TÀI LIỆU LƯU TRỮ CẤP HUYỆN CỦA HÀ NỘI – NGUỒN SỬ LIỆU CÓ GIÁ TRỊ ĐỂ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ, VĂN HÓA CỦA ĐÔ THỊ NGÀN NĂM TUỔI1 (bài viết Hội thảo Nghiên cứu và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, sách cùng tên Hội thảo, trang 156-175 )
Phạm Thị Diệu Linh2
Khác với nhiều địa phương trong cả nước, Hà Nội là một đô thị cổ có ngàn năm tuổi. Trong khi tốc độ đô thị hóa ngày cành mạnh và sự khắc nghiệt của thời gian đang làm xóa nhòa dần các dấu tích của đô thị cổ Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội trên nhiều loại hình di sản vật chất thì việc lưu giữ và tái hiện được những dấu tích đó thông qua khai thác tài liệu lưu trữ là một giải pháp hữu hiệu cho các nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa. Việc Hà Nội được mở rộng vào năm 2008 đã làm giàu thêm vốn văn hóa của Thành phố với nhiều nguồn tư liệu đang được bảo tồn tại các địa phương mới sáp nhập. Năm 2010, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội sẽ chính thức kỷ niệm 1000 năm vùng đất này trở thành kinh đô của Quốc gia. Sự kiện trọng đại này đã kéo theo nhiều hoạt động kỷ niệm khác trong đó có việc công bố các công trình nghiên cứu nhằm mục đích cung cấp thêm cho những người quan tâm và yêu Hà Nội những thông tin về vùng đất kinh kỳ này. Những công trình đó được xây dựng dựa trên sự khảo cứu nhiều tài liệu, tư liệu có giá trị. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn tồn tại một nguồn tư liệu mà không phải nhà nghiên cứu nào cũng biết tới. Đó là những tài liệu lưu trữ cấp huyện của Hà Nội.
Để góp phần phát huy giá trị tài liệu lưu trữ cấp huyện trong việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa Hà Nội, bài viết này sẽ đề cập tới những tài liệu đó theo ba vấn đề chính: - Thành phần, loại hình tài liệu lưu trữ cấp huyện của Hà Nội; - Nội dung và ý nghĩa của tài liệu lưu trữ cấp huyện đối với việc nghiên cứu lịch
sử, văn hóa Hà Nội;
- Làm thế nào để giúp độc giả tiếp cận với tài liệu lưu trữ cấp huyện của Thành
phố Hà Nội dễ dàng hơn ?
1. Thành phần, loại hình tài liệu lưu trữ cấp huyện
Tính cổ kính của các làng xã của Hà Nội xưa tiềm ẩn nhiều giá trị lịch sử trong đó có các tài liệu lưu trữ, chủ yếu là tài liệu của các cá nhân, gia đình, dòng họ, làng xã như các thần tích, thần sắc của các làng, các thôn, những tài liệu liên quan đến sở hữu đất đai, sự hình thành cộng đồng làng xã của các gia đình định cư lâu đời tại Hà Nội,…
1 Bài viết dựa trên luận văn thạc sĩ Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lưu trữ cấp huyện của thành phố Hà Nội, tác giả Phạm Thị Diệu Linh do PGS. Vương Đình Quyền hướng dẫn. 2 Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng-Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn-ĐHQGHN.
1
. Đó là chưa kể những tài liệu được các gia đình có công với cách mạng lưu giữ lại từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp mà đến nay các cơ quan lưu trữ, các nhà nghiên cứu chưa phát hiện hoặc chưa tìm hiểu, thống kê được.
Bên cạnh khối tài liệu có giá trị do nhân dân tự lưu giữ là khối tài liệu quan trọng của các cơ quan trong bộ máy chính quyền cấp huyện ở Hà Nội. Đây là khối tài liệu quan trọng và là tài liệu chủ yếu được các cơ quan lưu trữ chú ý thu thập, bảo quản. Nếu dựa trên tiến trình hình thành và hoạt động của các cơ quan này thì tài liệu lưu trữ của các cơ quan nhà nước cấp huyện của thành phố Hà Nội có thành phần như sau:
* Tài liệu của các huyện nha thời kỳ phong kiến: Hoạt động của các huyện nha đã hình thành nên những tài liệu Hán – Nôm khá quan trọng. Chúng bao gồm các văn bản quản lý nhà nước, trong đó có cả những loại sổ, sách ghi chép, thống kê được sử dụng như một công cụ quản lý hữu hiệu của chính quyền phong kiến.
* Tài liệu của các cơ quan chính quyền cấp xã ở Hà Nội thời kỳ thuộc Pháp: Bộ máy cai trị tay sai cho Pháp đã hình thành nên nhiều tài liệu lưu trữ có giá trị lịch sử mà đáng kể phải là những sổ sách quản lý đất đai, quản lý thuế, quản lý nhân khẩu cũng như những tài liệu phản ảnh hủ tục phong kiến hay những nét văn hóa truyền thống còn in dấu trong các lệ làng được thể chế hóa thành quy định của chính quyền… Tiêu biểu trong số đó là tài liệu lưu trữ của Xã Yên Mỹ - Huyện Thanh Trì – Hà Nội với các tài liệu quản lý nhân khẩu, đất đai từ năm 1923 đến thời kỳ Pháp tạm chiếm sau 1945.
* Tài liệu của chính quyền cấp huyện của Hà Nội thời kỳ đầu sau Cách mạng Tháng Tám: Từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 10 năm 1947 3, ở cấp huyện của Hà Nội đã tồn tại các cơ quan như các HĐND, UBHC, Ủy ban kháng chiến – hành chính. Tài liệu của những cơ quan này cũng phản ảnh một giai đoạn hào hùng của nhân dân Thủ đô. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử có nhiều biến động, từ đầu năm 1947 đến giữa năm 1954, Hà Nội bị Pháp tạm chiếm. Các cơ quan trong chính quyền cách mạng chỉ hoạt động trong thời gian ngắn và bí mật nên việc xác định khối lượng, thành phần, nội dung, loại hình và những đặc điểm khác của tài liệu hình thành thời kỳ này cần phải được tiếp tục nghiên cứu thêm.
* Tài liệu của chính quyền cấp huyện ở Hà Nội sau khi hòa bình lập lại năm 1954 đến nay: Sau 1954, tổ chức chính quyền Hà Nội đã nhiều lần thay đổi để phù hợp với các Hiến pháp 1959, 1980, 1992. Vì thế, tài liệu lưu trữ của chính quyền cấp huyện ở Hà Nội sau năm 1954 gồm tài liệu của nhiều cơ quan khác nhau như:
3 Căn cứ theo Sắc lệnh số 77/SL ngày 21-12-1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời VNDCCH về tổ chức về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành phố và Sắc lệnh số 91/SL ngày 01-10-1947 của Chủ tịch Chính phủ VNDCCH hợp nhất Uỷ ban kháng chiến và Ủy ban hành chính từ cấp tỉnh đến cấp xã thành Uỷ ban kháng chiến – hành chính. Website Quốc Hội Việt Nam: http://www.na.gov.vn/sach_qh/ho_chi_minh/phan-04/index-04-1.html.
2
- Tài liệu của các HĐND xã (theo Hiến pháp 1946) và HĐND huyện (từ Hiến
pháp 1959 đến nay);
- Tài liệu của các UBHC và UBQC (ủy ban quân chính), các Tòa án cách mạng
thời kỳ thực hiện theo Hiến pháp 1946;
- Tài liệu của các UBHC (thời kỳ thực hiện Hiến pháp 1959), UBND (từ khi thực
hiện Hiến pháp 1980 đến nay) và các cơ quan trực thuộc;
- Tài liệu của các TAND, VKSND cấp huyện qua các thời kỳ; - Tài liệu của các cơ quan, đơn vị hiệp quản như Công an huyện, Ban chỉ huy
quân sự huyện, Chi cục thuế huyện, BHXH huyện,…;
- Tài liệu của các đơn vị sự nghiệp thuộc huyện như Ban quản lý dự án, Ban quản lý di tích, Đài phát thanh huyện, Thư viện huyện, các trường đào tạo nghề, các trường phổ thông, trung tâm y tế, trung tâm thể dục thể thao,…;
- Tài liệu của các doanh nghiệp do chính quyền huyện thành lập và quản lý; - Tài liệu của các Hội thuộc sự quản lý của chính quyền huyện như Hội Khuyến
học, Hội khuyến nông, …;
- Tài liệu của chính quyền cấp xã thuộc các huyện: Với quy mô quản lý nhỏ và mức độ quản lý cụ thể, gắn bó chặt chẽ với đời sống dân cư, chính quyền cấp xã đã hình thành nên những tài liệu có nội dung khá chi tiết, bám sát tình hình của địa phương với các số liệu thống kê về nhân khẩu, quản lý đất đai, hộ tịch, lý lịch công dân, … Tuy nhiên, các xã đều chưa có điều kiện lưu trữ những tài liệu này.
Ngòai ra, trong thành phần tài liệu lưu trữ cấp huyện cũng xuất hiện tài liệu của các cơ quan có mối liên hệ trực tiếp như UBND thành phố Hà Nội, Chính phủ, Huyện ủy, Huyện đoàn, Liên đoàn lao động huyện, các doanh nghiệp nhà nước,….
Tài liệu lưu trữ hình thành ở cấp huyện Hà Nội khá đa dạng về loại hình. Trong đó, tài liệu hành chính có khối lượng lớn hơn cả, chủ yếu được thể hiện trên chất liệu giấy. Bên cạnh đó là tài liệu khoa học – công nghệ với các bản vẽ, bản tính toán, các bảng thống kê,…được ban hành kèm theo làm minh chứng cho các quyết định quản lý; các tài liệu chuyên môn như các hồ sơ địa chính, hồ sơ bảo hiểm xã hội, hồ sơ thuế, hồ sơ cán bộ,… Tài liệu lưu trữ cấp huyện bao gồm cả tài liệu nghe nhìn mà chủ yếu là tài liệu ảnh với những hình ảnh về các kỳ họp HĐND, các cuộc họp thường niên hoặc bất thường của UBND, hình ảnh về một số sự kiện quan trọng của địa phương như khởi công xây dựng một công trình lớn, một lễ kỷ niệm,… Song song với tài liệu ảnh do các cơ quan, đơn vị thuộc chính quyền tạo ra là tài liệu nghe nhìn của các cơ quan văn hóa – thông tin của huyện.
3
2. Nội dung và ý nghĩa của tài liệu lưu trữ cấp huyện đối với nghiên cứu lịch
sử, văn hóa Hà Nội Những tài liệu lưu trữ ở cấp huyện của Hà Nội có ý nghĩa lịch sử thường thể hiện
những nội dung sau:
2.1. Lịch sử phát triển của đô thị cổ Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội về các
phương diện kinh tế, văn hóa, chính trị và quản lý nhà nước
Những nội dung này được để cập chủ yếu trong các tài liệu của chính quyền phong kiến, chính quyền thân Pháp và trong một số tài liệu của cá nhân, gia đình, dòng họ. Đáng kể trong đó là các bản đồ địa giới hành chính chỉ rõ sự phân định ranh giới giữa Thăng Long – Hà Nội với các vùng lân cận; các tài liệu về quy hoạch đô thị như tài liệu về việc đặt tên phố, tên đường, vườn hoa, công viên, sửa chữa, tôn tạo các khu đô thị, tài liệu về chính sách mở rộng, xây dựng mới các đường phố ở Hà Nội, tài liệu quy hoạch hệ thống cầu, phà, cấp thoát nước,…
Bên cạnh đó là các tài liệu của chính quyền phong kiến ở cấp xã trong việc quản lý đất đai, nhân khẩu, thu nộp thuế,… mà tiêu biểu là các sổ sách ghi chép của UBND xã Yên Mỹ - Thanh Trì – Hà Nội được lập trong những năm 1920 nhưng đều dựa trên các tài liệu của thời kỳ trước đó và có ghi rõ nguồn gốc lập sổ; các tài liệu của làng xã Hà Nội và Hà Tây cũ trong việc thực hiện những quy định chung của làng như các quy uớc, hương ước, lệ làng, các thần tích, thần sắc, các bản ghi chép của các dòng họ về giả phả họ tộc và công trạng của dòng họ đối với đất nước,… Những tài liệu này không chỉ có ý nghĩa cho việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa của người Hà Nội xưa mà còn có ý nghĩa trong việc tìm hiểu các giá trị văn hóa của người dân xứ Bắc – một trong những cái nôi văn hóa Việt Nam cũng như quá trình quản lý đất nước của các triều đại phong kiến Việt Nam ở vùng đất có bề dày lịch sử này.
2.2. Lịch sử đấu tranh của nhân dân Hà Nội trong quá trình khởi nghĩa giành
và giữ chính quyền, chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến
Trong bối cảnh lịch sử phức tạp từ Khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, để đảm bảo tính bí mật và kịp thời của các hành động cách mạng, nhiều quyết định quan trọng của các cơ quan trong chính quyền nhân dân, các tổ chức, cá nhân đều được thể hiện thông qua hình thức truyền khẩu nên nguồn tài liệu hình thành không lớn. Tuy vậy, các bản truyền đơn, những lời kêu gọi, những bản án tử hình không có tác giả, những mệnh lệnh được truyền đi bằng ký hiệu hoặc mật mã riêng đều thể hiện một không khí hành động khẩn trương và sôi sục. Khi chính quyền cách mạng được thành lập, các tài liệu được ban hành đã đầy đủ hơn về thể thức, nội dung rõ ràng, chủ yếu tập trung vào việc củng cố chính quyền sau khi khởi nghĩa, trấn áp các thế lực phản cách mạng, thực hiện
4
các chính sách đảm bảo đời sống cho nhân dân, khôi phục kinh tế ở địa phương,... Những tài liệu này cũng do Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I bảo quản là chủ yếu.
2.3. Lịch sử hình thành, hoạt động của các cơ quan chính quyền, các tổ chức cấp huyện và những thành tựu của nhân dân các quận, huyện, thị xã ở Hà Nội từ sau 1954 đến nay
Đây là nội dung trọng tâm của tài liệu lưu trữ cấp huyện mà các cơ quan lưu trữ hiện nay quan tâm tới. Về cơ bản, tài liệu lưu trữ cấp huyện ở thời kỳ này phản ảnh vị trí, vai trò và hoạt động của từng loại hình cơ quan mà trước hết là các cơ quan chính quyền trong quá trình phát triển địa phương. Đáng kể ở đây có hai khối tài liệu quan trọng là tài liệu của HĐND và tài liệu của UBND. Các cơ quan này có chức năng quản lý tòan diện các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên địa bàn, định hướng và thực hiện các chính sách để phát triển địa phương thống nhất với mục tiêu của thành phố và của quốc gia. Vì thế, tài liệu của hai cơ quan này phản ảnh tương đối đầy đủ các mặt hoạt động của địa phương. Mặc dù vậy, với vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ khác nhau và tùy theo hoàn cảnh của từng thời kỳ lịch sử mà nội dung tài liệu lưu trữ của hai cơ quan này có những điểm khác nhau.
a) Đối với tài liệu của HĐND: tài liệu của các HĐND huyện chủ yếu thể hiện ở
những nội dung sau:
- Quá trình hình thành các HĐND huyện: Với tính chất của cơ quan dân cử, các HĐND huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc Hà Nội đều được thành lập và hoạt động theo nhiệm kỳ 3 năm (quy định của Hiến Pháp 1946 và Hiến pháp 1959), 4 năm (quy định của Hiến pháp 1980) và 5 năm (quy định của Hiến pháp 1992). Tài liệu của HĐND phản ảnh đầy đủ quá trình bầu cử và tiến hành các thủ tục để HĐND khóa mới đi vào hoạt động như: trình tự hiệp thương, lựa chọn đại biểu đề cử, việc tự ứng cử của các công dân khác; vai trò của các tổ chức - đoàn thể nhân dân, đặc biệt là UBMTTQ huyện đối với việc tổ chức cho nhân dân lựa chọn, nhận xét, góp ý để giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND; hoạt động của Thường trực HĐND trong việc chỉ đạo các cơ quan chính quyền khác và cơ quan cấp dưới để tổ chức bầu cử; việc bàn giao công việc giữa HĐND nhiệm kỳ cũ và mới. Những nội dung này được thể hiện đa dạng trong các công văn hướng dẫn, các biên bản bàn giao, biên bản họp,…
- Quá trình làm việc của HĐND huyện tại các kỳ họp: Đây là một trong những nội dung quan trọng bậc nhất trong khối tài liệu về hoạt động của các cơ quan chính quyền. Tài liệu về các kỳ họp của HĐND huyện như các biên bản làm việc, các báo cáo giải trình, biên bản thảo luận, các văn bản kiến nghị của cử tri và đại biểu HĐND, các nghị quyết, …. phản ảnh một cách chân thực quá trình
5
bàn luận, trao đổi và chất vấn để đưa đến ban hành những chủ trương, chính sách quan trọng cho địa phương. Sau Hiến pháp 1992 được sửa đổi, vai trò giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước được tăng cường làm đẩy mạnh hoạt động của các đại biểu HĐND, các ban của HĐND thông qua các hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri, hoạt động giải trình của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trước HĐND. Hoạt động này tạo ra những tài liệu khá quan trọng như các hồ sơ giám sát, báo cáo giám sát,…
- Hoạt động của Thường trực HĐND: Nội dung của tài liệu tập trung vào việc tổ chức cho các đại biểu HĐND tiếp xúc cử tri, việc tiếp thu và tổng hợp ý kiến cử tri của Thường trực HĐND; vaỉ trò và hoạt động của Thường trực HĐND trong việc đôn đốc, theo dõi các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện pháp luật và các Nghị quyết của HĐND khi cơ quan này không họp; hoạt động của Thường trực HĐND trong việc chuẩn bị các báo cáo và tổ chức các phiên họp thường kỳ của HĐND; việc báo cáo của Thường trực HĐND trước các đại biểu khi HĐND họp; điều hành hoạt động các ban của HĐND, điều hành và phối hợp hoạt động của HĐND, các ban của HĐND với các cơ quan khác trong chính quyền…
b) Đối với tài liệu của các UBQC, UBHC huyện trước đây và UBND huyện ngày nay: nội dung tài liệu chủ yếu thể hiện hoạt động của cơ quan này cùng các đơn vị trực thuộc trong việc tổ chức, điều hành mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn theo những nhiệm vụ của từng thời kỳ. Thông qua đó, tài liệu cũng cho thấy tòan cảnh kinh tế - xã hội của địa phương trên nhiều phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, quân sự,… Khối lượng tài liệu của cơ quan hành chính – hành pháp lớn hơn rất nhiều và đề cập tới nhiều nội dung cụ thể hơn so với tài liệu của HĐND.
Tài liệu của các UBHC, UBND đều thể hiện những nội dung chính sau: + Hoạt động của chính quyền và nhân dân địa phương trong việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại thời kỳ sau 1954-1975:
Những vấn đề chủ yếu được thể hiện trong tài liệu lưu trữ thời kỳ này là vai trò và hoạt động của chính quyền địa phương trong việc tiếp quản chính quyền sau khi hòa bình lập lại; tiến hành cải cách ruộng đất những năm 1955-1956 và cải tạo công thương nghiệp ở các quận nội thành những năm 1955-1956 ở các huyện và làng xã; thực hiện các kế hoạch 3 năm và kế hoạch 5 năm, trong đó phải kể đến các nội dung về thực hiện xây dựng mô hình kinh tế tập thể mà chủ yếu là việc tổ chức và điều hành hoạt động của các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, các tổ sản xuất tiểu thủ công nghiệp,…; những đóng góp của địa phương trong việc huy động sức người, sức của để phục vụ tiền tuyến như xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, tuyển quân chi viện cho miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước….
6
Cũng trong thời kỳ này, Hà Nội được mở rộng, từ chỉ có 4 khu phố nội thành là Ba Đình, Đống Đa, Hòan Kiếm, Hai Bà Trưng đã sáp nhập thêm các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm. Sự thay đổi này trong địa giới Hà Nội cũng ghi dấu những chuyển biến trong nội dung tài liệu lưu trữ của các huyện mới được sáp nhập, trong đó thể hiện những thay đổi trong định hướng phát triển của địa phương và quan hệ công tác của các chính quyền huyện mới sáp nhập đối với cơ quan cấp trên.
+ Hoạt động của chính quyền và nhân dân các huyện, quận Hà Nội, Hà Tây trong việc khắc phục hậu quả chiến tranh và tiếp tục xây dựng Chủ nghĩa xã hội thời kỳ 1976 đến 1986:
Sau khi hòa bình thống nhất đất nước, kỳ họp thứ 4 Quốc Hội khóa VI đã phê chuẩn việc mở rộng Hà Nội lần thứ hai. Sau quyết định này, 5 huyện của Hà Tây và 01 thị xã của tỉnh Hà Sơn Bình được sáp nhập vào Hà Nội là Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức, Thị xã Sơn Tây, huyện Mê Linh và huyện Sóc Sơn của tỉnh Vĩnh Phú cũng trở thành ngoại thành Hà Nội. Điều này không những làm gia tăng khối lượng tài liệu lưu trữ cấp huyện của Hà Nội, mà còn làm cho tài liệu của các huyện Hà Nội thêm phong phú về nội dung và đa dạng về thành phần. Sự chuyển giao về đơn vị hành chính và quản lý đối với các huyện đã làm phát sinh thêm những nội dung mới trong định hướng phát triển và quan hệ công tác được thể hiện trong tài liệu lưu trữ cấp huyện thời kỳ này. Tài liệu của các quận, huyện ở Hà Nội đã phản ảnh quá trình thực thi các chủ trương thay đổi địa giới hành chính cũng như những hệ quả và hậu quả do quyết định đó đưa lại.
Chính quyền và nhân dân các huyện của Hà Nội thời kỳ này cũng đã tập trung thực hiện các nhiệm vụ khôi phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, đáng kể là các phong trào được phát động rộng rãi trong toàn Hà Nội cho tới các huyện, quận, các hợp tác xã, nhà máy, xí nghiệp. Các phong trào này bao gồm: sản xuất tiết kiệm, xây dựng nếp sống văn minh – gia đình văn hóa, xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp với đường lối của Trung ương và vị trí phát triển của Thủ đô. Đây là thời kỳ ghi đậm dấu ấn của cơ chế “ tập trung – quan liêu – bao cấp” với hàng loạt các chính sách về điều chỉnh giá – lương – tiền, các hình thức quản lý lao động và phân phối thành quả theo công điểm, các phong trào đưa thanh niên đi xây dựng vùng kinh tế mới, vai trò của các hợp tác xã và các xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế của Thủ đô nói chung và từng quận, huyện, thị nói riêng, sự hình thành và hoạt động của các công trình mới mang đặc trưng thời kỳ này như các cửa hàng bách hóa tổng hợp, các khu tập thể lắp ghép, … Từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, sự suy thoái của nền kinh tế - xã hội và những bất cập trong cơ chế quản lý được bộc lộ rõ nét. Tất cả những sự kiện này đều
7
được phản ảnh sinh động trong tài liệu lưu trữ cấp huyện và chúng trở thành chứng tích cho một thời kỳ thời kỳ bao cấp ở Hà Nội.
+ Hoạt động của chính quyền và nhân dân các huyện, quận trong việc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội từ năm 1986 đến nay: Tài liệu lưu trữ cấp huyện thời kỳ này ghi lại sự thoái trào của các mô hình kinh tế kiểu cũ như các hợp tác xã, các xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ cũng như những điều chỉnh của các chính quyền địa phương nhằm đưa huyện mình thoát khỏi suy thoái, thiết lập sự ổn định và phát triển từng bước. Khi nền kinh tế - xã hội đã bước ra khỏi khủng hoảng và có những bước phát triển, sự thay đổi theo nhịp độ ngày càng nhanh của các địa phương làm cho hoạt động quản lý ngày càng trở nên phức tạp, đòi hỏi sự nhạy bén và tòan diện của chính quyền cấp huyện. Do vậy, trong nội dung tài liệu lưu trữ cấp huyện ở Hà Nội cũng cho thấy rõ điều đó. Về cơ bản, nội dung tài liệu của cấp huyện ở Hà Nội được thể hiện qua từng lĩnh vực quản lý của chính quyền, bao gồm:
- Về hoạt động nội chính: tài liệu lưu trữ cấp huyện chủ yếu phản ảnh quá trình thành lập và tổ chức bộ máy chính quyền ở địa phương, việc thành lập, sáp nhập, giải thể của các cơ quan thuộc bộ máy chính quyền hoặc các cơ quan, doanh nghiệp do chính quyền quyết định thành lập; phản ảnh chính sách cán bộ của địa phương trong đó có những chính sách về tuyển dụng, sử dụng, quy hoạch, đào tạo, thuyên chuyển, bổ nhiệm,… đối với cán bộ, định biên biên chế, việc thực hiện chế độ về tiền lương, bảo hiểm xã hội, chế độ nghỉ lao động theo quy định của nhà nước, chế độ ưu đãi với cán bộ đã có đóng góp trong chiến tranh,…; phản ảnh chính sách của địa phương và việc thực hiện các chính sách, chủ trương của cấp trên về an ninh chính trị, đảm bảo hoạt động quân sự trên địa bàn như thực hiện chính sách nghĩa vụ quân sự, dự bị động viên, dân quân tự vệ, tổ chức và quản lý hoạt động của các đội tự vệ tại cơ sở, tổ chức hội thao, tổ chức các hoạt động kỷ niệm ngày Truyền thống quân đội và Quốc phòng toàn dân, tuyên truyền và triển khai các nhiệm vụ về phòng chống cháy nổ, giữ gìn an ninh – trật tự trong các dịp lễ, tết,…; tài liệu phản ảnh công tác thanh tra, kiểm tra của chính quyền, hoạt động của Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân trong việc giám sát, tổ chức công tác điều tra, xét xử. Những năm gần đây còn xuất hiện tài liệu về cải cách hành chính, thực hiện cơ chế một cửa tại các UBND cấp huyện cũng như việc thí điểm không tổ chức HĐND ở cấp huyện, quận và phường, …
- Về quản lý kinh tế: đây là nội dung chủ yếu. Về nội dung này, tài liệu lưu trữ cấp huyện chủ yếu phản ảnh tòan diện các hoạt động kinh tế của một địa phương bao gồm: tài chính, ngân sách, đầu tư, thuế, vật giá, quản lý và hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp tư nhân; hướng dẫn và quản lý doanh nghiệp cổ phần hóa; phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ hoặc nông – lâm nghiệp, thủy
8
sản tùy theo đặc thù điều kiện tự nhiên và thế mạnh kinh tế của từng địa phương, chính sách và những hành động cụ thể của chính quyền trong việc phát triển các nghề phụ, các nghề thủ công truyền thống, quy hoạch các làng nghề ở Hà Nội, chính sách đối với các khu công nghiệp, các khu chế xuất, quản lý các chợ,…Qua khảo sát tài liệu lưu trữ của các quận cho thấy, chính quyền các quận thuộc nội thành Hà Nội đều thành lập các Ban quản lý chợ đối với những chợ đã hình thành sớm và có nền nếp giao thường từ trước như Chợ Đồng Xuân, Chợ Long Biên,.. Bên cạnh đó, tại các quận có xu hướng quy hoạch các chợ tạm, chợ cóc thành những chợ được xây kiên cố và có Ban quản lý chặt chẽ như các chợ Kim Liên, Khương Thượng, Láng Thượng A, Láng Thượng B, chợ Ngọc Hà,… cũng như xây mới một số chợ thành trung tâm thương mại. Các thông tin quản lý trong tài liệu lưu trữ của các huyện về vị trí, vai trò, vai trò của các làng nghề đối với sự phát triển của địa phương là một trong những cơ sở để chính quyền Thành phố chủ trương khôi phục các làng nghề, trong đó ưu tiên khôi phục, bảo tồn các làng nghề truyền thống đang có nguy cơ mai một như Sơn mài Đông Mỹ (Thanh Trì), Nón lá Đại Áng, Giấy Sắc Nghĩa Đô, Đúc đồng Ngũ Xã, Tết thao Triều Khúc,…
- Về quy hoạch các công trình của địa phương và quản lý đô thị: nội dung này đề cập tới việc xây dựng, sử dụng và quản lý cơ sở hạ tầng ở địa phương. Với các quận, thị xã thì nội dung này còn phản ảnh những định hướng nhằm đảm bảo sự phát triển của địa phương theo hướng đô thị hóa một cách hợp lý. Tài liệu của các huyện chủ yếu tập trung vào các quy hoạch tổng thể của địa phương theo từng giai đoạn, trong đó có các công trình và các dự án trọng điểm như xây dựng các khu công nghiệp, các trung tâm thương mại, các khu chợ có quy mô lớn; quy hoạch hệ thống đường điện, trạm điện, các công trình thủy lợi phục vụ cho hệ thống tưới tiêu (đối với các huyện nông nghiệp), các công trình thuộc hạ tầng đô thị (đối với các quận và thị xã); hệ thống đường sá, cầu phà và bến bãi, phát triển hệ thống giao thông vận tải công cộng; phát trỉển hạ tầng và dịch vụ bưu chính – viễn thông với mạng lưới bưu điện, đường dây internet, các trạm thu – phát sóng phát thanh, truyền hình và sóng điện thoại;… Bên cạnh đó, khối tài liệu về quy hoạch và quản lý đô thị cũng phản ảnh công tác quản lý xây dựng ở địa phương thông qua các hồ sơ cấp giấy phép xây dựng, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện công tác trật tự đô thị,…
- Về quản lý tài nguyên và môi trường: tài liệu cấp huyện phản ảnh chi tiết về việc quy hoạch và phân vùng các loại đất như đất nông nghiệp, đất thổ cư, bản đồ phân tích tính chất các khu vực đất đai tại huyện để làm căn cứ quy hoạch phát triển kinh tế. Đáng chú ý trong khối tài liệu về quản lý đất đai là các hồ sơ địa chính đã phản ảnh rõ sự thay đổi về chủ sở hữu và mục đích sử dụng các loại đất trên địa bàn. Ngoài tài nguyên đất, các loại tài nguyên khác như tài nguyên nước, các khu mỏ đá vôi, cao
9
lanh,… cũng được quản lý và được thể hiện trong các bản đồ khoáng sản, bàn đồ địa chất,… Cùng với đó, tài liệu lưu trữ cấp huyện cũng phản ảnh các nội dung về quản lý môi trường như những đánh giá thẩm tra về tác động môi trường của các dự án, đề án, các quy hoạch phát triển công nghiệp, khai khoáng; các hồ sơ về việc cấp phép hoặc thẩm tra, kiểm tra công nghệ xử lý nước thải, rác thải đối với các nhà máy, xí nghiệp, các đơn vị sản xuất – kinh doanh; những quy định, hướng dẫn thực hiện biện pháp bảo vệ môi trường; các hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường;…Những tài liệu, báo cáo này cũng chính là căn cứ quan trọng để các quận, huyện kiến nghị thành phố về các giải pháp quy hoạch khu công nghiệp và chế xuất, di chuyển các đơn vị sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư, tiêu biểu là khu vực Nhà máy Xà phòng Hà Nội (nay là Unilever Việt Nam), Nhà máy Thuốc lá Thăng Long và Nhà máy Cao su Sao Vàng (tên gọi dân gian là khu cao-xà-lá).
- Về quản lý văn hóa – giáo dục: tài liệu lưu trữ cấp huyện phản ảnh sinh động những hoạt động văn hóa của người dân địa phương và quản lý văn hóa của chính quyền. Tài liệu thể hiện các biện pháp quản lý của chính quyền địa phương đối với công tác giáo dục – đào tạo, đặc biệt là giáo dục phổ thông và đào tạo nghề tại địa phương, trong đó có những văn bản về công nhận Trường điểm, Trường đạt chuẩn, các quyết định bổ nhiệm lãnh đạo các trường, phân bổ chỉ tiêu ngân sách,... Tài liệu lưu trữ cấp huyện cũng phản ảnh các phong trào văn hóa- văn nghệ do chính quyền tổ chức nhằm đảm bảo đời sống văn hóa, tinh thần cho dân cư, định hướng phát triển văn hóa cho cộng đồng như thiết lập các điểm, các cụm dân cư văn hóa, tổ chức các giải thi đấu thể thao, văn nghệ chào mừng những ngày lễ lớn, tuyên truyền, cổ động cho các hoạt động văn hóa của Trung ương và Thành phố. Cùng với đó, tài liệu lưu trữ cấp huyện còn cho thấy sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động văn hóa trong đó có việc cấp giấy phép kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ văn hóa; quản lý các tụ điểm giải trí thông qua các quy định về giờ mở cửa, các dịch vụ không được phép cung cấp, các chế tài kiểm tra, xử phạt,…; phòng chống tệ nạn xã hội.
- Về quản lý dân cư và y tế: tài liệu lưu trữ cấp huyện cho thấy chủ trương và những hành động cụ thể của các cơ quan chính quyền trong công tác thống kê dân số, quản lý hộ tịch, hộ khẩu, kế hoạch hóa gia đình, phòng chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe cộng đồng thông qua tuyên truyền, giáo dục, vận động, tổ chức cho trẻ tiêm phòng hoặc uống vacxin, tổ chức các hoạt động hưởng ứng ngày dân số thế giới, …
3. Làm thế nào để giúp độc giả tiếp cận tài liệu lưu trữ cấp huyện của Thành
phố Hà Nội dễ dàng hơn?
10
Tuy có nhiều ý nghĩa đối với việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa Hà Nội nhưng tài liệu lưu trữ cấp huyện của Hà Nội vẫn chưa được các nhà nghiên cứu khai thác, sử dụng hiệu quả. Nguyên nhân là do các nhà nghiên cứu chưa biết tới nguồn tài liệu đó, và các cơ quan lưu trữ cũng còn những hạn chế, nhất là lưu trữ huyện.
Để giúp các nhà nghiên cứu và những độc giả quan tâm được khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ cấp huyện của Hà Nội, các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan lưu trữ cần có những biện pháp hữu hiệu:
- Đảm bảo khung pháp lý phù hợp cho việc tiếp cận tài liệu của độc giả: Điều 69 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) quy định “công dân có quyền được thông tin”. Do vậy, việc được tiếp cận với thông tin tài liệu lưu trữ là quyền của công dân. Tuy nhiên, tài liệu lưu trữ có tính đặc thù mà không phải công dân nào cũng được quyền khai thác nếu chưa được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhưng thẩm quyển cho phép khai thác tài liệu của mỗi lưu trữ lại khác nhau, thậm chí chưa rõ ràng, nhất là với lưu trữ huyện. Có thể nói, để cho tài liệu lưu trữ cấp huyện đến được với công chúng nhiều hơn và phát huy giá trị của nó trong đời sống xã hội thì khung pháp lý về công tác lưu trữ phải được bổ sung, hòan thiện về nhiều khía cạnh. Theo tác giả thì khía cạnh đầu tiên cần được bổ sung trong những quy định của pháp luật chính là việc phân công, phân cấp quản lý tài liệu lưu trữ đối với từng loại hình cơ quan lưu trữ và ở từng cấp hành chính, trong đó có phân biệt rõ ràng chức năng lưu trữ lịch sử và lưu trữ hiện hành cho lưu trữ huyện.
- Đa dạng hóa hình thức tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ: Hiện nay, hầu hết các lưu trữ huyện đều chưa có hình thức tổ chức khai thác, sử dụng đáng kể nào. Điều đó đã hạn chế kết quả của công tác này cũng như chưa giúp cho xã hội biết tới và được tiếp cận với các thông tin tài liệu lưu trữ. Những khảo sát của tác giả đối với cán bộ lưu trữ cấp huyện tại Hà Nội cho thấy nhiều cán bộ đã có ý thức đưa thông tin tài liệu đến gần hơn với công chúng nhưng lại không tìm được giải pháp hữu ích. Cho nên, việc đa dạng hóa các hình thức tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ cấp huyện phải gồm nhiều giải pháp, trong đó vừa tổ chức tốt các hình thức hiện có, đưa thêm một số hình thức mới chưa được áp dụng như công bố, giới thiệu và triển lãm tài liệu lưu trữ. Ở hòan cảnh nhận thức xã hội về công tác lưu trữ chưa được đầy đủ thì công bố và triển lãm tài liệu lưu trữ là hình thức có hiệu quả để công chúng biết tới công tác này nhiều hơn. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần thực hiện những giải pháp về cán bộ vì đây là yếu tố có vai trò quyết định đối với tòan bộ công tác khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ cấp huyện ở Hà Nội.
11
- Xây dựng hệ thống thông tin tài liệu lưu trữ: Những triển lãm tài liệu lưu trữ gần đây là một trong những minh chứng cụ thể cho sự kém hiệu quả của mạng lưới thông tin giữa các cơ quan. Rõ ràng là, những đơn vị có điều kiện và năng lực tổ chức triển lãm thì không được biết tới tài liệu và ngược lại, những cơ quan nắm giữ tài liệu lại thiếu những điều kiện cần thiết để tổ chức triển lãm. Không những thế, sự thông tin giữa các cơ quan lưu trữ với nhau cũng chưa được đảm bảo. Do đó khi độc giả không khai thác được tài liệu mình cần ở một cơ quan lưu trữ cũng không nhận được sự giúp đỡ và chỉ dẫn cần thiết để khai thác tài liệu ở các lưu trữ khác. Với các lưu trữ cấp huyện, điều này càng khó khăn hơn vì chúng gần như “đóng cửa” với xã hội khi hoạt động với chức năng của lưu trữ hiện hành. Vì vậy, trong mỗi cơ quan lưu trữ phải xây dựng được hệ thống thông tin tài liệu lưu trữ của mình nhằm đảm bảo việc đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng của bản thân cơ quan, lãnh đạo và xã hội. Song song với đó là hệ thống thông tin giữa các cơ quan lưu trữ nhằm chia sẻ thông tin về tài liệu cho nhiều cơ quan khác nhau, đa dạng hóa thành phần thông tin được cung cấp đến người sử dụng. Theo cách đó, mỗi cơ quan lưu trữ không chỉ cho phép độc giả được khai thác tài liệu do mình bảo quản mà còn cung cấp những thông tin liên quan đến tài liệu mà độc giả cần đang được bào quản tại lưu trữ khác, chỉ dẫn độc giả đến với những tài liệu đó nhanh hơn. Muốn vậy, công tác tổ chức khoa học tài liệu lưu trữ phải được thực hiện tốt cùng với cải tiến, hiện đại hóa hệ thống công cụ tra cứu. Cải tiến công cụ tra cứu khoa học là bước đi đầu tiên của việc xây dựng hệ thống thông tin tài liệu lưu trữ.
Tóm lại, tài liệu lưu trữ cấp huyện của Hà Nội là một nguồn sử liệu có giá trị để nghiên cứu lịch sử, văn hóa của vùng đất nghìn năm văn hiến. Nguồn sử liệu này có thành phần đa dạng, nội dung phong phú, đề cập tới nhiều giai đoạn phát triển khác nhau của Hà Nội và trong từng giai đoạn ấy, chúng lại khắc họa sinh động nhiều khía cạnh của đời sống dân cư Thủ đô, làm giàu thêm vốn tư liệu cho các nhà nghiên cứu, cho những người yêu và thích tìm hiểu về Hà Nội. Nhưng, để vốn quý này phát huy giá trị trong đời sống xã hội thì các nhà quản lý, các cơ quan lưu trữ và những cơ quan có thẩm quyền cần nhiều hành động thiết thực hơn nữa, đặc biệt là bổ sung khung pháp lý phù hợp, đa dạng hóa các hình thức tổ chức khai thác sử dụng và xây dựng hệ thống thông tin tài liệu lưu trữ hiệu quả.