intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thái độ sinh viên không chuyên ngữ về bài kiểm tra kết thúc các học phần Tiếng Anh

Chia sẻ: Bautroibinhyen17 Bautroibinhyen17 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

64
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này nhằm đánh giá thái độ của sinh viên không chuyên ngữ trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng về kỳ kiểm tra (KT) kết thúc học phần Anh văn và phân tích những ảnh hưởng của bài KT lên quá trình dạy học tiếng Anh. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thái độ sinh viên không chuyên ngữ về bài kiểm tra kết thúc các học phần Tiếng Anh

Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 100 - 105<br /> <br /> Trường Đại học An Giang<br /> <br /> THÁI ĐỘ SINH VIÊN KHÔNG CHUYÊN NGỮ VỀ BÀI KIỂM TRA KẾT THÚC CÁC<br /> HỌC PHẦN TIẾNG ANH<br /> Đinh Thanh Liêm1<br /> 1<br /> <br /> ThS. Khoa Anh ngữ chuyên ngành , Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng<br /> <br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 06/01/14<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 17/01/14<br /> Ngày chấp nhận đăng:<br /> 30/07/14<br /> Title:<br /> The attitutes of non-English<br /> major students towards the<br /> end-of-term English test<br /> Từ khóa:<br /> Sinh viên không chuyên ngữ,<br /> thái độ của sinh viên không<br /> chuyên ngữ, kỳ thi kết thúc học<br /> phần<br /> Keywords:<br /> Non-English major students,<br /> attitudes of non-English major<br /> students , the end-of-term tests<br /> <br /> ABSTRACT<br /> This study evaluated the attitudes of non-English major students at Da Nang<br /> University of Technology towards the end-of-module tests of English and<br /> analyzed the impact of teaching and learning process of English. The research<br /> was conducted on 119 first-year students by the questionnaires and in-depth<br /> interviews with 25 students. The data analyzed by SPSS 16.0. The findings<br /> indicated that the students showed their positive attitudes towards the end-ofterm tests of English. The results also found that the end-of-module tests have<br /> impacted on English teaching and learning process. The end-of-module tests<br /> also influenced strongly both learning contents and teaching contents.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Nghiên cứu này nhằm đánh giá thái độ của sinh viên không chuyên ngữ trường<br /> Đại học Bách Khoa Đà Nẵng về kỳ kiểm tra (KT) kết thúc học phần Anh văn và<br /> phân tích những ảnh hưởng của bài KT lên quá trình dạy học tiếng Anh. Nghiên<br /> cứu này được thực hiện trên 119 sinh viên năm nhất bằng phiếu điều tra và<br /> phỏng vấn sâu 25 sinh viên. Số liệu được phân tích bằng phần mềm thống kê<br /> SPSS phiên bản 16.0. Kết quả cho thấy sinh viên thể hiện thái độ tích cực về bài<br /> KT. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy bài thi kết thúc học phần Anh văn đã có<br /> những ảnh hưởng đối với việc dạy và học ngôn ngữ. Bài thi đã ảnh hưởng đến<br /> nội dung học tập của người học và nội dung giảng dạy của người dạy.<br /> <br /> Thực hiện thông tư số 2191/BGDĐT-GDĐH ngày<br /> 22/04/2010 của Bộ GDĐT về hướng dẫn xây<br /> dựng và công bố chuẩn đầu ra ngành đào tạo, Đại<br /> học Đà Nẵng đã đề ra mục tiêu sinh viên phải đạt<br /> chuẩn trình độ tiếng Anh B1 theo Khung tham<br /> chiếu trình độ ngoại ngữ Châu Âu (CEFR) khi tốt<br /> nghiệp đại học. Với mục tiêu đó, nội dung giảng<br /> dạy mới được biên soạn và xây dựng theo khung<br /> CEFR, tập trung vào phát triển khả năng sử dụng<br /> tiếng Anh. Mặc dù việc thay đổi nội dung giảng<br /> dạy, hình thức kiểm tra, đánh giá (KTĐG) đã diễn<br /> ra hơn 1 năm nhưng liệu bài KT mới có ảnh<br /> hưởng như thế nào lên việc dạy học và thái độ của<br /> sinh viên về bài KT vẫn còn là ẩn số. Vì vậy, bài<br /> nghiên cứu này được thực hiện để tìm câu trả lời<br /> cho câu hỏi này.<br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Có lẽ không ai phủ nhận tầm quan trọng của ngoại<br /> ngữ, đặc biệt tiếng Anh trong sự nghiệp công<br /> nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Biết tiếng<br /> Anh là yêu cầu tất yếu của lao động có kỹ thuật<br /> cao nhằm đáp ứng các quy trình công nghệ<br /> thường xuyên được đổi mới, và là năng lực cần<br /> thiết với người Việt Nam hiện đại. Do đó, Bộ<br /> Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã quyết định thành<br /> lập đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020, nhằm nâng<br /> cao chất lượng dạy và học Ngoại ngữ trên phạm<br /> vi cả nước, xây dựng các chuẩn năng lực ngôn<br /> ngữ cho giáo viên tiếng Anh và sinh viên các<br /> trường đại học, cao đẳng.<br /> <br /> 100<br /> <br /> Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 100 - 105<br /> <br /> Trường Đại học An Giang<br /> <br /> nhau học tập, tăng cường việc tiếp thu kiến thức,<br /> phát triển tư duy phê phán. Tuy nhiên, e-porforlio<br /> cũng có những ảnh hưởng tiêu cực chẳng hạn hình<br /> thức đánh giá này tạo sự căng thẳng cho người<br /> học và một số học viên cũng phản đối việc dùng<br /> công nghệ trong việc KT.<br /> <br /> Theo Bachman và Palmer (1996), một trong sáu<br /> thuộc tính quan trọng để xác định tính hữu dụng<br /> của bài KTĐG là ảnh hưởng của nó lên cá nhân<br /> người dạy, người học và toàn xã hội cũng như<br /> toàn cảnh giáo dục. Pearson (1988) đã chỉ ra<br /> những kì thi quốc gia có ảnh hưởng đến hành vi,<br /> thái độ, động lực của giáo viên, học sinh và các<br /> bậc phụ huynh học sinh. Ngoài ra, Frederiksen<br /> (1984) cho rằng bất kì bài thi nào cũng có khả<br /> năng ảnh hưởng đến hành vi của người dạy và<br /> người học nếu họ biết trước về kì thi ấy. Kì thi đó<br /> sẽ định hướng các hoạt động giảng dạy diễn ra<br /> trong lớp học. Cụ thể, giáo viên sẽ dành nhiều<br /> thời gian hơn để giảng dạy những kĩ năng được<br /> đánh giá trong kì thi.<br /> <br /> 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ<br /> 2.1 Đối tượng nghiên cứu<br /> Bài nghiên cứu điều tra thái độ sinh viên năm thứ<br /> nhất không chuyên ngữ thuộc Đại học Bách Khoa<br /> Đà Nẵng về các bài KT kết thúc học phần tiếng<br /> Anh và ảnh hưởng của bài thi đến việc dạy, học.<br /> Người tham gia gồm 119 sinh viên có trình độ<br /> Anh văn tương đương với bậc A1 theo khung<br /> CEFR.<br /> <br /> Trên thế giới, rất nhiều nghiên cứu điều tra ảnh<br /> hưởng vĩ mô (macro-level washback) của các kì<br /> thi quốc tế như: IELTS, TOFEL. Phần lớn các bài<br /> nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu những ảnh<br /> hưởng tích cực và tiêu cực của những kì thi quốc<br /> gia, hoặc quốc tế đến nội dung giảng dạy, phương<br /> pháp giảng dạy, thái độ của giáo viên và học sinh.<br /> Kết quả nghiên cứu cho thấy những kì thi như vậy<br /> có ảnh hưởng rất lớn đến nội dung giảng dạy<br /> nhưng có rất ít ảnh hưởng đến phương pháp giảng<br /> dạy của giáo viên.<br /> <br /> 2.2 Công cụ thu thập số liệu<br /> Công cụ nghiên cứu bao gồm bảng câu hỏi điều<br /> tra nghiên cứu được xây dựng dựa trên các lý<br /> thuyết về sự ảnh hưởng của bài KT và thái độ của<br /> sinh viên về bài KT. Người nghiên cứu cũng sử<br /> dụng bộ câu hỏi phỏng vấn sâu 25 sinh viên.<br /> 2.3 Công cụ phân tích số liệu<br /> Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Excel<br /> và phần mềm phân tích số liệu SPSS.<br /> <br /> Saif (2006) tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của<br /> bài KT. Mục đích bài nghiên cứu nhằm xác định<br /> mức độ ảnh hưởng của bài KT đến hoạt động dạy<br /> học và kết quả học tập của chương trình đào tạo<br /> International Teaching Asisstant (ITA). Quan sát<br /> cho thấy giáo viên dạy theo yêu cầu của bài KT<br /> nhiều hơn dạy theo sách giáo khoa và hầu như bỏ<br /> qua những phần không có trong bài KT. Rõ ràng,<br /> phương pháp dạy học và việc lựa chọn các hoạt<br /> động giảng dạy phụ thuộc rất nhiều vào nội dung,<br /> mục tiêu bài KT ITA.<br /> <br /> 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÌNH LUẬN<br /> 3.1 Những ảnh hưởng đến người học<br /> 3.1.1 Thời gian luyện tập<br /> Theo kết quả điều tra cho thấy đa số người tham<br /> gia (56%) dành khoảng ½ giờ đến 1 giờ đồng hồ<br /> mỗi ngày để ôn luyện bài trước kì thi. Tuy nhiên<br /> cũng đáng lưu ý là có đến 23% sinh viên không<br /> luyện tập gì cả. Điều này ngụ ý rằng kì thi kết<br /> thúc học phần không có ảnh hưởng nhiều đến một<br /> bộ phận sinh viên.<br /> <br /> Bên cạnh các nghiên cứu về những kì thi quốc tế<br /> và quốc gia, một số nghiên cứu cũng khảo sát ảnh<br /> hưởng vi mô (micro-level washback) của bài KT<br /> giữa kì, kết thúc học phần lên người học, người<br /> dạy, các hoạt động giảng dạy và tài liệu học tập.<br /> Cụ thể, Hung (2012) thực hiện dự án danh mục<br /> đầu tư điện tử (e-porforlio) như là cách đánh giá<br /> quá trình học tập mới thay thế cho các hình thức<br /> đánh giá truyền thống. Kết quả nghiên cứu cho<br /> thấy dự án e-porforlio có những ảnh hưởng tích<br /> cực đến việc học như: dự án đã tạo được cộng<br /> đồng những giáo viên TESOL thường xuyên trao<br /> đổi chia sẻ kinh nghiệm, các học viên giúp đỡ<br /> <br /> 3.1.2 Sinh viên biết trước hình thức của bài thi<br /> Có 65% sinh viên được giáo viên thông báo về<br /> hình thức của bài thi kết thúc học phần. Trong khi<br /> đó, có đến 35% sinh viên không được phổ biến về<br /> hình thức bài thi. Như vậy có thể nói rằng 35%<br /> sinh viên sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc ôn<br /> luyện cho kì thi bởi vì họ không nắm được những<br /> loại câu hỏi nào sẽ xuất hiện trong kì thi để có sự<br /> chuẩn bị thật tốt. Họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong<br /> <br /> 101<br /> <br /> Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 100 - 105<br /> <br /> Trường Đại học An Giang<br /> <br /> kì thi hơn so với những sinh viên đã nắm được<br /> loại câu hỏi được KT.<br /> <br /> 3.2 Những ảnh hưởng đến lớp học<br /> 3.2.1 Những ảnh hưởng đến người dạy và hoạt<br /> động giảng dạy<br /> <br /> 3.1.3 Sinh viên đi học thêm ở Trung tâm<br /> <br /> Phần này báo cáo kết quả mức độ thường xuyên<br /> giảng viên tiến hành các hoạt động giảng dạy trên<br /> lớp. Thang đo likert gồm 5 mức độ: (1) không bao<br /> giờ, (2) hiếm khi, (3) thỉnh thoảng, (4) thường<br /> xuyên, và (5) luôn luôn, được sử dụng để nhận<br /> diện các hoạt động dạy học phổ biến.<br /> <br /> Bảng 1. Mức độ thường xuyên các hoạt động giảng<br /> viên thực hiện trên lớp học<br /> Trên lớp, giảng viên thường cho sinh TB<br /> viên<br /> hoàn thành câu với động từ cho sẵn<br /> 3.61<br /> <br /> ĐLC<br /> <br /> hoàn thành câu với giới từ<br /> 3.55<br /> làm các hoạt động nhóm, cặp trên lớp<br /> 3.32<br /> mẹo vặt thi cử<br /> 1.92<br /> học tất cả nội dung trong sách bài học<br /> 3.71<br /> thi thử<br /> 1.96<br /> luyện dịch<br /> 2.29<br /> đọc thông báo ngắn<br /> 3.50<br /> chọn từ cho sẵn thích hợp điền vào bài đọc 3.32<br /> điền vào bài đọc từ thích hợp<br /> 3.32<br /> đọc và chọn tóm tắt nội dung chính của<br /> 3.12<br /> thông báo<br /> đọc và chọn câu trả lời đúng, sai, không đề<br /> 3.41<br /> cập<br /> viết email<br /> 1.70<br /> nghe và chọn câu hỏi đúng sai<br /> 3.65<br /> nghe và chọn câu hỏi trắc nghiệm<br /> 3.39<br /> luyện nói<br /> 2.62<br /> <br /> .89<br /> .94<br /> .83<br /> .99<br /> .85<br /> .81<br /> 1.02<br /> .93<br /> .90<br /> <br /> .94<br /> <br /> Về mặt các kĩ năng, kĩ năng giảng viên thường<br /> xuyên cho sinh viên thực hành trên lớp học là kĩ<br /> năng đọc (TB = 3.33, ĐLC = .97) với các dạng<br /> bài tập như đọc các thông báo ngắn, đọc và chọn<br /> câu trả lời đúng sai. Ngoài ra, giảng viên cũng<br /> thường xuyên dạy họ kĩ năng nghe (TB = 3.52,<br /> ĐLC = .86) và làm các loại bài tập như chọn câu<br /> hỏi trắc nghiệm. Tuy nhiên, điểm rất đáng quan<br /> tâm là giảng viên hiếm khi dành thời gian giúp họ<br /> nâng cao kĩ năng viết (TB = 1.7, ĐLC = .67) và<br /> theo người tham gia nghiên cứu nhận định giảng<br /> viên cũng thỉnh thoảng cho họ luyện nói trong giờ<br /> học (TB = 2.62, ĐLC = .62).<br /> <br /> .97<br /> 1.05<br /> .67<br /> .92<br /> .81<br /> .62<br /> <br /> Thống kê cũng cho thấy giảng viên thường xuyên<br /> cung cấp kiến thức ngữ pháp cho sinh viên thông<br /> qua làm bài tập ngữ pháp: hoàn thành câu với<br /> động từ cho sẵn, hoàn thành câu với giới từ (TB =<br /> 2.58, ĐLC = .91). Giảng viên cũng giao cho sinh<br /> viên các loại bài tập dịch câu từ Việt sang Anh và<br /> ngược lại. Hoạt động làm nhóm cũng được giáo<br /> viên sử dụng rất thường xuyên nhằm giúp sinh<br /> viên phát triển kĩ năng làm việc nhóm và học tập<br /> từ bạn bè cùng lớp. Bên cạnh đó, giảng viên cũng<br /> thường xuyên cho họ làm các dạng bài tập tương<br /> tự như những bài xuất hiện trong kì thi.<br /> <br /> Qua kết quả điều tra, có thể thấy rằng đa số sinh<br /> viên không tham gia học thêm ở bất kì trung tâm<br /> Anh ngữ nào (88%). Chỉ có 12% người tham gia<br /> cho rằng họ đi học ở các trung tâm. Lý do sinh<br /> viên không đi học thêm bên ngoài để nâng cao kĩ<br /> năng và kiến thức là vì họ có thể tự học ở nhà<br /> thông qua nhiều kênh khác nhau: mạng Internet,<br /> sách, đĩa. Họ cũng khẳng định học chương trình<br /> trên lớp đủ để giúp họ vượt qua kì thi và không<br /> cần giáo viên phụ đạo ngoài giờ lên lớp.<br /> 3.1.4 Hoạt động học ngoài giờ lên lớp của sinh<br /> viên<br /> <br /> Mặt khác, người tham gia nghiên cứu thừa nhận<br /> giảng viên hiếm khi chia sẻ cho họ các mẹo vẹt<br /> trong thi cử, các thủ thuật giúp họ có thể đạt điểm<br /> cao hơn trong kì thi. Giảng viên cũng hiếm khi<br /> cho họ làm bài thi thử để giúp làm quen với cách<br /> thức KTĐG.<br /> <br /> Kết quả điều tra cho thấy kĩ năng và thành tố ngôn<br /> ngữ sinh viên dành nhiều thời gian luyện tập ở<br /> nhà là ngữ pháp (83%) và đọc (71%). Khi được<br /> phỏng vấn vì sao họ luyện nhiều ngữ pháp và đọc<br /> hơn, sinh viên cho rằng tài liệu về bài tập ngữ<br /> pháp và đọc hiểu là nguồn học liệu dễ dàng tìm<br /> kiếm hơn. Ngoài ra, họ cũng dành khá nhiều thời<br /> gian để học từ vựng. Tuy nhiên, nghe (29%) và<br /> viết (23%) là hai kĩ năng gần như sinh viên không<br /> luyện tập ở nhà. Họ nghĩ kĩ năng viết và nghe rất<br /> khó nên họ cảm thấy nản khi luyện tập những kĩ<br /> năng này.<br /> <br /> 3.2.2 Ngôn ngữ giảng viên sử dụng trên lớp học<br /> Ngôn ngữ sử dụng trong giảng dạy được xem là<br /> một trong những yếu tố quan trọng xác định mức<br /> độ giao tiếp của các hoạt động giảng dạy. Qua kết<br /> quả thống kê, hầu hết giảng viên dùng cả tiếng<br /> Việt (74%) và tiếng Anh (69%) trong giảng dạy.<br /> Người tham gia nghiên cứu khẳng định giảng viên<br /> dùng tiếng Việt để dạy từ vựng – giải thích nghĩa<br /> 102<br /> <br /> Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 100 - 105<br /> <br /> Trường Đại học An Giang<br /> <br /> của từ, trình bày các điểm ngữ pháp trong bài học,<br /> dịch văn bản để giúp hiểu rõ nội dung bài học.<br /> Điều này có thể ám chỉ rằng một số hoạt động lớp<br /> học còn gắn liền với nhiều bài tập luyện cấu trúc<br /> ngữ pháp, những hoạt động dạy học chưa mang<br /> tính giao tiếp, chưa thực sự giúp cho sinh viên<br /> phát triển các kĩ năng ngôn ngữ.<br /> <br /> họ có cơ hội học cải thiện vì thế việc đạt điểm cao<br /> hay không cũng không quan trọng. Ngoài ra, phần<br /> lớn người tham gia cũng đánh giá cao vai trò của<br /> của bộ môn Anh văn, vì họ nhận thấy tiếng Anh<br /> hỗ trợ họ rất nhiều trong học tập các môn chuyên<br /> ngành, đặc biệt là việc tìm kiếm thông tin liên<br /> quan đến các môn học chuyên ngành dễ dàng hơn.<br /> <br /> 3.3 Thái độ của sinh viên đối với bài KT kết<br /> thúc học phần<br /> <br /> Bảng 2. Thái độ của sinh viên về bài kiểm tra<br /> Sinh viên nghĩ bài kiểm tra<br /> TB<br /> đánh giá đúng khả năng ngôn ngữ<br /> 1.91<br /> kiểm tra chính xác nội dung giảng dạy<br /> 2.05<br /> có đủ thời gian để họ hoàn thành bài thi 3.81<br /> giúp học môn chuyên ngành tốt hơn nếu 1.96<br /> vượt qua kì thi<br /> khiến người thi căng thẳng<br /> 2.39<br /> quá khó<br /> 2.56<br /> được chấm công bằng<br /> 2.00<br /> trách nhiệm giảng viên là giúp học trò đạt 3.61<br /> điểm<br /> <br /> Trong phần này, thái độ và cảm nhận của sinh<br /> viên về bài KT kết thúc học phần được điều tra<br /> thông qua thang đo likert gồm 5 mức độ: (1) hoàn<br /> toàn đồng ý, (2) đồng ý, (3) không ý kiến gì, (4)<br /> không đồng ý và (5) hoàn toàn không đồng ý.<br /> Dựa trên kết quả định lượng thu được, chúng ta có<br /> thể thấy rằng đa số người tham gia cho rằng bài<br /> KT kết thúc học phần là bài KT hay vì bài thi đã<br /> giúp đánh giá đúng khả năng ngôn ngữ của người<br /> học, và bài thi cũng đảm bảo KT đúng chính xác<br /> các điểm ngữ pháp, các kĩ năng người dạy truyền<br /> đạt cho người học trên lớp. Ngoài ra, người tham<br /> gia cũng đánh giá cao tính công bằng của bài KT<br /> vì họ tin tưởng bài thi của họ đã được chấm công<br /> bằng. Họ cũng tự nhận thấy rằng bản thân họ cần<br /> phải chịu trách nhiệm cho điểm số của mình. Họ<br /> không đổ trách nhiệm cho giảng viên, và không<br /> nghĩ rằng giảng viên phải có trách nhiệm giúp họ<br /> đạt điểm cao trong kì thi.<br /> <br /> ĐLC<br /> 0.81<br /> 0.77<br /> 0.96<br /> 0.92<br /> 1.05<br /> 1.09<br /> 0.82<br /> 0.98<br /> <br /> 4. Bình luận<br /> 4.1 Những ảnh hưởng của KTĐG<br /> Kết quả nghiên cứu phù hợp với giả thuyết của<br /> Wall và Alderson (1993) về sự ảnh hưởng của<br /> KTĐG lên việc dạy và học ngôn ngữ. Bài thi đã<br /> ảnh hưởng đến nội dung và phương pháp học của<br /> người học. Người học tập trung vào luyện tập các<br /> kĩ năng và thành tố ngôn ngữ được KTĐG trong<br /> kì thi cuối kì. Những kĩ năng và thành tố ngôn<br /> ngữ (language areas) được người học quan tâm<br /> học nhiều nhất bao gồm: nghe, ngữ pháp, từ vựng.<br /> Trong bài thi cấp độ A2, kĩ năng nói của sinh viên<br /> không được đánh giá nên họ không dành thời gian<br /> luyện kĩ năng này. Điều này muốn nói lên rằng<br /> bài KT đã có những tác động đáng kể đến nội<br /> dung và phương pháp học của sinh viên.<br /> <br /> Mặc dù, người tham gia cho rằng bài thi đánh giá<br /> chính xác, công bằng khả năng của họ và đề thi<br /> bám sát chương trình giảng dạy nhưng đa số nghĩ<br /> rằng bài thi quá khó đối với họ. Khi được phỏng<br /> vấn chuyên sâu về phần nào trong bài thi họ gặp<br /> nhiều khó khăn nhất, người tham gia đã liệt kê<br /> một số phần cụ thể như: phần nghe và chọn câu<br /> trả lời trắc nghiệm, viết. Họ cho rằng bài nghe có<br /> nhiều từ mới vì thế họ không thể nắm bắt được<br /> thông tin để trả lời câu hỏi. Đối với bài viết được<br /> đánh giá là khó vì họ không có ý tưởng và không<br /> biết cách sắp xếp các ý tưởng, cũng như ngữ pháp<br /> câu.<br /> <br /> Tuy nhiên một số người tham gia cho rằng họ đã<br /> học một số nội dung không liên quan đến việc<br /> KT; và đáng lưu ý là ngoài giờ lên lớp có đến<br /> 23% trong số họ không luyện tập gì trước kì thi và<br /> 88% cũng không tham gia vào bất cứ khóa học<br /> nào bên ngoài. Điều đó cho thấy rằng mức độ ảnh<br /> hưởng có thể không giống nhau đối với một số<br /> người học.<br /> <br /> Một điểm đáng lưu ý là người tham gia nhận định<br /> rằng thời gian của bài KT vẫn hơi ít, chưa đủ để<br /> họ hoàn thành tốt nhất bài thi. Họ nghĩ cần có<br /> thêm thời gian để hoàn thành bài viết. Mặc dù<br /> đánh giá bài thi khó và thiếu thời gian, tuy nhiên<br /> khoảng ½ số người tham gia khẳng định họ không<br /> cảm thấy căng thẳng trước kì thi. Khi được hỏi vì<br /> sao họ không cảm thấy căng thẳng, đa số cho rằng<br /> <br /> Bên cạnh việc kì thi kết thúc học phần có những<br /> ảnh hưởng đến người học, người dạy cũng là đối<br /> tượng chịu sự ảnh hưởng của quy trình KTĐG.<br /> Theo kết quả thu được, giảng viên thường xuyên<br /> dạy cho sinh viên những kĩ năng được đánh giá<br /> trong bài thi kết thúc học phần. Cụ thể, giảng viên<br /> chú trọng vào việc phát triển kĩ năng nghe, đọc,<br /> 103<br /> <br /> Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 100 - 105<br /> <br /> Trường Đại học An Giang<br /> <br /> viết cho sinh viên. Họ cũng dành nhiều thời gian<br /> giúp sinh viên hiểu được các điểm ngữ pháp, và từ<br /> vựng được KT. Tuy nhiên, giảng viên không chú<br /> trọng nhiều đến việc phát triển kĩ năng nói cho<br /> sinh viên. Qua đó, có thể thấy rằng kì thi kết thúc<br /> học phần có những ảnh hưởng đến nội dung giảng<br /> dạy. Kết quả nghiên cứu trùng khớp với kết quả<br /> nghiên cứu của Frederiksen (1984). Ông tuyên bố<br /> rằng giáo viên sẽ dành nhiều thời gian hơn để<br /> giảng dạy những kĩ năng được đánh giá trong kì<br /> thi và cũng dành ít thời gian hơn cho những kĩ<br /> năng không được đánh giá.<br /> <br /> môn tiếng Anh trong trường. Mặc dù họ công<br /> nhận tầm quan trọng của tiếng Anh trong tương<br /> lai và biết rõ mình chưa tốt bộ môn này, nhưng ½<br /> trong số họ vẫn không cảm thấy lo lắng trước kì<br /> thi, và gần ¼ không luyện tập, chuẩn bị cho bài<br /> thi, điều này chứng tỏ nhiều sinh viên vẫn còn<br /> xem nhẹ việc KTĐG trong nhà trường.<br /> 5. KẾT LUẬN<br /> Bài thi cuối kì ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực<br /> lên quá trình dạy và học, lên người dạy và người<br /> học. Để nâng cao hiệu quả của bài KT, trong quá<br /> trình thiết kế bài thi, các bên có liên quan bao<br /> gồm sinh viên, giảng viên cũng cần tham gia vào<br /> quá trình thiết kế. Điều này không có nghĩa họ<br /> trực tiếp soạn câu hỏi cho bài thi, nhưng cần phải<br /> phân tích nhu cầu của họ, từ đó lồng ghép những<br /> nhu cầu ấy vào quá trình thiết kế bài thi.<br /> <br /> Bên cạnh đó, kết quả cũng cho thấy hiệu quả của<br /> bài KTĐG bị giảm sút một phần là do các nguyên<br /> nhân như: sinh viên cho rằng giảng viên hiếm khi<br /> chia sẻ cho họ các mẹo vặt trong thi cử, các thủ<br /> thuật giúp họ có thể đạt điểm cao hơn trong kì thi;<br /> giảng viên cũng hiếm khi cho họ làm bài thi thử<br /> để giúp quen với cách thức KTĐG; giảng viên<br /> không thông báo cho sinh viên nắm và hiểu về<br /> hình thức của bài thi. Theo Bailey (1996), nếu<br /> sinh viên không được tham gia vào các hoạt động<br /> kể trên, việc KT được xem là có những ảnh hưởng<br /> thiếu tích cực đến việc dạy và học.<br /> <br /> Bên cạnh đó, mặc dù thái độ sinh viên về bài KT<br /> khá tính cực nhưng họ đánh giá kĩ năng nghe và<br /> viết khó. Hướng khắc phục có thể là giảng viên<br /> cần cung cấp tài liệu bổ sung để sinh viên luyện<br /> tập thêm ngoài giờ lên lớp. Một số chương trình<br /> chẳng hạn Dyned có thể giúp cải thiện đáng kể kĩ<br /> năng nghe. Mặt khác, kĩ năng nói không được<br /> đánh giá trong bài thi nhưng việc phát triển kĩ<br /> năng này cho sinh viên cũng hết sức cần thiết. Do<br /> đó, cần có giải pháp ứng dụng công nghệ thông<br /> tin nhằm hỗ trợ sinh viên luyện tập nói ngoài giờ.<br /> Dyned cũng hỗ trợ rất hiệu quả việc tự phát triển<br /> kĩ năng này cho sinh viên.<br /> <br /> Mặt khác, cường độ ảnh hưởng của bài thi cũng<br /> tương đối khác nhau giữa một bộ phận nhỏ giảng<br /> viên. Giảng viên đã phát triển cho sinh viên<br /> những kĩ năng không được đánh giá trong bài thi<br /> nhưng bản thân họ xem những kĩ năng đó cần<br /> thiết cho tương lai của người học. Cụ thể, một số<br /> giảng viên cũng giao cho sinh viên các loại bài tập<br /> dịch câu từ Việt sang Anh và ngược lại. Một số<br /> khác cũng chú trọng đến rèn luyện cho sinh viên<br /> kĩ năng giao tiếp.<br /> <br /> Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn<br /> nghiệp vụ của giảng viên. Nhà trường nên tạo cơ<br /> hội cho giảng viên tham gia vào các khóa tập<br /> huấn về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong<br /> giảng dạy, cụ thể ứng dụng các chương trình,<br /> phần mềm vào dạy kĩ năng viết. Mặc dù số lượng<br /> sinh viên trong lớp học đông và số lượng thời gian<br /> hạn chế trên giảng đường, việc ứng dụng công<br /> nghệ thông tin liên lạc giúp tăng cường hiệu quả<br /> giảng dạy. Ví dụ, giảng viên đơn giản chỉ sử dụng<br /> emails cũng có thể nhanh chóng giảm thiểu thời<br /> gian gửi và trả bài cho sinh viên. Những phương<br /> tiện thông tin liên lạc khác như chatrooms, blogs<br /> hoặc Facebook cũng là những kênh sinh viên có<br /> thể luyện kĩ năng viết và là kênh liên lạc giữa thầy<br /> và trò.<br /> <br /> 4.2 Thái độ sinh viên về bài KT<br /> Nhìn chung, sinh viên có thái độ tích cực về bài<br /> KT kết thúc học phần vì họ nhận định rằng bài thi<br /> đã đánh giá đúng, công bằng khả năng ngôn ngữ<br /> của họ, bài thi cũng đảm bảo KT đúng chính xác<br /> nội dung học trên lớp.<br /> Tuy nhiên, sinh viên cũng nhận định có một số<br /> chỗ trong đề thi như thời gian, độ khó cần được<br /> điều chỉnh. Sinh viên nghĩ thời gian không đủ để<br /> họ hoàn thành bài thi. Mặt khác, họ cũng cho rằng<br /> bài thi khó đối với họ đặc biệt kĩ năng nghe và<br /> viết. Một số họ khẳng định là kết quả bài thi môn<br /> nghe chủ yếu là do lựa chọn ngẫu nhiên chứ<br /> không phải xuất phát từ việc nghe được nội dung<br /> KT. Hơn thế nữa, sinh viên vẫn còn xem nhẹ bộ<br /> <br /> Ngoài ra để giúp sinh viên nâng cao kĩ năng viết,<br /> giảng viên có thể sử dụng hình thức đánh giá tập<br /> bài viết điện tử (writing e-portfolio). Hình thức<br /> 104<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2