MỤC LỤC

Nội dung Trang

I- Sơ lược lý lịch tác giả 1

II - Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị 1

III- Mục đích yêu cầu của sáng kiến: 2

1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến 2

2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến 4

3. Nội dung sáng kiến 5

3.1 Tiến Trình Thực hiện 5

3.2 Thời gian thực hiện 6

3.3 Biện pháp tổ chức 6

3.3.1 Tạo Hứng Thú Tự Học Cho Học Sinh 6

3.3.2 Hướng Dẫn Học Sinh Cách Xây Dựng Kế Hoạch Học Tập 7

3.3.3. Hướng Dẫn Tài Liệu Liên Quan Đến Môn Học 7

3.3.4 Hướng Dẫn Học Sinh Cách Học Thuộc Và Ghi Nhớ Các 8

Cấu Trúc Ngữ Pháp Tiếng Anh

3.3.5 Giao Nhiệm Vụ Cho Các Em Học Sinh Tự Học Ở Nhà 8

Thông Qua Việc Hoàn Thành Những Yêu Cầu Trong Phiếu Tự Học

3.3.6 Kiểm Tra và kiểm soát theo hướng khuyến khích Việc Tự Học Ở Nhà Của Các Em Học Sinh 9

3.3.7 Điểm Mới Và Sáng Tạo Của Phiếu Tự Học 13

IV- Hiệu quả đạt được 15

V. Mức độ ảnh hưởng 21

VII- Kết luận 22

PHỤ LỤC 1: phiếu tự học của học sinh được thiết kế bởi giáo viên nhằm giúp các em học sinh tự học ngữ pháp Tiếng Anh thông qua tự thực hành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong phiếu tự học

PHỤ LỤC 2: Phiếu tự học do học sinh thực hiện

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO AN GIANG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG THPT TỊNH BIÊN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Tịnh Biên, ngày 13 tháng 3 năm 2019

BÁO CÁO

Kết quả thực hiện sáng kiến

I- Sơ lược lý lịch tác giả:

Nam, nữ: Nữ

- Họ và tên: NGUYỄN THỊ KIM THANH - Ngày tháng năm sinh: 28 – 10 – 1980

- Nơi thường trú: tổ 3, ấp Tây Hưng, xã Nhơn Hưng, Tịnh Biên, An Giang

- Đơn vị công tác: Trường THPT Tịnh Biên

- Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp

- Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ

- Lĩnh vực công tác: Giảng dạy môn Tiếng Anh

II.- Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:

➢ THUẬN LỢI

• Đội ngũ giáo viên đủ đáp ứng yêu cầu giảng dạy, đa số nhiệt tình,thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm đối với ngành nghề. Đội ngũ giáo viên của trường có chuyên môn cao. Đa số

giáo viên nghiêm túc trong giảng dạy và rất yêu nghề. Tổng số Giáo viên, công nhân viên là

73.

• Chỉ đạo ngành tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lí, chỉ đạo chuyên môn.

➢ KHÓ KHĂN

• Phòng học thiếu nên sỉ số lớp rất cao.

• Tỉ lệ học sinh yếu kém còn cao, đầu vào lớp 10 chất lượng thấp và không đều, còn không ít phụ huynh học sinh do điều kiện gì đó thiếu quan tâm việc học và giáo dục con em. Các em học sinh phải học quá nhiều môn (chính khóa và trái buổi) thêm vào đó nhiều học sinh phải phụ giúp công việc gia đình, đi làm thêm.... Nên học sinh không có nhiều thời gian để học bài. Có hơn 900 học sinh của trường, phần lớn trong địa bàn thị trấn và một phần rải rác ở các xã lân cận của huyện. Do hạn chế của một số điều kiện khách quan như: đầu vào thấp,

học sinh thiếu cần cù, siêng năng trong học tập và các em phải phụ giúp gia đình trong công việc nên không dành nhiều thời gian cho học tập. Điều này đã gây trở ngại cho công tác

Trang 1

chuyên môn.

• Vì đặc thù của địa bàn là vùng sâu, vùng xa, lao động chân tay và buôn bán là chủ yếu, kinh tế gia đình của đại đa số phụ huynh học sinh còn khó khăn. Đa số phụ huynh

phải lao động vất vả và có rất ít thời gian để quan tâm đến việc học của con em. Đa số học sinh phải phụ giúp công việc gia đình nên hoạt động chủ yếu không phải là hoạt động học.

- Tên sáng kiến: Tăng Vốn Từ Vựng Tiếng Anh Cho Học Sinh Khối 10 Trường THPT Tịnh Biên Thông Qua Thực Hành Kĩ Năng Đọc Mở Rộng và Viết Theo Yêu Cầu

Trong Phiếu Tự Học.

- Lĩnh vực: Tiếng Anh

III- Mục đích yêu cầu của sáng kiến: Sáng kiến được biên soạn với mục đích nhằm đưa ra các giải pháp mới và sáng tạo nhằm

giúp hướng dẫn các em học sinh khối 10 trường Trung Học Phổ Thông Tịnh Biên nâng cao

vốn từ vựng của mình thông qua việc hoàn thành những yêu cầu trong phiếu tự học. Sau khi đã

học các bài mới trong Sách Giáo Khoa theo từng chủ đề nhất định, các em học sinh khối 10

phải nắm vững một số từ vựng nhất định thông qua các chủ đề đó. Tuy nhiên, việc học từ mới

đối với các em là quá khó. Các em vừa học đã quên. Với vai trò là giáo viên đứng lớp, tôi đã

thiết kế ra các phiếu tự học, để thông qua đó, các em có cơ hội ghi lại nghĩa Tiếng Việt cho

những từ mới mà các em đã học, gặp lại các từ mới đó trong các bài đọc của hoạt động đọc mở

rộng, sau đó sử dụng các từ mới này viết lại các bài viết theo yêu cầu của giáo viên. Chính

những hoạt động này sẽ giúp các em học sinh nhớ từ một cách lâu hơn, học từ một cách có ý

nghĩa hơn, giảm bớt khó khăn về vấn đề từ vựng cho học sinh khối 10 trường THPT Tịnh

Biên.

1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến Chúng ta đã bước vào kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của thông tin khoa học kĩ thuật. Tuy

nhiên, không phải ai cũng có thể hòa mình và bắt kịp sự phát triển hay nói cách khác, đó là sự bùn nổ về thông tin khoa học và công nghệ. Như vậy chúng ta cần phải trang bị gì cho mình để

hòa mình vào sự phát trển của loài người? Nhiều bạn trẻ chọn Tiếng Anh như là một kiến thức

để tiến bước trong tương lai. Tuy nhiên Tiếng Anh lại không phải là một lựa chọn duy nhất để

các em phấn đấu trong quá trình học tập. Học sinh trung học nói chung, đặc biệt là học sinh ở trường THPT Tịnh Biên nói riêng ngày nay hầu như có rất ít hay thậm chí không có thời gian rảnh. Ngoài thời gian học chính khóa các buổi trong tuần, các em phải học ngoài giờ lên lớp, phụ đạo, quốc phòng…buổi tối ở nhà các em còn phải chuẩn bị bài cho ngày học hôm sau. Cho nên, ngoài thời gian học Tiếng Anh trên lớp, học sinh hiếm khi có thời gian để trao dồi thêm

môn Tiếng Anh ở nhà. Thêm vào đó, giáo viên chịu áp lực của việc hoàn thành chương trình học trong sách giáo khoa nên cũng chỉ có không hơn một vài tiết để có thể truyền đạt những

Trang 2

biện pháp học Tiếng Anh có hiệu quả cho học sinh.

Trong chương trình học hiện tại, tất cả các bài tập đọc, nghe đòi hỏi các em phải hiểu

nghĩa đa số các từ vựng trong bài, các em mới có thể làm được các bài tập theo sau. Hơn nữa,

kĩ năng nói và viết Tiếng Anh cũng đòi hỏi học sinh phải có một vốn từ vựng nhất định mới có

thể diễn đạt được hết ý tưởng và suy nghĩ của mình thông qua lời nói hay chữ viết.

Thêm vào đó, bài tập Tiếng Anh trong các bài thi, bài kiểm tra gần đây chú trọng nhiều

hơn phần ngữ nghĩa của từ. Nó đòi hỏi học sinh phải có một kiến thức từ vựng nhất định mới

có thể hiểu hết ý nghĩa của đa số các từ trong câu, từ đó mới có thể chọn được đáp án đúng cho

các câu hỏi.

Cuối cùng, mặc dù được sự quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi của Ban Giám Hiệu

trong quá trình dạy và học môn Tiếng Anh; giáo viên giảng dạy luôn nhiệt tình hết lòng vì học sinh, nhưng do đặc điểm là học sinh ở vùng sâu vùng xa, trình độ học ngoại ngữ của các em không cao. Thêm vào đó, các bài đọc, viết, nghe, nói trong Sách Giáo Khoa dường như vượt

qua khỏi khả năng học của các em. Giáo viên lại phải bám sát Sách Giáo Khoa và chương trình

học, cho nên trong quá trình dạy và học môn Tiếng Anh gặp cũng không ít khó khăn, vất vả.

Trong một cuộc khảo sát ở đầu năm học trên 98 học sinh lớp 10 trường THPT Tịnh

Biên, cả học sinh giỏi và chưa giỏi môn Tiếng Anh về những khó khăn mà các em gặp phải

trong quá trình học môn Tiếng Anh, kết quả nhận được như sau:

Những khó khăn mà các bạn chưa giỏi môn Tiếng Anh đã cho biết và số lần đề cập trong

phiếu khảo là:

- Mất căn bản từ cấp dưới: 35/48 - Gặp khó khăn về vấn đề về từ vựng : 38/48

- Gặp khó khăn về cách đọc, phát âm : 1/48 - Gặp các vấn đề khó khăn về phần ngữ pháp : 35/48

- Khó khăn khi nghe Tiếng Anh : 1/48 - Gặp khó khăn khi dịch Tiếng Anh : 2/48 - Khó khăn trong kĩ năng viết : 4/48

- Gặp vấn đề khi giao tiếp : 2/48 - Không có hứng thú học Tiếng Anh : 2/48

Trang 3

Kết quả được biểu diễn qua đồ thị sau:

40

35

30

25

20

Series1

15

10

5

0

Nghe

dịch

Viết Giao tiếp Không

mất căn bản

Từ vựng phát âm Ngữ pháp

hứng thú

Đồ thị 3.1:Đồ thị biểu diễn những khó khăn mà học sinh chưa giỏi môn Tiếng Anh gặp phải

Những khó khăn mà các bạn giỏi môn Tiếng Anh gặp phải trong quá trình học tập môn

Tiếng Anh và số lần đề cập thu thập được từ phiếu khảo sát là:

- Mất căn bản từ cấp dưới: 1/50

- Gặp khó khăn về vấn đề về từ vựng: 30/50 - Gặp khó khăn về cách đọc, phát âm: 21/50 - Gặp các vấn đề khó khăn về phần ngữ pháp: 12/50

- Khó khăn khi nghe Tiếng Anh : 22/50 - Gặp khó khăn khi dịch Tiếng Anh : 6/50

- Khó khăn trong kĩ năng viết : 3/50 - Gặp vấn đề khi giao tiếp: 11/50

- Chưa tìm ra biện pháp học :2/50

Trang 4

Những kết quả này được biểu diễn qua đồ thị như sau:

35

30

25

20

15

Series1

10

5

0

Từ vựng phát âm Ngữ pháp Nghe

dịch

Viết

Giao tiếp Chưa có

mất căn bản

biện pháp học

Đồ thị 3.2: Đồ thị biểu diễn những khó khăn mà học sinh giỏi môn Tiếng Anh gặp phải

Còn theo giáo viên dạy Tiếng Anh của trường thì khó khăn mà các bạn học sinh gặp

phải trong quá trình học môn Tiếng Anh và số lần đề cập được thu thập được trong cuộc điều

tra bằng phiếu khảo sát với 9 giáo viên dạy môn Tiếng Anh của trường là:

- Không đủ vốn từ vựng: 8/9

- Không nhớ bài học cũ: 6/9 - Không thể tập trung khi giáo viên giảng bài: 5/9 - Khó khăn trong các kĩ năng viết, và đọc: 2/9

- Khó khăn trong cách phát âm: 2/9

Phân tích những khó khăn của học sinh giỏi và chưa giỏi môn Tiếng Anh ở khối 10 trường

THPT Tịnh Biên cho thấy: - Tất cả học sinh đều gặp phải những khó khăn khi học tập môn Tiếng Anh

- Cả học sinh giỏi môn Tiếng Anh và những học sinh chưa giỏi môn này đều có những khó khăn tương tự nhau nhưng khó khăn lớn nhất theo các em học sinh và cả theo giáo viên dạy môn Tiếng Anh ở trường là vốn từ vựng của các em học sinh.

Nguyên Nhân của thực trạng này:

Trang 5

Được biết nguyên nhân mà học sinh trường THPT Tịnh Biên gặp khó khăn trong vấn đề từ vựng là do các bạn học chưa giỏi môn Tiếng Anh cảm thấy không quen trong việc học thuộc lòng các bài học và từ vựng môn này. Học thuộc lòng các bài bằng tiếng Việt thì dễ, còn học thuộc lòng các từ vựng Tiếng Anh, các bạn cảm thấy không quen. Cứ mỗi ngày vào lớp là giáo viên dạy từ mới. Về nhà các bạn không học thuộc từ cũ, mà có học các bạn cũng không thể nhớ

lâu. Không nhớ từ cũ, lại học thêm từ mới làm các bạn không thể hiểu được bài. Còn cách viết

nữa, dù có cố gắng như thế nào các bạn cũng không thể nào viết các từ mới Tiếng Anh cho

đúng chính tả.

Còn những bạn giỏi Tiếng Anh, các bạn này luôn chuẩn bị bài trước ở nhà như tra từ mới cho các bài học, học các từ mới đã được dạy ở tiết trước; rất nhiều bạn còn ghi chú lại vào

những tờ giấy nhỏ những từ mới cần học, ghi vào sổ tay, dùng viết tô những phần quan trọng

cần phải nhớ…. Sau đây là những hình ảnh ghi lại được từ cách mà các bạn giỏi Tiếng Anh đã

Trang 6

làm để nhớ và ôn lại bài học về từ vựng Tiếng Anh:

Tuy đã rất cố gắng để học bài và ôn từ như vậy, nhưng các em vẫn không thể nào nhớ hết

tất cả các từ mà các em đã học. Thậm chí, các em cho biết nghĩa tiếng việt của các từ mà các

em ghi xuống không hoàn toàn chính xác trong mọi ngữ cảnh . Bên cạnh đó, dù sao Tiếng Anh

vẫn là tiếng nước ngoài nên các em dù có giỏi cũng không thể nắm hết tất cả các từ vựng môn Tiếng Anh, cho nên từ vựng vẫn là khó khăn chung của tất cả học sinh học môn Tiếng Anh.

Đó là những nguyên nhân tìm hiểu được, nhưng theo quan sát thực tế với nhiều năm giảng

dạy, giáo viên thấy được nguyên nhân thực sự của việc đa số các em học sinh gặp khó khăn về

mặt từ vựng là do các em thiếu tiếp cận thật sự với ngôn ngữ Tiếng Anh. Các em ít tham gia vào các hoạt động đọc, hay viết Tiếng Anh. Các em chỉ tham gia học Tiếng Anh 3 tiết học trên

tuần. Trong 3 tiết đó, các em học các kiến thức trong Sách Giáo Khoa, và vì Sách Giáo Khoa có sẵn cho học sinh nên các em biết trước được mình sẽ học cái gì. Để đối phó với các tiết học đó, các em luôn có đáp án sẵn cho tất cả các bài trong sách mà không bao giờ biết lí do vì sao

các em chọn đáp án như vậy. Đáp án các em có được một phần là do các em sử dụng sách cũ

đã được những người học trước ghi lại, hay các em có thể dễ dàng tìm được đáp án trong các

trang mạng. Vì lí do đó, các em không cần phải học hay làm bất cứ một thứ gì ngoài đọc lại

đáp án cho giáo viên đứng lớp. Điều này rất dễ dàng cho mọi giáo viên nhận thấy vì trong quá

trình giảng dạy, học sinh luôn đưa ra các đáp án đúng, nhưng khi yêu cầu các em giải thích hay

dịch các câu sang Tiếng Việt thì các em hoàn toàn không biết hay gặp khó khăn khi dịch. Sau

khi học các bài trên lớp, vì sợ học sinh không nhớ từ vựng, nên giáo viên thường yêu cầu các

em học bài và trả bài ở tiết học sau. Tuy nhiên việc học từ vựng của các em chỉ dừng lại ở chỗ

ghi từ Tiếng Anh, ghi nghĩa Tiếng Việt của các từ đó, nếu kĩ hơn một chút thì thêm dấu nhấn

và loại của từ. Học sinh cố gắng rất nhiều để học, thậm chí còn ghi lại ra các tờ giấy, sổ tay…

như được trình bày ở trên. Tuy nhiên các em chỉ nhớ được một thời gian ngắn. Sau thời gian

đó, các em lại quên đi từ mới. Tình trạng này kéo dài làm cho từ vựng trở thành khó khăn

chung cho hầu hết học sinh học Tiếng Anh ở trường THPT Tịnh Biên.

2. Sự Cần Thiết Phải Áp Dụng Sáng Kiến:

Tiếng Anh là một trong những yếu tố cơ hội không thể thiếu theo xu thế hiện nay. Tuy nhiên, để học tốt Tiếng Anh các em phải học tốt cả bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Để học tốt

được cả bốn kĩ năng này, đòi hỏi học sinh nhất thiết phải có được một vốn từ vựng Tiếng Anh mạnh mẽ. Thật vậy, một vốn từ vựng mạnh mẽ cải thiện tất cả các kĩ năng nghe, nói, đọc và viết. Trên thực tế, hạn chế trong kiến thức từ vựng cản trở khả năng giao tiếp hiệu quả bởi vì đơn vị từ vựng mang tải những thông tin cơ bản mà người đối thoại muốn hiểu và thể hiện. Do đó, nếu các em không biết nhiều từ vựng Tiếng Anh, các em không thể truyền đạt hết ý tưởng

của mình bằng Tiếng Anh khi nói cũng như khi viết. Các em không thể hiểu hết những gì

người khác đang nói với mình do hạn chế về mặt từ vựng. Hơn thế, trong tất cả các kĩ năng, Trang 7

đọc hiểu đòi hỏi học sinh phải có một vốn từ vựng mạnh mẽ nhất vì trong các bài đọc hiểu có

rất nhiều từ vựng đòi hỏi các em phải biết mới có thể thật sự hiểu hết nội dung của cả bài.

Mục đích thật sự của việc học ngoại ngữ là để giao tiếp, là để có thể nghe, nói, đọc và

viết bằng ngôn ngữ đó. Tuy nhiên, ngoài ra còn có một mục đích khác cũng không kém phần quan trọng mà đa số các học sinh phổ thông đặt ra khi học môn Tiếng Anh là làm các bài thi,

bài kiểm tra môn này đạt điểm cao. Để có được điểm cao trong các bài thi, bài kiểm tra, đòi hỏi

các em phải có một vốn từ vựng mạnh mẽ. Thật vậy, trong hầu hết các bài thi, bài kiểm tra gần

đây, không những chỉ kiểm tra về công thức, về cách sử dụng của các điểm ngữ pháp Tiếng Anh, mà nó đòi hỏi các em phải hiểu ý nghĩa của tất cả các từ trong câu, sau đó giải thích, phân

tích, tổng hợp mới có thể chọn được đáp án đúng cho câu hỏi được đặt ra. Cho nên, nếu các em không biết nhiều về từ vựng Tiếng Anh, các em không thể đạt yêu cầu trong các bài thi, bài kiểm tra này.

Tuy nhiên, nhiều năm gần đây, không có nhiều học sinh thật sự có được một vốn từ

vựng mạnh mẽ. Hầu như tất cả học sinh khi đối diện với những câu bài tập đòi hỏi các em phải

dịch sang Tiếng Việt, các em đều làm không tốt, thậm chí là không làm được. Khi được hỏi

các em có từng đọc các câu truyện hay các bài viết khác bằng Tiếng Anh để giải trí trong thời

gian rảnh hay không thì đa số các em đều trả lời không với lí do là không thể hiểu được ý

nghĩa của những tài liệu này do vốn từ vựng Tiếng Anh của các em rất có giới hạn. Các em

cũng cho biết khi làm bài tập trắc nghiệm, các em chỉ dựa vào những mẹo nhỏ trong làm bài,

hay những dấu hiệu nào đó trong câu để giúp các em chọn đáp án đúng. Những câu mà các em

gặp khó khăn nhất là những câu bài tập về từ vựng, vì các em không thể hiểu hết ý nghĩa của

câu dẫn hay không thể hiểu hết ý nghĩa của các từ trong các phương án lựa chọn. Do đó, các

em thường mất điểm ở các câu này.

Để giải quyết khó khăn này, giáo viên ở trường phổ thông, đặc biệt là giáo viên của

trường Trung Học Phổ Thông Tịnh Biên đã thực hiện rất nhiều biện pháp để giúp các em từng

bước cải thiện vốn từ vựng của mình: như dạy từ vựng thật kĩ trong các tiết Reading, Listening và thỉnh thoảng cả các tiết Speaking và Writing. Thậm chí một số giáo viên còn tăng cường trả

bài phần từ vựng cho các em, hướng dẫn các em cách để nâng cao vốn từ vựng của mình. Nhưng mọi biện pháp hầu như không có hiệu quả vì khả năng từ vựng của đại đa số học sinh

đều không cải thiện. Các em học bài sau lại quên bài trước, học từ sau lại quên từ trước. Một số giáo viên cho biết cách tốt nhất để hạn chế việc học sinh học từ sau quên từ trước là kiểm tra đi, kiểm tra lại nhiều lần những từ vựng mà các em đã học. Tuy nhiên đa số các giáo viên không thể làm được việc này do thời gian không cho phép. Do đó vấn đề học sinh học từ sau quên từ trước là một vấn đề nan giải nhất của đa số giáo viên hiện nay. Thêm vào những khó

khăn đó là vấn đề một số không nhỏ học sinh hoàn toàn không thể học gì cả ngoài đọc lại đáp

án có sẵn cho các bài học trong Sách Giáo Khoa. Biết được như thế hoàn toàn không tốt gì cả Trang 8

cho các em học sinh nên nhiều giáo viên đã giải quyết vấn đề này bằng cách soạn lại các task

trong Sách Giáo Khoa để học sinh thật sự học Tiếng Anh chứ không phải sử dụng đáp án có

sẵn để đối phó với giáo viên dạy lớp. Tuy nhiên, việc thay đổi các task trong sách chỉ là hướng

giải quyết tạm thời vì giáo viên không thể nào thay thế hoàn toàn tất cả các task trong sách vì chẳng phải như thế Sách Giáo Khoa lại trở thành một mớ giấy vụn hay sao!?. Cách giải quyết

duy nhất là giáo viên phải làm sao vẫn vừa sử dụng Sách Giáo Khoa, vừa tìm ra được cách để

các em thật sự học Tiếng Anh, vừa tạo cho các em cơ hội để học và ôn lại từ mới và tiến thêm

một bước, sử dụng được từ mới mà các em đã học để hạn chế vấn đề học trước quên sau của các em.

Từ thực tế này, là một giáo viên của trường, tôi cũng đã thực hiện rất nhiều biện pháp. Sau một thời gian thực nghiệm, tôi nhận thấy việc sử dụng kết hợp giữa việc học từ vựng có chủ ý (intentional vocabulary learning) và học từ vựng một cách ngẫu nhiên (incidental

vocabulary learning) thông qua hoạt động đọc mở rộng các tài liệu Tiếng Anh và sử dụng các

từ vựng đó để viết lại theo yêu cầu của giáo viên thật sự có tác dụng tốt trong việc cải thiện vốn

từ vựng cho học sinh. Để kiểm soát tốt hơn việc tự học của các em học sinh, tôi đã sử dụng

phiếu tự học. Phiếu tự học được thiết kế giúp học sinh sử dụng sơ đồ tư duy mind map để đọc

và hiểu các tài liệu Tiếng Anh. Những tài liệu Tiếng Anh này được thiết kế theo các chủ đề mà

các em học trên lớp, sử dụng lại số từ vựng mà các em vừa học trên lớp. Tạo cơ hội để các em

vừa có thể đọc, hiểu, vừa có thể ôn lại từ và sử dụng được các từ mới mà các em đã học trên

lớp nhằm nâng cao vốn từ vựng cho bản thân. Nhận thấy phát triển vốn từ vựng cho học sinh là

một nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng nên tôi đã chọn viết sáng kiến này, hi vọng sẽ có thể

phần nào cung cấp cho các thầy cô một số gợi ý hữu ích trong nâng cao vốn từ vựng cho các

em.

3. Nội dung sáng kiến

Hiện trạng đa số các em học sinh ngày nay sử dụng Sách Giáo Khoa cũ với đáp án có sẵn

trong Sách Giáo Khoa hay tìm đáp án từ các trang mạng rồi vào lớp và không học gì cả ngoài việc đọc lại đáp án cho giáo viên đứng lớp mà không hề biết giải thích như thế nào, khi về nhà

học từ mới bằng cách ghi lại nghĩa Tiếng Việt của từ, học đi học lại để rồi quên từ cũ sau khi học các từ mới đã trở nên rất phổ biến. Thực trạng này đã dẫn tới khó khăn chung và lớn nhất

của đa số các em học sinh khi học tập môn Tiếng Anh đó là từ vựng. Do đó, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần tạo cho học sinh một môi trường tự học mới ở đó học sinh có cơ hội tự đọc các tài liệu và tự hoàn thành các task theo yêu cầu của giáo viên vì đáp án có được là do các em thật sự đọc mà tìm ra chứ hoàn toàn không có ở đâu cả. Và cũng từ môi trường đó, học sinh có cơ hội gặp đi, gặp lại các từ mới mà các em đã học, có cơ hội sử dụng các từ mới đó

Trang 9

viết lại sự thật xung quanh mình theo yêu cầu của giáo viên. Vừa được gặp, vừa được sử dụng

sẽ là cách học từ mới mẽ và có hiệu quả nhằm giúp các em nhớ từ nhiều hơn, và lâu hơn, góp

phần nâng cao vốn từ vựng cho các em học sinh của trường. 3.1 Tiến Trình Thực hiện:

Việc sử dụng các phiếu tự học để hướng dẫn các em học sinh tự học nhằm nâng cao vốn từ vựng của mình thông qua kĩ năng đọc mở rộng kết hợp với kĩ năng viết được giáo viên thực

hiện xuyên suốt hết học kì I của quá trình dạy học môn Tiếng Anh khối 10 ở trường THPT

Tịnh Biên (năm học 2018 -2019). Trong quá trình giảng dạy, giáo viên thiết kế phiếu tự học

theo từng bài, phát ra cho các em học sinh sau khi các em đã hoàn thành việc học ở mỗi bài học. Giáo viên hướng dẫn cụ thể những việc các em cần hoàn thành cho mỗi phiếu tự học.

Theo đó, các em học sinh sau khi đã nhận phiếu tự học, các em sẽ có cơ hội đọc lại các bài đọc trong Sách Giáo Khoa nhưng thực hiện các yêu cầu khác. Cụ thể là các em phải hoàn thành sơ đồ tư duy mind – map để tóm tắt lại và hiểu tốt hơn về nội dung của bài đọc. Bên cạnh đó,

phiếu tự học cũng cho các em cơ hội ghi lại các từ mới, tra nghĩa các từ mới mà các em đã học

trong lớp, sau đó, sử dụng các từ mới này để viết lại theo yêu cầu của giáo viên. Sau đó, các

em sẽ được đọc thêm một bài khác cùng chủ đề và thực hiện các yêu cầu của giáo viên như:

hoàn thành nghĩa Tiếng Việt cho các từ mới trong bài, đánh giá về bài viết, so sánh sự khác

nhau giữa các em với nhân vật trong bài viết, bài tỏ tình cảm yêu thương, thích ghét… với bài

viết. Tất cả những hoạt động này đều hướng về một mục đích: tạo cơ hội để học sinh tự học, tự

tiếp cận, gặp đi gặp lại, và sử dụng các từ mới mà các em đã học trên lớp, giúp các em nhớ từ

lâu hơn. Ngoài ra, kiểm tra việc tự học của các em là một khâu không thể thiếu trong quá trình

tự học của các em vì nếu không kiểm tra giáo viên sẽ không nắm được tình hình tự học và

hoàn thành phiếu tự học của học sinh, và nếu không đánh giá, nhận xét khuyến khích thì không

có động lực cho việc tự học đều đặn ở nhà. Kiểm tra và đánh giá còn giúp các em học sinh có

cái nhìn tổng quan về quá trình tự học của mình: các em đã làm tốt chưa cho việc tự học đó?

Các em còn những sai sót gì cần phải rút kinh nghiệm cho lần học sau?.... Ngoài ra việc kiểm

tra và đánh giá của giáo viên cũng theo hướng tích cực hóa để góp phần tạo động lực cho việc tự học của các em học sinh.

Phiếu tự học sẽ được giáo viên photo theo từng bài và phát ra cho tất cả học sinh của khối 10 trường THPT Tịnh Biên năm học 2018 - 2019 (trừ lớp đối chứng) để các em thực hiện

nhằm giúp nâng cao vốn từ vựng của các em thông qua hoạt động đọc mở rộng và viết lại theo yêu cầu của giáo viên trong phiếu tự học. Giáo viên dạy lớp là người trực tiếp hướng dẫn, thu phiếu, sửa và trả phiếu lại cho học sinh. Giáo viên cũng chọn ra 2 lớp, 1 lớp làm nhóm thực nghiệm, 1 lớp là nhóm đối chứng để đánh giá chính xác hơn kết quả thực hiện sáng kiến. Những lớp còn lại, giáo viên đứng lớp chỉ cho các em thực hiện phiếu tự học, sau đó quan sát

và đánh giá sự khác biệt của các em trước và sau thời gian thực hiện tăng vốn từ vựng thông

qua sử dụng các phiếu tự học. Trang 10

3.2 Thời gian thực hiện:

Việc hướng dẫn các em học sinh tự học nhằm nâng cao vốn từ vựng của mình thông qua

các phiếu tự học thiết kế bởi giáo viên được thực hiện thường xuyên trong suốt học kì I với tất cả học sinh của khối 10 trường THPT Tịnh Biên (năm học 2018 – 2019) (trừ lớp 10A1). Ngoài

ra, giáo viên chọn lớp được phân công giảng dạy – lớp 10A6 (năm học 2018 – 2019) làm nhóm

thực nghiệm để lấy số liệu. Còn lớp 10A1 (nhóm đối chứng) được giảng dạy bình thường như

trong chương trình dạy khối 10 trước đây để có thể so sánh sự tiến bộ của nhóm thực nghiệm so với nhóm đối chứng sau thời gian thực nghiệm ở trường THPT Tịnh Biên.

3.3 Biện pháp tổ chức: Việc cải thiện vốn từ vựng cho học sinh là một chuyện lâu dài và không dễ dàng tí nào.

Nó đòi hỏi cả người học và người dạy phải có đủ quyết tâm, kiên nhẫn và siêng năng để có thể

thực hiện một cách thường xuyên và lâu dài. Để nâng cao tính hiệu quả, đòi hỏi giáo viên phải

tạo được tính tự giác học tập trong học sinh. Để cho các em thật sự tự giác trong học tập là

không dễ dàng và đòi hỏi giáo viên phải có một hệ thống biện pháp phù hợp mới có thể giúp

các em tự giác tự học và tự học có hiệu quả. Để có thể làm được điều này, giáo viên đã thực

hiện hệ thống những biện pháp tổ chức sau:

3.3.1 Tạo Dựng Lí Do Tự Học Để Nâng Cao Vốn Từ Vựng Cho Học Sinh:

Hứng thú học tập của các em học sinh sẽ được hình thành nếu các em biết được lí do vì

sao các em phải tự học, và cụ thể là vì sao các em phải tự học để có thể nâng cao vốn từ vựng

của mình thông qua việc thực hiện kĩ năng đọc mở rộng kết hợp với kĩ năng viết Tiếng Anh

theo yêu cầu của giáo viên trong phiếu tự học. Để có thể làm được điều này, ở đầu năm học

giáo viên đã chứng minh cho học sinh thấy được sự cần thiết và đúng đắn của việc nâng cao

vốn từ vựng thông qua hoạt động đọc mở rộng kết hợp với kĩ năng viết Tiếng Anh.

Đầu tiên, học sinh cần biết được đã có rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã khẳng định được vai trò quan trọng của từ vựng trong quá trình học ngoại ngữ của các em học

sinh. Thật vậy, nếu ta coi học Tiếng Anh như xây nhà, thì việc học từ vựng chính là xây nền móng cho căn nhà đó.

Để có thể giúp các em học sinh nâng cao vốn từ vựng của mình, có 2 cách cơ bản nhất. Đó là học từ vựng có chủ ý (intentional vocabulary learning) và cách học từ vựng ngẫu nhiên (incidental vocabulary learning) thông qua việc đọc mở rộng các tài liệu Tiếng Anh hay thông qua hoạt động nói và viết Tiếng Anh.

Hulstijn’s (2003) định nghĩa học từ vựng có chủ ý như là cách học từ vựng mà trong đó

người học chủ động tìm ra tất cả các từ vựng mà các em cần phải học, sau đó các em tra từ

điển, tìm ra nghĩa của từ, cách phát âm, dấu nhấn và các giới từ theo sau (nếu có) ghi tất cả ra Trang 11

và sau đó học thuộc lòng tất cả các yếu tố này. Học từ vựng ngẫu nhiên là cách học mà trong

đó các em nâng cao vốn từ vựng của mình thông qua các hoạt động đọc mở rộng các tài liệu

Tiếng Anh, thông qua việc nghe Tiếng Anh một cách thường xuyên hay thông qua việc sử

dụng các từ vựng đó khi nói hay viết Tiếng Anh.

Một vài tác giả, dẫn đầu là Lewis (1993) đã khẳng định rằng cần phải đặt việc học từ

vựng vào vị trí trung tâm trong quá trình học ngoại ngữ của học sinh. Một khi từ vựng được

học một cách có chủ ý các em sẽ nhớ từ được lâu hơn vì các em đã thật sự tập trung vào những

vấn đề này khi các em tiến hành học từ vựng. Họ cũng khẳng định vai trò thật sự của sự ghi nhớ trong quá trình học từ vựng. Theo họ, việc học từ vựng là một trong những bước đầu tiên

của việc học ngôn ngữ thứ hai, tuy nhiên một người sẽ không bao giờ đạt tới bước cuối cùng trong việc nắm vững từ vựng. Dù trong tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ thứ hai đi chăng nữa, thì sự nắm bắt một vốn từ mới là một quá trình liên tục. Nhiều phương pháp có thể trợ giúp cho việc

nắm bắt vốn từ vựng mới, trong đó sự ghi nhớ là một trong những biện pháp có hiệu quả nhất.

Mặc dù quá trình ghi nhớ có thể bị xem là chán ngấy và buồn tẻ, việc kết nối một từ trong tiếng

mẹ đẻ với từ tương ứng trong ngôn ngữ thứ hai trước khi nó được ghi nhớ được xem là một

trong những phương pháp tốt nhất trong việc nắm vững từ vựng. Đến tuổi trưởng thành, học

sinh thường đã thu thập được một số phương pháp ghi nhớ. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi

cho rằng quá trình ghi nhớ một cách điển hình không yêu cầu quá trình nhận thức phức tạp làm

tăng khả năng lưu giữ (Sagarra & Alba, 2006), nhưng quá trình này một cách điển hình vẫn đòi

hỏi một lượng lớn số lần lặp lại. Các phương pháp khác lại cần nhiều thời gian và lâu hơn để

nhớ lại.

Ngoài ra học sinh cũng cần biết gần đây cũng có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước

khẳng định về vai trò tích cực của việc đọc mở rộng đối với quá trình học ngoại ngữ nói chung

và đối với việc nâng cao vốn từ vựng nói riêng. Thật vậy, Nuttall (1982) đã khẳng định đọc mở

rộng là một cách có hiệu quả nhất để cải thiện vốn từ vựng và khả năng đọc hiểu nói chung.

Hafiz và Tudor (1989) cũng cho rằng chỉ với 3 tháng đọc mở rộng các tài liệu Tiếng anh, các học viên Trung học Phổ thông có thể cải thiện rõ rệt vốn từ vựng của mình từ đó nâng cao khả

năng đọc hiểu và cải khả năng viết của mình. Theo Paul Nation (1999), học sinh có thể phát triển kiến thức ngôn ngữ của họ thông qua việc đọc mở rộng. Bởi vì người học với trình độ

khác nhau có thể chọn tài liệu với mức độ khó dễ khác nhau phù hợp với khả năng và trình độ của mình. Ngoài ra người đọc cũng có thể chọn lựa những tài liệu với nhiều chủ đề, loại hình khác nhau theo hứng thú và sở thích của mình chứ không phải là cố định và cứng nhắc như những tài liệu cố định trong Sách Giáo Khoa. Những tài liệu này là những tài liệu chung cho tất cả các học viên với trình độ ngôn ngữ và sở thích rất khác nhau. Nhờ chọn lựa được những

tài liệu phù hợp với khả năng và hứng thú của người đọc như vậy nên việc đọc mở rộng đã làm

cho người đọc có nhiều hứng thú hơn đối với hoạt động đọc nhờ đó mà khả năng đọc hiểu của Trang 12

họ tăng lên đáng kể. Càng giỏi về khả năng đọc hiểu, các em càng thích đọc. Càng đọc nhiều,

vốn từ vựng của các em sẽ ngày càng được nâng cao. Do đó, đọc mở rộng các tài liệu Tiếng

Anh thật sự có thể giúp các em cải thiện vốn từ vựng của mình

Như vậy, học từ vựng có chủ ý rất quan trọng, nhưng học từ vựng một cách ngẫu nhiên thông qua đọc mở rộng và viết lại theo yêu cầu của giáo viên cũng không kém phần quan

trọng. Biện pháp nào có thể giúp các em học sinh cải thiện tốt hơn vốn từ vựng của mình đây?

Trong cuộc nghiên cứu của mình, Batia Laufer , một giáo sư của Ngôn Ngữ học ứng

dụng của khoa Ngôn Ngữ và Văn học Anh ở trường đại học Haifa, Israel (2004) đã nghiên cứu để so sánh về hiệu quả của việc học từ vựng có chủ ý với cách học từ vựng ngẫu nhiên thông

qua việc đọc mở rộng. Bà đã nghiên cứu trên 158 học sinh trung học học Tiếng Anh như ngoại ngữ 2. Trong nhóm thực nghiệm, bà yêu cầu các em đọc những bài văn có chứa các từ vựng mà các em phải học, trao đổi chúng trong những nhóm nhỏ và trả lời những câu hỏi đọc hiểu ở

phía sau. Đối với nhóm đối chứng, và yêu cầu các em học trực tiếp ý nghĩa của các từ vựng

được đưa ra. Mỗi từ vựng đều có kèm theo các câu ví dụ minh họa. Tiếp theo bà yêu cầu học

sinh của 2 nhóm học thuộc lòng lại tất cả những từ vựng này trong khoảng 15 phút. Sau đó bà

cho họ làm một bài kiểm tra. Hai tuần sau đó, họ tiếp tục làm lại bài kiểm tra này. Kết quả là

học sinh của nhóm đối chứng làm bài kiểm tra đầu với số điểm cao hơn nhưng lại làm bài kiểm

tra thứ 2 với số điểm thấp hơn. Cho nên, bà đã khẳng định, học sinh không thể chỉ học từ vựng

bằng cách học từ có chủ ý. Cách học từ vựng ngẫu nhiên thông qua việc đọc mở rộng các tài

liệu Tiếng Anh và viết lại theo yêu cầu thật sự cũng rất cần thiết và có hiệu quả hơn cách học

từ vựng có chủ ý.

Tuy nhiên, Hulstijn (2001) lại khẳng định rằng học từ vựng tốt nhất nên được kết hợp từ

cả hai biện pháp. Guo Yali ( Trường đại học công nghệ Zhejiang) cũng đã tiến hành một

nghiên cứu về ảnh hưởng của cách học từ vựng có chủ ý, cách học từ vựng ngẫu nhiên và kết

hợp cả 2 biện pháp này lại với nhau. Kết quả là ông đã phát hiện ra rằng cả hai biện pháp đều

dẫn tới kết quả là giúp các em cải thiện vốn từ vựng của mình. Nhưng khi kết hợp cả hai biện pháp này lại với nhau thì các em biết được nhiều từ vựng hơn và có thể nhớ từ được lâu hơn.

Trên đây là những cơ sở lí luận, lí thuyết giúp chứng minh cho các em học sinh thấy được nếu các em chỉ học từ vựng một cách có chủ ý bằng cách ghi lại các từ mới đã học các

em sẽ dễ dàng quên đi những từ mới đó một cách dễ dàng. Nhưng nếu các em tự giác hoàn thành các phiếu tự học theo yêu cầu của giáo viên, nhằm kết hợp giữa cách học từ vựng một cách có chủ ý trong lớp với cách học từ vựng ngẫu nhiên thông qua hoạt động đọc mở rộng và thực hành viết theo yêu cầu của giáo viên, các em sẽ dễ dàng nâng cao được vốn từ vựng của mình và nhớ từ mới lâu hơn. Biết được điều này tạo cho học sinh một lí do để tự nguyện hoàn

Trang 13

thành việc tự học và tạo được hứng thú tự học cho các em học sinh.

Những cơ sở lí thuyết giúp tạo nên lòng tin và hứng thú tự học cho học sinh này được

giáo viên sinh hoạt với học sinh thuộc nhóm thực nghiệm ở tiết đầu tiên khi giới thiệu về

phương pháp học môn Tiếng Anh để giúp tạo lòng tin cho học sinh, giúp các em có được hứng

thú tự học và tự học một cách tự giác hơn trong suốt quá trình thực nghiệm.

3.3.2 Hướng Dẫn Học Sinh Cách Xây Dựng Kế Hoạch Học Tập:

Giáo viên hướng dẫn cho học sinh nhóm thực nghiệm cách xây dựng kế hoạch học tập

từ ban đầu. Cũng ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, giáo viên không dạy ngay mà giới

thiệu sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát nhất để học sinh hiểu và từ đó tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù hợp. Giáo viên làm cho học sinh

hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể và học sinh hoàn toàn có thể phấn đấu thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế hoạch thời gian được xây dựng chi tiết. Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy mỗi bài, giáo viên cung cấp nội dung

và thời gian học và kiểm tra để học sinh nắm rõ. Đồng thời, giáo viên cho học sinh đánh dấu

vào trong sách bài nào học ngày nào, đến tiết nào sẽ kiểm tra. Ngoài ra các em học sinh cũng

cần phải biết rõ những vấn đề liên quan tới việc tự học nhằm nâng cao vốn từ vựng như: bằng

cách nào các em có thể ghi lại nghĩa Tiếng Việt cho các từ Tiếng Anh, thời gian nào thì các em

hoàn thành phần thực hành và thời gian nào thì các em phải nộp phiếu tự học để giáo viên kiểm

tra, đánh giá và rút kinh nghiệm để các em làm tốt hơn ở lần tự học sau. Để học sinh tự xây

dựng kế hoạch học tập thì giáo viên phải là người cung cấp đầy đủ kế hoạch dạy và học của bộ

môn.

3.3.3 Hướng Dẫn Phương Pháp Học Và Ôn Từ Vựng:

Để có thể nâng cao vốn từ vựng học sinh phải viết lại những từ vựng đã học trong lớp

vào một quyển tập học từ vựng riêng hay vào một nơi nào đó mà các em có thể dễ dàng ôn lại

khi có thể. Các em phải ghi ra từ mới, nghĩa của từ, loại từ, giới từ theo sau nếu có và đưa ra

được những câu ví dụ có chứa các từ vựng này, có như vậy thì các em mới có thể học và biết từ nhiều hơn và học từ một cách có ý nghĩa hơn.

Từ vựng mà các em đã học cần phải được ôn đi ôn lại nhiều lần các em mới có thể nhớ từ lâu. Thật vậy, trong quá trình học từ mới, nếu chúng ta thực hiện theo cách yêu cầu các em

học từ ở nhà, vào lớp giáo viên trả bài chỉ một lần và sau đó không trả nữa hay không nhắc tới nữa, các em sẽ quên hết các từ mà các em đã học sau khi các em học từ mới khác. Còn nếu yêu cầu giáo viên phải trả đi trả lại nhiều lần những từ vựng mà các em đã học thì thời gian lại không cho phép vì có rất nhiều các hoạt động khác phải thực hiện trong 1 tiết học. Như vậy, để có thể nâng cao vốn từ vựng của mình và nhớ từ lâu hơn, học sinh phải làm sao để có thể

thường xuyên ôn đi ôn lại những từ mà các em đã học. Cách ôn từ không chỉ là ghi từ Tiếng

Anh sau đó ghi nghĩa Tiếng Việt, như vậy học sinh sẽ rất chán nãn khi học và cũng không nhớ Trang 14

lâu. Để có thể ôn từ một cách có ý nghĩa hơn và hiệu quả hơn, các em nên ôn nghĩa của từ

thông qua cách đọc các từ đó trong các bài đọc. Trong quá trình đọc, các em phải chú ý đến các

từ mới mà các em đã học. Đây cũng là một cách rất hay để ôn lại từ vựng vì các em có thể nhớ

được nghĩa của từ các em đã học thông qua ngữ cảnh. Thông qua các bài đọc có chứa các từ mới, học sinh cũng biết được những từ mới mà các em đã học được sử dụng trong câu như thế

nào. Ngoài ra, sử dụng các từ mới đã học để viết lại các bài viết bằng Tiếng Anh cũng là một

cách hay và có hiệu quả giúp học sinh nhớ từ lâu hơn.

3.3.4 Giao Nhiệm Vụ Cho Các Em Học Sinh Tự Học Ở Nhà Nhằm Nâng Cao

Vốn Từ Vựng:

Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho tất cả học sinh lớp thực nghiệm để các em có thể hoàn thành tốt việc tự học ở nhà. Để phát huy tối đa năng lực tự học và thúc đẩy học sinh tận dụng hết thời gian tự học, giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh: các em phải làm gì,

hoàn thành phiếu tự học như thế nào, trong khoảng thời gian nào các em phải hoàn thành phiếu

tự học. Có như thế, các em mới định hướng được cụ thể các nhiệm vụ mình cần làm tiếp theo.

Cụ thể, sau khi các em đã học hết một bài trong Sách Giáo Khoa, các em đã được giáo viên

cung cấp một số từ vựng nhất định mà các em phải nắm vững theo từng chủ đề của mỗi bài. Để

giúp học sinh ôn và nhớ các từ vựng này lâu hơn, giáo viên thiết kế các phiếu tự học nhằm

giúp các em nâng cao vốn từ vựng của mình thông qua hoạt động đọc mở rộng và viết lại theo

yêu cầu của giáo viên. Phiếu tự học sẽ được cung cấp cho tất cả học sinh lớp thực nghiệm và

các em học sinh phải hoàn thành phiếu tự học trong một khoảng thời gian nhất định theo yêu

cầu của giáo viên. Sau đó, các em sẽ trao đổi các phiếu tự học với nhau, làm việc theo cặp hay

theo nhóm để kiểm tra và sửa các phiếu tự học cho nhau. Phiếu tự học sau đó được thu lại và

được giáo viên xem qua, nhận xét, đánh giá và trả lại cho học sinh sau khi đã xem xong. Để

đảm bảo tính khả thi và tiết kiệm công sức cho giáo viên, phiếu tự học được đánh giá một cách

nhẹ nhàng, không đòi hỏi giáo viên phải chỉnh sửa tất cả những lỗi sai của học sinh, mà chỉ

đánh giá kết quả phiếu như một tổng thể xem học sinh đã hoàn tất hay chưa, làm bài ở mức độ nào: đạt hay không đạt. Học sinh sau khi nhận phiếu tự học có thể hoàn thành phiếu một mình,

hay cùng làm với các bạn khác trong lớp. Phiếu tự học sau khi đã được học sinh hoàn thành và giáo viên đã xem xét sẽ được lưu trữ lại cho học sinh để mỗi khi học sinh rảnh rỗi các em có

thể xem lại. Giáo viên sẽ chọn những phiếu hoàn thành tốt nhất để lưu trữ trên lớp, cũng xem như là một cách thức để tuyên dương và động viên những em làm tốt. Do đó, phiếu tự học không cần phải sửa cụ thể cho học sinh vì tự các em sẽ biết mình làm đúng hay sai dựa vào những phiếu tự học làm tốt được giáo viên treo triển lãm ở trong lớp học. Vấn đề tự học ở học sinh là một vấn đề không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập

Trang 15

đạt kết quả cao, đòi hỏi học sinh phải tự giác, không ngừng tìm tòi học hỏi. Ngoài ra, sự định

hướng của người thầy đóng vai trò quyết định thúc đẩy sự thành công trong việc chiếm lĩnh tri

thức của người học nói chung và trong việc nâng cao vốn từ vựng nói riêng.

3.3.5 Tự Học Tự Vựng Theo Cặp Hay Theo Nhóm: Việc tự học của các em sẽ trở nên chán nãn và không có ý nghĩa nếu các em chỉ học một mình rồi sau đó nộp phiếu tự học lên cho giáo viên kiểm tra. Thật sự các em sẽ không có

đủ tự tin rằng mình đã làm tốt phiếu tự học khi nộp phiếu lên cho giáo viên. Chính vì thế giáo

viên đã yêu cầu học sinh sửa phiếu tự học của nhau theo cặp hay theo nhóm trước khi nộp

phiếu lên cho giáo viên kiểm tra. Ngoài ra hoạt động này lại một lần nữa cho học sinh cơ hội gặp lại những từ mới mà các em đã học thông qua việc đọc các bài đọc, các đoạn văn mà các

bạn khác viết hay kiểm tra việc ghi nghĩa của các từ mới trong phiếu tự học mà các em nhận sửa. Việc làm này cũng tạo cho học sinh sự tự tin khi nộp phiếu tự học cho giáo viên vì các em đã được bạn khác xem và kiểm tra phiếu tự học trước cho các em rồi. Ngoài ra, hoạt động này

cũng giúp hình thành thói quen tự đánh giá và đánh giá người khác trong học sinh.

3.3.6 Kiểm Tra và kiểm soát theo hướng khuyến khích Việc Tự Học Từ Vựng Ở

Nhà Của Các Em Học Sinh:

Kiểm tra và kiểm soát việc tự học để nâng cao vốn từ vựng của học sinh là một việc làm

không thể thiếu của giáo viên trong quá trình tự học của học sinh. Tuy nói là tự học, nhưng để

học sinh tự học theo hướng tự giác hoàn toàn là không thể đối với đa số các em học sinh trung

học. Các em bị phân tán rất nhiều ở hoạt động thú vị khác như sử dụng điện thoại, chơi game,

tham gia các mạng xã hội, ra ngoài với bạn..... Để các em học sinh có thể tự giác tự học, giáo

viên phải bước đầu xây dựng lại thói quen tự học của các em và kiểm tra chặt chẽ cũng như

không ngừng khuyến khích, khích lệ việc tự học của các em. Kiểm tra việc tự học của các em

cũng giúp cho giáo viên nắm được các em học sinh đã làm gì trong quá trình tự học? Các em

thực hiện việc tự học tốt hay chưa? Tốt ở điểm nào? Các em cần cải thiện như thế nào ở lần tự

học cho bài sau?....... Để có thể giúp giáo viên vừa kiểm soát được quá trình tự học của các em

học sinh, vừa có thể khuyến khích việc tự học của các em, giáo viên yêu cầu các em học sinh tiến hành tự học sau đó viết lại trên phiếu tự học và nộp lại cho giáo viên. Vì đa số các em học

sinh đều thích điểm số nên giáo viên có thể tận dụng lợi thế này, cho điểm cộng cho những em học sinh hoàn thành sớm và tốt các phiếu tự học. Thỉnh thoảng giáo viên có thể tuyên dương

trước cả lớp những em học sinh hoàn thành tốt và thường xuyên việc tự học ở nhà để lấy đó làm động lực thúc đẩy phong trào tự học trong các em học sinh. Tất cả các hoạt động tự học của học sinh sẽ được kiểm soát rất dễ dàng thông qua các phiếu tự học được thiết kế theo từng bài. Sau đây là ví dụ điển hình của một trong những phiếu tự học được thiết kế bởi giáo viên trong quá trình hướng dẫn các em học sinh khối 10 tự học nhằm nâng cao vốn từ vựng của

Trang 16

mình thông qua hoạt động đọc mở rộng và viết Tiếng Anh theo yêu cầu của giáo viên:

SELF STUDY CARD OF UNIT 1 For Improving Vocabulary Through Extensive Reading and Writing

Name: ________________________________________ Your partner’s name: ___________________________ Class: _________________________________________ Learning date: From _______________ to __________________ Topic: Daily Activity

A/ VOCABULARY

Useful words or phrases:

Meaning

Get up

Go to work

Play sports

Read book

Surf on the internet

Have breakfast, have lunch, have dinner

Do homework

Listen to music

Cook meals

Do the housework

Chat with friends on the phone

Go to the market

Have a cup of coffee

Do the washing – up

lead the buffalo to the field

plough and harrow my plot of land

pumps water

repair the banks of our plot of’ land

do the transplanting

B. READ THE TEXT AGAIN:

The alarm goes off at 4:30. I get up and go down to the kitchen to boil some water for my morning tea. I drink several cups of tea, have a quick breakfast and then lead the buffalo to the field. It takes me 45 minutes to get ready. I leave the house at a quarter past five and arrive in the field at exactly 5:30. I plough and harrow my plot of land and at a quarter to eight I take a short rest. During my break I often drink tea with my fellow

peasants and smoke local tobacco, I continue to work from a quarter past eight till 10:30. Then t go home, take a short rest and have lunch with my family at 11:30, After lunch I usually take an hour’s rest. Mrs. Tuyet: At 2:30 in the afternoon we go to the field again. We repair the banks of our plot of’ land. Then my husband pumps water into it while I do the transplanting. We work for about two hours before we take a rest. We finish our work at 6 p.m. We have dinner at about 7 p.m., then we watch TV and go to bed at about 10 p.m. Sometimes we go and see our neighbours for a cup of tea. We chat about our work, our children and our

Trang 17

plans for the next crop. Although it’s a long day for us, we are contented with what we do. We love working and we love our children.

Task 1: Mind map: Use the following phrases to fill in the map about Mr. Vy’s daily activities: go to bed, finish work, repair the banks of the plot of land, pumps water into it, plough and harrow his plot of land, lead the buffalo to the field , leave the house, get up, take a short rest, arrive in the field, continue to work , boil some water, have breakfast, have lunch, drink tea, go to the field again, have dinner

Mr. Vy

7:45

11:30

6 p.m

7p.m

10p.m

8:15 – 10:30

10._____________ _______________

5:15 6.______________ _______________ _______________ ___

5:30 7.______________ ___8.___________ _______________ ___

15._____________ _______________ ______

16._____________ _______________ ______

17._____________ _______________ ______

9.______________ _________

11._____________ _______________

4:30 1.______________ ____2.__________ ________3.______ ____________4.__ _______________ _5._____________ _______________ __________

2:30 12._____________ _______________ _________13.____ _______________ _______________ ___14.__________ _______________ _____________

TASK 2: Note down in your notebook what Mr. Vy do everyday. Write in a form of a paragraph. Begin your note with: Everyday Mr. Vy gets up at 4:30. He boils some water, drinks tea and has breakfast. At 5:15, he____________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ TASK 3: Complete the mind map about your daily activities: Trang 18

My daily activity

______

_____

______________ ______________ ________

______________ ______________ _

______________ ______________ _

______________ ______________ _

______________ ______________ _

______________ ______________ _

______________ ______________ _

______________ ______________ _

______________ ______________ _

get up

go to bed

TASK 4: . In a form of a paragraph, write about your daily activities. Begin your note with: Everyday I get up at _________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ C. EXTENSIVE READING: Read the text about Peter’s daily activities:

D a i l y A ct i v i t i es

Hello everyone. My name is Peter. What are some of the daily activities that you do at home? For me, I wake up at 7am every morning. I press the snooze button five times every morning before I turn off the alarm and get up. I have a cup of coffee and make breakfast. I usually read the newspaper while I have breakfast at 7:45 am. My children like to have a shower after they have breakfast but I like to have a shower before I get dressed. My wife brushes her long hair, and I have short hair so I comb my hair. How do you do your hair in the morning? It is important to brush your teeth, and some women like to put make-up on. After I have finished work, I go home to cook dinner. In my house I usually make dinner. The family eat dinner together at 7:30pm.After dinner I make sure that my children do their homework, and then I chill out on the sofa and watch television at 8p.m. On television I usually watch the News. My wife usually comes to tell me to take the rubbish out, or wash the dishes. Our children feed the dog and the cat before they go to bed and I tell them to go to the bathroom too. If I am sick I have to take my medication, but then I get into my pyjamas and

Trang 19

set the alarm so I wake up in the morning. The last things I do is lock the door, turn off the lights, and go to bed at 11pm. It doesn't take me long to fall asleep.

For work, I go to work at 8.45am every morning. I usually drive to work. I always check my emails when I get to work, but I don't always reply to them immediately. I take a taxi or a train if I have a lunch meeting. I never take the bus because it is too slow. When I am at my desk I usually work on the computer, even during morning tea. At 1pm most days I have lunch. At 3pm we have afternoon tea, and that is when we usually talk and eat cake. When you are in the office you probably have a lot of papers. It is important for you to file your papers, and so that you can find them again you need to organise your files. When I work I have to make telephone calls. If an important issue happens I ask my secretary to organise a meeting. Once a month I report to my boss, but maybe you have to report to your boss more often. I usually write a document that my boss can read. For other daily activities, I exercise at least three times a week. I usually go to the gym before work, but sometimes I go after work. I meditate every morning so that I feel less stressed during the day.

For weekly activities, I go grocery shopping once a week at the local supermarket. My family does the housework together every Saturday morning. I usually do the washing on Sunday morning and when the machine is finished I hang the clothes out to dry. On Sunday morning we go to church, and if there is lots of noise coming from next door, sometimes we fight with the neighbour. On Saturday night my parents stay at home and I go out with friends. Even my friends that live at home call their parents each week. Every evening,

I water the garden. I usually pay someone to wash the car, but my partner says I should do it, so sometimes I argue with my partner about that. If we are angry at the neighbour, we seek vengeance by annoying his dogs. I work in an important office, so I have to shine my shoes each day. Sometimes we hire a movie, because we don't like to illegally download music and films. I make sure that I synchronise my iPod so I always have new music on it.To get our shopping, we go to the mall in the car. Last week I forgot to recharge my travel card, and I had to argue with a bus driver. I couldn't call the office because I forgot to recharge my cellphone! Task 1: VOCABULARY REVIEW: Make sure that you understand all of the phrases in bold. Write the phrases you know and don’t know their meanings here and use a dictionary to check their meaning if you don’t know:

The phrases you know

The phrases you don’t know

Phrases

Meaning

Unknown phrases

Meaning

Trang 20

Task 2: Complete the chart about Peter’s daily activities

Peter’s daily activities

Daily activities at home get up: 7:00a.m

weekly activities go grocery shopping: once a week

Daily activities at work go to work: 8.45am ______________

______________ ______________ _______________

______________

______________ _______________ ______________ ______________ _______________ ______________

______________ ______________ _______________ ______________ ______________ _______________ ______________

______________

______________

______________ _______________ ______________ ______________ _______________

Task 3: SELF REFLECTION ACTIVITY: Of all the above activities, which are the activities do you DO everyday? MAKE A LIST: Get up,___________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ Of all the above activities, which are the activities that you DON’T do everyday? MAKE A LIST: Trang 21

Drive to work,_____________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ Task 4: Complete the following writing in reflection with Peter’s daily activities: Like Peter, everyday I get up. I also_____________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ However, I don’t work. I don’t drive to work______________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ __________________________________________________________________________________________ Task 5: Complete a note about your mother’s activities

My mother’s daily activities

Everyday, she gets up at…..

Task 6: Complete a note about your father’s activities

My father’s daily activities

Everyday, he gets up at…..

Trang 22

Phân Tích Cấu Trúc Của Một Phiếu Tự Học:

Trong phiếu tự học của mỗi bài học nhằm giúp học sinh nâng cao vốn từ vựng của mình thông

qua 2 kĩ năng đọc mở rộng và viết gồm có 3 phần lớn:

➢ Ghi Nghĩa Của Những Từ Vừa Mới Học Theo Từng Chủ Đề (Vocabulary): Trong phần này, học sinh có cơ hội ghi lại nghĩa của những từ vựng có liên quan đến

chủ đề mà các em vừa mới học trong lớp. Phần này của phiếu giúp cho các em một lần nữa ghi

lại để nhớ nghĩa Tiếng Việt của những từ vựng mà các em đã học. Nếu quên, học sinh có thể

tra từ điển hay hỏi các bạn để hoàn thành phiếu. Ngoài ra, phần từ vựng này cũng giúp học sinh lưu trữ từ mới, để khi các em có quên, có thể mở ra để xem lại hay có tài liệu để đọc đi

đọc lại mỗi khi có thể để các em có thể nhớ từ lâu hơn. Phần này cũng giúp gợi nhớ lại nghĩa của một số từ mới mà các em đã học để tạo điều kiện dễ dàng cho việc đọc lại bài đọc ở phần thứ hai.

➢ Đọc Lại Bài đọc Trong Sách Giáo Khoa:

Phần thứ hai của phiếu tự học là bài đọc trong Sách Giáo Khoa. Giáo viên cố ý đưa bài

đọc này vào phiếu tự học nhằm mục đích yêu cầu học sinh đọc lại bài đọc một lần nữa. Mặc dù

bài đọc đã được dạy trong lớp, nhưng thực chất không phải học sinh nào cũng thật sự đọc bài

và tự làm bài theo yêu cầu trong Sách Giáo Khoa. Thật vậy, vì tất cả học sinh đã có Sách Giáo

Khoa trong tay, nên các em biết được trong tiết học giáo viên sẽ dạy cái gì. Để đối phó với

giáo viên, các em dễ dàng tìm được đáp án cho tất cả các phần trong sách mà không mất nhiều

công sức. Thêm vào đó là việc học sinh sử dụng sách cũ, đã qua sử dụng nên hầu hết các sách

này đã được ghi đáp án sẵn. Vì lí do đó, không phải học sinh nào cũng có cơ hội thật sự đọc và

hiểu các bài đọc trong Sách Giáo Khoa.

Mặc dù sử dụng lại bài đọc trong sách nhưng trong phiếu tự học giáo viên yêu cầu học

sinh khai thác bài đọc theo một hướng khác: Đó là sử dụng sơ đồ tư duy mind – map để khai

thác và hiểu nội dung bài đọc. Vì học sinh đã được học một lần trong Sách Giáo Khoa, nên

việc đọc lại và hiểu bài đọc khá dễ dàng đối với các em. Do đó, việc hoàn thành sơ đồ tư duy cũng không phải là một việc làm khó khăn. Phiếu tự học được thiết kế sao cho để hoàn thành

được sơ đồ tư duy, học sinh có cơ hội sử dụng các từ mới mà các em đã học.

Sau phần hoàn thành sơ đồ, giáo viên yêu cầu học sinh viết lại nội dung bài đọc theo

một cách khác, với sự hướng dẫn làm bài. Khi thiết kế phần này, giáo viên cũng chú ý thiết kế sao cho học sinh có thể sử dụng vốn từ vựng mà các em đã học và cần nắm vững để tạo cơ hội cho các em sử dụng từ mới vào hoạt động viết nhằm giúp các em nhớ từ lâu hơn.

Sau khi đã viết lại một phần nội dung bài đọc, giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thành sơ đồ tư duy về bản thân các em có liên quan đến nội dung hay chủ đề đã học. Học sinh có thể

làm được điều này về bản thân các em dựa trên sơ đồ tư duy mà các em vừa mới hoàn thành

sau phần bài đọc. Trang 23

Sau phần hoàn thành sơ đồ tư duy về bản thân, học sinh được yêu cầu dựa vào sơ đồ tư

duy để viết một đoạn văn về bản thân các em với nội dung gần giống với nội dung mà các em

vừa mới đọc. Như vậy chỉ qua hai phần của phiếu tự học, học sinh đã có được ít nhất 5 lần gặp

lại và sử dụng những từ vựng mà các em vừa mới học

➢ Đọc Mở Rộng Và Viết Lại Theo Yêu Cầu Trong Phiếu Tự Học:

Ở phần này học sinh được đọc thêm một tài liệu khác cùng chủ đề nhưng dài hơn và cung cấp thêm từ mới có liên quan đến chủ đề mà học sinh đã học. Để tạo điều kiện dễ dàng

cho học sinh trong việc hiểu nội dung bài đọc, giáo viên thiết kế tiếp phần đầu tiên cho hoạt động đọc mở rộng là phần ôn từ vựng (Vocabulary Review). Để dễ dàng cho hoạt động ôn từ, khi cung cấp bài đọc mở rộng, giáo viên in đậm những cụm từ có liên quan đến chủ đề. Vì bài

đọc cho học sinh đọc mở rộng có sử dụng những từ mà các em đã học cùng chủ đề và cung cấp

thêm từ mới nên trong phần ôn từ vựng, giáo viên yêu cầu học sinh ghi ra những cụm từ mà

các em đã biết và những cụm từ các em chưa biết vào khung ôn từ. Đối với các từ mà học sinh

đã biết thì các em chỉ cần ghi nghĩa vào. Những từ mà các em chưa biết các em phải tra từ điển

để hoàn thành phiếu tự học.

Sau phần ôn từ, học sinh đã phần nào hiểu được nội dung của bài đọc. Đến đây, một

lần nữa, giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ tư duy mind – map để khai thác nội dung

bài đọc. Hoạt động này một lần nữa tạo cho học sinh cơ hội sử dụng từ lại từ mới mà các em đã

học để hoàn thành những yêu cầu trong phiếu tự học.

Phần kế tiếp của phiếu tự học yêu cầu học sinh so sánh sự khác nhau giữa các em với

những gì được đề cập trong bài đọc. Hoạt động so sánh này được thiết kế từng bước một: đi từ

từ, cụm từ , câu và đoạn văn, từ dễ đến khó, đảm bảo sao cho học sinh có thể hoàn thành phiếu

tự học một cách dễ dàng và không vượt quá khả năng của các em.

Phần liên hệ với bản thân cũng được mở rộng ra, không những với bản thân các em mà còn cả với những người thân xung quanh các em như: cha, mẹ, bạn thân, người nổi tiếng,

người mà các em yêu thích, ngưỡng mộ…….

3.3.7 Điểm Mới Và Sáng Tạo Trong Phương Pháp Tự Học Từ Vựng Thông Qua Đọc

Mở Rộng Và Viết Theo Yêu Cầu Trong Phiếu Tự Học:

Đối với học sinh Trung Học Phổ Thông, đa số từ vựng có được là do quá trình học từ vựng có chủ ý (intentional vocabulary learning), do giáo viên dạy trên lớp trong các tiết Reading và Listening. Cách học này cũng có lợi ích riêng của nó. Thông qua học từ vựng một cách cố ý, học sinh có thể học được cách phát âm, dấu nhấn, ý nghĩa của từ, loại của từ, … Tuy

Trang 24

nhiên cách học từ vựng này cũng có những hạn chế nhất định. Chỉ thông qua cách học từ vựng

như thế này, học sinh không thể hiểu hết về ngữ pháp, về cách sử dụng và về ngữ nghĩa của từ

vựng khi chúng được dùng trong các tình huống khác nhau.

Do đó để có thể cho học sinh hiểu và biết về cách sử dụng, về ngữ nghĩa của từ trong

từng tình huống, từng ngữ cảnh cụ thể, học sinh phải học từ vựng theo cách học từ ngẫu nhiên (incidental vocabulary learning) thông qua việc đọc mở rộng các tài liệu và viết lại bằng Tiếng

Anh. Trong thực tế, học từ vựng ngẫu nhiên là một cách không thể thiếu cho các em để trở nên

độc lập hơn bởi vì giáo viên không thể dạy cho họ được hết tất cả các từ mới, cũng bởi giới hạn

về thời gian và cũng như không thể để học sinh nhớ quá nhiều từ mới. Bên cạnh đó, cách học này cũng giúp học sinh phát triển kỹ năng đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnh, đây là một yêu

cầu rất quan trọng đối với các em trong quá trình học tập một ngôn ngữ thứ hai.

Tuy nhiên cách học từ vựng ngẫu nhiên (incidental learning) này tuy rất hay và hữu ích nhưng không thể áp dụng cho học sinh của trường Trung Học Phổ Thông Tịnh Biên vì lượng

tài liệu bằng Tiếng Anh hợp với khả năng của các em ở đây không nhiều, các em lại không có

nhiều thời gian để tập trung đọc mỗi ngày và các em cũng chưa có được ý thức tự giác tự đi

tìm tài liệu để đọc khi không được sự yêu cầu của giáo viên. Và sau khi đọc xong các em cũng

không biết nên viết cái gì. Thật vậy, các em hoàn toàn không biết đọc hay viết cái gì, đọc và

viết như thế nào và đọc và viết để làm gì.

Thấy được điểm yếu và điểm mạnh của từng cách học như thế này, giáo viên đã mạnh

dạn đổi mới, thêm vào cách học từ vựng ngẫu nhiên thông qua hoạt động đọc mở rộng và viết

lại bằng Tiếng Anh với sự hướng dẫn và kiểm soát từ giáo viên thông qua các phiếu tự học.

Kết hợp hai cách học từ vựng này lại với nhau để có thể hạn chế được điểm yếu của từng cách

học, từ đó tìm ra một biện pháp học từ vựng có hiệu quả nhất nhằm giúp các em học sinh có

thể cải thiện vốn từ vựng của mình. Thật vậy, thông qua cách học từ vựng có chủ ý, học sinh

có thể học và nhớ được từ vựng, ý nghĩa, cách phát âm, loại của từ và giới từ đi theo. Đây là

cách học từ vựng bắt buộc và được thực hiện bởi tất cả giáo viên và học sinh của trường.

Nhưng khi thực hiện việc tự học từ vựng thông qua phiếu tự học, học sinh có thể nâng cao vốn từ vựng của mình bằng cách học từ vựng ngẫu nhiên. Thông qua các bài đọc và các hoạt động

được cung cấp bởi giáo viên trong phiếu tự học, các em học sinh có thể gặp lại những từ vựng mà các em đã học một cách có chủ ý trong từng ngữ cảnh cụ thể. Từ đó có thể giúp các em thật

sự hiểu về các từ vựng này và có thể nhớ từ được lâu hơn.

Ngoài ra, phiếu tự học giúp giáo viên kiểm soát được việc tự học để nâng cao vốn từ vựng của học sinh. Phiếu tự học cho các em biết các em cần học cái gì, nên học cái gì và học như thế nào. Phiếu tự học cung cấp sẵn bài đọc cho học sinh, nên các em không cần tìm kiếm tài liệu ở đâu khác. Mà cho dù có yêu cầu học sinh tìm kiếm thì các em cũng không biết mình

nên tìm và đọc tài liệu nào. Phiếu tự học được thiết kế nhằm dẫn dắt học sinh theo từng bước

từ dễ đến khó đến khi hoàn toàn có thể mới đưa ra các hoạt động viết nhằm tạo sự dễ dàng và Trang 25

đảm bảo học sinh có thể thực hiện được hoạt động viết của mình. Phiếu tự học được thiết kế

theo từng bài, với những chủ đề mà học sinh đã học trên lớp, với vốn từ vựng xoay quanh

những từ vựng mà các em đã học và cần phải nắm vững. Việc gặp đi gặp lại, viết đi viết lại

những từ mới này giúp hạn chế việc học trước quên sau của học sinh trường. Hoạt động viết được thiết kế trong phiếu tự học cũng xoay quanh những chủ đề nói được giáo viên kiểm tra

trong chương trình học. Do đó, phiếu tự học cũng là bước đầu cho sự chuẩn bị phần Speaking

theo các chủ đề trong chương trình học. Từ đó giúp hoạt động nói của học sinh tốt hơn so với

những lớp không áp dụng phiếu tự học này.

Một điểm hay khác của sáng kiến này là ở bước ôn từ vựng của học sinh. Học sinh có

cơ hội ghi lại nghĩa của từ do đó sẽ có một nơi cho các em lưu trữ kho từ vựng của mình để sau này các em có thể đọc đi đọc lại mỗi khi rảnh. Học sinh cũng được cùng nhau tra từ vựng thường xuyên với nhau, kiểm tra nghĩa của các từ vựng với nhau. Vì vậy, từ vựng các em học

được trả đi trả lại thường xuyên. Điều này hạn chế việc học sinh quên đi từ vựng mà các em đã

học.

Bước đầu thực hiện biện pháp học từ vựng này chắc chắn các em sẽ gặp nhiều khó

khăn, đòi hỏi các em phải nổ lực, kiên nhẫn thực hiện. Khi các em đã hoàn toàn quen với cách

học này, các em sẽ không ngừng nâng cao vốn từ vựng của mình. Chắc chắn việc học sinh học

sau, quên trước sẽ không còn tái diễn. Từ đó giúp các em có được một vốn từ vựng mạnh mẽ.

Biết được nhiều từ vựng sẽ giúp các em cải thiện đáng kể khả năng nghe, nói, đọc viết Tiếng

Anh của mình.

IV. Hiệu Quả Đạt Được:

Sau một học kì thường xuyên áp dụng phương pháp tự học từ vựng thông qua đọc mở

rộng và viết lại theo yêu cầu của giáo viên trong phiếu tự học đối với học sinh khối 10 trường

THPT Tịnh Biên nói chung và lớp 10A6 nói riêng, đã mang lại một kết quả rất khả quan với

những thay đổi lớn về kiến thức từ vựng, về thái độ học tập và cả chất lượng giảng dạy môn

Tiếng Anh ở các lớp này. Sau đây là kết quả cụ thể của quá trình thực nghiệm:

Để có số liệu chính xác về việc thực hiện sáng kiến của mình, giáo viên đã chọn 2 lớp:

lớp 10A1 và lớp 10A6. Lớp 10A1 gồm 40 học sinh là nhóm đối chứng còn lớp 10A6 gồm 37 học sinh là nhóm thực nghiệm. Tất cả những học sinh này cùng là học sinh lớp 10, cùng học 1

chương trình học nên lượng ngôn ngữ mà các em tiếp xúc hàng tuần là tương đương nhau. Sau khi đã chọn được đối tượng phù hợp, giáo viên cho học sinh của 2 nhóm làm một bài kiểm tra để kiểm tra về khả năng từ vựng của các em .

Bài kiểm tra có 50 câu hỏi, gồm 11 phần. Chủ yếu của các bài tập từ vựng này yêu cầu học sinh cho từ đồng nghĩa với những từ in nghiên trong câu. Học sinh có thể nhớ nghĩa của từ

in nghiên hay có thể đọc cả câu và đoán được ý nghĩa của từ in nghiên, sau đó chọn đáp án

đúng. Những phần kế tiếp của bài kiểm tra còn yêu cầu các em nối từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa Trang 26

với nhau, chọn từ và phần tiền tố thích hợp để tạo ra những từ đúng, hay chọn ra một từ khác

với các từ còn lại trong mỗi câu. Ngoài ra còn có dạng bài tập điền từ. Các em phải dùng các từ

cho sẵn để điền vào chổ trống sao cho phù hợp về ý nghĩa. Ở phần bài tập kế tiếp là dạng bài

tập dịch sang Tiếng Anh cho các câu Tiếng Việt hay hoàn thành các câu Tiếng Anh còn chưa hoàn tất. Cuối cùng, học sinh sẽ tự điền từ vào chổ trống, với mỗi chổ trống đều có cho một âm

đầu gợi ý để dễ dàng hơn cho các em. Tất cả những từ vựng xuất hiện trong bài kiểm tra đều

nằm trong phần từ vựng mà các em đã học trong chương trình học trên lớp trong suốt thời gian

thực nghiệm. Các em phải làm bài kiểm tra trong vòng 60 phút. Sau đây là kết quả của hai lớp trong bài kiểm tra ở đầu khóa thực nghiệm:

Lớp 10A1 (Lớp đối chứng) Lớp 10A6 (Lớp thực nghiệm)

Số câu đúng của lần 1 Số câu đúng của lần 1

STT (câu) STT (câu)

1 31 1 30

2 20 2 14

3 30 3 42

4 43 4 20

5 33 5 25

6 21 6 13

7 31 7 11

8 20 8 30

9 21 9 19

10 30 10 16

11 16 11 17

12 28 12 41

13 20 13 23

14 12 14 25

15 16 15 17

16 14 16 19

17 38 17 18

18 49 18 13

19 28 19 19

20 19 20 36

21 33 21 42

Trang 27

22 25 22 39

12 23 45 23

18 24 17 24

29 25 18 25

18 26 14 26

31 27 16 27

36 28 33 28

28 29 40 29

17 30 47 30

23 31 19 31

11 32 17 32

23 33 31 33

23 34 10 34

43 35 17 35

27 36 13 36

38 37 12 37

26 38

30 39

19 40

Tổng

số

câu

đúng

Trang 28

/ lớp 1030 (câu)/ 40hs 878 (câu)/37 hs

60

50

40

Lớp 10A1 Số câu đúng của lần 1

30

Lớp 10A6 Số câu đúng của lần 1

20

10

0

1 3 5 7 9 11 13 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 37 39 41

Nhìn vào kết quả của bài kiểm tra về từ vựng của 2 lớp, chúng ta thấy độ chênh lệch về

tổng số câu đúng của 2 lớp là không lớn lắm và có thể chấp nhận được. Do đó, chúng ta có thể

kết luận rằng khả năng về từ vựng đầu vào của học sinh 2 nhóm là ngang nhau.

Sau khi đã chọn được đối tượng thích hợp, giáo viên tiến hành thực nghiệm ở hai lớp với hai cách dạy khác nhau. Ở lớp 10A1 (nhóm đối chứng), giáo viên dạy từ mới cho các em ở đầu các tiết đọc hiểu, nghe và thỉnh thoảng là trong các tiết nói và viết. Trong phần dạy từ, giáo

viên dạy các em về nghĩa của từ, cách phát âm, dấu nhấn, loại từ, giới từ theo sau (nếu có).

Giáo viên yêu cầu học sinh về nhà và học thuộc lòng các từ vựng này và giáo viên trả bài các em ở các tiết sau.

Còn đối với lớp 10A6 (nhóm thực nghiệm) , giáo viên kết hợp vừa dạy từ trong các tiết

như đối với nhóm đối chứng. Giáo viên cũng yêu cầu học sinh hoàn thành phiếu tự học theo từng bài, sau đó kiểm tra phiếu tự học với nhau theo cặp hay theo nhóm và nộp cho giáo viên theo thời gian quy định.

Trang 29

Sau 3 tháng thực hiện, giáo viên yêu cầu học sinh làm lại bài kiểm tra mà các em đã làm trước thời gian thực nghiệm. Việc các em phải làm lại bài kiểm tra có nội dung giống với bài kiểm tra mà các em đã làm ở đầu khóa là một bí mật. Đáp án cũng như kết quả của bài kiểm tra đầu khóa của các em cũng không được công bố để đảm bảo độ tin cậy của kết quả về việc tăng

vốn từ vựng của các em sau 3 tháng tham gia thực nghiệm. Sau đây là kết quả của học sinh 2

lớp trước và sau khi quá trình thực nghiệm.

Lớp 10A1 (Nhóm đối chứng) Lớp 10A6 (Nhóm thực nghiệm)

Số câu đúng Số câu đúng Số câu đúng Số câu đúng

STT của lần 1 của lần 2 STT của lần 1 của lần 2

1 31 30 1 30 34

2 20 25 2 14 19

3 30 39 3 42 45

4 43 43 4 20 98

5 33 32 5 25 58

6 21 25 6 13 20

7 31 34 7 11 62

8 20 32 8 30 35

9 21 29 9 19 44

10 30 31 10 16 112

11 16 20 11 17 47

12 28 27 12 41 49

13 20 25 13 23 57

14 12 10 14 25 39

15 16 18 15 17 37

16 14 21 16 19 55

17 38 38 17 18 115

18 49 42 18 13 57

19 28 23 19 19 35

20 19 22 20 36 83

21 33 34 21 42 93

22 25 21 22 39 51

23 12 15 23 45 56

24 18 22 24 17 87

25 29 31 25 18 33

26 18 24 26 14 49

27 31 32 27 16 72

28 36 38 28 33 50

Trang 30

29 28 31 29 40 74

17 19 30 47 57 30

23 28 31 19 78 31

11 13 32 17 118 32

23 27 33 31 40 33

23 27 34 10 61 34

43 45 35 17 45 35

27 26 36 13 76 36

38 32 37 12 67 37

26 24 38

30 25 39

19 22 40

Tổng số câu

120

100

80

Lớp 10A1 (Nhóm đối chứng) Số câu đúng lần 1

60

Lớp 10A6 (Nhóm thực nghiệm) Số câu đúng lần 1

40

20

0

1 3 5 7 9 11 13 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 37 39

Trang 31

đúng / lớp

140

120

100

80

Lớp 10A1 (Nhóm đối chứng) Số câu đúng lần 2

60

Lớp 10A6 (Nhóm thực nghiệm) Số câu đúng lần 2

40

20

0

1 3 5 7 9 11 13 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 37 39

Từ kết quả nêu trên cho thấy, cả hai nhóm đều đạt số câu đúng của bài kiểm tra sau cao

hơn bài kiểm tra trước. Điều này giúp ta khẳng định cách học từ có chủ ý (intentional

vocabulary learning) thật sự có tác dụng tích cực đối với các em học sinh trong quá trình nâng

cao vốn từ vựng của mình. Thật vậy, số câu đúng của bài kiểm tra sau cao hơn bài kiểm tra

trước tức là vốn từ vựng của các em có tăng lên sau thời gian thực nghiệm. Như vậy, trong quá

trình giảng dạy, nếu giáo viên thực hiện theo cách: dạy từ vựng cho các em ở đầu các tiết học

kĩ năng, yêu cầu các em về học từ và kiểm tra bài các em ở các tiết học sau thì chắc chắn khả

năng về từ vựng của các em sẽ tăng lên. Tuy nhiên nếu chúng ta so sánh kết quả của hai lớp

trước và sau thời gian thực nghiệm thì ta sẽ thấy: nhóm thực nghiệm có số câu đúng của bài kiểm tra sau khóa thực nghiệm cao hơn số câu đúng của nhóm đối chứng mặc dù kết quả này

của hai nhóm ở đầu khóa thực nghiệm là ngang nhau. Như vậy, điều này cho thấy nhóm thực nghiệm biết nhiều từ vựng hơn và có thể làm các bài tập về từ vựng giỏi hơn so với các em học sinh của nhóm đối chứng. Từ đó cho thấy, cách học từ ngẫu nhiên (incidental vocabulary learning) thông qua đọc mở rộng các tài liệu Tiếng Anh và viết lại theo yêu cầu của giáo viên

trong phiếu tự học thật sự giúp học sinh phát triển được vốn từ vựng của mình nhiều hơn và có

thể giúp các em nhớ từ vựng được lâu hơn.

Ngoài ra, so với học sinh của lớp 10A1 (nhóm đối chứng), thái độ học tập môn Tiếng

Trang 32

Anh của các em lớp 10A6 (lớp thực nghiệm) thay đổi đáng kể. Các giờ học Tiếng Anh của lớp

trở nên sinh động hơn, sôi nổi hơn và học sinh học tập một cách nhiệt tình hơn. Các em luôn

háo hức chờ đợi đến hết bài Tiếng Anh để biết các em phải làm gì cho việc tự học của bài học

này. Các em mong muốn được chuẩn bị phiếu tự học ở nhà theo yêu cầu của giáo viên và

mong muốn đến giờ học Tiếng Anh để các em có thể trình bày trước giáo viên và các bạn những gì các em đã hoàn tất ở nhà theo những yêu cầu trong phiếu tự học. Phiếu tự học được

các em học sinh thực hiện rất tốt theo đúng yêu cầu và hướng dẫn của giáo viên (Một số phiếu

tự học đã được giáo viên đính kèm theo sáng kiến ở phần phụ lục)

Một học kì áp dụng phương pháp tự học từ vựng cũng làm cho học sinh lớp 10A6 trở nên năng động hơn so với các em học sinh của nhóm đối chứng. Các em học được cách tự học,

tự tra nghĩa của từ và chuẩn bị từ mới cho các bài học ở nhà. Ngoài ra, các em cũng quen dần với việc học tập và làm việc theo cặp, theo nhóm ngoài giờ học để hoàn thành nhiệm vụ theo yêu cầu của giáo viên. Thật sự, phương pháp hướng dẫn học sinh tự học từ vựng thông qua các

phiếu tự học đã cung cấp cho học sinh lớp thực nghiệm cơ hội, lí do và hứng thú để các em tự

học, học theo cặp, theo nhóm ngoài giờ học trên lớp theo yêu cầu và sự hướng dẫn của giáo

viên để nhằm nâng cao vốn từ vựng của mình; bước đầu tạo cho các em thói quen học tập và

mang lại niềm đam mê học tập cho các em học sinh.

Ngoài ra, phương pháp tự học này cũng cải thiện đáng kể hứng thú học tập môn Tiếng

Anh của các em. Các em ngày càng thích học môn Tiếng Anh nhiều hơn vì với phương pháp tự

học như thế này đã tạo cho các em cơ hội để thể hiện bản thân mình và cơ hội để áp dụng

những gì mình được học trên lớp. Điều này đã tạo một sự mới mẽ mà thú vị cho học sinh.

Trong suốt quá trình tự học, các em gặp lại các từ vựng mà các em đã học, được có cơ hội sử

dụng lại các từ vựng đó viết lại về các vấn đề hàng ngày liên quan đến bản thân các em, liên

quan đến những người thân, những người bạn hay những người mà các em ngưỡng mộ. Các

em rất thích các hoạt động này vì nó mới và tạo được cơ hội cho các em sáng tạo theo sở thích

của riêng mình. Ngoài ra, cách thiết kế trong phiếu tự học tập trung vào người học là chính.

Các em có được cơ hội để nói về bản thân, để thể hiện bản thân và bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc của mình. Điều này tạo nên hứng thú học tập môn Tiếng Anh cho các em của nhóm thực

nghiệm.

Hai kĩ năng phát triển đáng kể nhất và dễ thấy nhất trong học sinh nhóm thực nghiệm

sau thời gian thực nghiệm là kĩ năng đọc và viết. Học sinh của lớp thực nghiệm không có cảm giác sợ các tiết đọc, hay không có tình trạng đọc qua loa, chọn đáp án theo cảm tính như rất nhiều em học sinh của lớp 10A1 (nhóm đối chứng). Các em cũng tự tin hơn trong việc viết Tiếng Anh, một kĩ năng mà rất nhiều học sinh còn e ngại trong các giờ học môn Tiếng Anh.

Một thay đổi khác nữa sau thời gian thực nghiệm là thay đổi về khả năng làm việc theo

cặp và theo nhóm của các em học sinh trong lớp học. Học sinh của lớp 10A6 (nhóm thực

nghiệm) phát triển tốt hơn về khả năng làm việc theo cặp và theo nhóm trong giờ lên lớp. Các Trang 33

em biết được cách làm việc độc lập, tự giác và biết cách tổ chức, sắp xếp công việc cho các

thành viên trong cặp và trong nhóm tốt hơn. Các em làm việc theo cặp, theo nhóm có hiệu quả

hơn rất nhiều so với các em học sinh của lớp 10A1 (nhóm đối chứng).

Bên cạnh đó, sau thời gian áp dụng phương pháp tự học nhằm nâng cao vốn từ vựng Tiếng Anh thông qua các phiếu tự học, do đa số các em học sinh đều có hứng thú học tập môn

Tiếng Anh và nhờ tính thu hút và hấp dẫn của các hoạt động đã làm cho rất nhiều học sinh

tham gia tự học để nâng cao vốn từ vựng, cho nên chất lượng dạy và học của nhóm thực

nghiệm cũng không ngừng tăng lên đáng kể sau thời gian thực nghiệm so với nhóm đối chứng. Bằng chứng là bảng so sánh kết quả học tập môn Tiếng Anh của các em học sinh lớp 10A6

STT

HỌ & TÊN

KT 1T (1ST)

Kết quả học tập HKI lớp 10A6 (Nhóm Thực Nghiệm) KT 1T (2ST) (sau TG thực nghiệm)

Thay đổi (Tăng / Giảm)

KT 15 (1ST) (trước TG thực nghiệm)

Nguyễn Nhựt Duy

Tăng

1

3,5

6,3

9

Văng Lê Duy

Tăng

2

4,5

5

5,5

Tạ Thành Đạt

Tăng

3

3,5

6,8

6,8

Lê Thị Trúc Giang

Không đáng kể

4

5,5

4

5

Phan Thanh Giang

Tăng

5

5

6

7

Lâm Nhật Hào

Không đáng kể

6

5,5

5,3

5,3

Nguyễn Thị Hồng Hạnh

Tăng

7

5,5

7

8,8

Cao Gia Hân

Giảm

8

6,5

5,8

5,5

Huỳnh Quốc Huy

Tăng

6

8

8,8

Không đáng kể

5,5

7

5,3

9 10 Nguyễn Thanh Huy Phan Gia Huy

Tăng

6,5

6,5

6,8

Tăng

4,5

4,5

7,5

Giảm

3,5

4,3

2,5

Tăng

4,5

3,5

5,8

Không đáng kể

6,5

6,8

6,8

Giảm

11 12 Tạ Hoàng Huy 13 Nguyễn Minh Kha 14 Huỳnh Quốc Khang 15 Bạch Ngọc Lãm 16 Nguyễn Văn Lý

5

8,8

4

Trang 34

(nhóm thực nghiệm) và lớp 10A1 (nhóm đối chứng) trường THPT Tịnh Biên (năm học 2018 – 2019) trước và sau thời gian thực nghiệm:

Tăng

6

6,3

6,8

Tăng

5,5

7,3

8,3

Tăng

2,5

3

7,3

Tăng

4,5

4,8

6,3

Tăng

8

9,5

9,8

Giảm

17 Trần Ngọc Minh 18 Chung A Ti Nà 19 Lê Thị Kim Ngân 20 Dương Thị Thu Nghi 21 Nguyễn Kim Ngọc 22 Nguyễn Mỹ Ngọc

6

5,5

5,3

Giảm

Phạm Quí Nhân

7

4

7,3

Tăng

5

7,8

6,8

Tăng

5

5

7,5

Không đáng kể

6,5

6,5

6,5

Tăng

5

2,5

2,5

Giảm

6

5,8

4

Giảm

7,5

3,5

5,8

Không đáng kể

4,8

4

4

Tăng

6,5

8,3

9

Giảm

7,5

7,5

8

Tăng

5,5

7,8

6,5

Tăng

7,5

9,3

5

Tăng

4,3

4,8

3

Tăng

4,5

7,3

4,8

Tăng

6,5

6,3

6,8

23 24 Nguyễn Văn Phát 25 Nguyễn Văn Phú 26 Lê Hoàng Phúc 27 Nguyễn Hữu Phước 28 Nguyễn Thái Tài 29 Nguyễn Huỳnh Duy Thanh 30 Nguyễn Minh Thư 31 Trần Trung Tính 32 Nguyễn Thị Thu Trang 33 Nguyễn Thanh Tú 34 Nguyễn Cát Tường 35 Ca Thị Cẩm Vi 36 Trần Huỳnh Tường Vi 37 Huỳnh Phan Tường Vy Bảng so sánh kết quả học tập môn Tiếng Anh của lớp 10A6 (lớp thực nghiệm) trong Học Kì I năm học 2017 – 2018

Trang 35

12

10

8

KT 15 (1ST) (trước TG thực nghiệm)

6

KT 1T (1ST)

KT 1T (2ST) (sau TG thực nghiệm)

4

2

0

1

3

5

7

9 11 13 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 37

STT

HỌ & TÊN

KT 1T (1ST)

Kết quả học tập HKI lớp 10A1 (Nhóm Đối Chứng) KT 1T (2ST) (sau TG thực nghiệm)

Thay đổi (Tăng / Giảm)

KT 15 (1ST) (trước TG thực nghiệm)

Bùi Thị Thúy An

Tăng

1

4

5

7,5

Lê Quốc Anh

Tăng

2

2

4,8

4,8

Nguyễn Lê Phương Anh

Giảm

3

5,5

4,5

4,6

Lê Thị Tú Bình

Tăng

4

5,5

5

6,5

Nguyễn Nhựt Thái Bình

Giảm

5

7,5

6,8

6,8

Huỳnh Kim Chi

Tăng

6

5

5,8

5,8

Châu Minh Duy

Tăng

7

3,5

4,8

5,8

Trần Thị Mỹ Duyên

Giảm

8

6,5

6,3

5,5

Nguyễn Thành Đạt

Giảm

6,5

6,8

6

Giảm

9 10 Nguyễn Kha Phú Điền

6,5

5,8

6

Trang 36

Tăng

6,5

5,8

7,8

Tăng

7

7

7,3

Tăng

1,5

1,5

3,5

Tăng

4

6,5

5,5

Giảm

6,5

6,8

6,3

Giảm

7,5

7,8

6,5

Tăng

5,5

6,8

6,5

Tăng

5,5

7

7,8

11 Ngô Trung Đông 12 Lê Ngọc Hải 13 Lâm Trọng Hiếu 14 Lê Chí Hiếu 15 Dương Thị Huệ Huyền 16 Lê Thị Nhả Linh 17 Nguyễn Kim Nhã Linh 18 Nguyễn Thị Thùy Linh Phạm Nhựt Linh

Tăng

6,5

6,8

7,5

Không đáng kể

5,5

6

5,8

Tăng

2,5

6,3

6

Tăng

5

5,8

6,5

Giảm

19 20 Chau Bun Na 21 Nguyễn Thị Diệu Ngân 22 Lê Thị Bé Ngọc 23 Nguyễn Hoàng Khánh

Ngọc

6,5

7,5

4,7

Tăng

3,5

5,3

7,3

Giảm

5,5

4,3

4,8

Giảm

5,5

5

4,5

Tăng

4,5

5,3

6

Tăng

3

6

6,5

Giảm

7

7

5,3

Tăng

6

7

8

Giảm

6

7,3

5,8

Giảm

3,5

5,5

3

Giảm

8

6,3

7

Giảm

8

6,8

7,3

24 Ngô Thị Gia Nguyên 25 Huỳnh Hữu Nhân 26 Nguyễn Văn Nhật 27 Huỳnh Thị Nhi 28 Nguyễn Thị Quỳnh Như 29 Trần Ngọc Như 30 Trần Thị Y Phụng 31 Lê Thị Vũ Quyên 32 Nguyễn Thị Hồng Thắm 33 Lê Thị Ngọc Thẩm 34 Lê Phạm Nhật Thiện Phan Thị Thùy Trang

Giảm

4

4,8

3

Giảm

35 36 Trần Thị Thùy Trang

6

4,5

5,8

Phạm Quốc Trung

Giảm

7,5

8

6,5

Giảm

5

6,5

4,6

Tăng

3,5

5,5

5,5

Giảm

37 38 Nguyễn Thị Kim Tuyền 39 Công Trường Vũ 40 Lê Huỳnh Kim Xuyến

7,5

7

5,5

Trang 37

9

8

7

6

KT 15 (1ST) (trước TG thực nghiệm)

5

KT 1T (1ST)

4

KT 1T (2ST) (sau TG thực nghiệm)

3

2

1

0

1 3 5 7 9 11 13 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 37 39

(So sánh điểm số của 2 lớp (trước thời gian thục nghiệm và sau thời gian thực

9

8

7

6

5

Nhóm Đối Chứng KT 15 (1ST) (trước TG thực nghiệm)

4

Nhóm Thực NghiệmKT 15 (1ST) (trước TG thực nghiệm)

3

2

1

0

1 3 5 7 9 11 13 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 37 39

Trang 38

nghiệm, sử dụng điểm thi hoặc kt 1t lần 2)

Qua bảng kết quả và biểu đồ so sánh kết quả học tập của 2 lớp 10A6 (nhóm thực

nghiệm) và lớp 10A1 (nhóm đối chứng) trước và sau thời gian thực nghiệm cho thấy, kết quả

học tập của nhóm thực nghiệm (lớp 10A6) thay đổi theo chiều hướng khá tốt. Đa số các em có

điểm số ở bài kiểm tra sau cao hơn các bài kiểm tra trước. Sự thay đổi kết quả học tập ở nhóm đối chứng (lớp 10A1) là không nhiều. Các em có dao động lên xuống nhưng đa số là không

đáng kể ở nhóm đối chứng. Điều này đã chứng minh rằng, việc giáo viên áp dụng phương pháp

tự học từ vựng thông qua việc đọc mở rộng các tài liệu Tiếng Anh và viết lại theo yêu cầu của

giáo viên trong phiếu tự học đã có tác dụng tích cực đến chất lượng dạy và học môn Tiếng Anh của thầy và trò trường THPT Tịnh Biên nói chung và của lớp 10A6 (nhóm thực nghiệm) nói

riêng trong quá trình dạy và học môn Tiếng Anh ở lớp này. IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Với những cách thực hiện như thế này, sáng kiến kinh nghiệm đã mang lại những hiệu

quả hết sức to lớn đặc biệt là đối với thầy và trò của trường Trung Học Phổ Thông Tịnh Biên.

Nó có thể giúp thầy và trò của trường giải quyết những khó khăn họ gặp phải khi học sinh

không có được một vốn từ vựng mạnh mẽ.

Đối với giáo viên, những phát hiện của sáng kiến kinh nghiệm này có thể giúp các thầy

cô tìm ra được một biện pháp thật sự có hiệu quả để giúp học sinh lớp mình cải thiện vốn từ

vựng của các em. Nếu các em học sinh của lớp đang dạy có được một vốn từ vựng mạnh mẽ,

hoạt động dạy học của các thầy cô sẽ có hiệu quả hơn, sẽ sinh động hơn và đa dạng hơn. Thật

vậy, khi học sinh có một vốn từ vựng mạnh mẽ, giáo viên có thể nói Tiếng Anh nhiều hơn

trong lớp. Trong giờ học nói, các em có thể nói được nhiều hơn, các em có thể nghe được giỏi

hơn do đó có thể hạn chế việc giáo viên phải cho học sinh nghe đi nghe lại một đoạn tapescript

do các em không hiểu được những từ trong bài nghe. Trong giờ học viết, các em sẽ viết giỏi

hơn, sẽ có nhiều ý tưởng phong phú hơn. Hơn thế, khi các em biết nhiều từ vựng, các em sẽ

đọc hiểu giỏi hơn cũng như các em sẽ làm bài tập đọc hiểu tốt hơn. Bên cạnh đó, trong suốt tiết học, khi học sinh có một vốn từ vựng mạnh mẽ, các em có thể thay giáo viên thực hiện rất

nhiều công việc mà đáng lẽ giáo viên buộc phải thực hiện khi giảng dạy những lớp mà học sinh không giỏi về từ vựng như: đưa ra nghĩa của một số từ vựng mà những học sinh khác không

biết, dịch một câu hỏi Tiếng Anh, cho biết yêu cầu của những hoạt động trong sách giáo khoa…

Đối với các em học sinh, nếu các em thực hiện cách học từ vựng kết hợp này một cách thường xuyên các em sẽ có thể có được một vốn từ vựng mạnh mẽ. Khi các em thực hiện các biện pháp học từ này trong một thời gian dài, các em sẽ có thể tạo được cho mình một thói

quen học từ. Khi đã tạo được thói quen, kết hợp với việc học từ vựng một cách thường xuyên

các em sẽ có thể cải thiện được vốn từ vựng của mình. Càng biết nhiều từ vựng các em sẽ càng Trang 39

phát triển được các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Anh của mình. Các em cũng có thể làm

tốt trong tất cả các hoạt động, các bài tập trên lớp. Càng học tốt sẽ càng làm cho các em thích

học môn Tiếng Anh hơn. Càng thích học, các em sẽ càng học giỏi môn này hơn. Bên cạnh đó,

khi có được một vốn từ vựng mạnh mẽ, kết hợp với việc nắm vững những điểm ngữ pháp cơ bản, các em sẽ có thể làm tốt tất cả các bài thi, bài kiểm tra theo xu hướng nhấn mạnh về ngữ

nghĩa ngày nay. Đạt được điểm cao trong các bài thi, bài kiểm tra ngoài tác dụng nâng cao chất

lượng dạy và học môn Anh văn, nó còn là một động lực lớn tạo hứng thú cho việc học môn

Anh văn của các em học sinh. Quan trọng nhất là cách học từ vựng này có thể giúp học sinh hạn chế được việc các em học từ sau quên từ trước, từ đó giúp các em có một vốn từ vựng

mạnh mẽ. Có được vốn từ vựng mạnh mẽ sẽ giúp các em học tốt môn Tiếng Anh hơn, nhờ đó mà chất lượng học tập môn Anh sẽ được nâng lên.

Tuy nhiên, sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm đã nảy sinh một số tồn tại sau:

* Mặc dù đa số học sinh có phát triển vốn từ vựng của mình nhưng vẫn còn một số học

sinh không biết nhiều từ vựng hơn sau thời gian thực nghiệm.

* Học sinh do tập trung quá nhiều vào từ vựng, lại phải học các điểm ngữ pháp và học

bài của các môn khác nên việc học dường như quá vất vả đối với các em. Một số học sinh

chăm học có ý chí, các em có thể cố gắng, còn những học sinh khác các em không thể thuộc

bài của những môn khác, cũng có khi các em không tham gia tra từ vựng môn Anh văn theo

yêu cầu của giáo viên như các bạn khác trong lớp. Một số học sinh trong nhóm thực nghiệm

cũng không tham gia đọc tài liệu mà giáo viên cung cấp.

V. NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG VÀ NHỮNG TỒN TẠI:

Trong quá trình thực hiện sáng kiến của mình, có được những thành công như vậy theo

tôi là do những nguyên nhân sau:

• Do giáo viên đã thành công trong tiết dạy đầu tiên khi đã cho các em thấy được sự cần thiết phải có một vốn từ vựng vững mạnh khi các em học ngoại ngữ như thế nào. Từ đó

tạo cho các em được một động lực để có thể tự giác, tự nguyện trong suốt quá trình học từ

vựng.

• Nguyên nhân thành công thứ hai là do sự tự giác học tập của đa số các em học sinh trong nhóm thực nghiệm. Do các em thật sự hiểu được sự cần thiết phải có một vốn từ vựng vững mạnh để các em có thể thành công trong việc học ngoại ngữ, cho nên các em đã hết sức tự giác trong suốt quá trình ôn và học từ vựng. Đó là lí do vì sao vốn từ vựng của các em không ngừng tăng lên dù chỉ trải qua 3 tháng thực nghiệm ngắn ngũi.

Trang 40

• Ngoài ra còn do các bài viết cung cấp cho các em có nội dung gần gũi với chủ đề, có chứa các từ vựng mà các em đã học, có độ dài vừa phải với độ khó phù hợp với khả năng đọc hiểu của các em học sinh, với ít từ mới và có nội dung phong phú. Do đó các em rất thích

đọc những bài viết này. Thật vậy, cảm giác có thể đọc hiểu một tài liệu bằng Tiếng Anh làm

cho các em rất phấn khởi. Càng phấn khởi, các em càng thích đọc. Càng đọc nhiều, các em

càng có thể biết được thêm nhiều từ vựng và có thể giúp các em nhớ lại các từ mà các em đã

học, và biết được các từ đó được sử dụng trong từng ngữ cảnh khác nhau như thế nào. Điều này hạn chế vấn đề các em học sau quên trước như những học sinh ở các lớp khác đã từng gặp.

• Do các em tiến hành ôn từ vựng theo cặp theo cách ôn từ cũ trước rồi mới tra từ mới sau dưới sự giám sát của lớp trưởng, lớp phó, và tổ trưởng của các tổ nên cũng đã góp

phần vào việc cải thiện vốn từ vựng của các em. Khi ôn từ vựng theo cặp, nếu các em không

biết cách phát âm của một từ nào đó, người bạn cùng làm việc cũng có thể giúp các em. Hơn thế được làm việc với một bạn khác cũng tăng thêm hứng thú làm việc đối với các em. Thật

vậy, khi thấy tất cả mọi người trong lớp đều học, các em cũng không thể ngồi không. Hơn nữa,

việc kiểm tra theo cặp một cách thường xuyên như thế này đã giúp các em ôn lại các từ vựng

mà các em đã học nhiều lần hơn, như vậy các em sẽ nhớ từ vựng được lâu hơn.

• Ngoài ra một nguyên nhân khác cũng dẫn đến thành công của quá trình thực nghiệm là do hứng thú của học sinh có được thông qua hoạt động học từ vựng. Các em cảm

thấy biện pháp học và ôn từ vựng này thật sự có tác dụng đối với các em. Các em có thể thuộc

từ mới, hơn nữa khi được ôn từ vựng theo cặp nhiều lần các em có thể nhớ được những từ

vựng mà các em học. Hơn nữa khi tra từ với một bạn khác trong cặp hay các bạn khác trong

nhóm, các em cũng có thể chứng tỏ cho bạn mình biết là các em biết từ Tiếng Anh đó là gì, là các em cũng giỏi Tiếng Anh. Điều này tạo được cho các em hứng thú và động lực để học từ

vựng. Không còn tình trạng học sau quên trước, cho nên các em biết được từ vựng nhiều hơn

do đó các em rất vui và rất muốn tiếp tục học để có thể ngày càng nâng cao hơn nữa vốn từ

vựng của mình . Từ đó tạo được cho các em một hứng thú học từ mới. Càng có nhiều hứng thú,

các em càng học từ có hiệu quả hơn.

Mặc dù có những thành công như thế nhưng trong quá trình tiến hành sáng kiến kinh

nghiệm của mình, tôi cũng nhận thấy được một số tồn tại và sau đây là những nguyên nhân của những tồn tại xảy ra trong suốt thời gian thực nghiệm:

Trang 41

Một số học sinh trong nhóm đối không phát triển được vốn từ vựng của mình sau quá trình thực nghiệm. Điều này là do các em này thuộc dạng học sinh trung bình, yếu. Các em không có được khả năng nhớ nhiều như các em học sinh khác. Do đó với số lượng từ để học được xem là bình thường có thể học được đối với những học sinh khác thì đối với các em là quá nhiều. Các em không thể thuộc hết những từ này. Thêm vào đó khi học trong lớp các em lại ngồi chung với một bạn khác cũng yếu như các em. Do đó, khi các bạn khác đang tra bài thì các em này không thực hiện như các bạn. Dù lớp trưởng, lớp phó và các tổ trưởng đã kiểm tra nhưng do học sinh trong lớp quá đông, các em không thể kiểm soát hết được. Không học từ

vựng, không ôn từ thường xuyên nên những em học sinh này không phát triển vốn từ vựng của

mình sau thời gian thực nghiệm.

Do hạn chế về nhiều mặt như: thời gian, vấn đề kiểm tra, đối tượng học sinh… nên bài đọc khi được cung cấp cho các em chỉ là những bài đọc ngắn thông thường. Nó không phải là những bài đọc dành cho hoạt động đọc mở rộng với ý nghĩa thật sự của nó. Do bài đọc

được cung cấp cho học sinh với mục đích giúp các em ôn lại những từ vựng mà các em đã học

trong sách giáo khoa, nên những tài liệu này rất ngắn, chủ đề và loại hình của những bài đọc

này rất hạn chế. Bên cạnh đó, sau các bài đọc này không có các câu hỏi hay các bài tập phục vụ cho mục đích đọc hiểu do giáo viên không thể có thời gian để kiểm tra về tính chính xác của

câu trả lời của các em học sinh. Nên cũng có hạn chế về việc đề ra mục đích đọc tài liệu cho các em học sinh

VIII. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG VÀ TRIỂN KHAI:

Như đã đề cặp ở trên, từ vựng có ý nghĩa rất quan trọng đối với các em học sinh khối 10

nói riêng và đối với tất cả học viên học ngoại ngữ hai nói chung. Do đó việc nâng cao vốn từ

vựng cho tất cả các em là một vấn đề cấp thiết hiện nay, là một yêu cầu hết sức cần thiết để có

thể giúp các em học tốt môn ngoại ngữ cũng như học tốt tất cả các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.

Với những biện pháp thực hiện mà sáng kiến kinh nghiệm này cung cấp thì cách học từ vựng

kết hợp giữa học từ có chủ ý và cách học từ ngẫu nhiên thông qua hoạt động đọc mở rộng các

tài liệu Tiếng Anh như thế này có thể áp dụng rộng rãi trong tất cả các đối tượng học sinh,

không những học sinh của khối 10 mà cả học sinh của khối 11 và 12, không những trong mà

thậm chí ngoài trường Trung Học Phổ Thông Tịnh Biên. Thật vậy, trong quá trình giảng dạy

của mình, giáo viên có thể dạy đưa ra từ mới, cung cấp nghĩa của từ, cách phát âm, dấu nhấn…

và yêu cầu các em học thuộc lòng ở nhà. Đến các tiết sau, giáo viên tranh thủ tra bài cho các

em. Để hạn chế việc học sinh học sau quên trước, giáo viên có thể yêu cầu các em tra bài

thường xuyên theo cặp hay theo nhóm. Ngoài ra, giáo viên có thể yêu cầu các em đọc lại các bài trong sách giáo khoa một cách thường xuyên hay giáo viên có thể tìm các tài liệu Tiếng

Anh có nội dung, chủ đề tương tự như nội dung và chủ đề trong sách giáo khoa, và có chứa các từ mới mà các em đã học để giúp các em ôn lại từ vựng của mình. Với những các bước như thế

này thì việc kết hợp giữa cách học từ có chủ ý với cách học từ ngẫu nhiên thông qua đọc mở rộng các tài liệu Tiếng Anh nhằm nâng cao vốn từ vựng cho các em là cho thể thực hiện rộng rãi cho tất cả học sinh của cả ba khối lớp.

Trang 42

IX. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Qua 3 tháng thực hiện sáng kiến kinh nghiệm của mình tôi đã rút ra được một số bài học

kinh nghiệm sau:

• Giáo viên nên khuyến khích việc học từ vựng có chủ ý trong học sinh thông qua hoạt động dạy từ vựng ở đầu các tiết học và trả bài từ vựng các em một cách thường xuyên để

các em luôn quan tâm đến việc nâng cao vốn từ vựng của mình. Từ vựng sau khi được học phải được ôn đi ôn lại một cách thường xuyên mới có thể hạn chế được việc học sinh học trước

quên sau và ôn từ vựng theo cặp có thể giúp học sinh ít chán hơn và có hiệu quả hơn trong việc

giúp các em học sinh nhớ từ vựng được lâu. Ngoài ra học từ vựng có chủ ý phải được kết hợp

với cách học từ vựng ngẫu nhiên thông qua đọc mở rộng các tài liệu Tiếng Anh để các em có thể biết được cách những từ vựng này được sử dụng trong từng ngữ cảnh cụ thể như thế nào.

Trong quá trình đọc mở rộng các em học sinh có thể chú ý gạch dưới những từ vựng quan

trọng, sau đó ghi chúng ra và dùng từ điển để tra nghĩa của từ sau đó học tất cả những từ này

theo cách học từ có chủ ý. Ngoài ra các em học sinh có thể ôn lại từ vựng mà các em đã học

trong sách giáo khoa bằng cách cùng nhau xem lại các bài viết trong sách giáo khoa theo

nhóm, theo cặp khi các em có thời gian rảnh trong lớp. Khi gặp từ mới có thể cùng nhau dịch

nghĩa và nhờ đó có thể ôn lại về ý nghĩa của những từ mới này. Khi các em thi nhau để nói về

ý nghĩa của những từ vựng trong sách giáo khoa trong nhóm như thế sẽ giúp cho quá trình ôn

từ vựng của các em được sôi động hơn và thú vị hơn.

• Giáo viên nên hạn chế số lượng từ vựng cho mỗi phần là khoảng từ 5 đến 10 từ mới. Nếu giáo viên cho học sinh học quá nhiều từ cho mỗi phần, số lượng từ vựng sẽ tăng lên

rất nhiều. Do đó học sinh sẽ mất rất nhiều thời gian để ôn tập từ vựng theo cặp ở 15 phút đầu

giờ ở các tiết học, như thế các em sẽ không có thời gian để thực hiện các công việc khác cũng

như học các phần khác của bộ môn này cũng như học bài của các môn khác.

• Nhược điểm lớn nhất của biện pháp học từ vựng này là nó đòi hỏi học sinh phải kiên trì, phải thực hiện một cách đều đặn. Điều này thật sự không dễ dàng gì đối với đa số các

em học sinh vì các em còn nhỏ nên rất nhanh chán về một hoạt động nào đó. Cho nên theo kinh nghiệm cho thấy, để có được kết quả tốt trong quá trình học tập, trong thời gian đầu thực hiện

giáo viên nên kiểm tra các em thật chặc chẽ, không ngừng động viên các em và giải thích cho các em để các em thật sự hiểu được sự cần thiết của vốn từ vựng đối với việc học ngoại ngữ của các em. Khi các em đã hình thành được thói quen, hoạt động học từ vựng như thế này sẽ trở nên dễ dàng hơn đối với các em và các em sẽ làm tốt công việc của mình.

• Trong quá trình thực hiện, giáo viên cần chú ý các em học sinh yếu, kém. Có thể sắp xếp cho các em ngồi cùng với một bạn khá hơn. Giáo viên cũng có thể trao đổi riêng với các em này và yêu cầu các em chỉ cần học hết khả năng của mình, chứ không nhất thiết là phải

Trang 43

học hết tất cả các từ như các bạn khác. Giáo viên cũng nên yêu cầu lớp trưởng, lớp phó và các

tổ trưởng nên chú ý các em này hơn để tránh tình trạng các em không thể học thuộc hết từ

vựng hay các em không đủ kiên nhẫn để thực hiện việc học từ vựng thường xuyên như các bạn

khác rồi các em trở nên chán nản và không tiếp tục học và ôn từ vựng nữa.

• Sau một thời gian thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao vốn từ vựng của mình, các em đã có được một vốn từ vựng vừa phải đủ để thực hiện việc đọc mở rộng với các tài liệu Anh văn khác với nội dung, chủ đề và loại hình đa dạng hơn. Do đó giáo viên nên tạo điều kiện

để học sinh có thể tiếp xúc với những nguồn tài liệu Tiếng Anh khác nhau, từ đó có thể tăng

cường hoạt động đọc mở rộng các tài liệu Tiếng Anh của các em. Thật vậy, đọc mở rộng là

một hoạt động hết sức cần thiết đối với các em học sinh khi học một ngoại ngữ thứ hai vì thông qua hoạt động này, các em có thể phát triển được khả năng đoán nghĩa của từ, các em có thể

nâng cao vốn từ vựng của mình thông qua cách học từ ngẫu nhiên, các em cũng có thể từ đó

phát triển được khả năng đọc hiểu, khả năng viết do có thể học được văn phong, được cách sử

dụng từ thông qua các bài đọc này.

• Nâng cao vốn từ vựng cho học sinh là một vấn đề cấp thiết, quan trọng nhưng giáo viên cũng không nên chỉ chú ý đến từ vựng mà bỏ quên việc giúp các em trao dồi kiến

thức ngữ pháp của mình. Đây cũng là một yếu tố không thể thiếu trong suốt quá trình học

ngoại ngữ của các em.

Trang 44

C. PHẦN KẾT LUẬN

I. KẾT LUẬN CHUNG

Người Anh đã từng có một câu nói rất hay “no gain without pain”. Thật vậy, không có

một thành công nào có thể đến một cách dễ dàng mà không phải cần đến những hi sinh, những

sự phấn đấu và công sức của con người. Việc học từ vựng Anh văn cũng vậy, để có được một vốn từ vựng mạnh mẽ, cả học sinh và giáo viên cần có một sự quyết tâm, có một quá trình

phấn đấu, lâu dài và thường xuyên mới có thể đạt được những thành tựu nhất định. Nếu học sinh muốn biết được nhiều từ vựng, các em phải học các từ mới. Để hạn chế việc các em quên đi những từ mới mà các em đã học các em phải ôn lại các từ vựng này một cách thường xuyên.

Với sự giúp đở và động viên của giáo viên thì hoạt động nâng cao vốn từ vựng của các em sẽ

có hiệu quả hơn. Vào đầu năm học giáo viên nên cho các em biết được về tác dụng và sự cần

thiết phải có một vốn từ vựng mạnh mẽ nếu các em muốn học tốt môn Anh văn. Giáo viên có

thể hướng dẫn các em cách học từ vựng, tổ chức cho các em ôn từ vựng theo cặp hay theo

nhóm và thường xuyên kiểm tra theo giỏi để hoạt động của các em đạt hiệu quả hơn. Đối với

các em khá giỏi, tính tự giác của các em khá tốt. Tuy nhiên đối với những em học sinh trung

bình yếu, tính tự giác của các em chưa cao. Do đó, giáo viên nên chú ý những đối tượng này

nhiều hơn. Luôn theo dõi và động viên các em để các em có thể làm tốt việc học và ôn từ vựng

của mình. Tất cả học sinh và giáo viên Anh văn cần quan tâm và chú ý nhiều hơn việc nâng

cao vốn từ vựng cho các em học sinh bởi vì chỉ có một vốn từ vựng mạnh mẽ, cả học sinh và

giáo viên mới có thể làm tốt việc dạy và học môn Anh văn của mình. Như đã nói ở trên, nếu ta

ví việc học Tiếng Anh là việc xây nhà thì học từ vựng như là bước xây nền móng cho căn nhà

đó. Một khi nền móng không vững chắc, thì căn nhà có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Học và cải

thiện được vốn từ vựng của mình tuy khó, nhưng sẽ có thể thực hiện được nếu cả cô và trò cùng nhau phấn đấu, nếu học sinh có được tính tự giác cao và có đủ lòng kiên nhân để có thể

thực hiện một cách thường xuyên các biện pháp nhằm nâng cao vốn từ vựng của mình để từ đó từng bước nâng cao các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết và nâng cao chất lượng dạy và học môn

Anh văn nói chung của trường. II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT Để việc nâng cao vốn từ vựng cho các em học sinh đạt hiệu quả, tôi xin có một số ý

kiến đề xuất sau đây:

1. Đối với Giáo viên

Giáo viên nên đầu tư nhiều thời gian hơn cho công việc giảng dạy để có thể vừa đảm

bảo thực hiện tất cả các nội dung trong sách giáo khoa vừa có thể làm cho học sinh xem việc Trang 45

học Tiếng Anh là nhẹ nhàng và không phải là một gánh nặng. Đa số các bài trong sách giáo

khoa rất khó so với trình độ của học sinh đặc biệt là học sinh vùng sâu vùng xa như ở Tịnh

Biên. Cho nên nếu giáo viên chỉ thực hiện giảng dạy hoàn toàn theo các bước giống như trong

sách giáo khoa, sẽ có 2 trường hợp xảy ra. Một là các em có thể sẽ không theo kịp nếu giáo viên dạy nhanh; hai là có thể sẽ không kịp giờ nếu giáo viên dạy kĩ và chậm. Cho nên trong

quá trình giảng dạy, nếu giáo viên thực hiện hoàn toàn giống như những gì trong sách giáo

khoa trình bày thì việc học ngoại ngữ sẽ là một gáng nặng đối với các em. Nếu chúng ta tạo

cho học sinh cảm giác khó khăn khi học ngoại ngữ, các em sẽ không có được hứng thú học ngoại ngữ. Kết quả là việc học của các em nói chung và việc học từ vựng của các em nói riêng

sẽ không đạt hiệu quả. Cho nên, giáo viên có thể vừa bám sát các bài giảng trong sách giáo khoa, sau đó biến đổi lại, tạo mọi điều kiện để học sinh có thể học tốt môn ngoại ngữ một cách nhẹ nhàng, dễ dàng để các em có được hứng thú trong việc học Tiếng Anh. Từ đó các em sẽ

học tốt môn này hơn, cũng như các em sẽ có thể thực hiện tốt các biện pháp nhằm nâng cao

vốn từ vựng của mình.

Bên cạnh đó, mỗi giáo viên Anh văn có thể cùng nhau tạo ra một kho tài liệu Tiếng Anh

đa dạng để có thể tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các em học sinh trong việc thực hiện hoạt

động đọc mở rộng các tài liệu Tiếng Anh để có thể từng bước giúp các em cải thiện vốn từ

vựng của mình, nhờ đó nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ của trường.

2. Đối với Ban Giám Hiệu:

Các tài liệu như sách, báo bằng Tiếng Anh là không dễ tìm ở địa bàn của Huyện. Thực

hành đọc mở rộng các tài liệu Tiếng Anh này một cách thường xuyên có tác dụng rất lớn trong

việc cải thiện vốn từ vựng của các em và trong nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ của

trường. Cho nên nếu có thể, Ban Giám Hiệu nên cung cấp thêm những tài liệu, sách báo bằng

Tiếng Anh ngoài những sách ngữ pháp cho thư viện để các em có thể đến thư viện và cùng

Trang 46

nhau đọc.

Tài liệu tham khảo:

W.N. Francis, and H. Kucera. Frequency Analysis of English Usage, Houghton Mifflin,

Hafiz, F. M., & Tudor, I. (1989). Extensive reading and the development of language skills,

ELT

Journal, 43(1), pp. 4-13.

Boston, 1982

Hulstijn, J.H. (1997) Mnemonic methods in foreign-language vocabula (Cited by 0)¬ry

learning: Theoretical conside¬rations and pedago¬gical impli¬cations. In: J. Coady & T.

Huckin (Eds.), Second Language Vocabulary Acqui¬sition: A Rationale for Pedagogy (pp.

203-224) Cambridge, UK: Cambridge University Press.

Hulstijn's (2001) paper entitled: "Intentional and Incidental Second Language

Nuttall, C. (1982). Teaching reading skills in a foreign language, London: Heinemann

Vocabulary Learning: A Reappraisal of Elaboration, Rehearsal and Automaticity",

Educational Phần Phụ Lục

Trang 47

BÀI KIỂM TRA TỪ VỰNG – KHỐI 10

MÔN: TIẾNG ANH

TG: 60’

PART 1:Choose the letter of the item which is the nearest in meaning to the words in italics: 1. We chat about our work. A. talk in a friendly way B. learn C. discuss D. speak 2. On this occasion, my class is making an excursion to visit some caves near our city. A. departure C. shift D. diversion

B. tour 3. Braille is the reading system for people who are unable to see. C. the deaf A. the blind D. the sick

B. the old 4. Thanks to the help of machines, people don’t have to do time-consuming jobs. A. taking little time B. taking much time C. taking no time D. taking few times

A. best - seller B. full-grown D. self – confident

PART 2: 5. Choose the letter of the definition which comes closest in meaning to the word “mature”. C. well-known 6. Choose the letter of the definition which comes closest in meaning to the word bumber crop. C. cheap crop B. good crop D. straw crop A. cash crop

B

awake expensive succeed cowardly male

Trang 48

PART 3: Draw lines connecting the pairs of opposites. A brave female cheap asleep fail Write your answer here:

B human national flow form infect

7. _____________________ >< _________________________ 8. ______________________ >< ________________________ 9. _______________________>< _______________________ 10. ______________________ >< _______________________ 11. ______________________ >< _______________________ PART 4: Which of the prefixes in Column A can combine with which of the words in Column B? Write out the complete words. A over trans super dis inter Write your answer here: 12. _______________________________________________ 13. _______________________________________________ 14. _______________________________________________ 15. _______________________________________________ 16. _______________________________________________ PART 5: Circle the odd one out:

17. goat, horse, cow, spider, sheep, dog, cat. 18. Get up, have lunch, do homework, study abroad, chat on the phone, go to bed, go to work.

19. Blind, mute, deaf, dumb, beautiful, mentally retarded 20. Name, body, age, occupation, place of birth, date of birth

PART 6: For each of the following words, write a sentence that makes its meaning clear. 21. have dinner 22. favourite subject 23. born 24. disabled Write your answer here: 25. ___________________________________________________________________________ 26. ___________________________________________________________________________ 27. ___________________________________________________________________________ 28. ___________________________________________________________________________ 29. ___________________________________________________________________________ Trang 49

PART 7: Fill in the gaps: 30. Without the Braille Alphabet it would be very difficult for

_________________________ 31. The last things I do is lock the door, turn off the lights, and __________________ at

11pm PART 8: Fill each gap in the sentence with one word from the box:

church camera sunshine

river lake excursion weather

32. They often sail on the _______________________________ near their house in summer.

33. Many beautiful houses have been built on the left bank of the

_________________________

34. We decided to go on a day ______________________________________ to the

moutains.

35. His family used to go to ___________________________________________ once a

week.

36. My brother likes sitting in the bright

____________________________________________

37. We had very good ___________________________________________ during our last

trip.

38. I always take my ______________________________ with me when I go on a camping

trip.

PART 9: Translate into English: 39. Mẹ tôi đi chợ và nấu bữa ăn trưa cho gia đình tôi. ____________________________________________________________________________ __ 40. Nam đi học vào buổi sáng. ____________________________________________________________________________ __ 41. Jack sinh ngày 20 tháng 10 năm 1990 ở London ____________________________________________________________________________ __ PART 10: Finish the following sentences: 42.I chat with my friends on the phone when __________________________________________ Trang 50

43. At school, I study many subjects but ______________________________________________ 44. Everyday, I use my computer to _________________________________________________ PART 11: Fill each gap with one suitable word with the first letter given

45. When Daisy was ill, we came to v _ _ _ _ her in the hospital.

46. Tom wants to t _ _ _ _ _ around the world when he grows up.

47. They s _ _ _ e d all day in her house last Saturday. 48. My neighbors c _ _ _ _ _ _ _ e d to me about my children‘s bad behavior.

49. Daisy s _ _ _ _ s all her free time collecting foreign stamps.

Trang 51

50. My grandmother p _ _ _ _ _ s a black and white television to a color television.