghiên cứu cho trường hợp của Moldova đã thực hiện nghiên cứu thông qua khảo sát 1.205 hộ gia đình (trong đó có

610 hộ có ít nhất một người con di cư và nhận được tiền gửi và 595 hộ gia đình không

có con di cư hoặc không nhận được tiền gửi) ở 32 quận của hai thành phố lớn Chisinau và Balti của Moldova trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 8 năm 2010. Kết

quả cho thấy, mặc dù con cái di cư thường làm cha, mẹ lo lắng và cô đơn hơn, nhưng

31

việc nhận được tiền gửi từ con cái ở một khía cạnh nào đó giúp họ đỡ thất vọng hơn và cảm thấy đỡ lo lắng hơn cho cuộc sống về già của họ.

Nhằm đánh giá tác động của di cư lên sức khỏe của NCT, Chun-Wing Tse

(2013) khi nghiên cứu về tác động của người di cư đối với NCT ở Trung Quốc đã áp

dụng phương pháp biến công cụ (gồm hai biến công cụ: tỷ lệ lao động di cư trong làng vì tình hình di cư trong làng sẽ ảnh hưởng lên quyết định di cư của các hộ gia đình và

tỷ lệ di cư là nữ trong gia đình vì phụ nữ thường di cư nhiều hơn nam giới do thường phải theo chồng đi xa khi kết hôn) để giải quyết vấn đề nội sinh biến di cư và phân tích

trên số liệu Nghiên cứu về Hưu trí và Sức khỏe của Trung Quốc (CHARLS - China

Health and Retirement Longitudinal Study) vào năm 2011-2012. Nghiên cứu cho thấy,

con cái di cư đã có tác động tiêu cực lên sức khỏe chung của cha, mẹ già ở quê nhà

(như sức khỏe tinh thần, sức khỏe thể lực, tổn thương về trí nhớ, và đặc biệt là họ thường hay bị ốm nặng khi con cái vắng nhà). Tuy nhiên, con gái di cư thường gây

ảnh hưởng nghiêm trọng hơn lên sức khỏe của cha, mẹ vì thường ngày con gái hay

dành nhiều thời gian chăm sóc và tâm sự với cha, mẹ nên khi họ vắng nhà sẽ có ảnh

hưởng xấu hơn đến sức khỏe về cả thể chất và tinh thần của cha, mẹ ở quê nhà.

Erika Arenas và cộng sự (2011) nghiên cứu tác động của con cái di cư cả trong

nước và quốc tế lên sức khỏe tinh thần của người cao tuổi ở Mexico thông qua việc

phân tích số liệu chuỗi thời gian trên toàn quốc gia (Khảo sát Cuộc sống gia đình

Mexico), sử dụng phương pháp hồi qui bình phương nhỏ nhất (OLS) và cũng cho kết

quả giống Antman (2013) là những NCT có con di cư sang Mỹ sẽ trở nên ngày càng lo

lắng, buồn phiền và cô đơn, thậm chí có trường hợp còn muốn chết hơn so với những

NCT không có con di cư. Cụ thể, về khía cạnh nhân khẩu học thì cha mẹ từ 50 tuổi trở lên có con di cư sẽ trở nên phiền muộn hơn so với cha, mẹ ở tuổi trẻ hơn và đàn ông

1.2.2.2. Các nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của di cư đối với sức khỏe người cao tuổi Việt Nam

thường thay đổi trạng thái chậm hơn so với nữ giới.

Ở Việt Nam, vấn đề đánh giá tác động của con cái di cư, đặc biệt là di cư trong nước lên đời sống NCT ở quê nhà mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá vai trò của tiền gửi đối với việc nâng cao đời sống kinh tế của NCT và chỉ có vài nghiên cứu đánh giá sơ

sài về tác động của con cái di cư nội địa lên sức khỏe về tinh thần và thể chất của NCT ở quê nhà.

Tổng cục Thống kê và Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (2005) sử dụng bộ số liệu

Điều tra Di cư Việt Nam năm 2004 phân tích theo phương pháp đơn biến và đa biến và

32

cho kết luận về tác động của những người di cư lên sức khỏe của những thành viên còn lại trong gia đình ở quê nhà thông qua hai khía cạnh: (1) người di cư hỗ trợ người

ở nhà trong việc chăm sóc sức khỏe thông qua tiền gửi; và (2) đánh giá của người di

cư về tình trạng sức khỏe của các thành viên trong hộ gia đình. Về vấn đề thứ nhất,

nghiên cứu cho biết rằng, 15,8% người di cư gửi tiền về cho người thân nhằm mục đích chăm sóc sức khỏe, trong đó nhiều nhất là những người di cư ra Hà Nội kiếm

sống gửi tiền về chiếm khoảng 33,3% số người gửi tiền. Về vấn đề thứ hai, nghiên cứu chứng minh rằng có 19,3% người di cư cho rằng sức khỏe của những người thân còn

lại trong gia đình khá hơn hoặc khá hơn nhiều; 74,5% người di cư cho rằng không có

sự thay đổi về mặt sức khỏe của những người thân còn lại trong gia đình kể từ khi họ

di cư và chỉ có 5,1% đánh giá sức khỏe của những người thân còn lại trong gia đình trở

nên xấu đi kể từ khi họ di cư. Người trung niên di cư có vai trò cải thiện sức khỏe cho người thân còn lại cao hơn những người trẻ tuổi di cư, những người di cư ra Hà Nội có

khả năng cải thiện sức khỏe cho người thân tốt hơn các vùng khác.

Barbieri (2006) chứng minh rằng, mặc dù con cái di cư được kỳ vọng sẽ cải

thiện đời sống kinh tế của NCT, nhưng việc thiếu vắng người con đã làm người già ở

nông thôn thiếu người chăm sóc về cả vật chất và tinh thần.

Lê và Nguyễn (2011) nghiên cứu tác động của con cái di cư lên sức khỏe tinh

thần và cho rằng con cái di cư khiến cha, mẹ ở quê có cảm xúc buồn, vui lẫn lộn. Một

mặt, con cái di cư làm cha, mẹ họ vui hơn vì thấy con mình trưởng thành; mặt khác,

cha mẹ lại rất lo lắng về những vấn đề mà con mình sẽ gặp phải khi xa gia đình.

Nhìn chung, những nghiên cứu của Việt Nam trên đây mới chỉ dừng lại ở đánh

giá tác động của tiền gửi đối với việc chăm sóc sức khỏe của NCT ở quê nhà hay việc người con di cư khiến NCT ở quê nhà thiếu người chăm sóc cả về sức khỏe thể chất và

tinh thần nói chung. Tuy nhiên, các nghiên cứu về tác động của di cư, đặc biệt là di cư

nội địa, lên sức khỏe của NCT Việt Nam chưa làm rõ được NCT sẽ bị tác động như thế nào cả về tất cả các khía cạnh của sức khỏe thể chất và tinh thần.

1.2.3. Về khía cạnh xã hội

Nhìn chung, cả trên thế giới và trong nước có rất ít các nghiên cứu đánh giá tác động của người di cư tới đời sống xã hội của những người còn lại trong gia đình ở quê nhà nói chung và NCT nói riêng. Trên thực tế, việc tác động của những người di cư lên đời sống của những người còn lại trong các gia đình chỉ được đánh giá rất mờ nhạt ở một vài nghiên cứu của các tác giả ở một số quốc gia.

33

Gautam (1999) cho rằng, việc con cái di cư đã buộc cha, mẹ họ ở quê phải gánh vác tất cả các công việc từ bếp núc, chăn nuôi đến việc tham gia các hoạt động xã hội

như việc hiếu, việc hỷ…

John Knodel và cộng sự (2007) đánh giá ảnh hưởng của con cái di cư đối với

đời sống xã hội của NCT ở Thái Lan về các khía cạnh gặp gỡ trực tiếp và giao tiếp điện thoại giữa người con di cư và người cao tuổi ở quê nhà. Nghiên cứu cho thấy,

việc gặp gỡ và liên lạc với người con di cư qua điện thoại là những nguồn hỗ trợ cho đời sống tình cảm và xã hội của NCT ở quê nhà. Nghiên cứu chứng minh rằng con cái

sống khoảng cách càng xa cha, mẹ thì số lần về càng ít, nhưng nhìn chung người con

di cư sẽ gặp NCT ít nhất một lần trong năm vào dịp năm mới của người Thái Lan (Lễ

Songkran). Về việc liên lạc bằng điện thoại, 1/3 số người di cư có liên lạc bằng điện

thoại hàng tuần với cha, mẹ họ ở quê, 2/3 số người còn lại có liên lạc bằng điện thoại với cha, mẹ họ hàng tháng. Nhìn chung, những NCT Thái Lan thường có cả con di cư

và con ở gần hoặc sống chung nên việc gặp gỡ hay liên lạc bằng điện thoại với con cái

sẽ diễn ra phổ biến trong đời sống xã hội của họ.

Theo Báo cáo Phát triển Con người (UNDP, 2009), người di cư có khả năng

nâng cao vị thế xã hội, chính trị của những người còn lại trong gia đình ở quê nhà khi

họ quay về nhà với những giá trị, kỳ vọng và tư tưởng tiến bộ mà họ tích lũy được ở

nước ngoài.

HelpAge International Moldova (2010) kết luận rằng khi con cái di cư thì cha,

mẹ già ở quê phải đảm nhận toàn bộ trách nhiệm chăm sóc và dạy dỗ những đứa cháu

(con của những người di cư để lại), đặc biệt họ còn đóng vai trò là người đại diện hợp

pháp, dạy dỗ cho những đứa trẻ con của những người di cư. Mặt khác, nghiên cứu cũng cho biết thêm rằng khi con cái di cư thì NCT ở quê nhà sẽ có nhiều thời gian hơn

để thực hiện các hoạt động văn hóa như đọc bào, nghe đài, xem tivi và đọc sách. Cụ

thể, 73,2% NCT có con di cư xem tivi, trong khi con số này ở NCT không có con di cư là 64,6%. Đối với vấn đề đọc báo, tỷ lệ NCT có con di cư đọc báo cao hơn tỷ lệ NCT

không có con di cư là khoảng 2%.

Ở Việt Nam, cho đến nay, việc đánh giá tác động của di cư đến đời sống của những thành viên còn lại trong gia đình chủ yếu mới chỉ dừng lại ở khía cạnh thu nhập

và giảm nghèo. Hầu như chưa có nghiên cứu nào đánh giá tác động của con cái di cư

lên đời sống xã hội của người cao tuổi.

Nhìn chung, từ kết quả nghiên cứu của con cái di cư tác động lên đời sống xã

hội của NCT mới chỉ dừng lại ở một số nghiên cứu ở một số quốc gia trên thế giới.

34

Vấn đề tác động của con cái di cư lên đời sống xã hội của NCT ở quê nhà chủ yếu ở các khía cạnh trách nhiệm xã hội, cơ hội để được tiếp cận với các phương tiện

thông tin đại chúng để nâng cao hiểu biết và mở rộng quan hệ xã hội, cũng như việc

gặp gỡ hay liên hệ bằng điện thoại diễn ra giữa người con di cư với cha, mẹ già của

họ ở quê nhà.

1.3. Cá ả t uyết o ọ

Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, các giả thuyết khoa học cần được kiểm

chứng gồm:

(1) Sống trong hộ gia đình có người di cư nội địa giúp cải thiện đời sống

kinh tế của NCT thông qua tiền gửi về (như giúp NCT có điều kiện nhà ở tốt hơn,

có nhà vệ sinh, giúp giảm nghèo và giảm bất bình đẳng về thu nhập so với những

nhóm NCT khác).

(2) Sống trong hộ gia đình có người di cư nội địa tác động tích cực lên sức khỏe sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần của NCT. Cụ thể, những NCT sống trong các

hộ gia đình có con di cư sẽ có điều kiện tài chính tốt hơn để cải thiện sức khỏe thể chất

và sức khỏe tinh thần.

(3) Sống trong hộ gia đình có người di cư nội địa tạo, NCT có điều kiện tốt hơn

để tham gia các tổ chức xã hội và nâng cao nhận thức xã hội. Cụ thể, luận án sẽ chứng

minh rằng NCT trong các gia đình có người di cư nội địa có điều kiện thuận lợi hơn để

tham gia các hoạt động xã hội và có điều kiện tốt hơn để tiếp cận các phương tiện

thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức xã hội.

1.4. Khung phân tích lý t uyêt ủ luận án

Với các giả thuyết khoa học được như trên, luận án đề xuất mô hình nghiên cứu

tác động của người lao động di cư nội địa lên đời sống của người cao tuổi Việt Nam như Hình 1.1 dưới đây. Cụ thể: (i) Sống trong hộ gia đình có người di cư nội địa là

một biến độc lập, tác động cải thiện đời sống NCT trên cả ba khía cạnh: (1) Kinh tế, bao gồm các vấn đề giảm nghèo, bình đẳng về thu nhập bình quân đầu người và điều kiện nhà ở; (2) sức khỏe, bao gồm sức khỏe về thể chất và tinh thần; và (3) đời sống xã hội, bao gồm việc tham gia các tổ chức xã hội và việc nâng cao nhận thức xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, (ii) các đặc điểm nhận khẩu học

của NCT được đưa vào phân tích có vai trò như các biến biến kiểm soát cũng có ảnh hưởng tới các khía cạnh kinh tế, sức khỏe và xã hội của NCT như tuổi, đặc điểm hộ

gia đình, trình độ học vấn, khu vực sống và tình trạng hôn nhân.

35

Đặc điểm của người cao tuổi:

Đời sống kinh tế gồm:

- Giới tính - Đặc điểm hộ gia đình - Học vấn - Khu vực sống - Tình trạng hôn nhân

- Giảm nghèo - Bình đẳng về thu nhập bình

quân đầu người

- Cải thiện điều kiện nhà ở

(ii)

(1)

Đời sống sức khỏe gồm:

(2)

(i)

Người cao tuổi

Con cái di cư nội địa

- Sức khỏe thể chất - Sức khỏe tinh thần

(3)

Đời sống xã hội: - Việc tham gia các tổ chức

xã hội

- Việc nâng cao nhận thức xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

Hình 1.1. K un p ân tí ủ luận án

36

Kết luận ƣơn 1

Chương 1 đã khái quát các vấn đề lý thuyết cơ bản liên quan đến di cư,

người cao tuổi và các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của di cư tới đời sống NCT ở Việt Nam và một số nước. Chương này đã tổng hợp những khái niệm cơ bản

liên quan đến di cư, người di cư, khái niệm về nơi xuất cư và nhập cư, khái niệm về

luồng do cư và di cư thuần, nơi cư trú thường xuyên, các thước đo về tình trạng di

cư, các loại hình di cư và nguyên nhân di cư và những khái niệm, đặc điểm liên quan đến NCT.

Ngoài ra, từ kết quả tổng quan lý thuyết trên thế giới và trong nước thì có thể

thấy là, tác động của con cái di cư lên đời sống của NCT được đề cập chủ yếu ở ba

khía cạnh chính là đời sống kinh tế, sức khỏe và đời sống xã hội.

Thứ nhất, con cái di cư tác động lên đời sống kinh tế của NCT ở quê thông

qua các khía cạnh thu nhập, điều kiện sống và thời gian lao động hay công việc

đồng áng, cũng như khả năng giảm nghèo. Ngoài ra, các nghiên cứu cũng cho biết

thêm rằng việc con cái di cư sẽ được coi như một nguồn hỗ trợ tài chính nhằm bảo

hiểm cho đời sống của NCT ở quê nhà khi thiếu đất canh tác hay gặp thiên tai hoặc

ốm đau.

Thứ hai, con cái di cư sẽ tác động lên khía cạnh sức khỏe của NCT ở quê

thông qua các khía cạnh sức khỏe thể chất và tinh thần. Về sức khỏe thể chất bao

gồm: (i) tự đánh giá về sức khỏe, (ii) các bệnh mãn tính, (iii) bị ốm trong vòng 12

tháng trước điều tra, (iv) việc chữa bệnh trong vòng 12 tháng trước điều tra, (v) các

hành vi sinh hoạt cá nhân hàng ngày, và (vi) hạn chế các chức năng hoạt động của cơ thể. Sức khỏe tinh thần của NCT bao gồm: sự căng thẳng, bị buồn phiền, thất

vọng, cảm thấy mình vô dụng hay cô đơn khi con cái di cư.

Thứ ba, tác động của con cái di cư lên đời sống xã hội của NCT ở quê bao

gồm các yếu tố: trách nhiệm xã hội, cơ hội để được tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao hiểu biết và mở rộng quan hệ xã hội, cũng như việc gặp gỡ hay liên hệ bằng điện thoại diễ ra giữa người con di cư với cha, mẹ già của họ ở quê nhà.

Ở Việt Nam, các nghiên cứu hiện có mới chỉ làm rõ được vai trò của tiền gửi

về đối với việc giảm nghèo, nâng cao thu nhập và đời sống vật chất của NCT chứ chưa làm rõ được tác động của việc con cái di cư, đặc biệt là di cư từ nông thôn lên

thành phố, lên đời sống của cha, mẹ già ở quê về cả đời sống kinh tế, tình trạng sức

37

khỏe thể chất và tinh thần cũng như đời sống xã hội. Đây chính là khoảng trống để luận án làm rõ hơn tác động của di cư nội địa lên đời sống của NCT một cách đầy

đủ hơn.

Từ kết quả tổng quan lý thuyết, luận án đã đưa ra ba giả thuyết khoa học

nhằm chứng minh tác động của di cư nội địa tới đời sống NCT Việt Nam trên các khía cạnh: kinh tế, sức khoẻ và xã hội.

Cuối cùng, từ các giả thuyết khoa học, luận án đã đưa ra khung lý thuyết

nhằm phân tích tác động của di cư nội địa đến đời sống NCT Việt Nam.

38

CHƢƠNG 2 SỐ LIỆU V PHƢƠNG PHÁP NGHI N CỨU

2.1. Số l ệu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng di cư nội địa, đặc điểm NCT Việt Nam nói chung và NCT sống trong các hộ gia đình có người di cư nội

địa, cũng như đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống kinh tế sức khỏe và xã hội của NCT Việt Nam, luận án sẽ sử dụng các bộ số liệu như sau:

2.1.1. Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS)

Để phân tích tác động của di cư nội địa lên đời sống kinh tế của các hộ gia đình

có người cao tuổi, luận án sử dụng số liệu từ cuộc Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) năm 2012 vì ở cuộc khảo sát này, các thông tin liên quan đến người di

cư và tiền gửi nhận được của các hộ gia đình từ người di cư được thể hiện rõ ở Mục

hỏi 01B_4A2_1B_12. Mặc dù hiện nay đã có hai cuộc Khảo sát mức sống hộ gia đình

Việt Nam năm 2014 và 2016, nhưng thông tin liên quan đến người di cư chỉ dừng lại ở khái niệm người di cư, còn tiền gửi về từ người di cư cho các hộ gia đình chưa được

thể hiện rõ. Các cuộc khảo sát này do Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO) phối hợp

cùng các tổ chức quốc tế khác thực hiện.

Cuộc khảo sát được thực hiện ở mức hộ gia đình gồm có các đặc điểm cá nhân

thành viên trong hộ như: tuổi, giới tính, mối quan hệ với chủ hộ, tình trạng hôn nhân,

tình trạng việc làm, trình độ học vấn cao nhất, tình hình sức khỏe, khu vực sống. Cỡ

mẫu trong cuộc khảo sát cho thấy, trong số 9.399 hộ gia đình có 2.922 hộ gia đình có ít

nhất một NCT; số người tham gia trả lời phỏng vấn trong cuộc khảo sát là 36.655

người, trong đó có 3.978 NCT trả lời phỏng vấn. Từ đó, có thể xác định được NCT và những hộ gia đình có ít nhất một NCT và có người di cư nội địa. Cuộc khảo sát này

đại diện ở cấp quốc gia và cấp vùng, khu vực thành thị và nông thôn.

Ở cấp hộ gia đình, cuộc khảo sát thu thập các thông tin về nguồn thu nhập, trong đó có thu nhập từ tiền gửi của con cái và người thân di cư, có cả thông tin về tiền gửi từ di cư nội địa và di cư quốc tế. Trong phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ lựa chọn những hộ gia đình nhận được tiền gửi về từ di cư nội địa. Ngoài ra, cuộc khảo sát còn

cho biết thêm thông tin về chi tiêu của hộ gia đình, sở hữu hàng hóa tiêu dùng lâu bền, việc làm nông nghiệp và kinh doanh, tình trạng nghèo, việc tham gia các chương trình

xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, tình trạng sức khỏe và điều kiện nhà ở.

39

Theo cuộc khảo sát, người di cư nội địa được định nghĩa là người kể từ năm 2002 có khoảng thời gian đi khỏi hộ đến một nơi khác (như xã/ phường; nơi khác

trong tỉnh; tỉnh/ thành phố khác) ít nhất 6 tháng vì lí do việc làm (xem Phiếu hỏi ở

Mục 01B_4A2_1B_12). Ở cuộc điều tra này, tiền gửi nhận được của các hộ gia đình từ

người thân di cư trong nước là tiền mặt và hiện vật mà người di cư đã cho/ biếu/ mừng trong vòng 12 tháng trước điều tra (xem Phiếu hỏi ở Mục 01B_4A2_1B_12).

Bản 2.1. G á trị t ền ử t eo loạ ìn ƣ

Tiền gửi từ Tiền gửi từ Tiền gửi từ Loại hình di cư di cư quốc tế di cư nội địa cả hai loại hình di cư

Lượng tiền gửi 38.088.143.450 109.681.298.942 147.769.442.392

(đơn vị: nghìn đồng)

Tỷ lệ (đơn vị:%) 25,8 74,2 100

Nguồn: Tự tính toán từ VHLSS2012.

Từ bảng trên cho thấy tiền gửi từ di cư nội địa chiếm 2/3 trong tổng số tiền gửi

và gấp ba lần giá trị tiền gửi từ di cư quốc tế.

Trong cuộc khảo sát, tiền gửi về từ người di cư được định nghĩa là khoản

tiền hoặc/ và giá trị bằng tiền của các loại hàng hóa mà các hộ gia đình nhận được

từ những người như thành viên hộ gia đình hay bạn bè không sống trong hộ gia

đình mà không bị yêu cầu phải thanh toán lại. Ở cuộc điều tra này, tiền gửi nhận

được của các hộ gia đình từ người thân đi làm trong nước mới chỉ thể hiện mức tiền

mặt hay giá trị bằng tiền của các hàng hóa do người thân đi làm ăn trong nước gửi

về ở mức hộ gia đình. Tuy nhiên, cuộc khảo sát trên không có thông tin về mối quan

hệ giữa người gửi tiền về với hộ gia đình và cũng không thể hiện thông tin về việc tiền

gửi sẽ được phân bổ cụ thể cho mỗi thành viên trong hộ như thế nào và chi tiêu của mỗi thành viên trong hộ là bao nhiêu.

2.1.2. Điều tra người cao tuổi Việt Nam (VNAS) năm 2011

Để phân tích tác động của di cư nội địa lên sức khoẻ thể chất, tinh thần và đời sống xã hội của người cao tuổi, luận án sẽ sử dụng số liệu từ Điều tra Người cao tuổi Việt Nam (VNAS) năm 2011. Cuộc khảo sát này được thiết kế dựa trên kết quả của cuộc Điều tra về Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 nên thông tin có từ cuộc khảo sát sẽ mang tính đại diện cho những người từ 50 tuổi trở lên ở Việt Nam ở cả khu vực nông thôn và thành thị. VNAS 2011 được thực hiện với hơn 4.000 người từ 50

tuổi trở lên ở cả 6 vùng địa lý, trong đó có 2.789 NCT với 1.683 người là phụ nữ và

40

1.106 là nam giới; 2.050 người sống ở khu vực nông thôn và 739 người sống ở khu vực thành thị.

Biến có con di cư được sử dụng trong luận án được định nghĩa dựa trên câu hỏi

B14 của VNAS 2011 là những người con hiện đang sống khác xã với NCT.

VNAS 2011 cung cấp các thông tin về các đặc điểm kinh tế, sức khỏe và xã hội của NCT cụ thể như sau: (1) những thông tin chung về NCT như: nơi sinh, nơi ở, tôn

giáo, việc thờ cúng tổ tiên, biết đọc, biết viết, tình trạng hôn nhân; (2) thông tin chung về hộ gia đình của NCT như: số con sống cùng nhà và không sống cùng nhà, số con đi

làm ăn xa, nghề nghiệp của con cái, thông tin về cháu nội hay ngoại sống cùng, phải

chăm sóc và không sống cùng nhà; (3) những đóng góp của NCT như: việc nhà, chăm

sóc con, cháu, người thân và hỗ trợ tiền cho người thân; (4) vấn đề nhà ở như loại hình

nhà ở; (5) nghề nghiệp trước đây và hiện tại, thu nhập từ các nghề đó; (6) tài sản, các

nguồn hỗ trợ tài chính, các nguồn thu nhập hỗ trợ cho cuộc sống hàng ngày (trong đó

có tiền gửi của con cái đi làm ăn xa, việc hỗ trợ của con cái dành cho NCT trong công

việc gia đình và kinh doanh và tổng thu nhập của hộ gia đình); (7) an sinh xã hội như

việc tham gia các tổ chức xã hội như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, đọc báo, nghe đài…;

(8) việc hiểu biết về quyền công dân; (9) các thông tin về sức khỏe thể chất, tinh thần

và cảm xúc như việc tự đánh giá về sức khỏe, các triệu chứng sức khỏe trong vòng 30

ngày trước cuộc điều tra, các bệnh mãn tính như khớp, tiểu đường, huyết áp cao, trầm

cảm, vấn đề thị lực, thính lực, các hoạt động thể lực hàng ngày, các khó khăn hay

thuận lợi khi thực hiện các hoạt động chăm sóc bản thân gồm vệ sinh cá nhân, mặc

quần áo, ăn..., cần có người giúp đỡ khi không tự thực hiện các hoạt động chăm sóc

bản thân, việc tham gia bảo hiểm y tế, việc khám chữa bệnh và chi trả cho việc khám chữa bệnh.

2.2. P ƣơn p áp n ên ứu

2.2.1. Đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống kinh tế của NCT

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, thứ nhất, bằng phương pháp thống kê mô tả các bảng số liệu, luận án sẽ so sánh tỷ lệ các hộ gia đình có người di cư nội địa nhận được tiền gửi nói chung và những hộ gia đình có NCT có người di cư nội địa nhận được tiền gửi; tỷ lệ tiền gửi nhận được của hai nhóm hộ gia đình này.

Tiếp theo, luận án sẽ đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống kinh tế

của những hộ gia đình có NCT ở các khía cạnh giảm nghèo, giảm bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và điều kiện sống về nhà ở và nhà vệ sinh.

41

* Đánh giá lên khía cạnh giảm nghèo

Trong luận án, một hộ thuộc diện hộ nghèo được xác định dựa trên chuẩn nghèo

chính thức của Tổng cục Thống kê công bố năm 2012 như sau: mức thu nhập bình

quân đầu người hàng tháng của hộ gia đình là 530.000 đồng/người/tháng đối với khu

vực nông thôn và 660.000 đồng/ người/tháng đối với khu vực thành thị.

Trước tiên, luận án xác định tình trạng di cư của thành viên hộ gia đình dựa vào

phiều hỏi Mục 01B_4A2_1B_12 của Điều tra về mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2012 (VHLSS 2012). Tiếp đến, luận án xác định các hộ gia đình có người di cư nội địa

có nhận được tiền gửi và đánh giá ảnh hưởng của tiền gửi từ thành viên hộ gia đình di

cư nội địa trong các gia đình có NCT có người di cư lên đời sống NCT Việt Nam ở

khía cạnh giảm nghèo. Luận án sẽ phân tích trên số liệu của VHLSS2012 vì ở cuộc

khảo sát này có hợp phần hỏi về tình trạng di cư của thành viên hộ gia đình và tiền gửi

về từ thành viên hộ gia đình di cư (như đã nêu ở phần phân tích số liệu). Trên cơ sở

đó, luận án xác định được hộ có NCT có người di cư nội địa và nhận được tiền gửi từ

các thành viên di cư nội địa. Vì hạn chế thông tin về việc phân bổ các nguồn thu nhập

cũng như khoản tiền gửi mà hộ gia đình nhận được cho từng thành viên của hộ nên

trong phạm vi nghiên cứu luận án giả định rằng mọi thành viên trong gia đình được

hưởng như nhau đối với khoản tiền gửi từ di cư nội địa mà hộ gia đình nhận được.

Mô hình nghiên cứu:

Để đánh giá ảnh hưởng của di cư nội địa đến đời sống kinh tế của NCT ở khía

cạnh giảm nghèo, luận án sử dụng mô hình sau:

(1) Yi = F (Xi, Zi)

Trong đó:

+ chỉ số i là chỉ số hộ gia đình thứ i;

+ Yi là tình trạng nghèo của hộ gia đình có NCT có người di cư nội địa. Yi = 1

nếu thuộc hộ nghèo và Yi = 0 nếu là hộ khác.

+ Zi là tình trạng nhận tiền gửi của hộ gia đình có NCT có người di cư nội địa. Zi= 1 nếu hộ gia đình có NCT có người di cư nội địa nhận được tiền gửi và Zi = 0 trong các trường hợp khác.

+ Xi là các biến thể hiện đặc điểm của hộ gia đình, của chủ hộ...

42

Do Yi là biến nhị phân nên luận án sử dụng mô hình hồi qui logistic để ước lượng. Gọi Pi là xác suất để hộ thứ i nhận Yi= 1 hay xác suất để hộ có NCT có người di cư thuộc hộ nghèo. Khi đó, ta có mô hình logistic như sau:

Ln( (2) a1 + a2Xi +a2Zi + ei

Việc ước lượng mô hình (2) sẽ giúp phân tích được ảnh hưởng của Zi (hay ảnh hưởng của di cư nội địa có gửi tiền về) lên xác suất bị nghèo của hộ có NCT. Tuy

nhiên, một vấn đề thường gặp trong kinh tế lượng là vấn đề nội sinh. Ở mô hình (2) có thể biến Zi là biến nội sinh khi hộ có người di cư chuyển tiền về được coi là phụ thuộc vào các yếu tố khác nữa như hộ có NCT có con di cư có thể có điều kiện kinh tế khá giả hơn, có điều kiện đầu tư cho các thành viên của hộ di cư hay có thể có thông tin về

việc làm ở nơi đến của người di cư tốt hơn các hộ khác, hay bố, mẹ của người di cư có

học vấn cao hơn nên nhận thức tốt hơn về lợi ích khi cho con cái di cư.... Theo Nguyễn

Việt Cường (2014) và Junhui Qian (2014), có một số phương pháp nhằm giải quyết vấn đề nội sinh trong nghiên cứu việc đánh giá tác động như sử dụng biến công cụ

(IV), phân tích bằng dữ liệu mảng (panel data) hoặc sử dụng phương pháp ước lượng

hai giai đoạn (2SLS). Do hạn chế về số liệu nên không tạo được dữ liệu mảng và hạn

chế trong việc lựa chọn được một biến công cụ tốt, nên luận án sử dụng phương pháp

ước lượng 2SLS như sau:

- Bước 1: ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến Zi bằng mô hình logistic như

sau:

Ln( β1 + β2Regi + β3Urbani + β4Marriedi + β5Genderi + β6Agei +

(3) β7Work_yni + β8Elderly_ratei + ei

Kết quả ước lượng mô hình (3) sẽ cho giá trị dự báo của biến phụ thuộc, gọi là

Prob_RemY (xác suất thuộc hộ nghèo của hộ có người cao tuổi có người di cư nội địa nhận được tiền gửi).

- Bước 2: ước lượng mô hình ảnh hưởng đến xác suất nghèo với biến độc lập được thay bằng biến Prob_RemY. Khi đó tác động của biến độc lập X đến xác suất nghèo được xác định như sau:

Mức tác động (X) = P(1-P)βX

Trong đó: P là mức xác suất bị nghèo trung bình, βX là hệ số ước lượng mô hình

logistic của biến độc lập X.

Trong mô hình logistic, á b ến độ lập gồm có:

43

Tuổi (age): tuổi của chủ hộ có thể ảnh hưởng đến việc nhận tiền gửi của cả hộ vì đối tượng càng lớn tuổi thì khả năng nhận được tiền gửi càng lớn hơn và càng

ít có nguy cơ bị nghèo hơn (Pfau and Giang, 2010). Trong cuộc khảo sát, tuổi là

một biến liên tục, được Tổng cục Thống kê làm tròn tại thời điểm điều tra và luận

án đã xử lý phân tổ biến tuổi thành các nhóm tuổi như sau: nhóm <20 tuổi; từ 20-29 tuổi; từ 30 - 39 tuổi; từ 40 - 49 tuổi; từ 50 - 59 tuổi; từ 60 - 69 tuổi; từ 70 - 79 tuổi;

từ 80 - 89 tuổi và từ 90 tuổi trở lên. Biến nhóm tuổi có thể được sử dụng như các biến giả trong mô hình.

Giới tính (gender): biến này được dùng để xác định sự chênh lệch trong xác

suất nhận tiền gửi giữa chủ hộ là nam giới và nữ giới cao tuổi. Theo kết quả phân

tích của Pfau and Giang (2010) và Barbieri (2006) thì hộ gia đình có phụ nữ cao tuổi

là chủ hộ thường có khả năng nhận được tiền gửi về cao hơn so với hộ gia đình mà nam giới là chủ hộ. Trong mô hình, giới tính là một biến nhị phân nhận giá trị = 1

nếu chủ hộ là phụ nữ và nhận giá trị = 0 nếu chủ hộ là nam giới.

Tình trạng hôn nhân (married): NCT được chia thành ba nhóm: kết hôn; góa

vợ hoặc chồng, và tình trạng hôn nhân khác (gồm ly dị, ly thân, và độc thân). Pfau and

Giang (2010) cho thấy những NCT có gia đình thường nhận ít tiền gửi hơn hai nhóm

còn lại, nhưng lại có nguy cơ bị nghèo nhiều hơn lại rơi vào hai trường hợp này. Do

đó, trong phân tích, luận án sử dụng “tình trạng hôn nhân khác” là biến tham chiếu.

Tình trạng có việc làm (work_yn): Theo Pfau and Giang (2010), phần lớn

những NCT là chủ hộ có việc làm thường ít có khả năng nhận tiền gửi hơn và cũng ít

có nguy cơ bị nghèo hơn các đối tượng còn lại. Biến chủ hộ có việc làm là một biến

nhị phân, nhận giá trị = 1 nếu chủ hộ đang có việc làm và nhận giá trị = 0 nếu chủ hộ không có việc làm.

Khu vực sinh sống (urban): Theo Lưu Bích Ngọc (2016), mức sống của hộ gia đình có người di cư nông thôn lên thành thị cao hơn mức sống của cả hộ không di cư ở

nông thôn và không di cư ở thành thị. Biến khu vực sinh sống là một biến nhị phân nhận giá trị = 1 trong trường hợp nếu chủ hộ sống ở thành thị và nhận giá trị = 0 trong trường hợp khác.

Vùng sinh sống (reg): Những vùng có tỷ suất xuất cư thuần cao thường là

những vùng thuần nông, có mật độ dân số cao và thiếu đất canh tác (Lưu Bích Ngọc, 2016). Vì vậy, khu vực sinh sống cũng ảnh hưởng tới khả năng nhận được tiền gửi từ di cư nội địa. Biến vùng sinh sống là biến giả, vùng sinh sống theo cuộc khảo sát gồm

sáu vùng sinh thái, bao gồm: Đồng bằng sông Hồng (1.reg6); Trung du và miền núi

44

phía Bắc (2.reg6); Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (3.reg6); Tây Nguyên (4.reg6); Đông Nam Bộ (5.reg6) và Đồng bằng sông Cửu Long (6.reg6). Trong trong

mô hình, biến 1.reg6 được chọn là biến tham chiếu.

Tỷ lệ người cao tuổi trong hộ (elderly_rate): Theo Giang và Pfau (2010),

NCT có xu hướng sống phụ thuộc hơn khi tuổi càng cao. Vì vậy, hộ gia đình có tỷ lệ NCT càng cao càng có nhiều khả năng nhận tiền gửi về từ con cái di cư trong

nước. Biến tỷ lệ NCT trong hộ được xác định bằng tổng số NCT trong hộ chia cho tổng số thành viên của hộ gia đình.

* Điều kiện sống (nhà ở và nhà vệ sinh)

K ểm địn K bìn p ƣơn : để đánh giá ảnh hưởng của tiền gửi từ di cư nội

địa đến điều kiện sống (cụ thể là loại nhà ở và vệ sinh) của hộ gia đình có NCT có

người di cư nội địa, luận án sử dụng kiểm định Khi bình phương (Chi-square) nhằm

kiểm định sự bằng nhau về tỷ lệ hộ sống trong nhà tạm, hộ không có nhà vệ sinh giữa

nhóm hộ có NCT có người di cư nội địa và các nhóm hộ gia đình khác như sau:

- Kiểm định 1: về sự bằng nhau về tỷ lệ hộ sống trong nhà tạm giữa hai nhóm

hộ. Cụ thể: giả thuyết H0 = tỷ lệ hộ ở nhà tạm là như nhau giữa hai nhóm hộ; H1 = có

sự khác nhau về tỷ lệ hộ sống trong nhà tạm giữa hai nhóm hộ, trong đó: H1a = tỷ lệ

hộ có NCT có người di cư sống trong nhà tạm lớn hơn tỷ lệ nhóm hộ còn lại và H1b =

tỷ lệ hộ có NCT có người di cư sống trong nhà tạm nhỏ hơn nhóm còn lại.

- Kiểm định 2: về sự bằng nhau về tỷ lệ hộ không có nhà vệ sinh giữa hai nhóm

hộ. Cụ thể: H0 = tỷ lệ hộ không có nhà vệ sinh giữa hai nhóm hộ như nhau; H1 = có sự

khác nhau về tỷ lệ hộ không có nhà vệ ở hai nhóm hộ, trong đó: H1a = tỷ lệ hộ có

NCT có người di cư không có nhà vệ sinh lớn hơn tỷ lệ nhóm hộ còn lại và H1b = tỷ lệ hộ có NCT có người di cư không có nhà vệ sinh thấp hơn nhóm hộ còn lại.

* Giảm bất bình đẳng về thu nhập

Tín ệ số G n : Cuối cùng, luận án sẽ tiếp tục giải thích tác động của tiền gửi từ di cư nội địa lên bất bình đẳng về phân phối thu nhập giữa (i) các hộ gia đình có NCT không nhận được tiền gửi từ di cư nội địa và (ii) những hộ gia đình có NCT nhận được tiền gửi từ di cư nội địa. Cụ thể, luận án sẽ ước lượng hệ số Gini đối với thu nhập trong cả hai trường hợp trên như sau:

- Đối với nhóm (i): luận án sẽ loại trừ tổng giá trị tiền gửi từ di cư nội địa mà mỗi hộ gia đình có NCT có người di cư nhận được ra khỏi tổng thu nhập bình quân

45

đầu người hàng tháng và sau đó sẽ tính hệ số Gini bằng việc sử dụng giá trị tổng thu nhập vừa được ước lượng này.

- Đối với nhóm (ii): luận án sẽ sử dụng số liệu thu nhập bình quân đầu người

hàng tháng của hộ gia đình có NCT có người di cư có cả tiền gửi để tính hệ số Gini.

Nếu hệ số Gini của nhóm (i) mà lớn hơn hệ số Gini của nhóm (ii) thì tiền gửi từ di cư nội địa có tác động làm giảm sự bất bình đẳng về thu nhập bình quân đầu

người giữa các hộ gia đình có NCT có người di cư nhận được tiền gửi và không nhận được tiền gửi.

Hệ số Gini (G) được tính như sau:

(4)

Trong đó:

: là thu nhập bình quân đầu người;

: là thứ tự của người thứ i trong phân phối Y tính từ người giàu nhất và người

giàu nhất có thứ tự 1;

n: số người

Giá trị của hệ số Gini biến thiên từ 0 (trong trường hợp tất cả mọi người đều có

cùng mức thu nhập bình quân đầu người) đến 1 (trong trường hợp thu nhập trong xã

hội chỉ tập trung vào một người). Hệ số Gini càng tiến gần 1 thì mức độ bất bình đẳng

trong phân phối thu nhập bình quân đầu người càng cao, ngược lại.

Để giải thích rõ hơn hệ số Gini, luận án xem xét sự dịch chuyển thu nhập của

các nhóm hộ gia đình có NCT có người di cư nội địa trước và sau khi nhận tiền gửi.

Cụ thể, dựa vào thu nhập bình quân đầu người hàng tháng trước khi nhận tiền gửi, luận án xác định 5 nhóm hộ gia đình (1 là nhóm nghèo nhất, 2 là nhóm nghèo, 3 là

nhóm trung bình, 4 là nhóm khá, 5 là nhóm giàu) và tương tự xác định lại các hộ gia đình này theo 5 nhóm trên dựa vào thu nhập bình quân đầu người hàng tháng khi nhận tiền gửi.

46

2.2.2. Đánh giá tác động của di cư nội địa lên sức khỏe của NCT

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, thứ nhất, bằng phương pháp thống kê mô tả

các bảng số liệu, luận án so sánh tình hình sức khỏe của NCT sống trong hộ có người

di cư nội địa và NCT sống trong hộ không có người di cư nội địa ở các khía cạnh tinh thần và thể chất.

Tiếp theo, luận án sử dụng mô hình (1) và (2) ở phần 3.2.1 để đánh giá ảnh

hưởng của di cư nội địa đến sức khoẻ của NCT ở các khía cạnh: (i) sức khỏe tinh thần

(mental), (ii) tự đánh giá về sức khỏe (SRH), (iii) các bệnh mạn tính (disease), (iv) bị

ốm trong vòng 12 tháng trước điều tra (illness), (v) việc chữa bệnh trong vòng 12

tháng trước điều tra (treatment sought), (vi) các hành vi sinh hoạt cá nhân hàng ngày

(ADLs), và (vii) hạn chế các chức năng hoạt động của cơ thể (functional limitations).

Việc ước lượng mô hình (2) sẽ giúp phân tích được ảnh hưởng của Zi (hay ảnh hưởng của di cư nội địa) lên xác suất để NCT có tình trạng sức khoẻ không tốt. Tuy nhiên, một vấn đề thường gặp trong kinh tế lượng là vấn đề nội sinh vì việc con cái di

cư có thể bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố như: trình độ giáo dục của bố, mẹ, thu nhập

của chủ hộ, khu vực sống của hộ gia đình, vùng sinh sống... nên luận án sử dụng

phương pháp phân tích 2SLS như sau:

- Bước 1: Để xử lý vấn đề nội sinh trong mô hình (2), luận án thực hiện ước

lượng OLS để ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến biến di cư của con cái như sau:

out_child=b1+b2income+b3age_cat3+b4area+b5region_cat3+b6liv_cat4+b7su

(5) mchild_lw+ b8edu + b9 sex

Luận án ước lượng mô hình (5) để loại bỏ các biến số không có ý nghĩa thống

kê.

- Bước 2: Từ kết quả ước lượng, luận án thu được biến số out_childh đã loại

tính nội sinh trong mô hình (2). Vì vậy, phương trình (2) được viết lại như sau:

Ln( b0+b1out_childh+b2income+b3age_cat3+b4area+b5liv_cat4+b6sum

(6) child_lw+ b7edu + b8 sex

Mô hình hồi qui logistic có các biến như sau:

Cá b ến p ụ t uộ là các biến định danh được lựa chọn dựa trên các nghiên

cứu Kuhn và cộng sự (2011), John Knodel và cộng sự (2007) và Ramesh và cộng sự (2007). Các biến định danh đại diện cho các vấn đề về sức khỏe của NCT có con di cư gồm: (i) sức khỏe tinh thần (mental health), (ii) tự đánh giá về sức khỏe (SRH), (iii)

47

các bệnh mạn tính (Disease), (iv) bị ốm trong vòng 12 tháng trước điều tra (illness), (v) việc chữa bệnh trong vòng 12 tháng trước điều tra (treatment sought), (vi) các hành

vi sinh hoạt cá nhân hàng ngày (ADLs), và (vii) hạn chế các chức năng hoạt động của

cơ thể (functional limitations). Cụ thể như sau:

Tình trạng sức khỏe tinh thần (mental health) không tốt: là tình trạng sức khỏe tinh thần không tốt mà NCT phải trải qua trong thời gian hàng tháng trước

cuộc khảo sát bao gồm: sự căng thẳng, buồn phiền, thất vọng, cảm thấy mình vô dụng hay cô đơn. Trong mô hình logistic, tình trạng này được chia thành hai nhóm:

nhóm một „Có‟ nếu người cao tuổi trải qua “ít nhất một triệu chứng không tốt về

sức khỏe tinh thần trên đây” và nhóm hai „Không‟ nếu “không có triệu chứng

không tốt nào trên đây”. Nếu chọn nhóm „Không‟ làm nhóm tham chiếu thì nhóm

„1‟ sẽ là nhóm đối chứng.

Người cao tuổi tự đánh giá sức khỏe (self-rated health-SRH): là một biến nhị

phân và trong mô hình được chia làm hai nhóm: nhóm một „Tốt‟ “nếu người cao tuổi

tự đánh giá sức khỏe của họ là tốt hay rất tốt”; nhóm hai „Xấu‟ “nếu người cao tuổi tự

đánh giá sức khỏe của họ là bình thường, xấu hay rất xấu”. Nếu chọn nhóm „Xấu‟ là

nhóm đối chứng thì nhóm 'Tốt' là nhóm tham chiếu.

Các bệnh mạn tính (disease): bệnh mạn tính bao gồm các loại bệnh như huyết

áp, tim mạch, tiểu đường, ung thư, đột quị hay liệt. Trong mô hình logistic, có hai

nhóm được lựa chọn: nhóm 1 gồm những NCT sống trong hộ có người di cư không bị

bất kỳ bệnh nào được gọi là „Không‟ và nhóm 2 gồm những NCT sống trong hộ có

người di cư bị mắc ít nhất một trong những bệnh trên được gọi là „Có‟. Nếu chọn

nhóm „Không‟ là nhóm tham chiếu thì nhóm đối chứng sẽ là nhóm 'Có'.

Bị ốm (illness) ít nhất một lần trong vòng 12 tháng trước điều tra: biến này có

nghĩa là NCT sống trong hộ có người di cư bị ốm ít nhất một lần trong 12 tháng trước khi có cuộc khảo sát. Trong mô hình logistic, có hai nhóm được lựa chọn: nhóm 1

được coi là „Có‟ gồm những NCT bị ốm và nhóm 2 được coi là „Không‟ cho NCT không bị ốm. Nhóm „Không‟ được chọn làm nhóm tham chiếu.

Khám, chữa bệnh (treatment sought) trong những tháng trước điều tra: biến này có nghĩa là việc NCT trong hộ có người di cư bị ốm trong những tháng trước khi

có cuộc khảo sát có sử dụng dịch vụ khám, chữa bệnh. Trong mô hình, có hai nhóm được lựa chọn: nhóm 1 được coi là „Không‟ nếu NCT bị ốm nhưng không đi khám, chữa bệnh và nhóm 2 được coi là „Có‟ nếu NCT bị ốm và có khám, chữa bệnh. Nhóm

„Không‟ được chọn làm nhóm tham chiếu.

48

Các hoạt động sinh hoạt cá nhân hàng ngày (activities of daily living-ADLs): bao gồm việc NCT không gặp khó khăn gì hay gặp khó khăn khi thực hiện từ ít nhất

một trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày như: ăn uống (eating), mặc quần áo

(getting dressed), tắm/rửa (bathing/washing), thức dậy và có thể đi ra khỏi giường

(getting up), sử dụng nhà vệ sinh (getting to and using the toilet). Trong mô hình, có hai nhóm được lựa chọn gồm: nhóm 1 được coi là „Không‟ nếu NCT không bị hạn chế

bất cứ hành vi sinh hoạt cá nhân hàng ngày nào và nhóm 2 được coi là „Có‟ nếu NCT gặp khó khăn trong việc thực hiện ít nhất một hành vi sinh hoạt cá nhân trở lên. Nhóm

„Không‟ được chọn làm nhóm tham chiếu.

Tình trạng hạn chế các chức năng hoạt động (functional limitations): bao

gồm việc NCT gặp khó khăn hay không gặp khó khăn khi thực hiện các hoạt động

như: đi bộ từ 200-300 mét, nâng hay mang các vật có trọng lượng từ 5kg, cúi hay ngồi xổm, sử dụng ngón tay để cầm hay giữ đồ vật, đi lên hay xuống cầu thang, tự

đứng lên khi đang ngồi, giơ cao tay hơn vai. Trong mô hình có hai nhóm được lựa

chọn gồm: nhóm 1 được coi là „Không‟ nếu NCT không bị hạn chế bất cứ chức năng

hoạt động nào của cơ thể và nhóm 2 được coi là „Có‟ nếu NCT gặp khó khăn trong

việc thực hiện ít nhất một chức năng hoạt động của cơ thể trở lên. Nhóm „Không‟

làm nhóm tham chiếu.

Cá b ến độ lập bao gồm:

Có con di cư (out_child): đây là biến chính và là một biến nhị phân nhận giá trị

1 nếu “có ít nhất một người con di cư” và 0 nếu “không có con di cư”. Biến “có con di

cư” được định nghĩa trong Mục hỏi B14 của VNAS2011.

Những biến độc lập trong mô hình được đưa vào phân tích với vai trò như các

biến kiểm soát, gồm:

Tuổi (age_cat3): đối với mô hình logistic xem xét tác động của người di cư lên sức khỏe của NCT thì dân số cao tuổi được chia thành ba nhóm tuổi, gồm: NCT trong

độ tuổi từ 60-69 (trẻ tuổi); NCT trong độ tuổi từ 70-79 (trung tuổi); và từ 80 trở lên (cao tuổi nhất). Trong mô hình, nhóm đầu tiên (60-69) được chọn là nhóm tham chiếu. Hệ số b ước lượng cho hai nhóm còn lại được kỳ vọng là lớn hơn 0 vì càng lớn tuổi thì sức khỏe NCT càng dễ bị tổn thương hơn khi con cái vắng nhà.

Giới tính (sex): biến này được dùng để xác định sự chênh lệch trong xác suất bị

ốm giữa nam giới và phụ nữ cao tuổi có con di cư. Phụ nữ được lựa chọn làm nhóm tham chiếu. Hệ số b ước lượng cho nhóm nữ giới được kỳ vọng lớn hơn 0 vì phụ nữ

49

cao tuổi thường được xem là yếu thế hơn và cũng dễ bị ảnh hưởng về mặt sức khỏe khi con cái vắng nhà.

Qui mô hộ gia đình (liv_cat3): đây cũng là một biến có ảnh hưởng tới tình hình

sức khoẻ của NCT. NCT được chia thành ba nhóm: (i) sống một mình (ii) sống với ít

nhất một người con hay vợ/ hoặc chồng; và (iii) khác. Nhóm (ii) dược coi là nhóm tham chiếu. Hệ số b ước lượng cho các nhóm khác được kỳ vọng là lớn hơn 0 vì

những NCT góa hay độc thân thường yếu thế hơn và dễ bị tổn thương về mặt sức khỏe hơn khi con cái hoặc thành viên trong hộ gia đình di cư.

Trình độ giáo dục (edu): biến này được chia thành bốn nhóm: (i) là nhóm NCT

không đi học hoặc không hoàn thành cấp tiểu học; (ii) nhóm NCT chỉ hoàn thành cấp

tiểu học; (iii) nhóm những người có trình độ học vấn hoàn thành cấp trung học cơ sở;

(iv) nhóm những người có trình độ từ hoàn thành phổ thông trung học trở lên. Nhóm

(i) được chọn là nhóm tham chiếu. Trong mô hình logistic, hệ số b được kỳ vọng là

nhỏ hơn 0 cho nhóm (ii), (iii) và (iv) vì nhóm có trình độ học vấn cao hơn thường hiểu

biết hơn, có công việc ổn định trước đó nên có điều kiện sống tốt hơn và vì thế mà khi

con cái họ vắng nhà thì họ ít bị tổn thương về mặt sức khỏe hơn.

Khu vực sống (area): Ở Việt Nam, địa điểm cư trú (nông thôn hay thành thị)

thường liên quan nhiều đến tình hình sức khỏe. Mức sống ở nông thôn thấp hơn thành

thị nên tình trạng sức khỏe của người dân nông thôn – trong đó có NCT – thường cũng

kém hơn thành thị. Nếu chọn nhóm NCT ở khu vực thành thị làm nhóm tham chiếu thì

hệ số b ước lượng cho nhóm đối chứng (nhóm NCT sống ở khu vực nông thôn) được

kỳ vọng là nhỏ hơn 0.

Thu nhập của hộ gia đình trong vòng 12 tháng trước cuộc điều tra (income): người cao tuổi sống trong hộ gia đình có thu nhập càng cao càng có điều kiện để nâng

cao sức khỏe về thể chất và tinh thần hơn những NCT sống trong các hộ gia đình có thu nhập thấp. Thu nhập hộ gia đình ở đây được chia làm ba nhóm: (i) nhóm các hộ

gia đình có thu nhập thấp hơn 10 triệu đồng một năm; (ii) nhóm các hộ gia đình có thu nhập từ 10 triệu đến dưới 100 triệu đồng một năm; (iii) nhóm các hộ gia đình có thu nhập từ 100 triệu đồng một năm trở lên. Nếu chọn nhóm (i) làm nhóm tham chiếu thì hệ số b ước lượng được kỳ vọng cho nhóm tham chiếu là lớn hơn 0.

2.2.3. Đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống xã hội của người cao tuổi Việt Nam

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, thứ nhất, bằng phương pháp thống kê mô tả

các bảng số liệu, luận án sẽ phân tích các đặc điểm nhân khẩu học của NCT Việt Nam,

50

tình hình tham gia các hoạt động xã hội của NCT như: việc NCT có tham gia hay không tham gia bất kỳ một hoạt động xã hội hay câu lạc bộ nào đó được tổ chức ở xã,

thôn hay không; tần suất của việc tham gia các hoạt động xã hội từ tham gia vài lần

một năm cho đến tham gia hàng ngày; là thành viên của Hội Người cao tuổi Việt Nam;

là thành viên của Hội Cựu chiến binh; là thành viên của Hội Phụ nữ (đối với phụ nữ); là thành viên của Hội Nông dân; việc đọc báo/ tạp chí; việc nghe đài; xem tivi; việc

nghe đài phát thanh công cộng; và sử dụng internet của cả NCT sống trong hộ gia đình có và không có người di cư.

Tiếp theo, để đánh giá tác động của những người con di cư nội địa lên đời sống

xã hội của NCT ở quê nhà, luận án sẽ sử dụng mô hình hồi qui logistic và phương

pháp ước lượng như đã được nêu ở phần 3.2.2.

Mô hình hồi qui logistic có các biến được lựa chon dựa trên các nghiên cứu

HelpAge International in Moldova (2010) và VIE022 và nhóm nghiên cứu (2012) như sau:

B ến p ụ t uộ :

Biến phụ thuộc là một biến định danh bao gồm:

(i) Việc tham gia các tổ chức xã hội (social association) bao gồm các đặc

điểm của đời sống xã hội của NCT như: việc tham gia bất kỳ hoạt động xã hội nào;

tần suất của việc tham gia các hoạt động xã hội; là thành viên của hội Người cao

tuổi Việt Nam; là thành viên của hội Nông dân; là thành viên của hội Cựu chiến

binh. Việc lựa chọn biến này xuất phát từ kết quả khảo sát của VIE022 và nhóm

nghiên cứu (2012) khi đánh giá đời sống xã hội của NCT Việt Nam nói chung bao

gồm các khía cạnh trên;

(ii) Việc nâng cao nhận thức xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (media accessing) bao gồm các đặc điểm như: việc đọc báo/ tạp chí; việc nghe

đài; xem tivi; việc nghe đài phát thanh công cộng; và sử dụng internet. Để lựa chọn biến này, tác giả dựa trên nghiên cứu của HelpAge International ở Moldova (2010)

cho rằng khi con cái di cư thì NCT ở quê nhà sẽ có nhiều thời gian hơn để thực hiện các hoạt động văn hóa như đọc báo, nghe đài, xem TV, đọc sách... và VIE022 và nhóm nghiên cứu (2012) khi đánh giá đời sống xã hội của NCT Việt Nam nói chung bao gồm các khía cạnh: đọc báo, nghe đài, xem TV, nghe đài phát thanh công cộng và

tiếp cận internet.

51

B ến độ lập:

Có con di cư: là biến chính và là một biến nhị phân. Biến này nhận giá trị „1‟

nếu “có ít nhất một người con di cư” và „0‟ nếu “không có con di cư”. Biến “có con di

cư” ở đây cũng được xác định dựa trên Mục hỏi B14 trong VNAS2011. Nếu chọn

nhóm NCT không có con di cư làm nhóm tham chiếu thì hệ số b được kỳ vọng cho nhóm đối chứng sẽ lớn hơn 0 vì NCT có con di cư sẽ có điều kiện về mặt thời gian và

kinh tế hơn để được tham gia các hoạt động xã hội hay có thời gian nhiều hơn để được tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức xã hội của mình.

Những biến độc lập trong mô hình được đưa vào phân tích với vai trò như các

biến kiểm soát, gồm:

Tuổi: dân số cao tuổi được chia thành ba nhóm tuổi, gồm có: (i) nhóm NCT

trong độ tuổi từ 60-69 (trẻ tuổi); (ii) nhóm NCT trong độ tuổi từ 70-79 (trung tuổi);

(iii) nhóm NCT trong độ tuổi từ 80 trở lên (cao tuổi nhất). Nhóm đầu tiên được chọn là

nhóm tham chiếu, hệ số b ước lượng cho hai nhóm còn lại được kỳ vọng là nhỏ hơn 0

vì càng lớn tuổi thì NCT càng dễ bị hạn chế khả năng thực hiện các hoạt động xã hội

hơn vì điều kiện sức khỏe về thể chất và tinh thần sẽ hạn chế.

Giới tính: biến này được dùng để xác định sự chênh lệch trong xác suất tham

gia các hoạt động xã hội hay tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao

nhận thức xã hội giữa nam giới và nữ giới cao tuổi. Phụ nữ được lựa chọn làm nhóm

tham chiếu. Hệ số b ước lượng cho nhóm nam giới được kỳ vọng lớn hơn 0 vì phụ nữ

hay phải làm việc nhà và cũng ít có điều kiện hơn để tham gia các hoạt động xã hội

hay nâng cao nhận thức xã hội của mình hơn nam giới.

Qui mô hộ gia đình: đây cũng là một biến có ảnh hưởng tới khả năng cải thiện đời sống xã hội của NCT. NCT được chia thành ba nhóm: (i) sống một mình (ii) sống

với ít nhất một người con hay vợ/ hoặc chồng; và (iv) khác. Nhóm (ii) được coi là nhóm tham chiếu. Hệ số b ước lượng cho các nhóm khác được kỳ vọng là bé hơn 0 vì những

NCT góa hay độc thân thường yếu thế hơn và dễ bị tổn thương nên có nhiều khả năng bị hạn chế về việc tham gia các hoạt động xã hội hay nâng cao nhận thức xã hội.

Trình độ giáo dục: biến này được chia thành bốn nhóm: (i) là nhóm NCT không đi học hoặc không hoàn thành cấp tiểu học; (ii) nhóm NCT chỉ hoàn thành cấp

tiểu học; (iii) nhóm những người có trình độ học vấn hoàn thành cấp trung học cơ sở;

(iv) nhóm những người có trình độ từ hoàn thành phổ thông trung học trở lên. Nhóm (i) được chọn là nhóm tham chiếu. Trong mô hình logistic, hệ số b được kỳ vọng là lớn

hơn 0 cho nhóm (ii), (iii) và (iv) vì nhóm có trình độ học vấn cao hơn thường hiểu biết

52

hơn, có điều kiện tốt hơn và nhận thức tốt hơn để tham gia các hoạt động xã hội cũng như nâng cao nhận thức xã hội.

Khu vực sống: Ở Việt Nam, địa điểm cư trú (nông thôn hay thành thị) thường

liên quan nhiều đến điều kiện để NCT tham gia các hoạt động xã hội hay tiếp cận các

phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức xã hội. Vì điều kiện về văn hóa và xã hội ở nông thôn thấp hơn thành thị nên nếu chọn nhóm NCT ở khu vực nông

thôn làm nhóm tham chiếu thì hệ số b ước lượng cho nhóm đối chứng (nhóm người cao tuổi ở khu vực thành thị) được kỳ vọng là lớn hơn 0.

53

Kết luận ƣơn 2

Để đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống NCT, luận án sử dụng hai

bộ số liệu VHLSS2012 và VNAS 2011. Tác động của di cư nội địa lên khía cạnh kinh tế của NCT được đánh giá bằng việc phân tích bộ số liệu VHLSS 2012, trong khi các

khía cạnh sức khoẻ và xã hội được phân tích bằng số liệu VNAS 2011.

Việc phân tích tác động của di cư nội địa lên đời sống kinh tế của NCT ở khía

cạnh giảm nghèo, luận án sử dụng phương pháp phân tích hồi qui hai giai đoạn (2SLS) nhằm loại bỏ vấn đề nội sinh trong mô hình. Tiếp theo, luận án sử dụng kiểm định Khi

bình phương (Chi-square) nhằm chứng minh sự khác nhau giữa tỷ lệ các hộ gia đình

NCT có người di cư nội địa và tỷ lệ các hộ gia đình ở các nhóm hộ khác đối với khía

cạnh điều kiện sống. Cuối cùng, luận án sẽ so sánh hệ số Gini về thu nhập bình quân

đầu người của các hộ gia đình NCT có người di cư trước và sau khi nhận tiền gửi từ

di cư nội địa để chứng minh vai trò của tiền gửi từ di cư nội địa đối với vấn đề giảm

sự bất bình đẳng về thu nhập của NCT khi nhận được tiền gửi từ di cư nội địa. Để

làm rõ hơn ý nghĩa của hệ số Gini, luận án có xem xét sự dịch chuyển thu nhập của

năm nhóm hộ gia đình NCT có người di cư trước và sau khi nhận tiền gửi từ di cư

nội địa.

Liên quan đến đánh giá tác động của di cư nội địa lên khía cạnh sức khoẻ thể

chất và tinh thần của NCT, luận án sẽ sử dụng mô hình hồi qui logistic. Để giải quyết

vấn đề nội sinh trong mô hình, luận án sử dụng phương pháp hồi qui hai giai đoạn: giai

đoạn 1 nhằm loại bỏ vấn đề nội sinh của biến con cái di cư với các biến độc lập khác

trong mô hình; giai đoạn 2 nhằm đánh giá tác động của con cái di cư (đã loại vấn đề nội sinh) lên các khía cạnh sức khoẻ của NCT.

Vấn đề ảnh hưởng của con cái di cư nội địa lên đời sống xã hội của người cao

tuổi được chứng minh bằng mô hình hồi qui logistic. Việc giải quyết vấn đề nội sinh cũng được thực hiện giống như phần đánh gia tác động của con cái di cư lên các khía

cạnh sức khoẻ của NCT.

54

CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG DI CƢ NỘI ĐỊA, ĐẶC ĐIỂM V THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG NGƢỜI CAO TUỔI CÓ CON DI CƢ NỘI ĐỊA

3.1. T ự trạn ƣ nộ đị ở V ệt N m từ năm 1989 đến n y

3.1.1. Xu hướng di cư nội địa theo thời gian

Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam và UNFPA (2016), số người di cư nội địa

gia tăng theo thời gian từ năm 1989 đến nay.

Bản 3.1. Dân số 5 tuổ trở lên t eo loạ ìn ƣ, 1989-2014

1989 1999 2009 2014

Số lƣợn Số lƣợn Số lƣợn Số lƣợn Loạ ìn ƣ % % % % (n ƣờ ) (n ƣờ ) (n ƣờ ) (n ƣờ )

- - 1.342.568 1,9 1.618.160 2,1 1.430.235 1,7 D ƣ tron uyện

D ƣ ữ á uyện 1.067.298 2,0 1.137.843 1,7 1.708.896 2,2 1.644.257 2,0 1.349.291 2,5 2.001.408 2,9 3.397.904 4,3 2.594.297 3,1 D ƣ ữ á tỉn

51.797.097 95,4 64.493.309 93,4 71.686.913 91,4 77.548.084 93,1 K ôn ƣ

54.279.594 100 69.045.517 100 78.452.862 100 83.282.551 100 Dân số 5+

Nguồn: Tổng cục Thống Kê và UNFPA (2016)

Bảng 3.1 trên đây cho thấy trong giai đoạn từ 1989 đến 1999 do có chính sách

của chính phủ khuyến khích di dân đến những vùng kinh tế mới, sự chuyển đổi nền kinh

tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường cùng với sự thuận tiện của giao thông

vận tải nên số người di cư tăng cả về số lượng và tỷ lệ. Cụ thể, di cư giữa các huyện tăng

nhẹ từ hơn 1 triệu người năm 1989 lên hơn 1,6 triệu người vào năm 2014, tuy nhiên di

cư giữa các tỉnh tăng mạnh cả về số lượng và tỷ lệ. Trong giai đọan từ 1999 đến 2009 là giai đoạn kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ

thuần nông sang công nghiệp và dịch vụ kéo theo sự bùng phát các khu công nghiệp và các khu chế xuất nên số lượng và tỷ lệ người di cư tăng mạnh ở cả ba loại hình di cư. Mặc dù vậy, di cư giữa các tỉnh là tăng mạnh nhất lên gần 1.400 người tương đương với 1,4% trong tổng số dân di cư. Trong giai đoạn 2009 đến 2014, do tác động của cuộc

khủng hoảng hinh tế năm 2008 nền kinh tế chậm tăng trưởng, các khu công nghiệp

không còn là điểm đến hấp dẫn đối với người lao động di cư song vẫn cao hơn thời kỳ

1989-1999. Ngoài ra, ở giai đoạn này Chính phủ Việt Nam đã có các chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn làm cho đời sống của người dân khu vực nông thôn được

cải thiện nên số lượng và tỷ lệ người di cư ở các loại hình di cư đều giảm, đặc biệt là di

55

cư liên tỉnh đã giảm rõ rệt gần 800.000 người (tương đương với 1,2%/năm), trong khi di cư liên huyện chỉ giảm 70.000 người (tương ứng với 0,2%/năm).

Nhìn chung, ở cả ba giai đoạn cho thấy di cư ở khoảng cách xa như di cư giữa

các tỉnh biến động mạnh nhất, di cư giữa các huyện biến động ít hơn rõ rệt và di cư

trong huyện ít biến động nhất.

3.1.2. Xu hướng di cư nội địa theo luồng di cư và loại hình di cư

Theo Lưu Bích Ngọc (2016) và Tổng cục Thống kê và UNFPA (2016) thì quá

trình công nghiệp hóa ở Việt Nam diễn ra mạnh trong thời gian qua đã biến các đô thị trở

thành điểm đến hấp dẫn của những người trong độ tuổi lao động ở các khu vực nông thôn.

Hình 3.1. Tỷ lệ n ƣờ ƣ tron 5 năm t eo luồn ƣ

và loạ ìn ƣ, 1999- 2014.

Nguồn: Tổng cục Thống Kê và UNFPA (2016)

Đối với luồng di cư nông thôn – nông thôn (NT-NT): Hình 3.1 cho thấy, trong năm trước 1999, luồng di cư nông thôn – nông thôn (NT-NT) chiếm tỷ trọng cao nhất (đến 37% tổng số dân di cư). Dòng di cư này giảm theo thời gian xuống còn 33,8% năm 2009 và 28,8% năm 2014 là kết quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam trong thời gian qua. Di cư NT-NT đối với loại

hình di cư giữa các tỉnh vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất (17,4%) trong tất cả các loại hình di cư trong 5 năm trước 1999, tỷ trọng này tăng nhẹ 0,5% trong giai đoạn 5 năm trước

2009 và giảm mạnh vào giai đoạn 2009-2014 xuống còn 12,8%. Tuy nhiên, nhìn

56

chung thì luồng di cư này vẫn luôn chiếm tỷ trọng khá cao trong tất cả các loại hình di cư và tổng số dân di cư nói chung.

Đối với luồng di cư nông thôn- thành thị (NT-TT): Hình 3.1 cho thấy, luồng di

cư này chiếm tỷ trọng (27,1%) cao thứ hai trong giai đoạn 5 năm trước năm 1999.

Trong giai đoạn 5 năm trước 2009, tỷ trọng của luồng này tăng cao, lên đến 31,4%. Tuy nhiên trong cả hai giai đoạn này thì luồng NT-TT vẫn đứng thấp hơn luồng di cư

NT-NT. Đến giai đoạn 2009-2014 tỷ trọng luồng này giảm đáng kể xuống còn 29% trong tổng di cư nhưng vẫn dẫn đầu trong tất cả các luồng di cư. Đáng chú ý là luồng

di cư NT-TT luôn chiếm vị trí chủ đạo và cao nhất với loại hình di cư cấp tỉnh, đặc

biệt là trong giai đoạn từ 5 năm từ 2009 đến 2014.

Luồng di cư thành thị-nông thôn (TT-NT): Hình 3.1 cho thấy rằng, nhìn chung

luồng di cư này chiếm tỷ trọng thấp nhất trong tất cả các luồng di cư ở tất cả các loại hình

di cư và tổng số dân di cư. Tuy nhiên, so với giai đoạn 5 năm trước năm 1999, luồng này

có sự giảm nhẹ trong giai đoạn 5 năm trước 2009 từ 9,7% xuống còn 8,4%. Đến giai đoạn

2009-2014, tỷ trọng của luồng này tăng lên đáng kể từ 8,4% lên đến 12,1%.

Luồng di cư thành thị-thành thị (TT-TT): Hình 3.1 cho thấy rằng, luồng di cư

này biến động không nhiều trong các giai đoạn trước năm 2009. Tỷ trọng của luồng

này xoay quanh mức 26% trong giai đoạn này. Tuy nhiên, tỷ trọng của luồng này tăng

lên đáng kể trong giai đoạn 2009-2014, lên đến 30,1% nhờ sự đóng góp của luồng di

cư TT-TT ở cả hai loại hình di cư trong huyện và giữa các huyện.

Nhìn chung, từ Hình 3.1 cho thấy loại hình di cư giữa các tỉnh luôn chiếm vị trí

chủ đạo trong tất cả các luồng di cư, ngoại trừ di cư TT-TT. Luồng di cư NT-NT luôn

chiếm vị trí dẫn đầu trong các giai đoạn trước năm 2009 nhưng giảm nhẹ, nhường chỗ cho luồng di cư NT-TT và TT-TT ở giai đoạn 2009-2014. Di cư NT-TT tăng mạnh

nhất ở giai đoạn 5 năm trước năm 2009. Đến giai đoạn 2009-2014 có sự giảm đáng kể của hai luồng di cư là NT-NT và NT-TT do hiện tượng di cư đảo TT-NT tăng đáng kể

và sự tăng lên mạnh mẽ của luồng di cư TT-TT.

3.1.3. Xu hướng di cư nội địa theo vùng và tỉnh

Nhìn chung, theo Lưu Bích Ngọc (2016) và Tổng cục Thống kê và UNFPA (2016), những khu vực thu hút nhiều người lao động nhập cư nhất cũng là những khu

vực có tốc độ tăng trưởng khá, là điểm đến của vốn đầu tư, có tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh hoặc có nhiều tiềm năng về đất đai rộng. Cũng theo các nghiên cứu này, các tỉnh có nhiều người xuất cư là những tỉnh “thuần nông”, nhưng nguyên

nhân xuất cư ở những vùng khác nhau cũng đang có sự thay đổi.

57

Xu ƣớn n ập ƣ

Bản 3.2. 10 tỉn / t àn p ố ó tỷ suất n ập ƣ o n ất ở V ệt N m qu á đoạn

Tên tỉnh

Tên tỉnh

Tên tỉnh

Tỷ suất nhập cư (‰)

Tỷ suất nhập cư (‰)

Tỷ suất nhập cư (‰)

Giai đoạn 1994-1999 Giai đoạn 2004-2009 Giai đoạn 2009-2014

Bình Phước 117,17 Bình Dương 365,9 Bình Dương 239,7

TP HCM 105,39 TP HCM 156,0 TP HCM 78,0

Đắc Lắc 102,63 Đồng Nai 104,0 Đồng Nai 59,5

Bình Dương 98,25 Đà Nẵng 100,6 Đà Nẵng 58,8

Lâm Đồng 96,72 Đăk Nông 94,3 Đăk Nông 55,5

Gia Lai 89,34 Hà Nội 65,3 Bắc Ninh 44,1

40,0 Bà Rịa- Vũng Tàu 72,92 Bà Rịa-Vũng Tàu 62,4 Nghệ An

Đồng Nai 72,78 Cần Thơ 50,8 Bà Rịa- Vũng Tàu 35,5

Đà Nẵng 71,47 Lâm Đồng 49,0 Kon Tum 35,2

Kon Tum 65,26 Lai Châu 48,8 Bình Phước 32,4

Nguồn: Lưu Bích Ngọc (2016)

Bảng 3.2 cho thấy rằng trong giai đoạn 1994-1999, 5 trong số 10 tỉnh có tốc

độ công nghiệp hóa nhanh là những tỉnh ở vùng Đông Nam Bộ (như Bình Phước,

Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương) và khu vực Tây Nguyên (như Đắc Lắc, Lâm

Đồng và Gia Lai) là những tỉnh dẫn đầu về thu hút dân lao động nhập cư. Sức hút

nhập cư thể hiện ở tỷ suất nhập cư từ gần 90‰ (đối với Gia Lai) trở lên đến hơn

117‰ (đối với Bình Phước). Nhìn chung ở giai đoạn này, khu vực Đông Nam Bộ,

Tây Nguyên và Nam Trung Bộ là những vùng hấp dẫn lao động di cư nhất cả nước.

Sang giai đoạn 2004-2009, nhìn chung giai đoạn này sức hút nhập cư của các

tỉnh dẫn đầu cao hơn rất nhiều các tỉnh dẫn đầu ở giai đoạn trước đó. Bảng 3.2 cho thấy vùng Đông Nam Bộ là vùng có tỷ suất nhập cư cao nhất nước, dẫn đầu là Bình Dương với 365,9 điểm phần nghìn, tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh với 156 điểm

phần nghìn. Trong giai đoạn này Đồng Nai và Đà Nẵng đã vươn lên nằm trong nhóm 5 tỉnh có tỷ suất nhập cư cao nhất cả nước. Bốn thành phố lớn trực thuộc trung ương đã ở

trong nhóm 10 tỉnh thu hút nhập cư cao nhất cả nước bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh,

Đà Nẵng, Hà Nội và Cần Thơ. Tuy nhiên, ở giai đoạn này các tỉnh ở khu vực Tây Nguyên kém hấp dẫn hơn trong việc thu hút dân lao động nhập cư, chỉ còn lại hai tỉnh

58

Đắc Nông (đứng thứ năm) và Lâm Đồng (đứng thứ mười), nhường chỗ cho Hà Nội và Lai Châu thuộc khu vực phía Bắc và Cần Thơ thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Đến giai đoạn 2009-2014, nhìn chung sức hút nhập cư của các tỉnh dẫn đầu đã

giảm hơn đáng kể so với giai đoạn trước. Bảng 3.2 cho thấy Đông Nam Bộ vẫn duy trì

vị trí dẫn đầu trong thu hút dân nhập cư của cả nước, tuy nhiên sức hút chỉ còn một nửa so với giai đoạn trước. Dẫn đầu trong 10 tỉnh vẫn là Bình Dương và Thành phố

Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Đà Nẵng, Đắc Nông. Tuy nhiên, trong số các thành phố lớn trực thuộc trung ương chỉ còn Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng vẫn duy trì vị trí

hấp dẫn của mình, Hà Nội và Cần Thơ không còn thể hiện sức hút đối với dân nhập cư

mà thay vào đó là Bắc Ninh và Nghệ An. Ở giai đoạn này cho thấy khu vực Tây

Nguyên vẫn duy trì sức hút đối với dân lao động nhập cư của cả nước.

Xu ƣớn xuất ƣ

Bản 3.3: 10 tỉn ó tỷ suất xuất ƣ o n ất qu á t ờ ỳ ở V ệt N m

Giai đoạn 1994-1999 Giai đoạn 2004-2009 Giai đoạn 2009-2014

Tên tỉnh Tên tỉnh Tên tỉnh Tỷ suất nhập cư (‰) Tỷ suất nhập cư (‰) Tỷ suất nhập cư (‰)

Hà Tĩnh 53,32 Bến Tre 78,3 Hậu Giang 56,4

Hải Dương 48,97 Hà Tĩnh 76,0 Cà Mau 54,3

Đống Nai 47,44 Vĩnh Long 74,4 An Giang 52,2

Quảng Bình 46,79 Thanh Hóa 74,3 Bến Tre 51,7

Bắc Ninh 44,91 Trà Vinh 72,4 Sóc Trăng 49,4

47,9 Thừa Thiên-Huế 44,35 Hà Nam 65,6 Bạc Liêu

Hà Nam 42,76 Thái Bình 64,8 Đồng Tháp 47,0

Đồng Tháp 41,35 Nam Định 64,5 Vĩnh Long 43,1

Quảng Ngãi 40,25 Cà Mau 63,9 Hà Tĩnh 41,9

Quảng Trị 39,69 Ninh Bình 62,7 Thanh Hóa 41,7

Nguồn: Lưu Bích Ngọc (2016),

Trong giai đoạn 1994-1999, Bảng 3.3 cho thấy trong 10 tỉnh có tỷ suất xuất cư cao nhất cả nước được phân bố đều giữa các tỉnh thuần nông của miền Bắc, miền Trung và

Đồng bằng Sông Cửu Long. Giai đoạn này tỉnh Hà Tĩnh dẫn đầu cả nước trong việc cung

cấp lao động cho các tỉnh với tỷ suất xuất cư lên đến 53,32‰, tiếp đến là các tỉnh Hải

59

Dương, Đồng Nai, Quảng Bình và Bắc Ninh với tỷ suất di cư khoảng 45‰ trở lên. Năm tỉnh tiếp theo bao gồm có Thừa Thiên Huế, Hà Nam, Đồng Tháp, Quảng Ngãi và Quảng

Trị có lực đẩy xuất cư cũng chỉ thấp hơn không đáng kể so với những tỉnh đi đầu.

Sang giai đoạn 2004-2009, Bảng 3.3 cho thấy các tỉnh có động lực xuất cư

mạnh tập trung vào ba vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, Bắc Trung Bộ và trung tâm Đồng bằng sông Hồng. Động lực xuất cư của 10 tỉnh đã tăng lên rất nhiều so với giai

đoạn trước với tỷ suất xuất cư dao động từ 62,7‰ đến 78,3‰. Ở giai đoạn này, Bến Tre dẫn đầu cả nước và Hà Tĩnh đứng vị trí thứ hai về tỷ lệ người xuất cư.

Đến giai đoạn 2009-2014, Bảng 3.3 cho thấy 10 tỉnh có tỷ suất xuất cư cao nhất

ở giai đoạn này chỉ còn thuộc hai vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Bắc Trung Bộ,

trong đó 8 tỉnh đứng đầu thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nhìn chung động

lực xuất cư giai đoạn này đã giảm rất nhiều so với giai đoạn 2004-2009 với tỷ suất

xuất cư chỉ còn dao động trong khoảng từ 41,7‰ đến 56,4‰.

Xu ƣớn ƣ t uần

Bản 3.4: 10 tỉn ó tỷ suất ƣ t uần o n ất

qu á t ờ ỳ từ 2004-2014 ở V ệt N m

Đơn vị: Người

G đoạn 2004-2009 G đoạn 2009-2014

Tỉn / t àn p ố Số ƣ t uần Tỉn / t àn p ố Số ƣ t uần

Thành phố Hồ Chí Minh 905.331 Thành phố Hồ Chí Minh 556.291

Bình Dương 466.070 Bình Dương 536.777

Hà Nội 292.426 Đồng Nai 219.463

Đồng Nai 151.050 Hà Nội 152.779

Đà Nẵng 63.097 Đà Nẵng 68 .888

Đăk Nông 28.780 Đăk Nông 52.210

Hải Phòng 23.872 Bắc Ninh 41.267

Bà Rịa-Vũng Tàu 20.683 Bà Rịa-Vũng Tàu 29.278

Gia Lai 12.702 Hải Phòng 26.611

Quảng Ninh 11.791 Kon Tum 9.103

Nguồn: Lưu Bích Ngọc (2016),

60

Nhìn chung, trong cả hai giai đoạn từ 2004-2014, 6 tỉnh/ thành phố luôn chiếm vị trí dẫn đầu về số lượng lao động di cư thuần bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh,

Bình Dương, Hà Nội, Đồng Nai và Đà Nẵng. Tuy nhiên, trong số các tỉnh đẫn đầu về

số lượng di cư thuần thì Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2009-2014 đã giảm

gần 400.000 người nhập cư, Hà Nội đã giảm gần 140.000 người nhập cư đến, trong khi các tỉnh còn lại có sự tăng đáng kể về số lượng lao động nhập cư đến.

Xu ƣớn ƣ “qu y về” ( y ƣ đảo)

Bản 3.5: Dân số từ 5 tuổ trở lên vào t ờ đ ểm 01/4/2009 và 01/4/2014

t eo nơ t ự tế t ƣờn trú t eo tỉn / t àn p ố.

Đơn vị: Người

Nơ t ự tế t ƣớn trú 01/4/2009

Nơ t ự tế t ƣớn trú 01/4/2014 Kon Tum Gia Lai Đắ Lắ Đắ Nông Lâm Đồn Bình P ƣớ Bình Dƣơn Đốn Nai Bà Rị - Vũn Tàu

- Hưng Yên 327 121 118 - - - 343 61

Hà Nam 53 - - 183 261 - 52 80 -

- Nam Định - - 75 143 300 310 173 528

Ninh Bình 53 729 464 54 486 51 620 940 258

- Thanh Hóa 415 441 491 1136 214 3732 1510 299

Nghệ An 534 1724 2470 1120 1628 854 24249 9278 2111

Hà Tĩnh 63 508 642 554 252 264 2550 1855 251

Quảng Bình 101 49 94 - 93 98 372 445 160

Nguồn: Lưu Bích Ngọc (2016),

Bảng 3.5 cho thấy hiện tượng người di cư quay về các tỉnh trung tâm Đồng bằng sông Hồng và các tỉnh Bắc Trung Bộ từ các tỉnh thuộc vùng Tây Nuyên và Đông Nam Bộ. Số liệu cũng cho thấy các tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình đã hút lại một lượng lớn lao động đã di cư lên đến 60.557 người từ tất cả các tỉnh thuộc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng đã hút lại 6.783 người. Nhìn chung hiện tượng di cư đảo diễn ra mạnh ở các tỉnh Bắc Trung bộ, ở các tỉnh thuộc Đống bằng sông Hồng hiện tượng di cư đảo diễn ra chậm hơn, chỉ bằng 1/10 so với các tỉnh trên.

61

3.1.4. Đặc điểm của người di cư

Tuổ ủ n ƣờ ƣ

Bản 3.6: Tuổ trun bìn và trun vị ủ n ƣờ ƣ t eo ớ tín và loạ ìn

ƣ qu á đoạn từ 1999 to 2014

1999 2009 2014

Loạ ìn ƣ

Tuổ trun vị Tuổ trun vị Tuổ trung bình Tuổ trung bình Tuổ trung vị Tuổ trung bình

Chung

Di cư trong huyện 28,0 26,0 28,3 26,0 29,1 27,0

Di cư khác huyện 27,0 24,0 28,0 25,0 29,6 27,0

Di cư khác tỉnh 27,0 24,0 26,5 24,0 27,8 25,0

Không di cư 30,2 27,0 32,9 30,0 35,4 34,0

Nam

Di cư trong huyện 27,7 26,0 29,8 29,0 30,8 30,0

Di cư khác huyện 27,3 24,0 28,9 27,0 30,8 29,0

Di cư khác tỉnh 27,0 25,0 26,9 24,0 28,2 26,0

Không di cư 29,0 26,0 31,6 29,0 34,0 32,0

Nữ

Di cư trong huyện 28,2 25,0 27,6 25,0 28,3 26,0

Di cư khác huyện 26,8 23,0 27,4 24,0 28,9 26,0

Di cư khác tỉnh 27,0 24,0 26,1 23,0 27,4 25,0

Không di cư 31,2 28,0 34,1 32,0 36,7 35,0

Nguồn: Tổng cục Thống Kê và UNFPA (2016), Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 2014: Di cư và Đô thị hóa. Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội, trang 22.

Bảng 3.6 cho thấy, nhìn chung đối với người di cư càng trẻ càng có xu hướng đi xa, người di cư giữa các tỉnh có tuổi trung vị thấp nhất qua các năm, từ 25 tuổi trở xuống. Điều này có nghĩa là có một nửa số người di cư giữa các tỉnh có tuổi từ 25 trở xuống. Tuổi trung bình cũng chứng minh rằng người di cư ở khoảng cách càng xa thì tuổi đời càng trẻ. Năm 2014, tuổi trung bình của người di cư khác

tỉnh là 27,8 tuổi, trong khi tuổi trung bình của người di cư khác huyện và trong huyện từ 29 tuổi trở lên. Mặc dù vậy, tuổi trung bình của người di cư ổn định qua

thời gian. Người không di cư có tuổi trung vị cao nhất, số liệu cho thấy một nửa số

62

người không di cư có tuổi từ 30 trở xuống trong những năm 1999 - 2009 và từ 34 trở xuống trong năm 2014. Người không di cư có tuổi trung bình cao nhất và ngày

càng cao qua các cuộc khảo sát, năm 1999 ở mức 30,2 tuổi; năm 2009 lên mức 32,9

tuổi; và ở 35,4 tuổi vào năm 2014.

Người di cư là nam giới có tuổi trung vị cao hơn người di cư là nữ giới. Số liệu cho thấy rằng nam giới di cư có tuổi trung vị tăng theo thời gian đối với di cư ở

khoảng cách gần (như di cư trong huyện) và tuổi trung vị thấp và ổn định hơn khi di cư ở khoảng cách xa (như di cư giữa các tỉnh). Bảng 3.6 cho thấy rằng nữ giới càng di

cư khoảng cách xa có tuổi trung vị càng thấp. Tuổi trung vị của nữ giới di cư giữa các

tỉnh năm 2014 là 25 cho thấy rằng một nửa nữ giới di cư có tuổi từ 25 trở xuống. Tuy

nhiên, đối với người không di cư, số liệu cho thấy rằng người không di cư có tuổi

trung vị cao hơn người di cư và tăng nhanh theo thời gian đối với cả nam và nữ. Tuy nhiên, người không di cư là nữ giới có tuổi trung vị cao hơn người không di cư là nam

giới. Cụ thể, tuổi trung vị của nam giới không di cư qua thời gian là 26 tuổi vào năm

1999, tăng lên 29 tuổi vào năm 2009 và tăng lên 32 tuổi vào năm 2014, trong khi đối

với nữ giới không di cư có tuổi trung vị là 28 tuổi vào năm 1999, tăng lên 32 tuổi vào

năm 2009 và 35 tuổi vào năm 2014.

G ớ tín ủ n ƣờ ƣ

Bản 3.7: Cơ ấu ớ tín ủ n ƣờ ƣ và ôn ƣ qu b uộ ảo sát:

1999, 2009 và 2014.

Đơn vị tính: %

Năm 1999 Năm 2009 Năm 2014

Loạ ìn ƣ

Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ

Di cư trong huyện 41,8 58,2 36,4 63,6 34,1 65,9

Di cư giữ các huyện 45,2 54,8 43,4 56,6 40,4 59,6

Di cư giữa các tỉnh 50,0 50,0 47,0 53,1 45,4 54,6

Không di cư 49,0 51,0 49,8 50,2 49,6 50,4

Nguồn: Tổng cục Thống Kê và UNFPA (2016)

Bảng 3.7 cho thấy tỷ lệ nữ giới di cư có xu hướng cao hơn nam giới ở tất cả các

loại hình di cư và đối với nhóm người không di cư thì nữ giới cũng chiếm tỷ lệ cao hơn.

63

Trìn độ uyên môn ỹ t uật ủ n ƣờ ƣ

Bản 3.8: Tỷ lệ ân số từ 15-54 tuổ t eo trìn độ uyên môn ỹ t uật và loạ ìn ƣ năm 2014. Đơn vị tính: %

Trìn độ uyên môn ỹ t uật (CMKT)

Loạ ìn ƣ Tổn số Sơ ấp Trung ấp Cao đẳn Đạ ọ trở lên

Di cư trong huyện 100,0 Không có trìn độ CMKT 65,0 2,5 10,4 5,9 16,1

Di cư giữ các huyện 100,0 58,8 2,4 10,1 6,8 21,9

Di cư giữa các tỉnh 100,0 72,6 2,2 7,7 5,6 11,8

Không di cư 100,0 83,0 1,8 5,7 2,7 6,8

Nguồn: Tổng cục Thống Kê và UNFPA (2016)

Nhìn chung, Bảng 3.8 cho thấy rằng người di cư có trình độ chuyên môn kỹ

thuật cao hơn người không di cư, điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Lưu Bích

Ngọc (2016) cho rằng người di cư có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn thường

cao hơn nhóm người không di cư, và không khác biệt với người sở tại. Trong số các

loại hình di cư thì tỷ lệ người di cư trong huyện có có trình độ chuyên môn kỹ thuật

cao nhất chiếm tới 35% và di cư giữa các tỉnh có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp

nhất chỉ chiếm 27,4%. Trong số các cấp chuyên môn kỹ thuật, người di cư có trình độ

đại học trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất trong tất cả các loại hình di cư. Người di cư giữa

các tỉnh có trình độ chuyên môn thấp nhất trong tất cả các loại hình di cư và ở tất cả

các cấp trình độ.

Bảng 3.9 dưới đây cho thấy rằng qua hai cuộc khảo sát thì tỷ lệ người di cư ở các loại hình di cư sống trong các hộ gia đình có thu nhập từ trên trung bình trở lên cao

hơn các hộ gia đình không có người di cư. Cụ thể, trong năm 2009, tỷ lệ người di cư sống trong các hộ gia đình có thu nhập trên trung bình đối với loại hình di cư trong

huyện là 21.9%, đối với loại hình di cư giữa các huyện là 10% và đối với loại hình di cư giữa các tỉnh là 31,6%, trong khi chỉ có 21,4% người không di cư sống trong các hộ gia đình có điều kiện sống trên trung bình. Con số tương ứng về tỷ lệ người di cư được sống trong các hộ gia đình có thu nhập trên trung bình đối với ba loại hình di cư ở năm 2014 lần lượt là 23,1%; 24,7% và 25,5%, trong khi chỉ có 22,1% số người không di cư được sống trong các hộ gia đình có thu nhập trên trung bình.

64

Tìn trạn n tế-xã ộ ủ n ƣờ ƣ

Bản 3.9: Tỷ lệ n ƣờ ƣ và ôn ƣ sốn tron á ộ đìn ó đ ều ện sốn á n u ở uộ ảo sát năm 2009 và năm 2014. Đơn vị tính: %

Đ ều ện sốn

Loạ ìn ƣ Tổn số T ấp Cao Dƣớ trung bình Trung bình Trên trung bình

100,0 100,0 100,0 100,0 12,1 7,0 5,1 14,6 13,8 8,9 7,2 19,3 16,0 23,9 13,4 21,1 21,9 10,0 31,6 21,4 36,2 50,2 42,7 23,6

Năm 2009 Di cư trong huyện Di cư giữa các huyện Di cư giữa các tỉnh Không di cư Năm 2014 Di cư trong huyện Di cư giữa các huyện Di cư giữa các tỉnh Không di cư 100,0 100,0 100,0 100,0 9,2 5,3 5,9 16,7 11,4 9,8 16,1 18,7 16,9 15,7 31,2 20,3 23,1 24,7 25,5 22,1 39,4 44,5 21,3 25,5

Nguồn: Tổng cục Thống Kê và UNFPA (2016)

Ngoài ra, Bảng 3.9 còn cho thấy tỷ lệ người di cư ở các loại hình di cư được

sống trong các hộ gia đình có thu nhập cao cũng cao hơn hẳn con số này ở người

không di cư. Cụ thể, năm 2009 có 36,2% số người di cư trong huyện, 50,2% số người

di cư giữa các huyện và 42,7% số người di cư giữa các tỉnh được sống trong các hộ gia

đình có thu nhập cao, trong khi con số này ở người không di cư là 23,6%. Đến năm

2014, có 39,4% số người di cư trong huyện, 44,5% số người di cư giữa các huyện và

21,3% số người di cư giữa các tỉnh được sống trong các hộ gia đình có thu nhập cao,

trong khi con số này ở người không di cư là 25,5%.

Nhìn chung ở cả hai cuộc điều tra, Bảng 3.9 cho thấy tỷ lệ người di cư ở tất cả

các loại hình di cư sống trong các hộ gia đình có thu nhập từ trung bình trở xuống

cũng thấp hơn tỷ lệ người không di cư sống trong các hộ gia đình có cùng điều kiện.

Theo Tổng cục Thống Kê và UNFPA (2016), con số trên chỉ phản ánh điều kiện sống

của những người di cư lâu dài còn chưa thể hiện số liệu đối với những người di cư tạm thời.

Ngoài ra, Tổng cục Thống Kê và UNFPA (2016) còn chứng minh rằng người di cư ở Đồng Bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ có điều kiện sống cao hơn người di cư ở những vùng còn lại của cả nước. Nghiên cứu còn chứng minh thêm rằng người di cư có điều kiện nhà ở tốt hơn người không di cư, tuy nhiên di cư giữa các tỉnh có tỷ lệ nhà bán kiên cố cao hơn di cư giữa các huyện và di cư trong huyện.

65

3.2. Đặ đ ểm ủ n ƣờ o tuổ V ệt N m

3.2.1. Đặc điểm về nhân khẩu học của người cao tuổi Việt Nam

Bảng 3.10 thể hiện đặc điểm của người cao tuổi Việt Nam bao gồm: tuổi, giới tính, số con, việc sắp xếp cuộc sống, tình trạng hôn nhân, có con di cư nội địa, thu

nhập và trình độ giáo dục.

Bản 3.10: Đặ đ ểm xã ộ , n ân ẩu ọ và sắp xếp uộ sốn ủ NCT.

Đặ đ ểm % ( ó trọn số)

42,6 29,4 28

60 40

73,5 26,5

35,2 17 37,4 5,6 3,2 1,6 1,3

64,8 9,4 18,1 7,7

50,6 49,4

Tuổ 60-69 70-79 Trên 80 G ớ tín Nữ Nam Nơ sốn Nông thôn Thành thị Số on 0 1 2 3 4 Từ 5 trở lên Số on trun bìn V ệ sắp xếp uộ sốn Sống với ít nhất một con Sống một mình Sống chỉ với vợ (hoặc chồng) Khác Có on ƣ nộ đị (sốn á tỉn vớ n ƣờ o tuổ ) Không Có G áo ụ Không đi học hoặc không hoàn thành tiểu học Hoàn thành tiểu học Hoàn thành trung học cơ sở Hoàn thành phổ thông trung học trở lên 53,9 17,2 15,9 13

Nguồn: Tự tính toán từ VNAS2011

66

Bảng 3.10 cho thấy số người trong độ tuổi 60-69 chiếm tỷ lệ cao nhất 42,6%, gần 30% số người trong độ tuổi từ 70-79. Tuy nhiên, có tới hơn 57% số người cao tuổi

là những người từ 70 tuổi trở lên. Kết quả còn cho thấy rằng hơn một nửa số người cao

tuổi là phụ nữ (chiếm 60%) và phần lớn người cao tuổi sống ở khu vực nông thôn

(chiếm 73,5%). Bảng 3.10 còn cho thấy người cao tuổi có hai con chiếm cao nhất (37,4%) trong tổng số người cao tuổi, có 17% số người cao tuổi có một con. Tuy nhiên

số người cao tuổi không có con chiếm cũng tương đối cao (tới 35,2%), trung bình mỗi người cao tuổi Việt Nam có 1,3 người con.

Liên quan đến vấn đề sắp xếp cuộc sống, Bảng 3.10 cho thấy có tới gần 65% số

người cao tuổi sống với ít nhất một người con, tỷ lệ người cao tuổi sống với vợ (hoặc

chồng) xếp thứ 2 chiếm 18,1% trong tổng số người cao tuổi.

Kết quả cũng cho thấy gần một nửa số người cao tuổi có con di cư nội địa

(chiếm 49.4%). Tuy nhiên, khái niệm “người cao tuổi có con di cư nội địa” được định

nghĩa trong VNAS năm 2011 ở câu hỏi B14 (số liệu VNAS năm 2011 được giải thích

rõ ở phần 2.1.2 của Chương 2) là những người cao tuổi con hiện đang sống khác xã

với người cao tuổi.

Về trình độ giáo dục, số liệu cho thấy rằng có hơn một nửa số người cao tuổi

(gần 54%) có trình độ học vấn thấp (chưa tốt nghiệp tiểu học hoặc không đi học), tỷ lệ

người cao tuổi chỉ học hết cấp một đứng thứ 2 chiếm 17,2% và chỉ có 13% số người

cao tuổi có trình độ hoàn thành phổ thông trung học trở lên. Nhìn chung, người cao

tuổi Việt Nam có trình độ học vấn không cao.

3.2.2. Đời sống vật chất và bảo trợ xã hội đối với người cao tuổi

* T u n ập ủ n ƣờ o tuổ

Về đặc điểm thu nhập của hộ gia đình có người cao tuổi, số liệu VNAS (2011)

cho thấy phần lớn các hộ gia đình có người cao tuổi có thu nhập hộ gia đình trong khoảng từ 10 triệu VND đến 100 triệu VND trong khoảng thời gian 12 tháng trước khi

khảo sát (chiếm 67,4%). Số hộ gia đình có thu nhập thấp (dưới 10 triệu đồng trong vòng 12 tháng trước cuộc khảo sát) cũng chiếm tương đối cao (tới 24%) và chỉ có 8,6% số người cao tuổi sống trong các hộ gia đình có thu nhập từ 100 triệu đồng trở lên trong khoảng thời gian 12 tháng trước khi khảo sát.

Theo Uỷ ban về Các vấn đề xã hội của Quốc Hội (2015), nguồn thu nhập của người cao tuổi Việt Nam chủ yếu là từ lao động của người cao tuổi, từ hỗ trợ của con

cháu, lương hưu, trợ cấp xã hội, từ nguồn tích luỹ. Theo Báo cáo, có khoảng 46.2% số

người cao tuổi được hưởng lương hưu và trợ cấp xã hội hàng tháng.

67

* Tìn trạn n èo ủ n ƣờ o tuổ

Bản 3.11. Tỷ lệ n ƣờ o tuổ sốn tron ộ đìn n èo (đơn vị tín : %)

Tuổ G ớ tín K u vự sốn

Chung 60-69 70-79 80+ Nam Nữ Thành thị Nông thôn

17,2 13,0 19,9 21,8 13,1 19,9 7,1 21,8

Nguồn: Uỷ ban Các vấn đề xã hội của Quốc Hội (2015), trang 12.

Theo Bảng 3.11 cả nước có 17.2% người cao tuổi hiện đang sống trong các hộ

gia đình nghèo. Người cao tuổi ở nhóm tuổi càng cao càng có tỷ lệ sống trong hộ

nghèo càng lớn và tỷ lệ người cao tuổi là nữ giới sống trong các hộ gia đình nghèo lớn hơn nam giới. Người cao tuổi ở nông thôn có tỷ lệ sống trong hộ nghèo cao gấp ba lần

người cao tuổi ở thành thị.

* Tìn trạn v ệ làm ủ n ƣờ o tuổ

Bản 3.12: Tỷ lệ (%) n ƣờ o tuổ đƣợ ảo sát t eo tìn trạn ôn v ệ

N óm tuổ G ớ tín K u vự sốn

Cá oạt độn Chung Thành Nông 60-69 70-79 80+ Nam Nữ t ị thôn

Làm việc có thu nhập 35,5 15,5 8,4 31,2 18,0 17,5 25,5 23,1

Trông cháu giúp con 31,2 28,4 18,4 24,2 29,1 22,5 29,3 27,2

Hỗ trợ con cháu làm kinh tế 18,9 20,9 10,7 21,9 14,5 6,3 22,3 17,4

Làm nội trợ ở nhà 36,1 23,9 15,4 14,9 35,4 24,4 28,8 27,5

Làm từ thiện, công tác xã hội 7,5 6,0 9,4 11,0 5,3 10,7 6,2 7,6

Không làm gì 19,4 35,3 58,2 33,5 33,7 39,0 31,3 33,6

Tổn số n ƣờ 557 335 299 462 729 365 826 1191

Nguồn: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và UNFPA (2016)

Bảng 3.12 cho thấy các công việc mà NCT thường tham gia nhiều nhất có ba nhóm chính gồm: làm việc có thu nhập, trông cháu giúp con và làm nội trợ ở nhà. Tỷ

68

lệ NCT làm công tác từ thiện và công tác xã hội là thấp nhất và tỷ lệ NCT không làm gì chiếm cao nhất trong tổng số NCT tham gia khảo sát.

Đối với việc tham gia làm việc có thu nhập, có gần 23,1% NCT ở các nhóm

tuổi được khảo sát vẫn làm việc để có thu nhập, trong đó người trong độ tuổi từ 60-69

chiếm tỷ lệ cao nhất và vẫn còn 8,4% số người cao tuổi trong độ tuổi từ 80 tuổi trở lên tham gia làm việc để có thu nhập. Tỷ lệ nam giới cao tuổi làm việc cao hơn tỷ lệ phụ

nữ cao tuổi làm việc hơn 13%. Tỷ lệ NCT khu vực nông thôn làm việc cao hơn tỷ lệ này ở khu vực thành thị.

Số liệu cho thấy, 27,2% NCT hỗ trợ con cái trong việc trông cháu và 17,4%

NCT hỗ trợ con cháu trong việc làm kinh tế. Trong đó, tỷ lệ NCT ở độ tuổi 60-69 tham

gia trông cháu nhiều nhất trong ba nhóm tuổi, trong khi NCT trong nhóm tuổi 70-79

lại hỗ trợ con cháu làm kinh tế nhiều hơn hai nhóm còn lại. Tỷ lệ NCT nông thôn giúp

con trông cháu và giúp con cháu làm kinh tế cao hơn NCT ở khu vực thành thị. Ohuj

nữ cao tuổi giúp con trông cháu nhiều hơn nam giới cao tuổi, trong khi nam giới cao

tuổi lại có tỷ lệ giúp con cháu làm kinh tế cao hơn phụ nữ cao tuổi.

Trong số các hoạt động mà NCT đóng góp cho gia đình và xã hội, Bảng 3.12

cho thấy người cao tuổi làm công việc nội trợ chiếm tỷ lệ cao nhất (đến 27,5%), trong

đó, NCT ở độ tuổi từ 60-70 làm nội trợ chiếm tỷ lệ cao nhất (tới 36,1%); phụ nữ cao

tuổi làm nội trợ nhiều hơn nam giới cao tuổi; và NCT ở nông thôn làm nội trợ nhiều

hơn NCT ở thành thị.

Số liệu từ Bảng 3.12 cho thấy tỷ lệ NCT tham gia công tác từ thiện và công tác

xã hội là thấp nhất (chỉ 7,6%).

3.2.3. Điều kiện nhà ở của người cao tuổi

Bản 3.13. Đ ều ện n à ở ủ á ộ ó n ƣờ o tuổ (đơn vị tín : %)

Năm 1992/93 1997/98 2002 2004 2006 2008

Kết ấu n à ở

Biệt thự -- -- -- 0,18 0,34 0,37

Nhà có nhà tắm, bếp và khu vệ sinh riêng 4,11 6,33 7,54 6,85 11,07 14,31

Nhà có nhà tắm, bếp và khu vệ sinh chung 1,91 1,93 8,66 10,51 11,36 12,62

Nhà bán kiên cố 52,57 62,57 64,47 63,63 63,66 61,10

Nhà kiên cố 12,16 8,19 -- -- -- --

69

Năm 1992/93 1997/98 2002 2004 2006 2008

Nhà tạm và khác 29,25 20,98 19,33 18,83 13,58 11,60

Nƣớ sƣ ụn và nấu ăn

Nước máy riêng 10,24 11,17 12,03 14,72 19,60 21,17

Nước máy công cộng 2,87 3,08 4,05 3,31 2,19 3,56

Giếng khoan 3,36 18,51 27,22 22,29 23,23 21,71

Giếng khoan, giếng xây 51,00 33,22 31,95 32,38 21,97 21,95

Nước mua -- -- 0,59 0,45 2,55 2,35

Nước suối có lọc -- 0,28 0,85 0,55 3,13 2,47

Nước hồ, ao và song 18,50 9,91 9,66 7,49 1,24 1,36

Nước mưa 13,20 10,62 9,13 9,95 16,97 18,91

Loại nước khác 1,09 13,21 4,52 8,86 9,12 6,52

N à vệ s n

Tự hoại, bán tự hoại 12,81 15,50 18,68 25,44 34,34 40,19

Hai ngăn 10,98 12,79 22,75 21,24 21,53 21,33

Cầu cá -- 9,13 12,83 11,56 11,18 10,55

Loại khác (loại đơn giản) 55,78 45,69 29,28 27,31 23,27 14,44

Không có hố xí 20,43 16,89 16,46 14,45 9,68 8,32

N uồn t ắp sang

Điện lưới 52,13 80,67 86,73 93,80 96,98 98,33

Điện ắc quy, máy nổ 0,49 1,16 1,62 0,60 0,38 0,12

Đèn dầu các loại 46,49 17,33 9,77 4,23 2,05 1,02

Các nguồn khác 0,59 0,84 1,88 1,37 0,59 0,53

Chú thích: -- không có số liệu

Nguồn: UNFPA (2011) - trang 24.

Số liệu trên cho thấy rằng tỷ lệ NCT được sống trong nhà bán kiên cố chiếm trên 60% và tăng theo thời gian từ hơn 52% năm 1993 lên hơn 63% năm 2006. Tuy nhiên, con số này giảm nhẹ xuống còn 61% vào năm 2008. Bảng 3.13 còn cho thấy, tỷ

lệ các hộ gia đình có NCT được sống trong nhà có nhà tắm, bếp và khu vệ sinh riêng

70

(hoặc chung) ngày càng tăng, trong khi tỷ lệ các hộ gia đình có NCT sống trong nhà tạm ngày càng giảm.

Bảng 3.13 còn cho thấy rằng tỷ lệ các hộ gia đình sử dụng nước giếng khơi hay

giếng xây chiếm cao nhất, nhưng tỷ lệ này giảm theo thời gian. Số liệu còn cho thấy

rằng tỷ lệ các hộ gia đình có NCT được sử dụng các nguồn nước hợp vệ sinh (như nước máy) ngày càng tăng, trong khi tỷ lệ các hộ gia đình có NCT sử dụng nước kém

vệ sinh (như từ ao, hồ và sông…) ngày càng giảm.

Liên quan đến vấn đề nhà vệ sinh, số liệu còn cho thấy rằng tỷ lệ các hộ gia

đình có NCT sống trong nhà ở có nhà vệ sinh tự hoại và bán tự hoại ngày càng tăng và

chiếm cao nhất từ 34,34% năm 2006 và tăng lên 40,19% vào năm 2008. Bảng 3.13 còn

cho thấy rằng tỷ lệ các hộ gia đình có NCT sống trong các nhà ở có các loại nhà vệ

sinh không hợp vệ sinh và không có nhà vệ sinh ngày càng giảm qua thời gian.

Hầu hết các hộ gia đình có NCT đều có điện lưới thắp sáng. Bảng 3.13 cho thấy

rằng năm 2008 có tới 98,33% hộ gia đình có NCT sử dụng điện lưới thắp sáng.

3.2.4. Thực trạng sức khoẻ của người cao tuổi Việt Nam

Theo Uỷ ban về Các vấn đề xã hội của Quốc Hội (2015), tuổi thọ trung bình

của người Việt Nam là 73,2 tuổi, nhưng tuổi thọ trung bình khoẻ mạnh chỉ là 66 tuổi.

Báo cáo còn nêu rõ chỉ có 21,3% NCT hoàn toàn khoẻ mạnh, 64,2% NCT có bệnh tật

ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày. Mô hình bệnh tật của NCT Việt Nam chuyển từ

bệnh lây nhiễm sang bệnh không lây nhiễm và mạn tính. Nghiên cứu cũng nêu thêm

rằng chỉ có 54,9% NCT tham gia bảo hiểm y tế, mạng lưới y tế chăm sóc NCT còn

mỏng, chỉ có 50% các bệnh viện đa khoa tỉnh có khoa lão. NCT ở nông thôn, các

vùng khó khăn chiếm tỷ lệ cao nhưng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế lại thấp.

3.3. Thực trạng đời sống của người cao tuổi Việt Nam khi con cái di cư nội địa

Nhìn chung, trong phạm vi luận án, thực trạng tác động của di cư nội địa lên đời sống của NCT ở các khía cạnh kinh tế, sức khoẻ và xã hội chỉ được thể hiện ở hai năm 2011 và 2012 do hạn chế về số liệu.

3.3.1. Khía cạnh kinh tế thông qua việc nhận tiền gửi

Bảng 3.14 sẽ trình bày phần trăm các hộ gia đình Việt Nam nói chung và các hộ

gia đình có ít nhất một NCT nhận được tiền gửi theo nguồn gốc tiền gửi (gồm có tiền gửi từ di cư quốc tế, từ di cư nội địa và cả hai nguồn).

71

Bản 3.14. P ần trăm á ộ đìn n ận đƣợ t ền ử

tính t eo n uồn ố t ền ử

Toàn bộ á ộ đìn Không nhận tiền gửi Nhận tiền gửi từ di cư nội địa Nhận tiền gửi từ di cư quốc tế Nhận cả tiền gửi từ di cư quốc tế và nội địa Cá ộ đìn ó ít n ất một n ƣờ o tuổ Không nhận tiền gửi Nhận tiền gửi từ di cư nội địa Nhận tiền gửi từ di cư quốc tế Nhận cả tiền gửi từ di cư quốc tế và nội địa Tỷ lệ 5,9% 86,6% 1,8% 5,7% Tỷ lệ 0,9% 34,8% 0,4% 2,2%

Nguồn: Tính toán từ VHLSS2012. Bảng 3.14 cho thấy rằng, tiền gửi từ di cư nội địa chiếm tỷ trọng lớn nhất tới

86,6% trong tổng số các hộ gia đình có người di cư và nhận được tiền gửi. Đối với các hộ

gia đình có ít nhất một NCT nhận được tiền gửi từ di cư nội địa cũng chiếm tỷ trọng lớn

nhất trong tổng số những hộ gia đình có NCT nhận được tiền gửi. Bảng trên cho thấy, tỷ

lệ các hộ gia đình có NCT nhận được tiền gửi từ di cư nội địa chiếm cao nhất trong số các

hộ gia đình có NCT có người di cư và chiếm đến 34,8% trong tổng số các hộ gia đình có

người di cư nội địa và nhận được tiền gửi. Trong số 5,9% các hộ gia đình không nhận

được tiền gửi thì tỷ lệ hộ gia đình có NCT không nhận tiền gửi chiếm tỷ lệ rất thấp (chỉ

0,9%). Bảng 3.14 cũng cho thấy rằng, trong số 5,7% số hộ gia định nhận được tiền gửi cả

từ di cư quốc tế và di cư nội địa thì có tới 2,2% số hộ gia đình có NCT.

Bảng 3.15 thể hiện tỷ lệ phần trăm giá trị tiền gửi tính theo nguồn gốc tiền gửi.

Số liệu cho thấy giá trị tiền gửi nhận được từ di cư nội địa chiếm tỷ trọng lớn nhất.

Bản 3.15. P ần trăm ủ á trị t ền ử tín t eo n uồn ố t ền ử

Tỷ lệ 74,2% 25,8% 100%

Đối với tổng thể các hộ gia đình N uồn ố t ền ử Tiền gửi từ di cư nội địa Tiền gửi từ di cư quốc tế Tổng tiền gửi Đối với các hộ gia đình có ít nhất một người cao tuổi N uồn ố t ền ử Tiền gửi từ di cư nội địa Tiền gửi từ di cư quốc tế Tổng tiền gửi Tỷ lệ 28,5% 7,5% 36%

Nguồn: Tính toán từ VHLSS2012.

72

Đối với tổng thể các hộ gia đình, Bảng 3.15 cho thấy, tỷ trọng giá trị tiền gửi từ di cư nội địa chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng giá trị tiền gửi vào năm 2012. Đối với các

hộ gia đình có ít nhất một NCT thì tỷ trọng tiền gửi cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong

tổng giá trị tiền gửi mà các hộ gia đình có NCT nhận được. Cụ thể, bảng số liệu cho

thấy rằng tiền gửi từ di cư nội địa chiếm 74,2% trong tổng tiền gửi mà các hộ gia đình nhận được, trong đó hộ có ít nhất một NCT nhận được tới 28,5% tổng giá trị tiền gửi

từ di cư nội địa.

Hình 3.2. T ể ện á trị trun bìn ủ t ền ử t eo loạ ìn ƣ.

Nguồn: Tính toán từ VHLSS2012.

Nhìn chung, hộ có NCT nhận được tiền gửi trung bình nhiều hơn các hộ gia

đình nói chung. Hình 3.2 cho thấy mỗi hộ gia đình có NCT nhận trung bình hơn 10 triệu đồng/năm, trong khi các hộ gia đình nói chung nhận trung bình chỉ khoảng 7,8

triệu đồng/năm từ di cư nội địa.

3.3.2. Tình hình sức khỏe của người cao tuổi khi con cái di cư nội địa

Bảng 3.16 so sánh tình hình sức khỏe của NCT có con di cư và không có con di cư về các khía cạnh: triệu chứng sức khỏe tinh thần không tốt, tự đánh giá sức khỏe, bệnh mãn tính, việc khám, chữa bệnh, các hành vi sinh hoạt cá nhân hàng ngày, hạn chế chức năng hoạt động của cơ thể.

73

Bản 3.16. Tìn ìn sứ ỏe ủ n ƣờ o tuổ

ó on ƣ nộ đị và ôn ó on ƣ nộ đị

K ôn ó on ƣ Có on ƣ Tổn B ến số (%) (%) (%)

Tr ệu ứn sứ ỏe t n t ần ôn tốt (ment l)

Không 80,1 80,4 80,6

Có 19,9 19,6 19,4

Tự đán á sứ ỏe (SRH)

Tốt 36,5 35,8 35,3

Không tốt 63,5 64,2 64,8

Bện mạn tín ( se ses)

Không 27.7 27.9 28

Bị ít nhất một bệnh 30,4 28,2 26,3

Bị ít nhất hai bệnh 21,3 20,1 19,1

Bị ít nhất ba bệnh trở lên 20,6 23,8 26,6

Bị ốm tron vòn 12 t án trƣớ đ ều tr ( llness)

Không 63 63,5 64

Có 37 36,5 36

Đ ữ bện tron n ữn t án ần đ ều tr (tre tment sou t)

Không 12,2 10,9 9,8

Có 87,8 89,1 90,2

Cá àn v s n oạt á n ân àn n ày (ADLs)

Bị hạn chế ít nhất một trong các hành 34,9 37 39

vi sinh hoạt cá nhân hàng ngày

65,1 63 61

Không bị hạn chế bất kỳ hành vi sinh hoạt cá nhân hàng ngày nào

Hạn ế ứ năn oạt độn ủ ơ t ể (Fun t on l m ts)

Không bị hạn chế một chức năng nào 36,3 33,4 30,9

Bị hạn chế ít nhất một chức năng 63,7 66,6 69,1

Nguồn: Tính toán từ VNAS 2011

74

Bảng 3.16 cho thấy phần lớn NCT không có triệu chứng gì không tốt về mặt sức khỏe tinh thần (chiếm 80,4%), trong đó tỷ lệ NCT có con di cư có sức khỏe tinh

thần tốt (chiếm 80,1%) thấp hơn không đáng kể so với tỷ lệ NCT không có con di cư

có sức khỏe tinh thần tốt (80,6%). Nhìn chung, theo số liệu thống kê thì NCT có con di

cư có sức khỏe tinh thần không tốt gần bằng NCT không có con di cư.

Kết quả còn cho thấy, tỷ lệ NCT có con di cư tự đánh giá sức khỏe nói chung

không tốt thấp hơn số NCT không có con di cư tự đánh giá sức khỏe nói chung không tốt là 1,3%. Có 35,3% NCT không có con di cư tự đánh giá sức khỏe nói chung của

mình là tốt, trong khi con số này ở người có con di cư là 36,5%. Nhìn chung, theo số

liệu thống kê thì NCT có con di cư tự đánh giá sức khỏe của mình tốt hơn so với NCT

không có con di cư.

Về các bệnh mạn tính, Bảng 3.16 cho thấy tỷ lệ NCT có có con di cư mắc ít

nhất một loại bệnh mãn tính trở lên (chiếm 72,3%) cao hơn không đáng kể so với tỷ lệ

NCT không có con di cư mắc ít nhất một bệnh mãn tính trở lên (chiếm 72%). Nhìn

chung, theo số liệu thống kê thì việc NCT bị mắc ít nhất một loại bệnh mạn tính trở lên

là giống nhau cho cả hai trường hợp có con di cư và không có con di cư.

Đối với khía cạnh bị ốm trong vòng 12 tháng trước khi có cuộc điều tra, số liệu

thống kê cũng không cho thấy sự khác biệt nhiều giữa NCT có con di cư và không có

con di cư. Cụ thể, 64% số người không có con di cư không bị ốm trong vòng 12 tháng

trước khi có cuộc điều tra, trong khi có 63% NCT không có con di cư bị ốm trong

vòng 12 tháng trước khi có cuộc điều tra.

Việc khám chữa, bệnh trong vòng 12 tháng trước khi có cuộc điều tra, từ số liệu

thống kê cho thấy phần lớn tỷ lệ NCT được khám, chữa bệnh trong vòng 12 tháng trước cuộc điều tra (chiếm 89,1%). Trong đó, tỷ lệ NCT không có con di cư được

khám, chữa bệnh cao hơn so với con số này ở NCT có con di cư là 2,4 điểm phần trăm.

Về khía cạnh gặp khó khăn trong việc thực hiện các hành vi sinh hoạt cá nhân hàng ngày (ADLs), số liệu thống kê cho thấy phần lớn tỷ lệ NCT không gặp bất cứ khó khăn gì trong các hành vi sinh hoạt cá nhân hàng ngày (chiếm 63%). Trong đó, tỷ lệ NCT có con di cư không gặp khó khăn gì trong các hành vi sinh hoạt cá nhân hàng

ngày cao hơn tỷ lệ này ở NCT không có con di cư là 4,1 điểm phần trăm. Điều này cho thấy NCT có con di cư ít gặp khó khăn trong việc thực hiện các hành vi sinh hoạt hàng ngày hơn NCT không có con di cư.

75

Đối với vấn đề hạn chế chức năng hoạt động của cơ thể, số liệu thống kê cho thấy phần lớn tỷ lệ NCT ở cả hai nhóm đối tượng đều có triệu chứng bị hạn chế ít nhất

một chức năng hoạt động của cơ thể (chiếm 66,6%). Tuy nhiên, tỷ lệ NCT có con di

cư bị hạn chế ít nhất một chức năng hoạt động của cơ thê thấp hơn tương đối nhiều so

với tỷ lệ này ở nhóm còn lại là 5,4 điểm phần trăm.

Nhìn chung, Bảng 3.16 cho thấy rằng NCT có con di cư có sức khỏe tinh thần

và thể chất tốt hơn NCT không có con di cư. Điều này phù hợp với tình hình thực tế diễn ra ở các gia đình nông thôn Việt Nam, việc con cái quyết định di cư đi làm ăn xa

phụ thuộc nhiều vào tình hình sức khỏe của cha, mẹ già và cũng phù hợp với kết quả

được chứng minh trong Giles và Mu (2006) khi nghiên cứu về NCT Trung Quốc.

3.3.3. Khía cạnh xã hội của người cao tuổi khi con cái di cư nội địa

Bảng 3.17 so sánh thực trạng đời sống xã hội của hai nhóm NCT Việt Nam có

con di cư và không có con di cư ở khía cạnh tham gia các tổ chức xã hội. Bảng này

cung cấp các thông tin về đời sống xã hội của NCT, bao gồm: việc NCT có tham gia

hay không tham gia bất kỳ một hoạt động xã hội nào đó; tần suất của việc tham gia các

hoạt động xã hội từ tham gia vài lần một năm cho đến tham gia hàng ngày; là thành

viên của Hội NCT Việt Nam; là thành viên của Hội Cựu chiến binh; là thành viên của

Hội Phụ nữ (đối với phụ nữ); là thành viên của Hội Nông dân (đối với nông dân).

Bản 3.17. V ệ t m á tổ ứ xã ộ ủ n ƣờ o tuổ

Có con di cƣ Không có con di B ến số (%) cƣ (%)

T m bất ỳ oạt độn xã ội nào

Không 59,47 66,68

Có 40,53 33,32

Tần suất ủ v ệ t m á oạt độn xã ộ

Vài lần một năm 47,82 42,89

Hàng tháng 32,6 31,33

Hàng tuần 8,3 8,45

Hàng ngày 5,55 12,23

Là t àn v ên ủ Hộ N ƣờ C o tuổ V ệt N m

Không 25,59 32,62

Có 74,41 67,38

76

Có con di cƣ Không có con di B ến số (%) cƣ (%)

Là t àn v ên ủ ộ Nôn ân (chỉ có nông dân)

76,76 83,59 Không

23,24 16,41 Có

Là t àn v ên ủ Hộ Cựu ến b n

83,76 89,14 Không

16,24 10,86 Có

Là t àn v ên ủ Hộ P ụ nữ V ệt N m (chỉ có phụ nữ)

68,09 74,79 Không

31,91 25,21 Có

Nguồn: Tính toán từ VNAS 2011

Bảng 3.17 cho thấy tỷ lệ NCT có con di cư tham gia vào các hoạt động xã hội

cao hơn đáng kể so vơi tỷ lệ những NCT không có con di cư.

Đối với vấn đề tham gia các hoạt động xã hội nói chung: tỷ lệ NCT có con di cư

tham gia các hoạt động xã hội nói chung cao hơn 7% so với tỷ lệ NCT không có con di

cư tham gia các hoạt động xã hội. Gần một nửa số NCT có con di cư (chiếm gần 41%)

tham gia các hoạt động xã hội, trong khi chỉ có hơn 1/3 số NCT không có con di cư có

thể làm được như vậy. Nhìn chung, NCT có con di cư sẽ có nhiều khả năng hơn hẳn so

với những NCT không có con di cư trong việc tham gia các hoạt động xã hội nói

chung.

Bảng 3.17 còn cho thấy rằng hơn 74% NCT có con di cư tham gia Hội NCT

Việt Nam, trong khi chỉ có khoảng 67% số NCT không có con di cư tham gia Hội này.

Đối với Hội Nông dân, tỷ lệ NCT có con di cư tham gia cao hơn tỷ lệ NCT không có con di cư khoảng 7%. Hơn 16% phần trăm số NCT có con di cư tham gia Hội Cựu chiến binh, trong khi chỉ có hơn 10% số NCT không có con di cư tham gia Hội này. Bảng 3.17 cũng cho thấy thêm rằng tỷ lệ phụ nữ cao tuổi có con di cư tham gia Hội Phụ nữ cũng cao hơn 7% so với tỷ lệ phụ nữ cao tuổi không có con di cư tham gia Hội.

Nhìn chung, từ Bảng 3.17 cho thấy rằng NCT có con di cư nội địa được tham

gia nhiều hoạt động xã hội hơn NCT không có con di cư.

Việc nâng cao nhận thức xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng

như đọc báo, nghe đài, xem tivi và tiếp cận internet được thể hiện ở Bảng 3.18.

77

Bản 3.18. V ệ nân o n ận t ứ xã ộ t ôn qu

á p ƣơn t ện t ôn t n đạ ún ủ NCT

Có con di cƣ Không có con di B ến số (tần suất) (%) cƣ (%)

N e đà

21,84 20,02 Hàng ngày

1,75 3,67 Hàng tuần

2,11 1,44 Hàng tháng

9,70 8,54 Thỉnh thoảng

64,61 66,32 Không bao giờ

N e đà p át t n ôn ộn

26,11 20,72 Hàng ngày

5,61 5,57 Hàng tuần

2,10 1,69 Hàng tháng

11,93 13,68 Thỉnh thoảng

54,26 58,35 Không bao giờ

Xem Tivi

85,84 78,85 Hàng ngày

4,79 8,92 Hàng tuần

2,02 1,03 Hàng tháng

4,44 5,93 Thỉnh thoảng

2,91 5,28 Không bao giờ nghe

T ếp ận nternet

1,52 1,97 Hàng ngày

0,96 0,30 Hàng tuần

0,21 1,63 Hàng tháng

0,78 1,61 Thỉnh thoảng

96,52 94,48 Không bao giờ

Nguồn: Tính toán từ VNAS 2011

Bảng 3.18 cho thấy, tỷ lệ NCT có con di cư có điều kiện tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng cao hơn số NCT không có con di cư ở tất cả các khía cạnh

trên, ngoại trừ tiếp cận internet. Cụ thể: 22% NCT có con di cư có điều kiện nghe đài hàng ngày, nhưng tỷ lệ này ở NCT không có con di cư là 20%. Tỷ lệ NCT có con di cư nghe đài phát thanh công cộng hàng ngày cũng cao hơn 5 điểm phần trăm so với tỷ lệ

78

NCT không có con di cư tiếp cận phương tiện này. Dữ liệu còn cho thấy rằng có tới gần 86% NCT có con di cư được xem TV hàng ngày, trong khi chỉ có gần 79% NCT

không có con di cư được xem TV hàng ngày. Đối với việc tiếp cận internet hàng ngày,

Bảng 3.18 cho thấy NCT có con di cư lại ít được tiếp cận internet hàng ngày hơn

không đáng kể so với NCT không có con di cư. Cụ thể, tỷ lệ NCT không có con di cư được tiếp cận internet hàng ngày cao hơn tỷ lệ NCT có con di cư tiếp cận dịch vụ

internet hàng ngày chỉ có 0,5 điểm phần trăm.

79

Kết luận C ƣơn 3

Chương 3 nêu lên thực trạng di cư nội địa ở Việt Nam từ năm 1989 đến nay và

đặc điểm NCT Việt Nam và thực trạng đời sống của họ khi có con cái di cư nội địa.

* Liên quan đến người di cư nội địa:

Nhìn chung, di cư ở khoảng cách xa như di cư giữa các tỉnh là biến động mạnh

nhất, di cư giữa các huyện và di cư trong huyện ít biến động hơn. Tuy nhiên, luồng di

cư nông thôn – nông thôn luôn chiếm vị trí dẫn đầu trong các giai đoạn trước năm 2009, nhưng đến giai đoạn 2009-2014 thì luồng di cư này giảm nhẹ và nhường chỗ

cho luồng di cư nông thôn-thành thị và thành thị-thành thị. Ở giai đoạn này còn xuất

hiện hiện tượng di cư đảo thành thị - nông thôn và thành thị-thành thị.

Vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên luôn là nơi thu hút dân nhập cư trong các

giai đoạn, trong khi các tỉnh thuộc Đồng bằng Sông Cửu long và Bắc Trung Bộ luôn là

những vùng có tỷ lệ xuất cư cao. Các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh

Bình Dương, Hà Nội và Đà Năng luôn là những tỉnh/ thành phố có tỷ suất di cư thuần

cao nhất cả nước qua thời gian. Các tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ như Thanh Hóa, Nghệ

An, Hà Tĩnh và Quảng Bình đã hút lại một lượng tương đối lớn lao động đã di cư từ

các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.

Người di cư có tuổi đời ngày càng trẻ và xuất hiện hiện tượng „nữ hóa di cư‟ ở

các loại hình di cư. Nhìn chung, người di cư có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn

người không di cư, tuy nhiên người di cư giữa các tỉnh có trình độ chuyên môn kỹ

thuật thấp nhất. Người di cư thường sống trong các hộ gia đình có thu nhập cao hơn và

có điều kiện nhà ở tốt hơn người không di cư.

* Liên quan đến đặc điểm NCT Việt Nam:

NCT Việt Nam ở độ tuổi từ 60-69 có tỷ lệ cao nhất và nữ giới cao tuổi có tỷ lệ cao hơn nam giới cao tuổi. Phần lớn NCT sống ở khu vực nông thôn và tỷ lệ NCT

sống với ít nhất một con cũng cao nhất. Hơn 50% NCT có con di cư nội địa và nhìn chung NCT Việt Nam có trình độ giáo dục không cao. Tỷ lệ NCT sống trong các hộ gia đình có mức thu nhập từ 10 triệu đến 100 triệu đồng cao nhất, và NCT ngày càng được sống trong các nhà ở có điều kiện tốt hơn. Tỷ lệ NCT tham gia làm kinh tế, nội

trợ, giúp con trông cháu hay hỗ trợ con cháu làm kinh tế còn tương đối cao. Nói

chung, đời sống của NCT ngày càng được cải thiện thể hiện ở các khía cạnh như tình trạng nhà ở, việc tiếp cận các điều kiện sống cơ bản như nhà ở có nhà vệ sinh hợp

chuẩn, sử dụng nước sạch… cũng ngày càng được cải thiện.

80

* Liên quan đến đời sống NCT khi con cái di cư:

Tiền gửi từ di cư nội địa chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tiền gửi đối với cả

các hộ gia đình nói chung và các hộ gia đình có NCT có thành viên di cư nội địa nói

riêng. So với các hộ gia đình nói chung thì gia đình có NCT có thành viên di cư nội địa

nhận được phần lớn tỷ lệ tiền gửi trung bình từ di cư nội địa.

Nhìn chung, NCT có con di cư có sức khỏe thể chất và tinh thần tốt hơn nhóm

còn lại. Phần lớn NCT có con di cư và không có con di cư đều có trạng thái sức khỏe tinh thần tốt như nhau. Tuy nhiên, tỷ lệ NCT có con di cư tự đánh giá sức khỏe nói

chung tốt cao hơn tỷ lệ NCT không có con di cư tự đánh giá sức khỏe nói chung tốt.

Ngoài ra, số liệu thống kê cho thấy rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa NCT có

con di cư và không có con di cư trong vấn đề mắc ít nhất một loại bệnh mạn tính. Liên

quan tới khía cạnh bị ốm trong vòng 12 tháng trước khi có cuộc điều tra, dữ liệu thống

kê cũng không cho thấy có sự khác biệt nhiều giữa NCT có con di cư và không có con

di cư. Số liệu thống kê còn cho thấy tỷ lệ NCT có con di cư được khám, chữa bệnh

thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ NCT không có con di cư được đi khám, chữa bệnh. NCT

có con di cư ít gặp khó khăn trong việc thực hiện các hành vi sinh hoạt hàng ngày hơn

NCT không có con di cư. Cuối cùng, tỷ lệ NCT có con di cư bị hạn chế ít nhất một

chức năng hoạt động của cơ thể thấp hơn tương đối nhiều so với tỷ lệ này ở nhóm

NCT không có con di cư.

Tỷ lệ NCT có con di cư tham gia các hoạt động xã hội nói chung cao hơn tỷ lệ

NCT không có con di cư tham gia các hoạt động xã hội. Ngoài ra, số liệu thống kê còn

cho biết thêm rằng tỷ lệ NCT có con di cư tham gia các tổ chức như Hội NCT Việt

Nam, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến Binh, Hội Phụ nữ, hay được tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng như đọc báo, nghe đài, xem tivi cũng cao hơn so với con số

này ở nhóm NCT không có con di cư. Nhìn chung, NCT có con di cư có điều kiện tốt

hơn trong việc tham gia các tổ chức xã hội và nâng cao nhận thức xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

81

CHƢƠNG 4 KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ TỪ MÔ HÌNH NGHI N CỨU V MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH

4.1. Kết quả đán á tá độn ủ ƣ nộ đị lên đờ sốn NCT

4.1.1. Đời sống kinh tế

* Mô tả thống kê các biến được sử dụng trong mô hình

Bản 4.1. Mô tả t ốn ê á b ến đƣợ sử ụn tron mô ìn

B ến số G ả t í Mean Min Max Std. Dev. Số quan sát

Biến giả, nhận giá trị

bằng 1 nếu là hộ nghèo,

9.399 0,173 0,378 0 bằng 0 nếu hộ không nghèo 1 Pov_Officer

Y=1, Hộ có người cao

9.399 0,112 0,315 tuổi mà có người di cư nội địa; Y=0, khác. 1 0 Y

Reg6

1.reg6=1 nếu thuộc

vùng Đồng bằng sông

1.reg6 Hồng và = 0 nếu khác

2.reg6=1 nếu thuộc

vùng Trung du và miền

2.reg6 9.399 0,177 0,382 0 1 núi phía Bắc và = 0 nếu khác.

nếu

3.reg6=1 thuộc vùng Bắc trung bộ và

3.reg6 9.399 0,220 0,414 0 Duyên hải miền Trung và = 0 nếu khác 1

nếu

4.reg6 9.399 0,069 0,254 4.reg6=1 thuộc vùng Tây Nguyên và =0 nếu khác 1 0

5.reg6 5.reg6=1 nếu thuộc 9.399 0,119 0,324 1 0

82

B ến số G ả t í Mean Min Max Std. Dev. Số quan sát

vùng Đông Nam Bộ và

=0 nếu khác

6.reg6=1 nếu thuộc

vùng Đồng bằng sông

Cửu Long và =0 nếu

khác 9.399 0,203 0,402 6.reg6 0 1

Urban

Urban= 1, nếu ở thành

thị và =0 nếu ở nông

Urban thôn 9.399 0,288 0,453 0 1

married2

Married2= 1 nếu Góa,

Goá vợ/chồng; =0 nếu khác 9.399 0,135 0,342 0 1

Khác 9.399 0,054 0,226 0 1

Gender

Gender= 1 nếu chủ hộ là

Nữ nữ và =0 nếu khác 9.399 0,248 0,432 0 1

Tuổi 9.399 49,746 14,237 13 97 Age

Work_yn

Work_yn=1 nếu chủ hộ

có việc làm và =0 nếu khác Work_yn 9.399 0,860 0,347 0 1

Tỷ lệ người già trong hộ 9.399 0,150 0,284 0 1 elderly_rate

Nguồn: Tính toán từ VHLSS2012

Bảng thống kê trên cho thấy rằng tỷ lệ hộ nghèo là 17.3% và tỷ lệ hộ có NCT có con di cư nội địa 11.2%. Ngoài ra bảng số liệu còn cho thấy tỷ lệ người cao tuổi trong các hộ gia đình là 15%, có tới 86% chủ hộ gia đình có việc làm và chỉ có gần 25% chủ hộ gia đình là nữ giới. Ngoài ra, NCT ở khu vực thành thị chiếm chỉ 29%.

* Kết quả đánh giá tác động của tiền gửi từ di cư nội địa lên đời sống kinh tế

của hộ có NCT có con di cư

- Kết quả về đánh giá tác động của di cư nội địa đến giảm nghèo của hộ gia

đình có NCT có người di cư nội địa

83

Bản 4.2. Kết quả ƣớ lƣợn mô ìn ồ qu 2SLS

(1) (2) (3)

Nghèo hay không nghèo Tác động biên VARIABLES

-0,101*** (0,00993) 1,792*** (0,00208) 0,802*** (0,00205) 1,347*** (0,00272) -0,529*** (0,00314) 0,672*** (0,00215) -1,431*** (0,00205) 0,362*** (0,00260) 0,123*** (0,00329) -0,166*** (0,00206) -0,0399*** (8.19e-05) 0,452*** (0,00100) -0,0807*** (0,00244) -0,136*** (0,00567) -0,871*** (0,00479) 23.221.218 -0,0112*** (0,00110) 0,240*** (0,000281) 0,0781*** (0,000195) 0,158*** (0,000383) -0,0307*** (0,000170) 0,0624*** (0,000200) -0,126*** (0,000134) 0,0430*** (0,000328) 0,0137*** (0,000377) -0,0180*** (0,000219) -0,00444*** (8.99e-06) 0,0503*** (0,000110) -0,00911*** (0,000280) -0,0151*** (0,000630) 23.221.218

Nhận hay không nhận tiền gửi từ di cư nội địa Prob_RemY 0,401*** 2.reg6 (0,00319) 0,485*** 3.reg6 (0,00240) 0,360*** 4.reg6 (0,00479) -0,193*** 5.reg6 (0,00305) 0,626*** 6.reg6 (0,00248) -0,292*** 1.urban (0,00204) 0,163*** 1.married2 (0,00295) -1,358*** 2.married2 (0,00610) -0,291*** 2.gender (0,00275) 0,238*** Age (0,000308) -1,022*** age2 (0,00178) 0,191*** 1.work_yn (0,00212) 2,548*** elderly_rate (0,00284) -15,10*** Constant (0,0158) Observations 23.221.218 Ghi chú: giá trị độ lệch chuẩn được thể hiện trong ngoặc. *** p<0,01, ** p<0,05, * p<0,1

Nguồn: Tính toán từ VHLSS2012

84

Cột (1) của Bảng 4.2 cho thấy hộ có tỷ lệ NCT càng cao thì xác suất hộ nhận tiền di cư càng lớn. Điều này cũng phù hợp với các nghiên cứu của John Knodel và

cộng sự (2007) cho rằng nguồn thu nhập hàng tháng của 90% NCT có con di cư là từ

tiền gửi về từ con cái di cư và NCT ở nhóm tuổi càng cao thì càng nhận được khoản

tiền gửi lớn. Giang và Pfau (2010) kết luận rằng NCT thường sống phụ thuộc khi tuổi càng cao và vì vậy mà các hộ gia đình có tỷ lệ NCT càng cao thì xác suất nhận tiền gửi

từ di cư càng lớn.

Cột (2) thể hiện tác động của việc nhận tiền gửi tới xác suất bị nghèo của hộ gia đình NCT có con di cư. Kết quả cho thấy nếu hộ có cơ hội nhận tiền gửi từ di cư nội

địa càng cao thì xác suất thuộc hộ nghèo càng thấp. Cụ thể hơn, Cột (3) – thể hiện kết

quả ước lượng tác động biên của các biến độc lập – cho thấy, nếu xác suất nhận tiền gửi từ di cư nội địa tăng thêm 1% thì xác suất bị hộ nghèo của các hộ gia đình có NCT

có người di cư nội địa giảm xuống 1,12%. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên

cứu John Knodel và cộng sự (2007) và Giang và Pfau (2010) cho rằng tiền gửi từ di cư

nội địa có vai trò nâng cao mức sống và giảm nghèo cho hộ gia đình có NCT có người

di cư.

Ngoài ra, Bảng 4.2 còn cho thấy rằng chủ hộ có việc làm cũng có tác động tích cực tới việc hộ gia đình nhận tiền gửi và giảm nghèo hơn các hộ gia đình khác. Kết

quả cũng cho biết thêm rằng hộ gia đình có phụ nữ làm chủ hộ sẽ có nhiều khả năng

nhận tiền gửi hơn nam giới là chủ hộ.

- Kết quả đánh giá tác động của tiền gửi từ di cư nội địa tới điều kiện nhà ở và

có nhà vệ sinh của hộ gia đình có NCT có người di cư nội địa

Bản 4.3. Kết quả ểm địn K bìn p ƣơn đố vớ sự bằn n u về tỷ lệ n óm ộ ó n ƣờ o tuổ ó on ƣ nộ đị n ận đƣợ t ền ử từ ƣ nộ đị

sốn tron n à tạm so vớ á n óm ộ á

0:00 Number of obs = 8339

Interval] 0,1067 0,0878 0,0450 2,8994 > 0

Two-sample test of proportion Variable Mean 0,1003 0 0,0722 1 0,0281 Diff under Ho: prop(0)-prop(1) diff= 0 Ho: diff= H1a: diff<0 Pr(Z z Z 0,004 2,9 diff!= 0 [95% Conf. 0,0938 0,0565 0,0112 z = Ha: diff Pr(Z > z) = 0,0019

Nguồn: Tính toán từ VHLSS2012

85

Bảng 4.3 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ hộ gia đình sống trong nhà tạm giữa nhóm hộ gia đình có NCT có con di cư chuyển tiền về và nhóm hộ

gia đình khác. Kết quả kiểm định khẳng định rằng tỷ lệ các hộ gia đình khác sống

trong nhà tạm cao hơn tỷ lệ hộ gia đình có NCT có người di cư nhận được tiền gửi

sống trong nhà tạm, với giá trị Pr=0.0019<0.05.

Bản 4.4. Kết quả ểm địn K bìn p ƣơn đố vớ sự bằn n u về tỷ lệ

n óm ộ ó n ƣờ o tuổ ó on ƣ nộ đị n ận đƣợ t ền ử từ ƣ nộ đị

ôn ó n à vệ s n so vớ á n óm ộ á .

Two-sample test of proportion 0:00 Number of obs = 8339

1:00 Number of obs = 1053

Variable Mean Std. Err. z P>z [95% Conf. Interval]

0,0694 0,0028 0,0639 0,0748 0

0,0532 0,0069 0,0396 0,0667 1

0,0162 0,0075 0,0016 0,0308 Diff

under Ho: 0,008208 1,97 0,049

diff= prop(0)-prop(1) z = 1,9728

0 Ho: diff=

diff<0 Ha: diff!= 0 Ha: diff > 0 Ha:

0,9757 Pr(Z z) = 0,0243 Pr(Z

Nguồn: Tính toán từ VHLSS2012

Bảng 4.4 khẳng định rằng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ hộ gia

đình có nhà vệ sinh giữa nhóm hộ gia đình có NCT có con di cư nội địa nhận được tiền

gửi và nhóm hộ gia đình khác. Cụ thể, kết quả cho thấy tỷ lệ hộ gia đình khác không có nhà vệ sinh cao hơn tỷ lệ hộ gia đình có NCT có người di cư gửi tiền về không có

nhà vệ sinh, với giá trị Pr=0,024<0,05).

- Kết quả đánh giá tác động của việc nhận tiền gửi từ di cư nội địa đến vấn đề

bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của các hộ gia đình có NCT

Bảng 4.5. Kết quả tính hệ số Gini trên thu nhập bình quân đầu người một tháng của hộ gia đình NCT có con di cư nội địa trước và sau khi nhận tiền gửi từ di cư nội địa.

T u n ập bìn quân đầu n ƣờ /t án

Hệ số Gini trƣớ n ận t ền ử từ ƣ nộ đị 0,3734 s u n ận t ền ử từ ƣ nộ đị 0,4279

Nguồn: Tính toán từ VHLSS2012

86

Kết quả cho thấy hệ số Gini trước khi hộ gia đình nhận được tiền gửi là 0,37 và sau khi nhận tiền gửi là 0,43 cho thấy rằng tiền gửi từ di cư nội địa làm gia tăng bất

bình đẳng trong phân phối thu nhập ở các hộ gia đình có NCT. Kết quả này cũng được

củng cố trong bảng kết quả về sự dịch chuyển mức sống của các hộ gia đình trước và

sau khi nhận tiền gửi (Bảng 4.6) dưới đây.

Kết quả xem xét sự dịch chuyển của các nhóm hộ gia đình trước và sau khi

nhận tiền gửi được thể hiện trong Bảng 4.6.

Bản 4.6. Sự ị uyển mứ sốn ủ các n óm ộ đìn

trƣớ và s u n ận t ền ử (%)

P ân n óm ộ s u n ận t ền ử

1 2 3 4 5 Total

Phân n óm ộ trƣớ n ận t ền ử

1 2 3 4 5 Total 68,93 26,21 0,00 0,00 0,00 18,29 17,94 59,45 23,61 0,00 0,00 19,49 6,88 10,04 67,67 15,62 0,00 19,85 4,48 3,43 7,06 76,27 12,42 21,29 1,76 0,88 1,66 8,11 87,58 21,07 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00

Nguồn: Tính toán từ VHLSS2012

Kết quả cho thấy, dường như các hộ gia đình có NCT có người di cư thuộc hộ

nghèo có sự dịch chuyển không đáng kể, chủ yếu là nhóm hộ gia đình có NCT có

người di cư khá và giàu có sự dịch chuyển đáng kể. Nói cách khác, tiền gửi từ di cư

nội địa dường như đóng góp nhiều vào các hộ gia đình có NCT có người di cư thuộc

loại khá và giàu. Kết quả của sự dịch chuyển khẳng định rằng tiền gửi từ di cư nội địa

làm gia tăng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các hộ gia đình có NCT.

Điều này có thể được giải thích trong UNFPA (2016) và Lưu Bích Ngọc (2016) như

sau: vì phần lớn người di cư là những người xuất phát từ các gia đình có điều kiện kinh tế, có sức khoẻ, trẻ tuổi, có trình độ học vấn và tay nghề cao so với những người

không di cư nên khi di cư họ thường có việc làm ổn định và thu nhập cao hơn các nhóm còn lại. Mặt khác nững người di cư xuất phát từ các gia đình nghèo thường có trình độ giáo dục và tay nghề thấp nên họ chỉ tìm được những việc làm giản đơn với thu nhập thấp và bấp bênh. Vì những lí do này nên tiền gửi có xu hướng được chuyển về các gia đình có thu nhập khá và cao hơn là chuyển về các gia đình nghèo vì vậy nó

là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa nhóm hộ gia đình có NCT có con di cư nội địa nhận được tiền gửi và các nhóm

hộ gia đình khác.

87

4.1.2. Kết quả đánh giá tác động của di cư nội địa lên sức khỏe của NCT

* Mô tả thống kê các biến được sử dụng trong mô hình

Bản 4.7. Mô tả t ốn ê á b ến tron mô ìn

Std. B ến số Obs Mean Min Max Dev.

1155 .876 .329 0 1 Đ ữ bện tron n ữn t án ần đ ều tr

.262 .440 0 1

(treatment sought) Tr ệu ứn sứ ỏe t n t ần ôn tốt (mental) 2572 2789 .390 .488 0 1 Cá àn v s n oạt á n ân àn n ày (ADLs)

2789 .737 .440 0 1 Bện mạn tính (diseases)

2789 .697 .459 0 1 Hạn ế ứ năn oạt độn ủ ơ t ể (function

limits)

2789 .414 .493 0 1 Bị ốm tron vòn 12 t án trƣớ đ ều tr (illness)

1 2788 .693 .461 0 Tự đán á sứ ỏe (SRH)

1 2789 .494 .500 0 Có on ƣ nộ đị (out_child)

Tuổ (age)

1 2789 .294 .455 0 70-79

1 2789 .280 .449 0 Từ 80 trở lên

G ớ tín (sex)

2789 .397 .489 0 1 Nam

K u vự sốn (area)

2789 .265 .441 0 1 Thành thị

Sắp xếp uộ sốn ộ đìn (liv_cat3)

1 Sống một mình 2789 .094 .291 0

1 Sống với vợ/chồng hoặc ít nhất một người con 2789 .181 .385 0

1 2789 .077 .267 0 Khác

G áo ụ (edu)

1 2789 .172 .377 0 Tiểu học

1 2789 .158 .365 0 Trung học cơ sở

1 2789 .129 .335 0 Phổ thông trung học

T u n ập (income)

1 2789 .644 .479 0 Thu nhập từ 10 đến 100 triệu/ năm

1 2789 .081 .273 0 Thu nhập trên 100 triệu/ năm

Nguồn: Tính toán từ VNAS2011

88

Bảng 4.7 cho thấy có gần 88% NCT đi chữa bệnh trong tháng điều tra; 26% số NCT có triệu chứng sức khoẻ tinh thần không tốt; NCT gặp khó khăn trong việc thực

hiện các hoạt động hàng ngày là 39%; có tới 74% số NCT bị mắc ít nhất một bệnh

mạn tính; và gần 70% số NCT bị hạn chế chức năng hoạt động của cơ thể. Bảng này

còn cho thấy có 41% số NCT bị ốm trong vòng 12 tháng trước điều tra và có gần 69% số NCT tự đánh giá có sức khoẻ tốt. Kết quả cũng cho thấy rằng có 49% số NCT có

con di cư nội địa.

* Kết quả đánh giá tác động của con cái di cư nội địa lên tình hình sức khoẻ

thể chất và tinh thần của người cao tuổi

- Các yếu tố ảnh hưởng đến việc con cái di cư nội địa

Bản 4.8. Kết quả ƣớ lƣợn á yếu tố ản ƣởn đến b ến on á ƣ nộ đị

B ến số out_child ( on á ƣ)

Edu (giáo dục) 0,0197* (0,0104)

Income (thu nhập) -0,00197 (0,0193)

liv_cat3 (sắp xếp cuộc sống hộ gia đình) 0,0603*** (0,00975)

Area (khu vực sống) -0,117*** (0,0233)

age_cat3 (tuổi) 0,00285 (0,0123)

Sex (giới tính) 0,0562*** (0,0212)

Hằng số 0,447*** (0,0250)

Số quan sát 2.647

0,034

R2 Ghi chú: độ lệch chuẩn được thể hiện trong ngoặc; ***p<0,01; **p<0,05, *p<0,1

Nguồn: Tính toán từ VNAS2011

Từ kết quả trên cho thấy rằng NCT có trình độ giáo dục càng cao thì con cái họ càng có nhiều khả năng di cư. Kết quả cũng cho thấy rằng những NCT sống với vợ/ chồng hay ít nhất một người con thì con cái họ sẽ có nhiều khả năng di cư hơn. Liên quan đến khu vực sống, kết quả cho thấy rằng NCT sống ở nông thôn thì con cái họ sẽ di cư nhiều hơn. Bảng 4.8 còn cho thấy rằng NCT là nam giới sẽ dễ dàng cho con cái di cư hơn NCT là nữ giới.

- Kết quả ước lượng tác động của con cái di cư nội địa lên các khía cạnh sức

khoẻ thể chất và tinh thần của NCT

89

Từ Bảng 4.9, luận án chưa tìm thấy bằng chứng chứng minh tác động của con cái di cư tới bất cứ khía cạnh sức khoẻ thể chất hay tinh thần nào của NCT. Tuy nhiên,

kết quả cho thấy vấn đề sức khoẻ của NCT bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố khác như

sau: Những NCT có trình độ giáo dục càng cao càng có sức khoẻ tinh thần tốt, họ cũng

tự nhận thấy sức khoẻ của họ tốt hơn và ít có nguy cơ bị hạn chế ít nhất một chức năng hoạt động của cơ thể, tuy nhiên, họ dễ bị mắc bệnh mạn tính hơn các nhóm NCT khác.

Thu nhập của hộ gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với sức khoẻ của NCT, cụ thể, những người cao tuôi sống trong các hộ gia đình có thu nhập càng cao thì càng có tình

hình sức khoẻ nói chung tốt. Kết quả còn cho thấy rằng những NCT sống trong các gia

đình có thu nhập càng cao càng có sức khoẻ tinh thần tốt hơn, có nhiều cơ hội chữa

bệnh hơn. Ngoài ra, Bảng 4.9 còn cho thấy những NCT sống trong các hộ gia đình có

thu nhập cao sẽ ít bị ốm, ít có nguy cơ bị hạn chế các hành vi sinh hoạt các nhân hàng ngày hay ít có nguy cơ bị hạn chế các chức năng hoạt động của cơ thể. Kết quả này

cũng phù hợp với thực tế và phù hợp với nghiên cứu của Bussarawan

Teerawichitchainan (2010) khi nghiên cứu cho trường hợp Việt Nam cho rằng những

NCT có trình độ giáo dục càng cao và sống trong các hộ gia đình có thu nhập cao càng

lạc quan về sức khoẻ hơn các nhóm NCT khác.

Kết quả cho thấy rằng NCT có sức khoẻ không tốt ở hầu hết các triệu chứng sức

khoẻ tinh thần và thể chất khi tuổi của họ càng cao; cụ thể: càng về già thì NCT càng

tự nhận thấy sức khoẻ của họ yếu, sức khoẻ tinh thần không tốt. Kết quả cũng cho biết

thêm rằng, NCT sẽ dễ bị các bệnh mãn tính, dễ bị ốm, dễ bị hạn chế các hành vi sinh

hoạt hàng ngày hay dễ bị hạn chế các chức năng hoạt động của cơ thể. Kết quả này

cũng được khẳng định trong nghiên cứu của UNFPA và HelpAge International (2012) cho rằng khả năng sức khoẻ về thể chất, tinh thần và chức năng của NCT sẽ suy giảm

khi tuổi càng cao nên họ dễ bị nhiễm bệnh và bị hạn chế các hành vi hay chức năng

hoạt động của cơ thể.

Bảng 4.9 cho biết rằng NCT ở khu vực thành thị ít có nguy cơ bị ốm, ít khả

năng bị hạn chế các hành vi sinh hoạt hàng ngày. Kết quả cũng cho biết thêm rằng, NCT ở khu vực thành thị tự nhận thấy có sức khoẻ tôt hơn khu vực nông thôn. Điều này cũng phù hợp với Bussarawan Teerawichitchainan (2010) khi nghiên cứu cho

trường hợp Việt Nam chứng minh rằng NCT ở nông thôn tự đánh giá sức khoẻ của mình kém hơn NCT ở thành thị tự đánh giá sức khoẻ của mình.

Kết quả cũng cho thấy rằng nam giới cao tuổi có sức khoẻ tốt hơn nữ giới cao tuổi ở tất cả các khía cạnh thể chất và tinh thần, cụ thể, nam giới cao tuổi tự nhận thấy

có sức khoẻ tốt hơn, họ có sức khoẻ tinh thần tốt hơn và ít bị ốm hơn nữ giới cao tuổi.

90

Kết quả còn cho biết thêm rằng nam giới cao tuổi thường ít bị bệnh mạn tính, ít bị hạn chế các hoạt động hàng ngày hay hạn chế chức năng hoạt động của cơ thể hơn phụ nữ

cao tuổi. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu của Arber và cộng sự (1991)

cho rằng phụ nữ cao tuổi thường có sức khoẻ thể chất và tinh thần kém hơn nam giới,

họ thường bị hạn chế các hoạt động hàng ngày và hạn chế các chức năng hoạt động của cơ thể hơn nam giới cao tuổi. Nghiên cứu của Bussarawan Teerawichitchainan

(2010) cũng kết luận rằng nam giới cao tuổi Việt Nam tự đánh giá sức khoẻ tốt hơn nữ giới cao tuổi của Việt Nam.

91

Bản 4.9. Kết quả đán á tá độn ủ on á ƣ lên sứ oẻ t ể ất và t n t ần ủ NCT

(1) (2) (3) (5) (4) (6) (7)

Illness Adl func_lim (hạn

VARIABLES Srh(tự đánh Mental (sức one_disease (bị ốm trong treat_sou (các hành vi chế ít nhất một

(biến số) giá sức khoẻ) khoẻ tinh thần) (bệnh mạn tính) vòng 12 tháng (chữa bệnh) sinh hoạt cá chức năng hoạt

trước ĐT) nhân) động của cơ thể)

out_childh (có con -0,00841 0,0570 0,0478 -0,0526 -0,0293 0,0178 0,0658

di cư)

(0,0894) (0,0981) (0,0902) (0,0816) (0,195) (0,0847) (0,0922)

Edu (giáo dục) -0,214*** -0,130** 0,174*** -0,0222 0,0403 0,0345 -0,104**

(0,0449) (0,0558) (0,0490) (0,0440) (0,110) (0,0460) (0,0457)

Income (thu nhập) -0,513*** -0,884*** -0,00187 -0,337*** 0,358* -0,540*** -0,469***

(0,0903) (0,0992) (0,0895) (0,0811) (0,192) (0,0848) (0,0932)

-0,0381 -0,0375 0,00993 0,00716 -0,106 -0,0736* 0,0150

liv_cat3 (sắp xếp cuộc sống)

(0,0440) (0,0498) (0,0452) (0,0409) (0,0950) (0,0431) (0,0450)

age_cat3 (tuổi) 0,169*** 0,280*** 0,180*** 0,243*** -0,0701 0,584*** 0,716***

(0,0570) (0,0624) (0,0574) (0,0515) (0,123) (0,0538) (0,0616)

92

(1) (2) (3) (5) (4) (6) (7)

Illness Adl func_lim (hạn

VARIABLES Srh(tự đánh Mental (sức one_disease (bị ốm trong treat_sou (các hành vi chế ít nhất một

(biến số) giá sức khoẻ) khoẻ tinh thần) (bệnh mạn tính) vòng 12 tháng (chữa bệnh) sinh hoạt cá chức năng hoạt

trước ĐT) nhân) động của cơ thể)

d_urban (khu vực -0,360*** -0,0314 0,0998 -0,195** -0,345 -0,232** 0,0718

sống)

(0,102) (0,122) (0,110) (0,0989) (0,232) (0,103) (0,109)

d_male (giới tính) -0,302*** -0,638*** -0,286*** -0,214** 0,0885 -0,296*** -0,826***

(0,0950) (0,112) (0,0977) (0,0894) (0,221) (0,0934) (0,0970)

Constant 1,604*** -0,223* 0,817*** -0,144 1,960*** -0,334*** 1,118***

(0,119) (0,121) (0,115) (0,104) (0,241) (0,108) (0,118)

Observations 2.646 2.444 2.647 2.647 1.084 2.647 2.647

Ghi chú: độ lệch chuẩn được thể hiện trong ngoặc. *** p<0,01, ** p<0,05, * p<0,1

Nguồn: Tính toán từ VNAS2011

93

4.1.3. Kết quả đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống xã hội của NCT

* Mô tả thống kê các biến được sử dụng trong mô hình

Bản 4.10. Mô tả t ốn ê á b ến đƣợ sử ụn tron mô ìn

Cá b ến số Obs Mean Std. Dev. Min Max

2789 .759 .428 0 1 T m á tổ ứ xã ộ

2789 .901 .299 0 1 T ếp ận á p ƣơn t ện t ôn t n

đạ ún

2789 .494 .500 0 1 Có on ƣ nộ đị

2789 .294 .456 0 1 70-79 tuổ

2789 .280 .449 0 1 Từ 80 tuổ trở lên

2789 .397 .489 0 1 Nam

2789 .265 .441 0 1 T àn t ị

2789 .094 .291 0 1 Sốn một mìn

2789 .181 .385 0 1 Sốn vớ vợ/ ồn

2789 .077 .267 0 1 Khác

2789 1,308 1,239 0 9 Số on trun bìn

2789 .172 .377 0 1 T ểu ọ

2789 .158 .365 0 1 Trun ọ ơ sở

2789 .129 .335 0 1 P ổ t ôn trun ọ

.479 0 1 2789 .644 T u n ập từ 10 đến 100 tr ệu/ năm

.273 0 1 2789 .081 T u n ập trên 100 tr ệu/ năm

Nguồn: Tính toán từ VNAS2011

Bảng 4.10 cho thấy rằng có gần 76% số người cao tuổi tham gia các tổ chức xã hội và có tới 90% người cao tuổi tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng. Bảng số liệu còn nêu rõ có 49% người cao tuổi có con di cư nội địa, hơn một nửa số người cao tuổi từ 70 tuổi trở lên và phần lớn người cao tuổi có thu nhập trong

khoảng từ 10 triệu đến 100 triệu đồng một tháng.

94

* Kết quả đánh giá tác động của di cư nội địa tới đời sống xã hội của NCT

Việt Nam

Bản 4.11. Kết quả đán á tá độn ủ ƣ nộ đị lên á í ạn ủ đờ sốn xã ộ ủ n ƣờ o tuổ

B ến số Access_media Social

(t ếp ận á p ƣơn t ện t ôn t n) (t m á tổ ứ xã ộ )

Có con di cư nội địa (out_childh) 0,396***(0,103) 0,256*** (0,0946)

Giáo dục (edu) 0,427*** (0,0685) 0,247*** (0,0518)

Thu nhập của hộ gia đình (income) 0,457*** (0,101) -0,294*** (0,0939)

Qui mô hộ gia đình (liv_cat3) 0,0970* (0,0551) 0,0507 (0,0484)

Tuổi (age_cat3) -0,683*** (0,0652) 0,162*** (0,0601)

Khu vực sống (d_urban) 0,247* (0,131) -0,649*** (0,108)

Giới tính (d_male) 0,430*** (0,119) 0,285*** (0,105)

Constant 1,076*** (0,132) 1,126*** (0,121)

Observations 2.647 2.647

Ghi chú: độ lệch chuẩn được thể hiện trong ngoặc. *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Nguồn: Tính toán theo VNAS 2011

Đối với việc tham gia các tổ chức xã hội nói chung, Bảng 4.11 cũng khẳng định

rằng NCT có con di cư sẽ có nhiều khả năng tham gia các tổ chức xã hội hơn NCT

không có con di cư. Kết quả này cũng có thể được giải thích rằng NCT có con di cư sẽ

không phải dành thời gian và sức lực chăm sóc những người con di cư nên sẽ có điều

kiện hơn để tham gia các hoạt động xã hội. Mặt khác, những NCT có con di cư có

nhiều khả năng được con cái hỗ trợ kinh tế thông qua tiền gửi nên họ cũng đỡ vất vả trong việc kiếm sống hơn nên có điều kiện tốt hơn để tham gia các hoạt động xã hội.

Kết quả còn cho thấy NCT ở độ tuổi càng cao thì càng có khả năng tham gia các tổ chức xã hội hơn các nhóm còn lại. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và UNFPA (2016) cho rằng những NCT ở nhóm tuổi càng cao càng có nhiều khả năng tham gia các tổ chức xã hội vì hiện có nhiều chính sách và chế độ ưu đãi hướng đến những NCT ở nhóm tuổi càng cao để giúp họ có điều kiện tốt để tham gia các tổ chức xã hội.

95

Kết qủa còn cho biết thêm rằng nam giới cao tuổi có nhiều khả năng tham gia

các hoạt động xã hội hơn nữ giới cao tuổi. Điều này có thể được giải thích trong Bộ

Lao động-Thương binh và Xã hội và UNFPA (2016) rằng phụ nữ cao tuổi trong các gia đình, đặc biệt là các gia đình nông thôn, thường hay phải làm việc nhà và trông

cháu, chắt cho con cái đi làm việc nên ít có điều kiện về thời gian để tham gia các hoạt

động xã hội hơn so với nam giới. Mặt khác, do tâm lí NCT Việt Nam thường cho rằng

phụ nữ không nên tham gia các hoạt động xã hội nên cũng phần nào hạn chế khả năng tham gia các động xã hội của NCT là nữ giới.

Về khía cạnh nơi sống, kết quả hồi qui logistics cho thấy rằng NCT ở thành thị sẽ ít tham gia các tổ chức xã hội hơn ở nông thôn. Điều này có thể được giải thích như

sau: thứ nhất, NCT ở nông thôn chiếm đa số (tới 73,5%) trong tổng số NCT Việt Nam,

vì vậy tỷ lệ NCT ở nông thôn sẽ tham gia các tổ chức xã hội ở nông thôn nhiều hơn

NCT ở thành phố; thứ hai, ở nông thôn nhiều tổ chức như Hội nông dân và Hội cựu

chiến binh hoạt động phổ biến hơn ở thành phố nên tỷ lệ NCT tham gia sẽ nhiều hơn.

Bảng 4.11 cũng cho thấy rằng NCT có học vấn càng cao thì càng có nhiều khả

năng tham gia các tổ chức xã hội hơn NCT không đi học hoặc chỉ mới hoàn thành cấp

tiểu học. Kết quả này có cũng được chứng minh trong nghiên cứu của Carla

Cachadinha và cộng sự (2011) cho rằng những người có trình độ văn hóa cao sẽ có

hiểu biết hơn và sẽ có điều kiện hơn để tham gia các tổ chức xã hội. Mặt khác, những

người có trình độ giáo dục cao thường có việc làm có lương lúc ở tuổi lao động, vì vậy

khi về già họ có thu nhập ổn định từ lương hưu và không phải lao động nhiều để kiếm

sống nên sẽ có nhiều thời gian và sức khỏe để tham gia các hoạt động xã hội.

Liên quan đến khía cạnh thu nhập, kết quả cho thấy rằng thu nhập hộ gia đình

càng cao thì NCT càng ít có khả năng tham gia các hoạt động xã hội. Carla

Cachadinha (2011) cũng khẳng định rằng những hoạt động tạo ra thu nhập cũng làm

hạn chế khả năng NCT tham gia các tổ chức xã hội.

Đối với vấn đề nâng cao nhận thức xã hội thông qua các phương tiện thông

tin đại chúng, kết quả cho thấy rằng những NCT có con di cư nội địa sẽ có điều kiện

tốt hơn để tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu HelpAge International ở Moldova (2010) cho rằng khi con cái di cư thì NCT còn lại ở quê nhà sẽ có nhiều thời gian hơn để thực hiện các hoạt động văn hóa như đọc báo, nghe đài, xem tivi, đọc sách. Ngoài ra, việc NCT tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng còn bị ảnh hưởng bởi những yếu tố sau:

96

Bảng 4.11 còn cho thấy rằng NCT trong nhóm càng cao thì càng ít có khả

năng tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng hơn các nhóm còn lại vì có thể do

điều kiện sức khỏe, NCT ở nhóm này thường bị hạn chế khả năng nghe và nhìn.

Kết quả còn cho thấy rằng NCT ở thành phố có nhiều khả năng để tiếp cận các

phương tiện thông tin đại chúng hơn NCT ở nông thôn. Điều này có thể được giải thích

rằng NCT ở thành thị có đời sống cao hơn nên sẽ có điều kiện kinh tế tốt hơn nên được

trang bị đầy đủ tiện nghi sinh hoạt như Tivi, đài, internet. Mặt khác, NCT ở khu vực thành phố thường là những người nghỉ hưu nên họ có trình độ văn hóa cao hơn vì vậy họ cũng có điều kiện tốt hơn để tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao đời sống văn hóa xã hội hơn.

Liên quan đến khía cạnh sắp xếp cuộc sống, kết quả cho thấy rằng NCT sống

một mình sẽ có điều kiện tốt hơn để tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng. Điều

này có thể được giải thích rằng những NCT sống một mình thường ít phải chăm sóc

con cái và cháu hơn, cũng như ít phải làm việc nhà hơn nên có điều kiện về mặt thời

gian để đọc báo, nghe đài, và xem Tivi hơn các đối tượng còn lại.

Bảng 4.11 còn cho thấy trình độ giáo dục càng cao càng có nhiều khả năng tiếp

cận các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức xã hội của mình.

Cuối cùng, bảng kết quả cho thấy rằng những NCT có thu nhập càng cao thì

càng có khả năng tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này có thể được

giải thích rằng những NCT sống trong các gia đình có thu nhập cao sẽ được trang bị

các phương tiện thông tin đại chúng tốt hơn và sẽ có khả năng tiếp cận các phương

tiện thông tin đại chúng nhiều hơn những NCT sống trong các hộ gia đình có thu

nhập thấp.

4.2. Một số p ân tí n oạ suy về tá độn ủ ƣ nộ đị tớ đờ sốn NCT đến năm 2017

* Khía cạnh kinh tế

Từ kết quả phân tích tác động của di cư nội địa đến khía cạnh giảm nghèo, bất bình đẳng về thu nhập và điều kiện nhà ở của các hộ gia đình có NCT có người di cư ở

năm 2012 trên đây cho thấy tiền gửi từ người di cư nội địa có tác dụng giảm nghèo cho các hộ gia đình có người di cư nội địa có NCT. Những NCT sống trong các hộ gia đình có người di cư nội địa có điều kiện nhà ở tốt hơn những nhóm còn lại. Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy rằng tiền gửi về từ di cư nội địa làm tăng bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm hộ gia đình có NCT có con di cư và không có con di cư nội địa. Kết quả

này cũng phù hợp với thực trạng di cư nội địa ở Việt Nam được trình bày ở Chương 3

trên đây. Xu hướng di cư cho thấy, trong khoảng thời gian từ 2009 đến 2016, số lượng

97

người di cư nội địa ở các loại hình di cư đều giảm đáng kể, ở các tỉnh xuất cư thuần

trong thời gian trước năm 2009 thì trong giai đoạn này là những tỉnh có hiện tượng di cư đảo chiều mạnh nhất như Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Theo Lưu

Bích Ngọc (2016), các lao động di cư quay về lúc này là những lao động có tay nghề

cao, kiến thức và kinh nghiệm tốt hơn nên họ thoát ly khỏi công việc làm nông thuần

tuý với thu nhập thấp trước đây và làm việc cho các doanh nghiệp ở quê hương họ hay họ tự lập cơ sở sản xuất, kinh doanh riêng cho mình. Điều này cho thấy rằng, có thể tiền gửi từ di cư nội địa cho các hộ gia đình có NCT có người di cư có thể giảm (hiện nay chưa có số liệu chứng minh) nhưng thu nhập và điều kiện sống của các hộ gia đình

có NCT có người di cư vẫn có thể được cải thiện ổn định theo thời gian.

* Khía cạnh xã hội

Kết quả phân tích tác động của di cư nội địa đến đời sống xã hội của NCT Việt

Nam cho thấy rằng con cái di cư nội địa có tác động tích cực lên hai khía cạnh tham

gia các hoạt động xã hội và tiếp cận các phưong tiện thông tin đại chúng của NCT.

Kết quả này cũng phù hợp với thực trạng đời sống NCT Việt Nam cho thấy rằng các

điều kiện sống của NCT Việt Nam ngày càng được cải thiện và NCT ngày càng có

điều kiện để nâng cao đời sống xã hội của mình.

* Khía cạnh sức khỏe

Đối với khía cạnh sức khoẻ, việc chưa tìm thấy bằng chứng chứng minh tác

động của di cư nội địa lên sức khoẻ của NCT Việt Nam là một hạn chế của luận án và

là khoảng trống để các nghiên cứu tiếp theo hoàn thiện.

4.3. G ả p áp n ằm ả t ện đờ sốn o NCT V ệt N m, đặ b ệt là NCT ó on ƣ nộ đị

4.3.1. Giải pháp nhằm nâng cao đời sống kinh tế và giảm nghèo

Việc con cái di cư nội địa có tác động tích cực tới việc giảm nghèo và điều kiện

sống của NCT ở quê nhà. Để con cái di cư có điều kiện hỗ trợ cha, mẹ già ở quê được nhiều hơn và hiệu quả hơn thì người lao động di cư cần có việc làm ổn định và thu nhập tốt ở nơi đến. Chính vì vậy cần có những chính sách khuyến khích và tạo điều

kiện để người di cư có được việc làm tốt. Cụ thể:

Thứ nhất, đối với những địa phương có nhiều lao động di cư lên các thành phố

và khu công nghiệp cần có chương trình khuyến khích và tạo điều kiện để lao động trẻ được học tập, đào tạo và có kỹ năng tốt về một số lĩnh vực, ngành nghề đang được sử

dụng ở những khu đô thị và thành phố lớn. Cần có các chương trình tuyên truyền về ý

98

thức đạo đức cho những người lao động trẻ xa quê và có phần gắn trách nhiệm chăm

sóc cha, mẹ khi họ di cư kiếm sống. Ngoài ra, các địa phương này cần thiết lập một mạng lưới thông tin về di cư, về những người địa phương đang làm việc và việc làm ở

các khu đô thị hay các khu công nghiệp để những người lao động trẻ thuận lợi hơn khi

lên thành phố và các khu công nghiệp.

Thứ hai, đối với các khu đô thị và khu công nghiệp là nơi thu hút lực lượng lao động di cư từ nông thôn cần có cơ chế tiếp cận thông tin liên quan đến lao động di cư thật rõ ràng và minh bạch. Người di cư cần được dễ dàng tiếp cận các thông tin bao gồm: cơ hội việc làm, các quyền và nghĩa vụ của người lao động di cư, các thông tin

liên quan đến việc quản lý hành chính như hộ khẩu, đăng kí tạm trú, việc tiếp cận các

dịch vụ y tế, giáo dục, thông tin đào tạo nghề và các dịch vụ xã hội khác. Đặc biệt, các

trung tâm hỗ trợ việc làm cho thanh niên và người lao động, đặc biệt là người lao động

di cư cần được tổ chức và hoạt động hiệu quả và minh bạch hơn.

Thứ ba, để giảm sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các hộ gia đình có NCT có

con di cư nhận được tiền gửi với các nhóm còn lại, các địa phương cần có chính sách

hỗ trợ con em các gia đình nghèo có được thông tin về việc làm, đặc biệt là việc làm có

thu nhập cao, và chính sách đào tạo nghề cho con em các gia đình khó khăn để họ có

được việc làm có thu nhập ổn định ở nơi đến.

Việc tham gia lao động cũng có tác động tích cực tới vấn đề giảm nghèo của

NCT Việt Nam. Vì vậy, cần có những chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để

NCT, đặc biệt là nhóm NCT trong độ tuổi từ 60 đến 69, NCT không có gia đình hay

bị góa có được việc làm và có thu nhập đảm bảo cuộc sống cho họ. Chính vì vậy ở

các cấp địa phương cần có các chương trình tạo việc làm có thu nhập cho NCT đang

còn sức lao động, kết hợp việc làm nông với nghề phụ để NCT có thêm thu nhập cải

thiện cuộc sống. Cần có cơ chế thông tin đầy đủ về vấn đề việc làm, các chính sách hỗ trợ pháp lí khi NCT tham gia thị trường lao động để đảm bảo quyền lợi và việc

làm ổn định cho NCT lao động kiếm sống. Đặc biệt, đối với tình hình chế độ an sinh

cho NCT hiện nay của nhà nước đang quá mỏng và yếu thì vấn đề tạo điều kiện để NCT có việc làm là một vấn đề cấp thiết đối với các địa phương, nhất là ở khu vực nông thôn.

Ngoài ra, việc các hộ gia đình có nữ giới cao tuổi là chủ hộ có nhiều khả năng nhận tiền gửi và ít có nguy cơ bị nghèo hơn các hộ gia đình có nam giới là chủ hộ. Điều này cho thấy cần thay đổi quan niệm lạc hậu cho rằng đàn ông nên là trụ cột gia

đình và phải là chủ hộ để đưa ra các quyết sách liên quan đến gia đình. Các địa

phương, nhất là khu vực nông thôn, cần tuyên truyền cho mọi người về vấn đề bình

99

đẳng giới và tạo điều kiện tốt hơn để phụ nữ được giáo dục, đào tạo và được tham gia

vào các vấn đề kinh tế, xã hội của gia đình, địa phương, từ đó giúp nâng cao vị thế xã hội của người phụ nữ. Cần tạo điều kiện tốt hơn nữa để phụ nữ được tham gia sâu vào

các quyết sách liên quan đến các vấn đề kinh tế của các hộ gia đình, đặc biệt là các hộ

gia đình có NCT.

4.3.2. Giải pháp nhằm cải thiện sức khỏe

Kết quả cho thấy rằng có nhiều yếu tố, ngoại trừ con cái di cư tác động trực tiếp

lên sức khỏe của NCT Việt Nam. Vì vậy, về khía cạnh sức khỏe của NCT, Luận án có

đưa ra một số giải pháp như sau. Thu nhập của các hộ gia đình càng cao càng có hỗ trợ

tích cực đối với việc khám và/ hoặc chữa bệnh của NCT. Ngoài ra, những NCT có thu nhập cao càng ít có nguy cơ bị các triệu chứng như gặp khó khăn trong việc thực hiện

các hành vi sinh hoạt hàng ngày, hạn chế một trong các chức năng hoạt động của cơ

thể, tự đánh giá sức khỏe của mình tốt hơn cũng như có sưc khỏe tinh thần tốt hơn

nhóm có thu nhập thấp. Vì vậy:

+ Cần có cơ chế tạo điều kiện để NCT có thu nhập để tự họ trang trải chi phí

khám và/ hoặc chữa bệnh.

+ Cần hỗ trợ NCT, đặc biệt là NCT khó khăn, neo đơn để được tham gia bảo

hiểm y tế. Tuyên truyền cho NCT biết được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm y tế để

họ tham gia bảo hiểm y tế tích cực hơn.

+ Mặc dù chưa tìm thấy bằng chứng về việc con cái di cư tác động trực tiếp đến

sức khỏe về thể chất và tinh thần của NCT nhưng tiền gửi của họ lại là một nguồn hỗ

trợ về tài chính tích cực để NCT có điều kiện khám và/ hoặc chữa bệnh tốt hơn. Vì

vậy, cần tuyên truyền ý thức và có phần gắn trách nhiệm hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho

NCT đối với những người lao động di cư kiếm sống.

Nhìn chung, tuổi càng cao thì NCT càng có nguy cơ nhiều hơn trong việc mắc

các triệu chứng sức khỏe không tốt cả về thể chất và tinh thần so với các nhóm tuổi khác. Vì vậy, cần có chương trình tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo vệ sức khỏe từ chế độ sinh hoạt, ăn uống và lao động cho mọi lứa tuổi để đảm bảo cho người dân

có một tuổi già khỏe mạnh là hết sức cần thiết. Cần có chương trình kiểm tra, kiểm soát và phát hiện sớm các bệnh mạn tính cho người dân ở mọi lứa tuổi để tránh nguy cơ tuổi già bị mắc các bệnh mạn tính cao.

Những NCT có giáo dục càng cao càng tự đánh giá sức khỏe tốt hơn, có sức

khỏe tinh thần tốt hơn các nhóm NCT có trình độ học vấn thấp. Vì vậy, cần động viên,

khuyến khích và tạo điều kiện tốt để người dân được giáo dục ở mọi lứa tuổi để giúp

100

họ chuẩn bị một tương lai tuổi già có sức khỏe thể chất và tinh thần tốt hơn.

Những NCT chỉ sống với vợ/ hoặc chồng sẽ ít có nguy cơ gặp khó khăn trong việc thực hiện các hành vi sinh hoạt hàng ngày hơn những nhóm còn lại. Vì vậy, cần

tạo điều kiện để những NCT được sống với vợ hoặc chồng của mình để họ có điều

kiện chăm sóc nhau được tốt hơn.

Ngoài ra, phụ nữ cao tuổi tự đánh giá sức khỏe không tốt bằng nam giới cao tuổi và dễ có nguy cơ gặp khó khăn trong việc thực hiện các hành vi sinh hoạt cá nhân cơ bản hàng ngày hơn nam giới cao tuổi. Vì vậy, cần tổ chức mạng lưới khám,

chữa bệnh cho NCT có chất lượng cao ở các tuyến cơ sở nhằm tạo điều kiện thuận lợi để NCT, đặc biệt là nhóm phụ nữ cao tuổi được tiếp cận dễ dàng các dịch vụ

chăm sóc y tế.

4.3.3. Giải pháp nhằm nâng cao đời sống xã hội

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng con cái di cư nội địa có tác động tích cực lên

đời sống xã hội của NCT ở cả hai khía cạnh tham gia các tổ chức xã hội và tiếp cận các

phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức xã hội. Ngoài ra, còn có một số khía cạnh khác tác động tích cực lên đời sống xã hội của NCT như độ tuổi, giới tính,

khu vực sống, thu nhập hộ gia đình, trình độ nhận thức của NCT. Vì vậy, luận án đưa

ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao đời sống xã hội của NCT như sau.

NCT có con di cư sẽ có điều kiện tốt hơn để tham gia các tổ chức xã hội cũng

như tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng. Vì vậy, các tổ chức xã hội cần có

chương trình hoạt động tích cực hơn nữa để những NCT không có con di cư cũng có

điều kiện tham gia và qua đó giúp họ nâng cao đời sống xã hội của mình. Cần giáo dục

để những người con kể cả di cư hay không di cư nhận thức và tạo điều kiện để NCT

được tham gia các tổ chức xã hội.

Nhóm NCT ở độ tuổi càng cao càng có nhiều khả năng tham gia các tổ chức xã

hội cũng như tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức xã hội hơn các nhóm còn lại. Vì vậy, các tổ chức xã hội cũng cần có những cơ chế hoạt động tích cực, hỗ trợ hơn nữa để NCT ở mọi nhóm tuổi được tham gia và đóng góp

những kiến thức và kinh nghiệm quí báu của mình để phát triển cộng đồng.

Nam giới có nhiều khả năng tham gia các tổ chức xã hội hơn nữ giới. Vì vậy, cần tạo điều kiện tốt hơn nữa để phụ nữ cũng tham gia tích cực vào các tổ chức xã hội, qua đó nhằm nâng cao nhận thức và vị thế của người phụ nữ trong gia đình và cộng

đồng. Mặt khác, phụ nữ thường tích cực và hiệu quả trong việc xây dựng nếp sống văn

minh và gia đình văn hóa ở địa phương nên việc họ tích cực tham gia các tổ chức xã

101

hội sẽ góp phần không nhỏ trong việc giữ gìn văn hóa gia đình và cộng đồng.

NCT ở nông thôn có nhiều khả năng tham gia các tổ chức xã hội hơn ở thành phố. Vì vậy, các tổ chức xã nội ở thành phố cần hoạt động tích cực và hiệu quả hơn

nữa để NCT tích cực tham gia và qua đó góp phần xây dựng cộng đồng khu dân cư.

Những NCT có học vấn càng cao thì càng có điều kiện tham gia các tổ chức xã

hội hơn các nhóm còn lại. Vì vậy, các tổ chức xã hội ở địa phương cần tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho NCT, đặc biệt là những nhóm NCT không được đi học và có trình độ học vấn thấp để họ được tham gia các tổ chức xã hội

nhằm nâng cao nhận thức và vị thế xã hội của nhóm người dễ bị tổn thương này.

Nhóm NCT sống trong các hộ gia đình có thu nhập cao có điều kiện tốt hơn để

tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng. Vì vậy, các cơ quan truyền thông địa

phương, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn cần có các chương trình phủ sóng rộng rãi

những thông tin bổ ích về các khía cạnh của đời sống đến đối tượng NCT có thu nhập

thấp. Mặt khác, cần tạo điều kiện để các hộ gia đình có thu nhập thấp được nâng cao

thu nhập và có điều kiện trang bị tối thiểu những phương tiện thông tin cần thiết như

đài hay tivi.

102

Kết luận ƣơn 4

Chương 4 sẽ trình bày kết quả của việc phân tích tác động của con cái di cư nội địa

lên đời sống NCT Việt Nam và một số giải pháp đưa ra dựa trên kết quả phân tích nhằm cải thiện đời sống cho NCT, đặc biệt là NCT Việt Nam có con di cư nội địa như sau:

Tác động của di cư nội địa đến đời sống kinh tế của NCT

* Từ kết quả của việc ứng dụng mô hình hồi qui logistics nhằm đánh giá tác động của di cư nội địa đến khía cạnh giảm nghèo của NCT Việt Nam. Kết quả cho

thấy rằng các hộ gia đình có tỷ lệ NCT càng cao thì xác suất nhận tiền gửi càng lớn và

các hộ gia đình có NCT có người di cư nội địa nhận được tiền gửi có nguy cơ thuộc hộ

nghèo thấp hơn các nhóm hộ còn lại.

* Kết quả từ sử dụng kiểm định Khi bình phương cho thấy tỷ lệ các hộ gia đình

có NCT có con di cư nội địa sống trong nhà tạm thấp hơn và có nhà vệ sinh cao hơn

các nhóm còn lại.

* Từ kết quả phân tích hệ số Gini cho thấy tiền gửi từ di cư nội địa làm tăng sự

bất bình đẳng về thu nhập bình quân đầu người giữa các hộ gia đình có NCT có người

di cư nội địa nhận được tiền gửi với các nhóm hộ còn lại. Điều này được giải thích một

phần vì tiền gửi từ di cư nội địa thường có xu hướng chuyển về các hộ gia đình có thu

nhập khá trở lên.

Tác động của con cái di cư nội địa lên sức khỏe của NCT.

Từ kết quả của việc ứng dụng mô hình hồi qui logistics nhằm đánh giá tác động

của di cư nội địa đến khía cạnh sức khỏe của NCT Việt Nam, luận án chưa tìm thấy

bằng chứng chứng minh ảnh hưởng của con cái di cư nội địa đến bất cứ khía cạnh sức

khỏe thể chất nào của NCT.

Tuy nhiên, từ nghiên cứu cho thấy rằng sức khỏe về thể chất và tinh thần của NCT Việt Nam bị ảnh hưởng bởi rất nhiều các yếu tố về thu nhập, tuổi tác, khu vực

sống, việc thu xếp cuộc sống gia đình hay trình độ học vấn. Cụ thể như sau: Những NCT có trình độ giáo dục càng cao càng có sức khoẻ tinh thần tốt, họ cũng tự nhận thấy sức khoẻ của họ tốt hơn và ít có nguy cơ bị hạn chế ít nhất một chức năng hoạt

động của cơ thể, tuy nhiên họ dễ bị mắc bệnh mãn tính hơn các nhóm NCT khác.

Thu nhập của hộ gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với sức khoẻ của NCT, cụ

thể những người cao tuôi sống trong các hộ gia đình có thu nhập càng cao thì càng có tình hình sức khoẻ nói chung tốt. Kết quả còn cho thấy rằng những NCT sống trong

các gia đình có thu nhập càng cao càng có sức khoẻ tinh thần tốt hơn, có nhiều cơ hội

chữa bệnh hơn. Ngoài ra, những NCT sống trong các hộ gia đình có thu nhập cao sẽ ít

103

bị ốm, ít có nguy cơ bị hạn chế các hành vi sinh hoạt cá nhân hàng ngày hay dễ có

nguy cơ bị hạn chế các chức năng hoạt động của cơ thể hơn các nhóm còn lại.

Kết quả cũng cho thấy rằng NCT có sức khoẻ không tốt ở hầu hết các triệu

chứng sức khoẻ tinh thần và thể chất khi tuổi của họ càng cao: cụ thể, càng về già thì

NCT càng tự nhận thấy sức khoẻ của họ yếu, sức khoẻ tinh thần không tốt. Kết quả

cũng cho biết thêm rằng, NCT sẽ dễ bị các bệnh mãn tính, dễ bị ốm, dễ bị hạn chế các hành vi sinh hoạt hàng ngày hay dễ bị hạn chế các chức năng hoạt động của cơ thể.

Ngoài ra, NCT ở khu vực thành thị ít có nguy cơ bị ốm, ít có khả năng bị hạn

chế các hành vi sinh hoạt hàng ngày. Kết quả cũng cho biết thêm rằng, NCT ở khu vực thành thị tự nhận thấy có sức khoẻ tốt hơn khu vực nông thôn.

Kết quả cũng cho thấy rằng, nhìn chung nam giới cao tuổi có sức khoẻ tốt hơn

nữ giới cao tuổi ở tất cả các khía cạnh thể chất và tinh thần. Cụ thể, nam giới cao tuổi

tự nhận thấy có sức khoẻ tốt hơn, họ có sức khoẻ tinh thần tốt hơn và ít bị ốm hơn phụ

nữ cao tuổi. Kết quả còn cho biết thêm rằng nam giới cao tuổi thường ít bị bệnh mãn

tính, ít bị hạn chế các hoạt động hàng ngày hay hạn chế chức năng hoạt động của cơ

thể hơn phụ nữ cao tuổi.

Tác động của con cái di cư nội địa lên đời sống xã hội của NCT.

Từ kết quả của việc phân tích các yếu tố tác động lên đời sống xã hội của NCT

thông qua mô hình hồi qui logistic cho thấy rằng ngoài việc có con di cư còn có một số

khía cạnh khác tác động tích cực lên đời sống xã hội của NCT. Cụ thể:

Con cái di cư sẽ tạo điều kiện tốt hơn để NCT được tham gia các tổ chức xã hội.

Tuy nhiên, những NCT ở nhóm tuổi cao sẽ có nhiều khả năng tham gia các tổ chức xã

hội hơn nhóm NCT còn lại. Giới tính cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc tham gia

các tổ chức xã hội của NCT, cụ thể nam giới cao tuổi có nhiều khả năng tham gia các tổ chức xã hội hơn nữ giới cao tuổi. NCT ở nông thôn có khả năng tham gia các tổ chức xã hội nhiều hơn NCT ở thành phố. Kết quả cũng cho thấy rằng những NCT có trình độ học vấn càng cao thì càng có nhiều khả năng tham gia các tổ chức xã hội hơn

những người không đi học hay mới chỉ hoàn thành tiểu học.

Nhóm NCT có con di cư nội địa sẽ có nhiều khả năng tự nâng cao đời sống xã hội thông qua việc tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng như đọc báo, nghe đài hay xem tivi hơn nhóm NCT không có con di cư. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng những NCT ở nhóm tuổi càng cao sẽ có nhiều khả năng tiếp cận các phương tiện thông

tin đại chúng hơn các nhóm còn lại. Nhóm NCT ở thành phố cũng có nhiều khả năng

để tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng hơn NCT ở nông thôn. Tuy nhiên,

104

nhóm NCT chỉ sống với vợ/ chồng sẽ có điều kiện tốt hơn để tiếp cận với các phương

tiện thông tin đại chúng hơn những nhóm còn lại. Nhóm NCT sống trong hộ gia đình có thu nhập càng cao thì càng có nhiều khả năng tiếp cận các phương tiện thông tin đại

chúng để nâng cao nhận thức xã hội của mình hơn nhóm NCT sống trong các hộ gia

đình có thu nhập thấp.

Một số giải pháp đưa ra nhằm cải thiện đời sống cho NCT

Từ kết quả phân tích trên, luận án đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao đời sống kinh tế, tình hình sức khoẻ và đời sống xã hội cho NCT, đặc biệt là NCT Việt

Nam có con di cư nội địa. Cụ thể:

Về khía cạnh kinh tế, cần có những chính sách khuyến khích và tạo điều kiện để

người di cư có việc làm ổn định và có thu nhập tốt để qua đó góp phần giảm nghèo cho

NCT; cần tạo điều kiện để NCT còn sức khỏe tốt có việc làm có thu nhập để cải thiện

cuộc sống; và cần tạo điều kiện hơn nữa để nữ giới cao tuổi được tham gia vào các

quyết sách kinh tế của gia đình và cộng đồng.

Về khía cạnh sức khỏe, cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ để NCT có

được thu nhập đủ để trang trải chi phí khám, chữa bệnh của họ; cần nâng cao ý thức

của họ đối với việc tham gia bảo hiểm y tế; cần có các chương trình kiểm tra, kiểm

soát và phát hiện sớm các bệnh mãn tính cho người dân ở mọi lứa tuổi.

Về khía cạnh xã hội, các tổ chức xã hội cần hoạt động tích cực hơn nữa để mọi

NCT, đặc biệt là NCT không có con di cư ở nông thôn cũng như thành phố có điều

kiện tham gia các hoạt động xã hội và tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng.

105

KẾT LUẬN V ĐỊNH HƢỚNG NGHI N CỨU TIẾP THEO

1. Kết luận

Nhìn chung, con cái di cư nội địa để kiếm sống có tác động tích cực tới các vấn đề giảm nghèo của các hộ gia đình có NCT thông qua tiền gửi. Dù vậy, tiền gửi về từ con cái di

cư làm tăng sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các hộ gia đình có người di cư và không có

người di cư. Ngoài ra, những NCT có con di cư còn có đời sống xã hội cao hơn những NCT không có con di cư. Tuy nhiên, luận án chưa tìm thấy có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê

giữa việc con cái di cư nội địa và vấn đề sức khỏe về thể chất và tinh thần của NCT.

Qua việc phân tích tác động của con cái di cư nội địa lên đời sống của NCT,

luận án đã đạt được một số kết quả như sau:

Thứ nhất, luận án đã tổng hợp được một số lí thuyết cơ bản về di cư, các loại

hình di cư diễn ra trên thế giới và ở Việt Nam cũng như nguyên nhân cơ bản của di cư.

Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm hiểu được khái niệm về NCT, đặc điểm và đóng góp

của NCT đối với gia đình và cộng đồng.

Thứ hai, luận án cũng tổng hợp được các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới

cũng như ở Việt Nam nhằm phân tích tác động của việc con cái di cư lên đời sống của

NCT ở ba khía cạnh kinh tế, sức khỏe và xã hội. Qua đó luận án cũng xác định được

“khoảng trống” nghiên cứu. “Khoảng trống” đó chính là việc các nghiên cứu trong

nước mới chỉ dừng lại ở việc phân tích mối quan hệ giữa di cư quốc tế lên khía cạnh

tăng thu nhập và giảm nghèo của NCT. Chưa có nghiên cứu nào phân tích tác động của

di cư nội địa lên đời sống của NCT về tất cả các khía cạnh kinh tế, sức khỏe và xã hội.

Từ việc nghiên cứu lí thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm, luận án xây dựng

được khung lí thuyết và đã đưa ra được mô hình nghiên cứu nhằm phân tích tác động của

con cái di cư nội địa lên đời sống NCT Việt Nam một cách toàn diện về cả ba khía cạnh kinh tế, sức khỏe và xã hội. Cụ thể, con cái di cư tác động lên đời sống kinh tế của NCT ở các khía cạnh giảm nghèo cũng như vấn đề bất bình đẳng về thu nhập. Liên quan đến khía

cạnh sức khỏe, luận án nghiên cứu tác động của con cái di cư nội địa lên sức khỏe thể chất và tinh thần của NCT. Ở khía cạnh đời sống xã hội của NCT, luận án phân tích tác động

của con cái di cư nội địa lên vấn đề tham gia các tổ chức xã hội của NCT và vấn đè tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức xã hội của NCT.

Thứ ba, luận án đã tổng hợp phân tích thực trạng về di cư nội địa, đặc điểm của NCT Việt Nam cũng như thực trạng đời sống kinh tế, sức khỏe và xã hội của NCT

Việt Nam khi con cái di cư nội địa.

106

Thứ tư, luận án sử dụng phương pháp phân tích định lượng thông qua việc ứng dụng mô hình hồi qui logistic và đưa ra kết quả cho thấy rằng việc con cái di cư có tác động tích cực lên đời sống kinh tế và xã hội của NCT nhưng chưa tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa sức khoẻ thể chất và tinh thần của NCT và con cái di cư nội địa.

Cuối cùng, luận án đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đời sống cho NCT, đặc biệt là NCT có con di cư. Các giải pháp bao gồm một số giải pháp nhằm cải thiện đời sống kinh tế cho NCT như: việc tạo điều kiện thuận lợi để người di cư có việc làm và thu nhập tốt, tạo điều kiện để NCT có việc làm và có chính sách an sinh tốt hơn cho NCT. Một số giải pháp nhằm cải thiện sức khỏe cho NCT bao gồm: việc nâng cao ý thức chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người dân ở mọi lứa tuổi để đảm bảo cho tuổi già có sức khỏe tốt, vấn đề phát hiện, kiểm soát các bệnh mãn tính cho người dân, đặc biệt là NCT… Các giải pháp nhằm nâng cao đời sống xã hội của NCT như tạo điều kiện tốt hơn để NCT, đặc biệt là NCT gặp hoàn cảnh khó khăn về kinh tế được tham gia các tổ chức xã hội hay tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng; cần tạo điều kiện tốt hơn để phụ nữ cao tuổi được tham gia các tổ chức xã hội nhằm nâng cao vị thế cho người phụ nữ trong gia đình và xã hội.

2. Địn ƣớn n ên ứu t ếp t eo

Ngày nay, trong bối cảnh già hóa dân số đang diễn ra nhanh ở Việt Nam, cùng với dòng lao động di cư ồ ạt từ nông thôn ra thành thị và các khu đô thị kiếm sống đã tác động không nhỏ tới đời sống NCT Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề tác động của người di cư nội địa lên đời sống của NCT sẽ đầy đủ và toàn diện hơn khi có các nghiên cứu tiếp theo nhằm làm rõ được các vấn đề sau:

Đối với khía cạnh kinh tế: Việc đánh giá tác động của di cư nội địa tới giảm nghèo và vấn đề bình đẳng trong phân phối thu nhập của NCT trong các hộ gia đình có người di cư nội địa nhận được tiền gửi sẽ rõ hơn khi có được thông tin liên quan đến việc phân bổ khoản tiền gửi cho các thành viên trong hộ gia đình. Ngoài ra, những tác động về khía cạnh kinh tế mới chỉ dừng lại ở đánh giá cho năm 2012 vì hạn chế về mặt số liệu liên quan đến tiền gửi về từ di cư nội địa ở các cuộc khảo sát VHLSS của các năm 2014 và 2016 nên chưa thấy được xu thế tác động rõ ràng của di cư nội địa lên đời sống kinh tế của NCT Việt Nam. Vì vậy, đây là những khoảng trống để phát triển các nghiên cứu tiếp theo nhằm nghiên cứu tác động của di cư nội địa lên đời sống cá nhân NCT Việt Nam theo thời gian.

Đối với các vấn đề về sức khỏe, vì hạn chế về mặt dữ liệu nghiên cứu nên luận án chưa tìm ra được bằng chứng để chứng minh tác động của con cái di cư nội địa lên các khía cạnh sức khoẻ thể chất và tinh thần của NCT có con di cư nội địa. Đây cũng là một khoảng trống để các nghiên cứu tiếp theo nghiên cứu bổ sung tác động của di cư nội địa lên khía cạnh sức khỏe về thể chất và tinh thần của NCT.

107

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ Đ CÔNG BỐ

1. Trần Thị Trúc (2016), “Đời sống xã hội của người cao tuổi Việt Nam khi con cái

di cư”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 29 (2016), tr. 61-63.

2. Nguyen Van Cong and Tran Thi Truc (2016), “The impact of Domestic remittances on left-behind older people in Vietnam” Journal of Economics & Development, Vol. 18 (2016), pp. 30-40.

3. Tran Thi Truc (2017), “The impact of internal migration on the social aspects of the elderly left behind of Vietnam”, International Research Journal, No. 04 (58)

2017, pp. 134-139.

4. Tran Thi Truc (2017), “Internal mobility children and the factors impact on the health of the elderly left behind in Vietnam”, International Journal of Research

in Economics and Social Sciences, Vol.7, July 2017. pp. 203-220.

5. Tran Thi Truc (2017), "The impact of migration children on the health of the left behind", Omega Science, pp. 27-33. ULR: http://os- elderly

russia.com/SBORNIKI/KON-166-1.pdf

108

DANH MỤC T I LIỆU THAM KHẢO

1. Amar Iqbal Anwar and Mazhar Yaseen Mughan (2012), “Motives to remit: some mocroeconomic evidence from Pakistan”, Economic Bulletin. Vol. 32. pp. 574-585.

2. Andrea Gallina (2007), “Migration and development linkages in Ecuardo”.

Federico Caffe Center research reports.

3. Anna Lindley (2008), “Conflict-induced migration and remittances: Exploring

conceptual frameworks”, Working paper series, No47.

4. Antman M. Francisca (2010), Elderly care and intrafamily resource allocation

when children migrate.

5. Antman M. Francisca (2011), How does child migration affect the health of

elderly parents left behind? Evidence from Mexico.

6. Antman M. Francisca (2012), The impact of migration on family left behind. IZA

DP. No. 6374.

7. Antman M. Francisca (2013), How Does International Migration A ect the

Health of Elderly Parents Left Behind? Evidence from Mexico, Working Paper.

8. Arber, Sara and Ginn (1991), Gender and later life: A sociological analysis of

resources and constraints.

9. Armando Barrientos (2005), Non-contributory pensions and poverty reduction in

Brazil and South Africa.

10. Baozhen Luo (2009), The Impact of Rural-Urban Migration on Familial Elder in Rural China, Dissertation, Georgia State University. ULR: Care

http://scholarworks.gsu.edu/sociology_diss/38.

11. Barbieri Magali (2006), Doi Moi and the Elderly: Intergenerational support under the strain of reforms. Paper prepared for presentation at the 2006

Population of America Association Meeting, Los Angeles.

12. BEN JELILI Riadh (1998), Rural-urban migration: on the Harris-Todaro model.

13. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA) (2016), “Báo cáo đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Luật Người cao tuổi”.

14. Brauw Alan De và Tomoko Harigaya (2007), „Seasonal Migration and Improving Living Standards in Vietnam‟, American Journal of Agricultural Economics, Vol. 89, No. 2, pp. 430-447.

15. Bussarawan Teerawachitchainan (2010), "Health perception and reporting among the Vietnamese elderly: Implication for understading gender differences

109

in old-age health outcomes”.

16. Cameron and Cobb-Clark (2005), Do coresidency with and financial transfers from children reduce the need for elderly parents to work in developing

countries?. The Australian National University. Center for Economic Policy

Research. DP No. 508.

17. Carla Cachadinha., et al (2011), Social participation of community living older

persons: importance, determinants and opportunities, Conference paper 2011.

18. Chun-Wing Tse (2013), „Migration and Health outcomes of left-behind elderly in Rural China.‟ Electronic copy available at: http://ssrn.com/abstract=2440403.

19. Đặng Nguyên Anh (1997), “Về vai trò của di cư Nông thôn-đô thị trong sự

nghiệp phát triển nông thôn hiện nay”. Xã hội học số 4 (60), 1997.

20. Diana Cheianu-Andrei. et al (2011), Specific needs of children and elderly left

behind as a consequence of migration.

21. Dự án VIE022 và nhóm nghiên cứu (2012), Điều tra về người cao tuổi Việt Nam,

năm 2011: Các kết quả chủ yếu.

22. Erika Arenas and Jenjira Yahirun (2011), “Left Behind: The Effects of

Offspring‟s Migration on Parental Mental Health in Mexico”.

23. Fan C. Simon, and Oded Stark (2008), „Rural-to-urban migration, human capital, and agglomeration‟, Journal of Economic Behavior & Organization 68, - pp. 234–247.

24. Fields S. Gary (1975), “Rural - urban migration, urban unemployment and underemployment and job search activity in LDCs”, Journal of Development

Economics 2 , pp. 165-137. Q North-Holland Publishing Company.

25. Friedman, J., Knodel, J., Bui The Cuong, and Truong Si Anh (2002), “Gender and Intergenerational Exchange in Vietnam”. PSC Research Report No.02-529, Population Studies Center (PSC), University of Michigan.

26. G. Clare Wenger., et al (2003), Families and migration: older people from South

Asi”. South Asia Comparative Report.

27. Gail Grant (2009), The impact of adult children‟s migration on wellbeing in later life: voices from Moldova, Center for Research on ageing, School of Social Science, University of Southampton, UK. CRA Discussion Paper No.0902.

28. Gautam Tika Ram (1999), “Migration and the problem of old age people in

110

Nepal.” Dhaulagiri Journal of Sociology and Anthropology Vol.2. pp. 145-160.

29. Giang Thanh Long and Hoang Chinh Thon (2013), “Cash transfer for the most vulnerable and poor elderly people in Vietnam: an ex-ante impact evaluation”.

Journal of Economics and Development Vol. 15, No.3, December 2013, pp. 22 – 35.

30. Giang Thanh Long and Wade D. Pfau (2007), The elderly population in Vietnam

during Economic Transformation: an overview, Munich Personal RePEc Archive.

31. Giang Thanh Long and Wade D. Pfau (2008), The vulnerability of the ederly households to poverty: Determinants and Policy implication for Vietnam,

Vietnam development forum.

32. Giang Thanh Long and Wade D. Pfau (2009a), “Aging, Poverty and the role of a

social pension in Vietnam”. Development and change. Vol. 40. P. 333-360.

33. Harris R. John and Todaro P. Michael (1970), “Migration, unemployment and development: a two-sector analysis”. American Economic Review, vol. 60, no.1,

pp.126-142.

34. Helena R. Swanson-Nystrom (2010), The role of social protection programs in

remittance-centered development policy: A case study of Morocco.

35. HelpAge International and UNICEFT (2010), Staying behind: the effects of

migration on older people and children in Moldova.

36. Hillel Rapoport and Frederic Docquier (2005), “The Economics of migrants‟

remittances.” IZA DP. No. 1531.

37. Hongqin Chang và cộng sự (2011), "Labor migration and time use patterns of the left-behind children and elderly in rural China". World development Vol. 39,

No.12, pp 2199-2210.

38. Jean-Marie Cour (2001), Di dân, đô thị hoá và phát triển nông thôn tại Việt Nam,

Paris: Bộ Ngoại Giao Pháp, ISTED.

39. Jessaine Soraya C. Sugui, et al (2007), Oversea workers, remittances and household welfare in the Phillipines. 6th PEP Reseach network general meeting. Lima Peru.

40. Jessica Hagen-Zanker and Melissa Siegel (2008), A critical discussion of the

motivations to remit in Albania and Moldova.

41. John Gibson., et al (2009), The Impacts of International Migration on Remaining Household Members: Omnibus Results from a Migration Lottery Program.

111

42. John Giles and Ren Mu (2006), “Elder Parent Health and the migration decision

of Aldult children: Evidence from rural China”, IZA DP No. 2333.

43. John Knodel., et al. (2007), “Migration and intergenerational solidarity: Evidence

from Rural Thailand”. UNFPA Thailand. Papers in population aging No.2.

44. Junhui Qian (2014), Dealing with endogeneity. ULR:

https://www.google.com.vn/search?q=how+to+treat+endogeneity&oq=how+to+trea t+the+endog&aqs=chrome.2.69i57j0l2.19401j0j4&sourceid=chrome&ie=UTF-8.

45. Kevin Honglin Zhang, and Shunfeng Song (2003), “Rural-urban migration and urbanization in China: evidence from time-series and cross-section analysis”,

China Economic Review, Vol. 14, pp. 386-400.

46. Khuon Chandore (2010), Impact of migration on older age parents: Preliminary

findings from two communes of Battambang province, Cambodia.

47. Knodel J., and Truong Si Anh (2002), “Vietnam‟s Older Population: The View from Census”. PSC Research Report No.02-523, Population Studies Center

(PSC), Institute for Social Research, University of Michigan.

48. Lê Bạch Dương và Nguyễn Thanh Liêm (2011), Từ nông thôn ra thành phố: tác

động kinh tế-xã hội của di cư ở Việt Nam. Nhà xuất bản Lao động.

49. Lewis W.A. (1954), “Economic development with unlimited supplies of labour”.

The Machester School. Vol 22, issue 2, Version of Record online: 21 APR 2008

50. Long T. Giang and Wade D. Pfau (2009), “Vulnerability of Vietnamese elderly to poverty: determinants and policy implications”, Asian Economic Journal, vol. 23.

No. 4, 419-437.

51. Lucas and Stark (1988), “Motivations to remit: Evidence from Botswana”.

Journal of Political Economy. Vol. 93. Pp. 901-918.

52. Lucas, Robert E.B (1987), “Emigration to South Africa‟s mines”, American

Economic Review, 77(3): 313-30.

53. Lưu Bích Ngọc (2016), Chuyên khảo Di cư trong nước và đến các thành phố lớn của Việt Nam giai đoạn 2004-2014 và dự báo tới 2025, Nhà xuất bản Đại học

Kinh tế Quốc dân.

54. Manuel Orozco (2005), International financial flows and worker remittances:

112

best practices.

55. Marcus Bohme, et al (2013), Alone but Better Off? Adult children migration and Health of Elderly parents in Moldova. Kiel working papers. Kiel Institute for the

World Economy.

56. Marian S. Samson (2011), An analysis of remittance tendencies of Phillipine

migrant workers.

57. Maricar Paz M. Garde., et al (2006), The implications of remittances to Filipino households‟ labor participation, welfare and inequality. PMMA Network

Session Paper.

58. Matcha Farrant., et al (2006), Migration and development: Opportunities and challenges for policymakers, International Organization for Migration. No. 22.

59. Melanie A. Abas, et al (2008), “Rural-urban migration and depression in aging family members left behind”. The Bristish Journal of Psychiatry. Page. 54-60.

60. Nguyễn Đình Cử và Phạm Đại Đồng (2014), Di cư nông thôn – đô thị ở Việt chỉ: http:// lại.. Ngày 20/11/2014 Nam: đôi điều bàn tại địa

www.khoathongke.neu.edu.vn/ViewNCKH.aspx?ID=43

61. Nguyễn Đình Long, Nguyễn Thị Minh Phượng (2013), “Lao động nông thôn di cư ra thành thị: thực trạng và khuyến nghị”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 193

tháng 7/2013.

62. Nguyen Viet Cuong (2008), Impact of international and internal remittances on household welfare: Evidence from Vietnam. MPRA paper No. 25770, posted 10.

October 2010.

63. Nguyen Viet Cuong (2014), “Impact evaluation of development programes and policies: Experiences from Vietnam”. MPRA paper No. 60919, posted 26.

December 2014.

64. Nguyen Viet Cuong, et al (2011) “The impact of international remittances on income, work efforts, poverty and inequality: Evidence from Vietnam”. MPRA

paper No. 50313, posted 01 October 2013.

65. Peter Loebach (2011), Crossing border, crossing seas: the Phillipines and

continuities in migration.

66. Pfau. W. D. and Giang L. T (2009b), “Determinants and impacts of international remittances on household welfare in Vietnam”. International social science

113

journal. Vol. 60. pp. 431-443.

67. Pfau. W. D. and Giang L. T (2010), “Remittances, living arrangement and the Welfare of the Elderly in Vietnam”. Asian and Pacific Migration Journal, Vol.

19, No.4, 2010.

68. Phan Diep and Coxhead Ian (2010), “Inter-provincial migration and inequality during Vietnam's transition”, Journal of Development Economics 91, pp.100– 112. URL: http://www.aae.wisc.edu/pubs/sps/pdf/stpap507.pdf

69. Pratikshya Bohra-Mishra (2011), “Motivation to remit: evidence from Chitwan,

Nepal”.

70. Ramesh., et al (2011), Impact of migration children on health and health care-

seeking behavior of elderly left behind.

71. Randall Kuhn., et al (2011), “The effects of Children‟s migration on Elderly Kin‟s Health: A counterfactual approach”, Demography, 2011, No48. – pp.183–209.

72. Renard Robrecht (1984), “Rural-to-urban migration and the shadow wage in

LDCs”, European Economic Review 24, pp.401-407.

73. Ronald R. Kumar (2010), Do remittances matter for economic growth of the

Phillipines? An investigation using Bound test analysis.

74. Sang Le Thanh (2007), Urban Migration in Pre- and Post-Reform Viet Nam: Macro Patterns and Determinants of Urbanward Migration, the 1984-1989 and

1994-1999 Periods, Fuzhou, Fujian, China: Fujian Normal University, pp.33.

75. Sharon Wray and Michelle L Bartholomew (2006), “Older African Caribbean women: the influence of migration on experience of health and well-being in later life”, Research and policy planning 24 (2): 103-119. 2006 SSRG.

76. Sochanny Hak., et al (2011), Consequence of internal and cross-border migration of adult children for their older parents in Cambodia: a Micro level analysis. Population study center. University of Michigan. Institute for social

research. Research report.

77. Tobias Stohr (2013), Intra-family migration decision and elderly left behind, Kiel

working papers.

78. Todaro P. Michael (1969), “A model of labor migration and urban unemployment in less developed countries”. The American economic review. Vol 59. Pp 138-148.

114

79. Tổng cục Thống kê và UNFPA (2016), Điều tra Di cư nội địa quốc gia 2015:

Các kết quả chủ yếu, Nhà xuất bản Thông tấn.

80. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2011), Chuyên khảo về di cư và đô thị hóa: thực

trạng, xu hướng và những khác biệt. 2011. ULR:

www.gso.gov.vn/Modules/Doc_Download.aspx?DocID=13313.

81. Tổng cục Thống kê Việt Nam và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) (2016), Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2014: Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam

ULR:http://vietnam.unfpa.org/vi/publications/di-c%C6%B0-v%C3%A0-%C4%91 %C3%B4-th%E1%BB%8B-h%C3%B3a-%E1%BB%9F-vi%E1%BB%87t-nam

82. Tổng cục Thống kê Việt Nam và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) 2005), Điều tra Di cư Việt Nam năm 2004: Di dân và Sức khỏe. ULR: http://

vietnam.unfpa.org/sites/asiapacific/files/pub-pdf/DidanvaSuckhoe_

GSO1206_v.pdf

83. Truong Si Anh, Bui The Cuong, Daniel Goodkind, and John Knodel

(1997), “Living Arrangements, Patrilinelity, and Sources of Support among

Elderly Vietnamese”. Asia-Pacific Population Journal, Vol.12, No. 4,

December 1997: 69-88.

84. UNFPA (2011), Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam: Thực trạng, dự

báo và một số khuyến nghị chính sách.

85. UNFPA and HelpAge International (2012), Aging in Twenty-first Century: A Celebration and A Challenge. ULR: https://www.unfpa.org/sites/default/files/pub-

pdf/Ageing%20report.pdf.

86. United Nations Development Programme (UNDP) (2009), Human Development

Report 2009, Overcoming barriers: Human mobility and development.

87. United Nations Vietnam (2010), Di cư trong nước và phát triển kinh tế xã hội ở

Việt Nam: Kêu gọi hành động.

88. Uỷ ban về Các vấn đề xã hội của Quốc Hội (2015), Già hoá dân số và chăm sóc

người cao tuổi dựa cào cộng đồng ở Việt Nam. Nhà xuất bản Hồng Đức.

89. Victoria A. Velkoff. (2001), Living arrangement and well-being of the older

population: future research directions. ULR:

http://www.un.org/esa/population/publications/bulletin42_43/velkoff.pdf

90. Wei Lu (2011), Left-behind children in rural China: Research based on the use

115

of qualitative methods in Inner Mogolia.

91. Williamson, J. G (1988), “Migration and urbanization”, In H. Chenery, & T. N. (Eds.), Amsterdam: Elsevier- North-Holland”, Handbook of Srinivasan

development economics, vol.I, - pp. 425- 465.

92. Xiang Biao (2006), “How far are the left-behind left behind? A preliminary study in Rural China”. Population, Space and Place, pp.179-191. Published online 7 December 2006 in Wiley InterScience.

93. Zhang Heather Xiaoquan, Mick. P Kelly, Catherine Locke, Alexandra Winkles, and Neil. W Adger (2001), „Migration in a transitional economy: Beyond the planned and spontaneous dichotomy in Vietnam‟, CSERGE

Working Paper GEC 01-01.

94. Quốc hội (2009), Luật Người Cao Tuổi Việt Nam, truy cập 12 tháng 5 năm 2018

từ: https://vndoc.com/luat-nguoi-cao-tuoi-so-39-2009-qh12/download

116

PHỤ LỤC

P ụ lụ 1. Câu ỏ l ên qu n đến n ƣờ ƣ nộ đị và t ền ử về từ ƣ nộ đị o á ộ đìn tron uộ K ảo sát

mứ sốn ộ đìn V ệt N m(VHLSS) năm 2012 - Mụ 1B_4A2_1B -12.

117

118

Phụ lục 2. Các Mục hỏi liên quan đến người cao tuổi Việt Nam được trích trong Khảo sát Người cao tuổi Việt Nam (VNAS) năm 2011

119

120

121

122

123

124

125