intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu chuyên đề 13: Kỹ năng xây dựng và thực hiện các dự án, hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc gắn với phát triển du lịch (Lưu hành nội bộ - Nhóm Cán bộ)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

2
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kỹ năng xây dựng và thực hiện các dự án, hoạt động bảo tồn và phát huy bẳn sắc văn hóa các dân tộc gắn với phát triên du lịch các nội dung cơ bản được trình bày như sau : Các nội dung xây dựng Thiết chế văn hóa cơ sở; Các nội dung bảo tồn và phát triển văn hóa bẳn sắc các dân tộc; Các nội dung phát triển du lịch cộng đồng; Các nội dung qui hoạch tổng thể phát triển du lịch cộng đồng ở địa phương theo từng giai đoạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu chuyên đề 13: Kỹ năng xây dựng và thực hiện các dự án, hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc gắn với phát triển du lịch (Lưu hành nội bộ - Nhóm Cán bộ)

  1. ỦY BAN DÂN TỘC TÀI LIỆU CHUYÊN ĐỀ 13 KỸ NĂNG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN CÁC DỰ ÁN, HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH (Lưu hành nội bộ - Nhóm Cán bộ) Hà Nội 2023
  2. LỜI NÓI ĐẦU Nhằm phát huy hiệu quả nguồn lực đầu tư của Nhà nước, xã hội và cộng đồng vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch cộng đồng nhằm thu hút du khách tạo điểm nhấn để phát triển du lịch, tăng nguồn thu nhập cho người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Kỹ năng xây dựng và thực hiện các dự án, hoạt động bảo tồn và phát huy bẳn sắc văn hóa các dân tộc gắn với phát triên du lịch các nội dung cơ bản được trình bày như sau : Phần 1: Các nội dung xây dựng Thiết chế văn hóa cơ sở (Gồm 7 nội dung). Phần 2: Các nội dung bảo tồn và phát triển văn hóa bẳn sắc các dân tộc (Gồm 10 nội dung). Phần 3: Các nội dung phát triển du lịch cộng đồng (Gồm 5 nội dung). Phần 4: Các nội dung qui hoạch tổng thể phát triển du lịch cộng đồng ở địa phương theo từng giai đoạn (Gồm 6 nội dung trong thực hiện các bước quy hoạch phát triển du lịch cộng đồng). Phần 5: Các câu hỏi trao đổi, thảo luận và giải đáp. Xuất phát từ 5 nội dung, phạm vi rộng nên tài liệu này chỉ mang tính chất định hướng tham khảo và chắc chắn còn nhiều vấn đề cần được bổ sung. Do vậy, trong quá trình biên soạn, biên tập chuyên đề, các chuyên gia, giảng viên ở các cấp cần nghiên cứu, chắt lọc, cập nhật, bổ sung thông tin chung ở mỗi địa phương, cơ sở, đồng thời, bổ sung thông tin về các lĩnh vực liên quan trên địa bàn nơi nghiên cứu, công tác và học tâp, kết hợp với hình ảnh, video minh họa với các ví dụ thực tiễn,... để phù hợp với từng nhóm đối tượng, địa bàn, quy mô, thời lượng và hình thức tổ chức của mỗi lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn. Trân trọng cảm ơn! ỦY BAN DÂN TỘC
  3. MỤC LỤC I. XÂY DỰNG THIẾT CHẾ VĂN HÓA CƠ SỞ ............................................. 1 1.1. Khái niệm ....................................................................................................... 1 1.2. Sự cần thiết phải xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở ....................................... 6 1.3. Định hướng, kế hoạch xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở .............................. 6 1.4. Kỹ năng triển khai thực hiện xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở .................... 9 1.5. Giám sát, đánh giá ........................................................................................ 15 1.6. Giới thiệu các mô hình tiêu biểu và bài học kinh nghiệm của các địa phương . 17 1.7. Nhân rộng mô hình xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở................................. 29 II. BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA BẢN SẮC CÁC DÂN TỘC .. 31 2.1. Cơ sở pháp lý................................................................................................ 31 2.2. Sự cần thiết phải phát triển văn hóa các dân tộc .......................................... 32 2.3. Quan điểm, định hướng về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc . 41 2.4. Định hướng, kế hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc ở địa phương…45 2.5. Kỹ năng thực hiện bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc trên địa bàn ..... 48 2.6. Giám sát, đánh giá ........................................................................................ 51 2.7. Kỹ năng tâp hợp và vận động quần chúng thông qua các mô hình tiêu biểu, bài học kinh nghiệm các địa phương .................................................................. 52 2.8. Nhân rộng mô hình....................................................................................... 56 2.9. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số....................................................................................... 58 2.10. Kỹ năng quản lý nhà nước về hoạt động bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số về văn hóa các dân tộc thiểu số................................................. 64 III. PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG .......................................................... 69 3.1. Cơ sở pháp lý................................................................................................ 69 3.2. Sự cần thiết xây dựng và phát triển du lịch cộng đông ................................ 69 IV. QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG Ở ĐỊA PHƯƠNG THEO TỪNG GIAI ĐOẠN ........................................................... 80 V. CÁC CÂU HỎI, TRAO ĐỔI, THẢO LUẬN VÀ GIẢI ĐÁP ...................... 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 82
  4. DANH MỤC VIẾT TẮT p Bộ VHTTDL Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch BV&PH Bảo vệ và phát huy DTTS Dân tộc thiểu số DLCĐ Du lịch cộng đồng DSVH Di sản văn hóa KT-XH Kinh tế - Xã hội NNND Nghệ nhân nhân dân NNUT Nghệ nhân ưu tú NVH Nhà văn hóa QLNN Quản lý nhà nước Sở VHTTDL Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch UBND Ủy ban nhân dân
  5. I. XÂY DỰNG THIẾT CHẾ VĂN HÓA CƠ SỞ 1.1. Khái niệm 1.1.1. Thiết chế văn hóa - Thiết chế văn hóa (Cultural institutions) hay còn gọi là tổ chức văn hóa, là một tổ chức trong một nền văn hóa/tiểu văn hóa hoạt động để bảo tồn hoặc phát huy văn hóa. Thuật ngữ này được sử dụng đặc biệt cho các tổ chức công cộng và từ thiện, phạm vi ý nghĩa của nó có thể rất rộng. Ví dụ, về các thiết chế văn hóa trong xã hội hiện đại là viện bảo tàng, thư viện và kho lưu trữ, nhà thờ, phòng trưng bày nghệ thuật, liên kết đến nguồn. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thiết chế văn hóa là chỉnh thể văn hóa hội tụ đầy đủ các yếu tố: cơ sở vật chất, bộ máy tổ chức, nhân sự, quy chế hoạt động, nguồn kinh phí… - Ví dụ về các tổ chức văn hóa là bảo tàng, thư viện, xã hội lịch sử hoặc thực vật, và các trung tâm văn hóa cộng đồng. Các thiết chế văn hóa đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì, bảo tồn, phục hồi, giải thích và lập hồ sơ về di sản và tạo điều kiện thuận lợi cho sự tương tác và gắn bó của công dân với di sản. Như vậy, các thiết chế văn hóa là những tác nhân quan trọng trong việc thúc đẩy sự hiểu biết văn hóa, đối thoại giữa các nền văn hóa và sự đa dạng văn hóa, cũng như trong việc truyền tải văn hóa qua các thế hệ. - Từ đó, chúng ta có thể kết luận rằng: Khi lưu ý thể chế văn hóa là gì, chúng ta hầu như chỉ thấy khái niệm ràng buộc với các thực thể vật chất đang hoạt động để đại diện hoặc khôi phục nghệ thuật và thường là nghệ thuật thị giác. Quan điểm này không cho phép nhiều pháp nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, chẳng hạn như các nhóm kịch nhỏ, các nhà sản xuất phim độc lập, các công ty sản xuất quy mô vừa và nhỏ trên khắp lĩnh vực này, tạp chí sân khấu, diễn viên … danh sách tiếp tục và trên. - Nếu một người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, người ta thường sáng tạo hoặc giao dịch với nghệ thuật và để làm được điều đó, họ thường mở một loại hình pháp nhân hợp pháp. Thông thường nhất, những người làm công tác văn hóa và những người hành nghề văn hóa này là lao động tự do và họ làm việc theo cách để có thể tiếp tục thực hiện các hành động mà trên thực tế là công việc của các tổ chức văn hóa quy mô lớn - những người đã nghĩ đến khi nói về định nghĩa của thuật ngữ cho đến bây giờ. 1
  6. Một thiết chế văn hóa cho các mục đích của công việc này phải được định nghĩa là được thành lập hợp pháp, pháp nhân thế tục phục vụ để sản xuất, đào sâu về mặt học thuật hoặc quảng bá một loại hình nghệ thuật, một tác phẩm nghệ thuật, một nghệ sĩ hoặc một tập thể nghệ thuật. - Ví dụ về các tổ chức văn hóa là bảo tàng, thư viện, xã hội lịch sử hoặc thực vật và các trung tâm văn hóa cộng đồng. Các thiết chế văn hóa đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì, bảo tồn, phục hồi, giải thích và lập hồ sơ về di sản, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tương tác và gắn bó của công dân với di sản. Như vậy, các thiết chế văn hóa là những tác nhân quan trọng trong việc thúc đẩy sự hiểu biết văn hóa, đối thoại giữa các nền văn hóa và sự đa dạng văn hóa, cũng như trong việc truyền tải văn hóa qua các thế hệ. - Lịch sử ra đời: Cùng với sự phát triển của nghệ thuật thị giác, sự ra đời của các bộ sưu tập nghệ thuật và phòng trưng bày nghệ thuật. Các phòng trưng bày quốc gia Canada ở Ottawa, có từ năm 1880, không chỉ bao gồm bộ sưu tập nghệ thuật phong phú và quan trọng nhất của người Canada mà còn có các bộ sưu tập được xây dựng dọc theo các tuyến quốc tế để giúp truy tìm nguồn gốc của truyền thống nghệ thuật Canada. - Nó cũng luân chuyển các cuộc triển lãm đến vài trăm trung tâm trong nước mỗi năm. Ngoài ra, Toronto, Montreal và Vancouver có các phòng trưng bày nghệ thuật công cộng lớn và nhiều hội đồng nghệ thuật và phòng trưng bày của trường đại học là nơi lưu giữ các bộ sưu tập quan trọng. Ví dụ, Đại học Toronto có một phòng trưng bày rộng rãi trong khuôn viên trường để giới thiệu các bộ sưu tập đang mở rộng của mình. Đất nước này cũng có một hệ thống thư viện công cộng phát triển tốt, đặc biệt là kể từ khi bắt đầu phong trào “sách miễn phí cho tất cả mọi người” ở Ontario vào những năm 1880. Được thành lập vào năm 1953, Thư viện Quốc gia Canada ở Ottawa chứa các bản sao của mọi cuốn sách được xuất bản trong nước. - Nhiều Viện bảo tàng ở Canada trưng bày các hiện vật lịch sử của Canada. Một số Bảo tàng Quốc gia về các chủ đề cụ thể nằm ở Ottawa và nhiều thành phố, thị trấn có bảo tàng địa phương. Các Bảo tàng Hoàng gia Ontario ở Toronto, Bảo tàng lớn nhất của Canada, được khoảng một triệu người đến thăm hàng năm. Các tổ chức đáng chú ý khác bao gồm: Bảo tàng Hàng hải Đại Tây Dương ở Halifax, Nova Scotia; the Point à Callière (Bảo tàng Khảo cổ học và Lịch sử) ở Montreal; Bảo tàng Chiến tranh, nơi chứa bản tái tạo kích thước đầy đủ chiến hào trong Thế 2
  7. chiến thứ nhất, ở Ottawa; Bảo tàng tỉnh Newfoundland và Labrador, nơi trưng bày các cuộc triển lãm về người bản địa cổ đại và các cuộc thám hiểm của người Viking, đồng thời có các chi nhánh ở St. John’s, Grand Bank và Grand Falls – Windsor; Bảo tàng Nhân học tại Đại học British Columbia, nơi lưu giữ một bộ sưu tập hiện vật tuyệt vời của các dân tộc bản địa của Canada; Bảo tàng con người và thiên nhiên, nơi có các cuộc triển lãm về các quốc gia đầu tiên của Đồng bằng, ở Winnipeg. Ngoài ra còn có nhiều công viên và di tích lịch sử ở Canada, tham vọng nhất là địa điểm rộng 20 dặm vuông (52 km²) xung quanh pháo đài được xây dựng lại của Louisbourg trên Đảo Cape Breton, Nova Scotia. 1.1.2. Thiết chế văn hóa cơ sở Thiết chế văn hóa cơ sở chính là hệ thống thiết chế văn hóa ở cơ sở (cấp xã, phường, cấp cuối cùng trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay). Trong các yếu tố để xây dựng và nâng cao đời sống văn hóa nông thôn mới thì hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở có vai trò quan trọng. Ðó là hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị để bảo đảm cho các hoạt động văn hóa có thể diễn ra, nhằm phục vụ nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của Nhân dân. Thiết chế văn hóa cơ sở, bao gồm: các cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động; tổ chức bộ máy cán bộ và các nội dung công tác để xây dựng đời sống văn hóa cơ sở; đáp ứng nhu cầu của Nhân dân về hưởng thụ văn hóa tinh thần, là nơi sáng tạo và bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc. Trước hết, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở đáp ứng nhu cầu sáng tạo, học tập, trao đổi, hưởng thụ, gìn giữ văn hóa, luyện tập thể dục thể thao của các tầng lớp Nhân dân. Cơ sở vật chất của hệ thống thiết chế văn hóa tạo điều kiện thuận lợi để Nhân dân thường xuyên đến sinh hoạt, trao đổi thông tin, rèn luyện thân thể để có sức khỏe làm việc, lao động, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, học hỏi lẫn nhau và thắt chặt thêm tình đoàn kết. Những điều này sẽ không có được nếu hệ thống thiết chế văn hóa yếu kém, thiếu thốn, lạc hậu, tạm bợ. Thực tế đã cho thấy, nhiều giá trị văn hóa quý báu của dân tộc như hát xoan, hát bội, đàn ca tài tử, quan họ, đã được giữ gìn, nuôi dưỡng, phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác từ những nhà văn hóa, trung tâm văn hóa giản dị của xã, thôn,… mà không nhất thiết phải là ở các nhà hát, sân khấu lớn với trang thiết bị hiện đại. Thứ hai, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở giữ vai trò nòng cốt trong tổ chức các hoạt động tuyên truyền nhiệm vụ chính trị, xã hội ở địa phương; là cơ sở vật chất, công cụ trực tiếp và đắc lực của cấp ủy, chính quyền trong lãnh đạo quần 3
  8. chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Các quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước có đến được với đại đa số quần chúng Nhân dân hay không một phần quan trọng là nhờ ở hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở. Đây cũng là nơi để Nhân dân “tăng thêm sức đề kháng” đối với những luận điệu sai trái, chống phá cách mạng, chống phá Đảng và Nhà nước… trong tình hình nước ta vẫn phải cảnh giác, đấu tranh với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Thứ ba, các nhà văn hóa, trung tâm văn hóa chính là nơi để nâng cao đời sống tinh thần và hiểu biết về pháp luật của Nhân dân, từ đó, giảm thiểu các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, trộm cắp, vi phạm trật tự an toàn giao thông, vi phạm cảnh quan đô thị,… Các buổi sinh hoạt văn hóa ở cơ sở cũng chính là môi trường thuận lợi để Nhân dân mạnh dạn đóng góp ý kiến với các cấp ủy Đảng, chính quyền, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Mỗi công dân tốt, mỗi gia đình văn hóa ngay tại địa phương chính là một viên gạch để xây dựng ngôi nhà Tổ quốc. Điều này đã, đang và sẽ được chứng minh từ hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa khi bà con Nhân dân chủ yếu chỉ gần gũi với già làng, trưởng bản, cán bộ xã,… Thứ tư, các thiết chế văn hóa cơ sở đang góp phần phát triển xã hội một cách bền vững. Cơ sở vật chất của hệ thống thiết chế văn hóa là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa phù hợp với tư tưởng, chuẩn mực đạo đức, lối sống và nhất là phong tục, tập quán của từng vùng, miền, dân tộc,… Một xã hội muốn phát triển bền vững đòi hỏi không chỉ có kinh tế vững mạnh mà còn phải đặc biệt quan tâm đến văn hóa. Con người không chỉ có nhu cầu ăn, mặc, đi lại,… mà đang ngày càng hướng tới lối sống lành mạnh, chất lượng cuộc sống tốt hơn. Các thiết chế văn hóa hiện có đang phát huy tác dụng này. Thứ năm, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở có ý nghĩa thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là trong việc xây dựng nông thôn mới. Trong 19 tiêu chí để được công nhận là nông thôn mới có tiêu chí: Nhà văn hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; tỉ lệ thôn có nhà văn hóa và khu thể thao thôn đạt chuẩn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là 100%. Tiêu chí này, một mặt góp phần xây dựng nông thôn mới; mặt khác thì tạo điều kiện để người dân nông thôn nâng cao mức thụ hưởng văn hóa, khắc phục tình trạng chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa của Nhân dân giữa thành thị và nông thôn. Thiết chế văn hóa của nông thôn hiện đại không chỉ có cây đa, bến nước, sân đình mà còn có nhiều cơ sở vật chất khác cũng như đội ngũ cán bộ 4
  9. có tâm, có tầm và nhất là tha thiết với di sản văn hóa của dân tộc. Trong một chừng mực nào đó, Nhân dân địa phương cũng chính là chủ thể và đồng thời là khách thể của công cuộc xây dựng các thiết chế văn hóa. Thứ sáu, xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa cơ sở là góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đề ra. Xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa các cấp trở thành một nhu cầu bức thiết, một đòi hỏi chính đáng của Nhân dân. Mỗi người dân, mỗi thôn, xóm,… là một minh chứng sống động, trực quan của bản sắc văn hóa dân tộc. Bản sắc văn hóa này chỉ có thể hiện hữu, phát triển mạnh mẽ và trường tồn trong điều kiện thiết chế văn hóa đầy đủ, vững mạnh, hoạt động hiệu quả. + Thứ bảy, đình, chùa, đền thờ, nhà thờ... cũng là những yếu tố của thiết chế văn hóa truyền thống, các giá trị đạo đức, giá trị truyền thống của dân tộc được thiết chế văn hóa này bảo tồn, phát huy, thậm chí qua các mô hình hoạt động sinh động thì thiết chế văn hóa truyền thống vẫn có thể hội nhập, phát huy tốt trong đời sống văn hóa hiện đại. Thứ tám, nói đến vai trò của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở không thể không kể đến sự cần thiết, tầm quan trọng của công tác quản lý thiết chế văn hóa. Công tác quản lý phải được tiến hành trên tinh thần dân chủ, xã hội hóa, lấy tư tưởng mỹ học Mác – LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm kim chỉ nam. Lực lượng cán bộ, cơ quan quản lý thiết chế văn hóa giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng, có đạo đức sẽ giúp định hướng và tổ chức các hoạt động văn hóa một cách sáng tạo, hiệu quả; đồng thời, đề xuất các cơ quan cấp trên giúp đỡ, tạo điều kiện phát huy tốt vai trò của các công trình thiết chế văn hóa trên phạm vi cả nước. Trong nhiều năm qua, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở trong cả nước đã được chú trọng đầu tư. Cơ sở vật chất ngày càng đầy đủ, đồng bộ. Phong trào xây dựng các thiết chế văn hóa, nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa thể thao cơ sở ngày càng được tiến hành rộng khắp. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã thu được nhiều thành tựu; ngày càng phát triển sâu rộng trên khắp các vùng, miền của đất nước; được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; được các ngành, các đoàn thể hưởng ứng; được các tầng lớp Nhân dân đồng tình thực hiện. Do đó, phong trào đã có tác động tích cực, sâu sắc, toàn diện đến nhiều lĩnh vực của đời sống, thực sự trở thành giải pháp quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về 5
  10. xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Cùng với điều này là phong trào “Người tốt việc tốt” đã góp phần tích cực vào việc hình thành nhân cách con người trong xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở đã tạo điều kiện để các tầng lớp Nhân dân được hưởng thụ và tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục – thể thao, là một trong những chủ trương, chính sách văn hóa lớn của Đảng và Nhà nước; cũng là một trong những nội dung trọng tâm của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. 1.2. Sự cần thiết phải xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở Để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở phục vụ công cuộc xây dựng đất nước và Nhân dân trong thời kỳ mới đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, như đầu tư kinh phí xây dựng, tổ chức hoạt động, trong đó có sự đầu tư của Nhà nước và đóng góp của Nhân dân, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao ở cơ sở gắn với mở rộng dịch vụ và thị trường; quy hoạch, đào tạo và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, quy chế đối với hoạt động văn hóa, thể thao cơ sở, tăng cường công tác quản lý nhà nước, công tác tuyên truyền vận động của ngành văn hóa, thể thao và du lịch; nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa thể thao cơ sở… Mỗi địa phương, cơ sở phải phát huy hiệu quả các thiết chế văn hóa, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho Nhân dân. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về văn hóa và nhiệm vụ phát triển văn hóa gắn liền với phát triển kinh tế, ổn định chính trị, an sinh xã hội. Các cấp quản lý và lãnh đạo chú trọng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tổ chức quản lý nhà văn hóa, trung tâm văn hóa… Phát huy tinh thần chủ động, tích cực, nỗ lực của người dân và vai trò tự quản của cộng đồng đối với sự nghiệp gìn giữ và phát triển văn hóa. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng các thiết chế văn hóa, kịp thời phát hiện, khắc phục những sai lệch, tiêu cực, có biện pháp giải quyết phù hợp; biểu dương, khen thưởng những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong công tác. 1.3. Định hướng, kế hoạch xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và có những chủ trương, chính sách để xây dựng đời sống văn hóa, trong đó có xây dựng phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở. 6
  11. Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở có vai trò, vị trí quan trọng trong công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao góp phần xây dựng đời sống văn hoá cơ sở và giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở thuộc các Bộ, ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang đã có những chuyển biến hoạt động tích cực, thực sự trở thành trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ, hạt nhân cho phong trào văn hóa, thể thao ở cơ sở, thu hút đông đảo Nhân dân đến vui chơi, giải trí, hưởng thụ và sáng tạo văn hóa. Hệ thống thiết chế đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của Đảng, Nhà nước; tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, thể thao, câu lạc bộ sở thích, các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu của người dân, các hoạt động đang từng bước được mở rộng đa dạng và phong phú, nội dung chương trình hoạt động ngày càng tinh, gọn, thiết thực và phù hợp hơn với nhu cầu của đông đảo người tham gia. Đặc biệt các lớp học và các câu lạc bộ sở thích đã nhanh nhạy, bắt kịp với những thay đổi thị hiếu của xã hội. Trình độ cán bộ, nhất là cán bộ quản lý ở các cấp, ngành đang từng bước được cải thiện, chú trọng tới trình độ chuyên môn nghiệp vụ về quản lý văn hóa. Các địa phương đã tổ chức được nhiều lớp tập huấn về nghiệp vụ cho cán bộ văn hóa cơ sở với kỹ năng tổ chức sự kiện: giao lưu, hội thao, hội diễn, kỹ năng phát hiện và bồi dưỡng hạt nhân văn hóa, thể thao cơ sở… Để định hướng cho hệ thống thiết chế văn hóa thể thao cơ sở, ngày 11 tháng 11 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2164/QĐ- TTg về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2030. Trong 05 năm qua, các Bộ, ngành và địa phương đã tích cực triển khai có hiệu quả các giải pháp và yêu cầu tại Quyết định của Thủ tướng như: chỉ đạo việc đầu tư cơ sở vật chất của các thiết chế văn hóa, thể thao nhằm phục vụ cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao tại cơ sở; tăng cường đào tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, thể thao ở các cấp; tạo cơ chế tự chủ (xã hội hóa) cho các thiết chế; đổi mới phương thức, nội dung hoạt động tại các thiết chế; đầu tư trang thiết bị chuyên dùng. Thông qua việc tổ chức hoạt động tại các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở đã tác động tích cực đến chất lượng hoạt động của Phong trào “Toàn dân đoàn kết 7
  12. xây dựng đời sống văn hóa”, Chương trình xây dựng Nông thôn mới, văn minh đô thị góp phần thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Đến nay, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở trên toàn quốc do ngành văn hóa, thể thao và du lịch trực tiếp quản lý, bao gồm: - Cấp tỉnh: 69 (Trung tâm Văn hóa, Trung tâm Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Thông tin Triển lãm, Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật...). - Cấp huyện: 651/713 quận, huyện có Trung tâm Văn hoá - Thể thao hoặc Nhà văn hoá, đạt tỉ lệ khoảng 91%; - Cấp xã: Có 7.456/10.184 xã, phường, thị trấn có Trung tâm Văn hoá - Thể thao, đạt tỉ lệ 73,2%; - Cấp thôn: Có 75.996/101.732 thôn, bản… có nhà văn hoá, đạt tỉ lệ 74,7%; Để đạt được những kết quả trên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu và ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, hoạt động và tiêu chí của thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở từ cấp tỉnh đến thôn, làng, bản, ấp...để thực hiện cụ thể: - Quyết định số 2164/QĐ-TTg ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch tổng thể hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2030. - Quyết định số 2563/QĐ-BVHTTDL ngày 03 tháng 08 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Đề án “Nâng cao hiệu quả hoạt động các thiết chế văn hóa, thể thao ở nông thôn”; - Thông tư số 10/2021/TT-BVHTTDL ngày 28 tháng 9 năm 2021 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của trung tâm văn hóa tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Thông tư số 01/2010/TT-BVHTTDL ngày 26 tháng 02 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của tổ chức sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 8
  13. - Thông tư số 11/2010/TT-BVHTTDL ngày 22 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định tiêu chí của Trung tâm Văn hóa - Thể thao quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; - Thông tư số 12/2010/TT-BVHTTDL ngày 22 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định mẫu về tổ chức, hoạt động và tiêu chí của Trung tâm văn hóa - Thể thao xã; - Thông tư số 06/2011/TT-BVHTTDL ngày 08 tháng 03 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định mẫu về tổ chức, hoạt động và tiêu chí của nhà văn hóa - khu thể thao thôn; - Thông tư số 18/2011/TT-BVHTTDL ngày 02 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quy định mẫu về tổ chức và hoạt động của câu lạc bộ thể thể dục thể thao cơ sở; - Thông tư số 05/2014/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 05 năm 2014 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về sửa đổi, bổ sung Điều 6 của Thông tư số 12/2010/TT- BVHTTDL ngày 22 tháng 12 năm 2010 quy định mẫu về tổ chức, hoạt động và tiêu chí của Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã và Thông tư số 06/2011/TT-BVHTTDL ngày 08 tháng 03 năm 2011 quy định mẫu về tổ chức hoạt động và tiêu chí của nhà văn hóa - khu Thể thao thôn; - Thông tư số 14/2016/TT-BVHTTDL ngày 21 tháng 12 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định tiêu chí của Trung tâm Văn hóa - Thể thao phường, thị trấn. Các văn bản hướng dẫn trên đang còn hiệu lực vào thời điểm biên soạn tài liệu, trong quá trình thực hiện các văn bản đó có sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế (nếu có) thì theo hướng dẫn của văn bản đó. 1.4. Kỹ năng triển khai thực hiện xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở 1.4.1. Xây dựng các trung tâm văn hóa, nhà triển lãm Việc có kỹ năng triển khai thực hiện xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở cần được quan tâm, coi trọng. Hiện nay, trên cả nước có 67 thiết chế văn hóa (Trung tâm văn hóa, Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật, Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh, Trung tâm Thông tin triển lãm...) cấp tỉnh. Cấp huyện có 683 quận, huyện có Trung tâm Văn hóa - Thể thao hoặc nhà văn hóa (NVH), đạt tỉ lệ khoảng 91,3%. Cấp xã là 7.194 xã, phường, thị trấn có Trung tâm văn hóa - Thể thao đạt tỉ lệ khoảng 73,2%. Cấp thôn là 75.327 làng, thôn, ấp, bản... có NVH, đạt tỉ lệ 74,4%. 9
  14. Bên cạnh đó, có 34 NVH lao động cấp tỉnh do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chỉ đạo; 32 NVH lao động cấp huyện; 31 NVH cấp tỉnh thuộc quân đội; 9 NVH do Công an nhân dân quản lý; 68 NVH cấp tỉnh và 168 NVH cấp huyện do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phụ trách (2). Ngoài ra, các ngành: than, gang thép, giấy, cao su... cũng đều có NVH phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của công nhân lao động. Các Trung tâm Văn hóa - Thể thao các cấp đã thể hiện kỹ năng trong việc tìm tòi các loại hình hoạt động văn hóa, thể thao phù hợp để đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt văn hóa, thể thao của Nhân dân. Nội dung hoạt động của các trung tâm văn hóa cấp tỉnh và cấp huyện tương đối đa dạng, phong phú, thường xuyên có sự đổi mới. Ngoài việc phục vụ thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, các trung tâm đều mở rộng các hình thức khai thác, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất hiện có, đáp ứng nhu cầu tập luyện, vui chơi, giải trí của Nhân dân và thanh thiếu niên, nhất là vào dịp nghỉ hè. NVH, khu thể thao thôn, bản thường xuyên tập trung vào các hoạt động thông tin tuyên truyền cổ động, tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ, sinh hoạt cộng đồng, địa điểm tổ chức các hoạt động văn hóa, thông tin, các hội thi, liên hoan, tập luyện, giao lưu văn hóa, thể thao thu hút đông đảo quần chúng Nhân dân tham gia. Đây thực sự là nơi giúp gắn kết cộng đồng và có ý nghĩa lớn đối với đời sống văn hóa tinh thần người dân. 1.4.2. Xây dựng hệ thống bảo tàng Ngày 23/6/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 156/2005/QĐ -TTg về phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống Bảo tàng Việt Nam đến năm 2020. Sau 15 năm thực hiện, cả nước có 162 bảo tàng, trong đó có 126 bảo tàng công lập và 36 bảo tàng ngoài công lập; hiện đang lưu giữ hơn 3 triệu hiện vật phản ánh toàn diện về đất nước và con người Việt Nam trong tiến trình lịch sử, trong đó có tới 120 hiện vật, nhóm hiện vật là bảo vật quốc gia (trong tổng số 164 bảo vật quốc gia) (3). Hệ thống bảo tàng đã xác lập được vị thế của mình trong hệ thống thiết chế văn hóa, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước giao cho trong công tác giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức tôn vinh bản sắc dân tộc, phổ biến kiến thức khoa học, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, trở thành những điểm đến hấp dẫn, trực tiếp góp phần phát triển du lịch. 1.4.3. Xây dựng và quản lý hệ thống thư viện Theo thống kê của Thư viện Quốc gia Việt Nam, tính đến hết năm 2020, ngoài thư viện của 63 tỉnh, thành phố, cả nước hiện có 582 thư viện cấp quận, 10
  15. huyện, hơn 6.000 thư viện, phòng đọc sách ở các xã, phường, thôn, bản... Bên cạnh đó là 10.000 tủ sách pháp luật và 8.000 điểm bưu điện - văn hóa xã, phường gắn kết mật thiết với hệ thống thư viện tại các địa phương. Hệ thống thư viện đã từng bước đổi mới, đa dạng hóa các phương thức phục vụ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục cấp thẻ nhằm thu hút bạn đọc đến sử dụng thư viện. Công tác luân chuyển sách, báo được thực hiện thường xuyên. Việc tăng cường phục vụ thư viện lưu động, các xe thư viện lưu động đã triển khai Chương trình Chuyến xe tri thức tới các trường học, vùng sâu, vùng xa, tăng cường các dịch vụ phục vụ người khuyết tật, đối tượng yếu thế trong xã hội... cũng đã góp phần vào việc xây dựng, phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng. 1.4.4. Xây dựng hệ thống các rạp chiếu phim Hiện nay cả nước có 1096 phòng chiếu với hơn 200 cụm rạp (4). Hệ thống rạp chiếu phim rộng khắp và được trang bị thiết bị hiện đại, tiện nghi đã góp phần không nhỏ cho doanh thu của ngành Công nghiệp điện ảnh đạt doanh số hơn 100 triệu USD và đứng vào top 10 thị trường điện ảnh lớn toàn cầu. Điều đó cho thấy, nhu cầu thưởng thức điện ảnh của gần 100 triệu dân Việt Nam rất lớn và thị trường vẫn còn nhiều tiềm năng nếu được khai thác đúng hướng. Tuy vậy, sự phân bố số lượng cũng như chất lượng rạp chiếu phim giữa các vùng miền còn nhiều chênh lệch. Một số tỉnh chưa có rạp chiếu phim chuyên dụng, hiện đại, các khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu đô thị và các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa chưa có quy hoạch địa điểm xây dựng các rạp chiếu bóng. Quy mô của các rạp còn nhỏ, hoạt động khó khăn và mang tính cầm chừng. Trong khi nhiều rạp tư nhân hoặc có sự đầu tư của nước ngoài một cách chuyên nghiệp, còn lại các rạp chiếu phim của nhà nước phần lớn thiết bị cũ kĩ, cơ sở vật chất xập xệ nên không thu hút được khách. Ngoài ra, còn phải kể đến một vấn đề là hiện nay các rạp ưu tiên chiếu phim ngoại vào khung giờ vàng, dẫn đến phim Việt bị thiệt hại cả về doanh thu lẫn độ phủ. Đây cũng là vấn đề đang gây đau đầu cho các nhà quản lý khi nhiều rạp kinh doanh quá chú trọng yếu tố kinh tế mà bỏ qua yếu tố quảng bá văn hóa dân tộc thông qua phim Việt. 1.4.5. Xây dựng hệ thống tượng đài Hiện nay, cả nước có trên 400 công trình tượng đài. Các công trình tượng đài, công trình mỹ thuật công cộng là công trình văn hóa nghệ thuật ca ngợi những chiến thắng, những sự kiện lịch sử, lãnh tụ và danh nhân của dân tộc, đồng thời là tác phẩm mỹ thuật đem đến cảm xúc thẩm mỹ, truyền tải thông điệp về giáo dục, 11
  16. tôn vinh truyền thống cách mạng, lòng tự hào dân tộc, tạo nên môi trường thẩm mỹ nhân văn, hướng thiện. Một số công trình tượng đài được khánh thành đi vào sử dụng gần đây đã trở thành những địa chỉ sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tổ chức các sự kiện chính trị của địa phương, trở thành điểm tham quan du lịch như: Tượng đài Bác Hồ với Tây Nguyên ở Gia Lai, Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng ở Quảng Nam, Tượng đài Bác Hồ với Nhân dân các dân tộc ở Tuyên Quang... Các tượng vườn hoa ra đời từ các Trại sáng tác điêu khắc được đặt ở các khu du lịch; các bãi biển, như: dọc hai bên bờ sông Hương (Thừa Thiên Huế), Vũng Tàu, Nha Trang, Hải Phòng; các khu du lịch như Hội An - Quảng Nam, Flamingo Đại Lải - Hà Nội, Châu Đốc - An Giang ... đã tạo nên những địa điểm du lịch hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế. Tuy vậy, những năm gần đây, không ít địa phương đua nhau xây tượng đài không hợp lý dẫn đến tốn kém, lãng phí. Chất lượng nhiều tượng đài na ná nhau, chưa thực sự mang đến yếu tố thẩm mỹ, thậm chí một số tượng đài còn gây phản cảm và bức xúc trong dư luận. Nhìn chung, các chiến lược, quy hoạch và các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, thể thao đã điều chỉnh và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa, thể thao phù hợp với tình hình mới. Nhiều cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao, đặc biệt cho việc xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao đã được ban hành, phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Hệ thống công trình văn hóa, thể thao từ Trung ương đến địa phương đã triển khai và tổ chức tốt các nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ, kỷ niệm của đất nước, của địa phương. Nhiều thiết chế văn hóa - thể dục thể thao như: NVH, sân vận động, rạp hát, thư viện, nhà tập, nhà thi đấu thể thao, bể bơi ... được xây dựng, trong đó một số công trình có quy mô lớn, kiến trúc đẹp đã thu hút đông đảo Nhân dân tham gia sinh hoạt, hưởng thụ các giá trị văn hóa, luyện tập thể dục thể thao. Đồng thời, cũng là nơi gắn kết cộng đồng, tuyên truyền, vận động quần chúng Nhân dân thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Những công trình văn hóa nằm trong thiết chế văn hóa do ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý, sử dụng cùng với các công trình văn hóa do các ngành, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội khác đầu tư, quản lý, khai thác và sử dụng đã tạo nên một mạng lưới các công trình văn hóa đồng bộ, phục vụ, tổ chức tốt các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thi đấu thể thao, góp phần bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, xây dựng môi trường văn hóa, nâng cao sức khỏe, cải thiện đời sống văn hóa, tinh thần cho Nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội và giữ vững 12
  17. an ninh, quốc phòng. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ, cộng tác viên được bồi dưỡng, đào tạo từ hệ thống thiết chế văn hóa đã trở thành hạt nhân của phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng, góp phần xây dựng đời sống văn hóa, thể dục thể thao cơ sở. Hệ thống thư viện, rạp chiếu phim, bảo tàng cũng góp phần không nhỏ trong việc vui chơi giải trí, nâng cao dân trí, giáo dục truyền thống yêu nước cho Nhân dân, lan tỏa những giá trị tốt đẹp trong cộng đồng. Những kết quả trên đạt được là rất đáng ghi nhận, song vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập như: ngân sách nhà nước hằng năm cấp cho các thiết chế văn hóa còn hạn chế, kinh phí hoạt động ít, cơ sở vật chất, trang thiết bị xuống cấp, nguồn nhân lực tổ chức khai thác vận hành các thiết chế này còn thiếu và yếu về chuyên môn. Công tác quản lý, tổ chức hoạt động còn nhiều bất cập, nặng về trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước, thiếu chủ động, sáng tạo. Hiệu quả hoạt động chưa đồng đều. Một số thiết chế văn hóa ở địa phương xây dựng có quy mô lớn, nhưng việc khai thác hiệu quả thấp, ít người biết đến hoặc không quan tâm nên dẫn đến nguồn thu hằng năm đạt thấp. Nhu cầu và thị hiếu của người dân đã và đang thay đổi, trong khi các thiết chế văn hóa các cấp chưa bắt nhịp kịp để đổi mới phương thức hoạt động, chưa phát huy được sáng kiến, sự tham gia tích cực của người dân. Hệ thống thiết chế văn hóa tại các khu đô thị chưa được chú trọng đầu tư đúng mức. Quỹ đất dành cho xây dựng các thiết chế văn hóa một số nơi chưa được quan tâm, quy hoạch. Có địa phương còn chuyển đổi mục đích sử dụng đất để xây dựng các công trình thương mại, nhà ở để bán hoặc chuyển nhượng. Nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất không có thiết chế văn hóa - thể thao phục vụ đời sống văn hóa tinh thần, luyện tập thể dục, thể thao của người lao động. Các thiết chế văn hóa - thể thao ở cấp xã phần lớn bị xuống cấp và thiếu đồng bộ về trang thiết bị hoạt động. Việc xây dựng về quy mô, kiểu dáng, vị trí còn tuỳ tiện, chưa hợp lý nên bị cộng đồng xa lánh. Nhiều nơi xây dựng được trụ sở nhưng trang thiết bị thiếu thốn, không đủ điều kiện hoạt động, nhất là khu vực vùng sâu, vùng xa. Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ công tác tại các thiết chế văn hóa, thể thao còn quá mỏng, ít được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ. Đó là những vấn đề gây nên sự hoạt động kém hiệu quả của các thiết chế văn hóa, làm lãng phí công năng và tiền của. Do đó, rất cần có những giải pháp vừa đồng bộ, vừa căn cơ và phù hợp. Để nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hóa cơ sở, trong những năm tới cần chú trọng các vấn đề sau: - Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách 13
  18. Bộ VHTTDL cần xây dựng và trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở. Cùng với đó là nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế, chính sách, đảm bảo điều kiện tổ chức hoạt động của các thiết chế văn hóa, thể thao nhằm khai thác và sử dụng tối đa công suất các công trình phục vụ Nhân dân đến sinh hoạt, luyện tập. Có chính sách ưu tiên về thuế đối với đơn vị dịch vụ sự nghiệp công. Rà soát, đánh giá mô hình hệ thống công trình, thiết chế văn hóa, thể thao các cấp, tham mưu cấp có thẩm quyền xem xét thí điểm không tổ chức thiết chế văn hóa cấp xã, tăng cường nguồn lực đầu tư đối với thiết chế văn hóa cấp thôn (thông qua thực hiện có hiệu quả các mục tiêu về văn hóa trong Chương trình mục tiêu quốc gia Nông thôn mới, trong đó kiến nghị giao vai trò phân bổ kinh phí đầu tư từ ngân sách nhà nước do Trung ương thực hiện để đảm bảo đúng đối tượng, đúng mục tiêu được xác định cụ thể). Giao quyền tự chủ trong tổ chức hoạt động cho đơn vị quản lý cơ sở vật chất thể dục thể thao theo Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/06/2021 của Chính phủ, nhất là việc liên kết nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị (trừ cơ sở phục vụ đào tạo vận động viên); tổ chức các hoạt động, dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng công trình. - Quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật Dành quỹ đất ở vị trí thuận lợi để xây dựng hệ thống công trình, thiết chế văn hóa - thể thao các cấp. Quan tâm đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các công trình, thiết chế văn hóa, thể thao ở các địa phương đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí, tham quan và tập luyện của Nhân dân. Tuy nhiên, việc xây dựng các công trình phải phù hợp với quy mô, theo quy hoạch phát triển văn hóa, thể dục thể thao. Cải tạo, nâng cấp các thiết chế văn hóa hiện có, bổ sung trang thiết bị hoạt động, thay thế những trang thiết bị cũ, lạc hậu, duy tu, sửa chữa công trình theo định kỳ. - Đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ Hiện nay, công tác cán bộ vẫn là khâu yếu của các thiết chế văn hóa. Do đó, cần căn cứ vào nhu cầu thực tế của địa phương, căn cứ vào tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ văn hóa, thể thao được quy định đối với từng cấp, lập quy hoạch, kế hoạch, giao nhiệm vụ đào tạo cho các trường có chuyên môn phù hợp. 14
  19. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ quản lý nhà nước và cán bộ nghiệp vụ trực tiếp quản lý các công trình văn hóa, thể thao. Bồi dưỡng nghiệp vụ văn hóa, thể thao quần chúng cho cán bộ xã và thôn. Bổ sung, hoàn thiện chế độ chính sách về lương, chế độ thù lao công tác đối với đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, thể thao ở cơ sở. - Nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng các công trình văn hóa, thể thao Công năng của nhiều thiết chế vă hóa - thể thao hiện nay ở cơ sở chưa được khai thác đúng hoặc đang gây ra sự lãng phí. Do đó, cần đổi mới nội dung, phương thức quản lý, hoạt động của các thiết chế văn hóa - thể thao gắn với thực tiễn và nhu cầu người dân, tạo điều kiện cho đông đảo quần chúng tham gia hoạt động văn hóa, tập luyện, biểu diễn và thi đấu thể thao đa dạng theo nhu cầu và sở thích của mọi người, phù hợp với địa phương, đơn vị, tránh dập khuôn máy móc chỉ tổ chức một số hoạt động nhất định. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao ở các công trình văn hóa - thể thao gắn với việc liên doanh, liên kết xây dựng các thiết và tổ chức các hoạt động văn hóa - thể thao. Mở rộng dịch vụ, tổ chức nhiều loại hình hoạt động để phục vụ các tầng lớp xã hội và mọi lứa tuổi tham gia, chú trọng phát triển nhiều loại hình phục vụ cộng đồng, nhằm huy động nguồn lực trong xã hội đầu tư cho phát triển văn hóa, thể dục, thể thao. Nhu cầu văn hóa của Nhân dân là vô cùng phong phú đa dạng. Do đó, việc nâng cấp cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng quản lý các thiết chế văn hóa là vô cùng cần thiết bởi điều đó không chỉ nâng cao đời sống văn hóa của người dân mà còn góp phần ổn định chính trị, kinh tế, quốc phòng an ninh. Người dân khi được nâng cao dân trí, rèn luyện sức khỏe, có một nền tảng văn hóa tốt sẽ luôn biết tự hào, nâng niu, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đó cũng chính là mục tiêu Đảng và Nhà nước đặt ra trong quá trình lãnh đạo, quản lý. 1.5. Giám sát, đánh giá Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tại các thiết chế, văn hóa thể thao cơ sở, Cục Văn hóa cơ sở đưa ra một số giải pháp sau: Một là, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở: Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở của các cấp, các 15
  20. ngành, đoàn thể từ tỉnh xuống cơ sở; phát huy tinh thần chủ động, tích cực nỗ lực của người dân và vai trò tự quản của cộng đồng quá trình phát triển thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở. Đưa mục tiêu, nhiệm vụ phát triển thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở vào Nghị quyết của các cấp ủy Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Hai là, tăng cường nguồn lực phát triển phát triển thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở: Tranh thủ các nguồn đầu tư để ưu tiên cho mục tiêu phát triển thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở. Đưa các đội hoạt động chuyên ngành như thông tin lưu động, văn nghệ xung kích, chiếu bóng lưu động... xuống xã, thôn, buôn để vừa phục vụ vừa tuyên truyền, đồng thời kèm theo các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể thao ở các khu dân cư. Tổ chức đánh giá thực trạng, xây dựng, phê duyệt và thực hiện Quy hoạch phát triển thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở; hỗ trợ xây dựng và trang thiết bị cho nhà văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đầu tư 100% kinh phí xây dựng trung tâm văn hóa, thể thao xã; hỗ trợ xây dựng nhà văn hóa, sân thể thao cấp thôn, ưu tiên vùng có hoàn cảnh đặc biệt, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người, hàng năm tỉnh đầu tư từ 1-1,2 % ngân sách sự nghiệp để xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao xã - thôn. Lựa chọn và xây dựng thí điểm phát triển văn hóa nông thôn mới cấp xã, sau đó nhân rộng mô hình xã điểm. Tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa và tạo điều kiện để các cá nhân, tổ chức doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí trên địa bàn nông thôn. Khuyến khích các cá nhân, tổ chức trên địa bàn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí ở khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh. Lồng ghép Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới, các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm vụ phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao, du lịch ở các cấp với việc thực hiện mục tiêu phát triển thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở. Đồng thời, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ văn hóa, thể thao ở cơ sở. Hỗ trợ kinh phí và có chế độ thù lao cho các nghệ nhân để mở các lớp đào tạo, truyền dạy, hướng dẫn làm các nhạc cụ truyền thống như: đàn, sáo; chỉnh âm, 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2