
Tài liệu kế toán - Nguyên
lý chung về hạch toán tiền
lương và các khoản trích
theo lương

1
MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển mình cho những bước phát triển
mới trong thế kỷ XXI, cùng với sự phát triển đó, nhân tố con người được đặt
lên vị trí hàng đầu. Việc tận dụng hiệu quả khả năng làm việc của người lao
động là vấn đề mà những nhà quản lý phải quan tâm. Một động lực quan
trọng thúc đẩy người lao động làm việc chính là lợi ích được thể hiện ở mức
lương, thưởng và các phúc lợi xã hội mà họ được hưởng. Cho nên có thể nói ở
bất kỳ giai đoan này, doanh nghiệp nào vấn đề tiền lương luôn là một vấn đề
sống còn đối với người lao động và là vấn đề cần quan tâm đối với những
người làm công tác tổ chức và quản lý.
Công ty cổ phần xây dựng công trình I với chức năng ngành nghề xây
dựng trong nước. Với nhiệm vụ do Tổng công ty xây dựng công trình I giao
thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn, hoàn
thành nghĩa vụ nộp ngân sách. Bên cạnh đó còn có một nhiệm vụ hết sức
quan trọng là giải quyết được một số lượng lao động dôi dư trên địa bàn tỉnh,
người lao động có việc làm và thu nhập ổn định. Vì vậy, việc xây dựng một
quy chế trả lương phù hợp thông qua các chế độ, các hình thức tiền lương sát
với thực tế, công tác hạch toán tiền lương phải đầy đủ, chính xác và kịp thời
thanh toán có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế cũng như chính trị đồng thời tiền
lương phát huy được chức năng đòn bảy về kinh tế.
Xuất phát từ thực tiễn của vấn đề em chọn đề tài: "Hạch toán tiền lương
và các khoản trích theo lương tại Công ty cổ phần xây dựng công trình I" làm
khoá luận tốt nghiệp của mình.
Khoá luận ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương I: Nguyên lý chung về hạch toán tiền lương và các khoản trích
theo lương của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hạch toán tiền lương và các khoản trích theo
lương tại Công ty cổ phần xây dựng công trình I.
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác hạch
toán tiền lương tại Công ty cổ phần xây dựng công trình I.

2
CHƯƠNG I
NGUYÊN LÝ CHUNG VỀ HẠCH TOÁN TIỀN LƯƠNG
VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
1.1.1. Khái niệm
* Tiền lương
Theo quan niệm của các nhà kinh tế hiện đại: Tiền lương là giá cả của
sức lao động, được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường lao động.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tiền lương
được hiểu là một bộ phận thu nhập quốc dân dùng để bù đắp hao phí lao động
tất yếu, do Nhà nước phân phối cho CNVC bằng hình thức tiền tệ, phù hợp
với quy luật phân phối theo lao động. Hiện nay theo điều 55 Bộ Luật Lao
động Việt Nam quy định tiền lương của người lao động là do hai bên thoả
thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất
lượng và hiệu quả công việc, mức lương của người lao động không thấp hơn
mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định (là 290.000đ/tháng được thực hiện từ
11/2003).
Trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần hiện nay
bản chất của tiền lương được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh của quá trình tái
sản xuất. Sức lao động là yếu tố quyết định trong các yếu tố của quá trình sản
xuất, nên tiền lương là vốn đầu tư ứng trước quan trọng nhất, là sự đầu tư cho
sự phát triển và là một phạm trù sản xuất. Nó yêu cầu phải tính đúng, tính đủ
trước khi thực hiện quá trình lao động và sản xuất. Sức lao động là hàng hoá
nên tiền lương là phạm trù của trao đổi, nó đòi hỏi phải ngang giá với giá cả
các tư liệu sinh hoạt cần thiết nhằm tái sản xuất sức lao động. Sức lao động là
một yếu tố của quá trình sản xuất cần phải dựa trên hao phí lao động và hiệu
quả lao động của người lao động để trả cho họ, do đó tiền lương là phạm trù

3
của phân phối. Sức lao động cần phải được tái sản xuất thông qua việc sử
dụng các tư liệu sinh hoạt cần thiết, thông qua quỹ tiêu dùng cá nhân, do đó
tiền lương là một phạm trù của tiêu dùng. Như vậy, tiền lương là một phạm
trù kinh tế tổng hợp quan trọng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
hiện nay. Về bản chất của tiền lương có thể nói là đòn bảy kinh tế mạnh mẽ,
có tác dụng to lớn đến sản xuất, đời sống và các mặt khác của kinh tế xã hội.
Thu nhập của người lao động, ngoài tiền lương lao động còn được
hưởng một số khoản khác như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các phúc lợi
xã hội khác.
* Bảo hiểm xã hội (BHXH):
Quỹ BHXH được hình thành do trích lập và tính vào chi phí sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định của Nhà nước. Theo quy định
hiện hành hàng tháng đơn vị tiến hành trích lập quý BHXH theo tỷ lệ quy
định trên tổng số tiền lương cấp bậc phải chi trả cho công nhân viên trong một
tháng và phân bổ cho các đối tượng liên quan đến việc sử dụng lao động.
Người sử dụng lao động phải trích một tỷ lệ nhất định trên tổng số quỹ
lương cấp bậc và tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, còn một tỷ lệ do người
lao động trực tiếp đóng góp và được khấu trừ vào thu nhập trực tiếp của họ.
Quỹ BHXH được thiết lập nhằm tạo ra nguồn tài trợ cho công nhân
viên trong trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, nghỉ hưu. Theo chế
độ hiện hành nguồn quỹ BHXH do cơ quan chuyên trách quản lý và chi trả
các trường hợp nghỉ hữu, mất sức lao động, tai nạn, tử tuất, ở tại doanh
nghiệp được phân cấp trực tiếp chi trả các trường hợp như ốm đau, thai sản và
tổng hợp chi tiêu để quyết toán với cơ quan chuyên trách.
Việc hình thành nên quỹ BHXH còn do một số nguồn khác như các
doanh nghiệp làm ăn phát đạt ủng hộ theo các chương trình xã hội, thành lập
quỹ đền ơn đáp nghĩa. Việc trích lập quỹ BHXH là một việc làm cần thiết và
nhân đạo, đây là một nội dung quan trọng của chính sách xã hội mà Nhà nước

4
đảm bảo trước pháp luật cho mọi người dân nói chung và cho mỗi người lao
động nói riêng.
* Bảo hiểm y tế (BHYT)
BHYT theo quy định của chế độ tài chính hiện hành gồm hai nguồn:
một phần do doanh nghiệp gánh chịu được tính trách vào chi phí sản xuất
kinh doanh hàng tháng theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương cấp bậc
phải trả công nhân trong kỳ, một phần do người lao động gánh chịu được trừ
vào tiền lương của công nhân viên. BHYT được nộp lên cơ quan chuyên môn,
chuyên trách (dưới hình thức mua BHYT) để bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ công
nhân viên.
BHYT thực chất là sự trợ cấp về y tế cho người lao động thamgia
BHYT nhằm giúp họ một phần nào tiền khám chữa bệnh, tiền viện phí, thuốc
thang. Mục đích của BHYT là lập một mạng lưới bảo vệ sức khỏe cho toàn
cộng đồng không kể địa vị xã hội, thu nhập cao hay thấp, với khẩu hiệu "mình
vì mọi người, mọi người vì mình".
* Kinh phí công đoàn (KPCĐ)
Công đoàn là một tổ chức đoàn thể đại diện cho người lao động nói lên
tiếng nói chung của người lao động, đứng ra bảo vệ quyền lợi của mình đồng
thời công đoàn cũng là người trực tiếp hướng dẫn, điều khiển thái độ của
người lao động đối với công việc, với người sử dụng lao động.
KPCĐ được hình thành từ việc trích lập và tính vào chi phí sản xuất
kinh doanh hàng tháng của đơn vị theo tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền lương
thực tế phải trả cho nhân viên trong kỳ. Số KPCĐ được phân cấp quản lý và
chỉ tiêu theo chế độ, một phần nộp lên cơ quan quản lý công đoàn cấp trên và
một phần để lại doanh nghiệp để chi tiêu cho hoạt động công đoàn cơ sở tại
đơn vị.
Cùng với tiền lương và các khoản nộp theo lương: BHXH, BHYT,
KPCĐ hợp thành một khoản chi phí về lao động sống trong tổng chi phí của
doanh nghiệp. Việc xác định chi phí về lao động sống phải dựa trên cơ sở

