
423
THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI CỦA KHỞI NGHIỆP:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI VÀ BÀI HỌC
ĐỐI VỚI VIỆT NAM
TS. Nguyễn Đình Trung
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Khởi nghiệp là một công việc phức tạp mà quá trình thực hiện có thể thành công và
thất bại. Thị trường ngày càng có tính cạnh tranh cao không chỉ trong nước mà toàn cầu
càng làm gia tăng xác suất xảy ra thành công và thất bại có thể đạt đến tỷ lệ 50/50. Mỗi
ngành nghề và đất nước khởi nghiệp đều có thể tổng kết một cách khái quát kinh nghiệm
thành công và thất bại. Bên cạnh những biểu hiện có tính đặc thù, chúng vẫn có những điểm
tương tự nhau nhất là các quốc gia đều có nền kinh tế thị trường với những nguyên tắc vận
hành khống có sự khác biệt đáng kể. Chính vì thế các kinh nghiệm này có thể được học hỏi
lẫn nhau giữa các nước và chúng đóng vai trò định hướng quan trọng về nhận thức và hành
động ngay lúc khởi nghiệp cũng như cả giai đoạn sau đó. Các kinh nghiệm này để học hỏi
cần được chọn lọc để tránh vận dụng máy móc vào Việt Nam với những đặc thù nhất định
trong phát triển. Dưới đây là một số kinh nghiệm khởi nghiệp được các Viện nghiên cứu
chuyên về khởi nghiệp tổng kết có tính khái quát, mặc dù không nêu cụ thể từng trường hợp,
nhưng các tổng kết này đóng vai trò nhất định trong việc đưa ra đánh giá tổng thể về thành
công và thất bại của khởi nghiệp. Năm 2016 được xác định là năm khởi nghiệp của Việt
Nam và nằm trong lộ trình xây dựng một chính phủ kiến tạo, hành động và liêm chính. Đây
là một nhiệm vụ quan trọng nhằm khai thác các nguồn lực phát triển, giải quyết việc làm và
thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Từ khóa: Thành công, thất bại, khởi nghiệp, kinh nghiệm nước ngoài, Việt Nam
Giới thiệu
Khởi nghiệp là việc khởi đầu một sự nghiệp, chịu tác động của nhiều yếu tố
bao gồm các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh, chính sách và yếu tố thuộc
về doanh nghiệp khởi nghiệp. Các doanh nghiệp khởi nghiệp đều có những điểm
xuất phát khá tương đồng nhau như thiếu kinh nghiệm, nguồn lực, quan hệ hoặc
thiếu quyết tâm vượt qua khó khăn của khởi nghiệp. Khởi nghiệp là một hiện
tượng xã hội không mới song những kết quả khởi nghiệp cũng như các khía cạnh
khác của khởi nghiệp của mỗi doanh nghiệp, địa phương hoặc quốc gia đều có
tính đặc thù.

424
Các quốc gia có môi trường kinh doanh hoàn thiện và ít rủi ro do thay đổi
chính sách thường đánh giá thành công hay thất bại trong khởi nghiệp là do
quyết định của người khởi nghiệp. Nói cách khác, yếu tố chủ quan đóng vai trò
quyết định của khởi nghiệp. Đối với các quốc gia mới khởi nghiệp như Việt Nam,
môi trường kinh doanh đang trong quá trình hoàn thiện, chính sách có những thay
đổi, chưa hình thành thói quen khởi nghiệp trong công chúng cho nên thành công và
thất bại của khởi nghiệp chịu ảnh hưởng không nhỏ của sự thay đổi hay điều chỉnh
chỉnh sách và chính sách có thể tạo động lực lớn cho khởi nghiệp.
Các nghiên cứu về thành công và thất bại của khởi nghiệp để áp dụng vào
Việt Nam trong công cuộc khởi nghiệp được hình thành từ năm 2016 chưa có
nhiều. Đây là cách thức xem xét tác động của các yếu tố đến bên trong và bên
ngoài đến khởi nghiệp bảo đảm khởi nghiệp thành công - vận hành lâu dài, ổn
định và có thể quy mô ngày càng mở rộng hoặc thất bại - thu hẹp quy mô, đóng
cửa. Múc độ ảnh hưởng của các yếu tố có thể phân loại theo thứ tự từ trên xuống
hoặc đánh giá theo tỷ lệ tần suất lặp lại của số khởi nghiệp trả lời câu hỏi. Các
bài nghiên cứu về thành công và thất bại này chủ yếu từ nước ngoài và đây là
kinh nghiệm quý báu để Việt Nam tham khảo. Các kinh nghiệm đó cũng cần có
điều kiện ràng buộc để có thể thực hiện được.
Quan niệm về khởi nghiệp
Có nhiều quan niệm khác nhau về khởi nghiệp. Theo Neil Blumental, đồng
sáng lập và đồng Giám đốc Điều hành Warby Parker thì “khởi nghiệp là một
công ty hoạt động để giải quyết vấn đề thiếu giải pháp rõ ràng và thành công
không được bảo đảm”. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia “Một công
ty khởi nghiệp là một doanh nghiệp mạo hiểm mới nổi, tăng trưởng nhanh nhằm
đáp ứng nhu cầu thị trường thông qua việc phát triển hoặc cung ứng sản phẩm
đổi mới sáng tạo, quy trình hoặc dịch vụ. Một khởi nghiệp thường là một công ty
có quy mô nhỏ, một quan hệ đối tác hoặc một tổ chức được thiết kế để phát triển
nhanh chóng mô hình kinh doanh có khả năng mở rộng quy mô”1.
Tài liệu hướng dẫn khởi nghiệp của Văn phòng Phát triển công nghệ thuộc
Đại học Tổng hợp Harvard, mặc dù không đưa ra khái niệm về khởi nghiệp, giải
1 A startup company (startup or start-up) is an entrepreneurial venture which is typically a newly
emerged, fast-growing business that aims to meet a marketplace need by developing or offering an
innovative product, process or service. A startup is usually a company such as a small business, a
partnership or an organization designed to rapidly develop a scalable business model.

425
thích lý do khởi nghiệp nhằm nhanh chóng đưa đổi mới sáng tạo vào thực tiễn.
Đồng thời, tài liệu này chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến khởi nghiệp như nhu cầu,
cạnh tranh, cấp giấy phép, quỹ khởi nghiệp, cam kết, hỗ trợ và quản lý. Tài liệu
nhấn mạnh đến việc đăng ký tài sản trí tuệ trong khi làm thủ tục khởi nghiệp. Có
thể đây là một điều kiện quan trọng trong môi trường kinh doanh ở Mỹ nơi có
mức độ bảo hộ tài sản trí tuệ rất cao
Nghiên cứu về khởi nghiệp kinh doanh ở Nhật Bản (Imal, Kawagoe, 2000)
không nêu ra khái niệm khởi nghiệp mà phân tích thực trạng suy giảm tỷ lệ khởi
nghiệp ở Nhật Bản vào năm 1999 đặt ra yêu cầu sửa đổi Luật Cơ bản về doanh
nghiệp nhỏ và vừa để bảo vệ doanh nghiệp nhỏ và vừa trước sự lớn mạnh của
doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới sáng tạo. Trong thời gian này, Nhật Bản, đặt
mục tiêu đầy tham vọng là tăng gấp đôi số doanh nghiệp trong vòng 5 năm bằng
việc đưa ra gói kích thích kinh tế từ tháng 11/1999. Số lượng khởi nghiệp được
đo bằng số lượng các phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO). Để hỗ trợ
khởi nghiệp, các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư thiên thần, vườn ươm doanh
nghiệp là những công cụ hỗ trợ hiệu quả trực tiếp. Điều này cho thấy vai trò của
Chính phủ rất quan trọng trong kiến tạo thói quen khởi nghiệp và có thể thấy
điều kiện Việt Nam hiện tại có những điểm tương đồng với điều kiện Nhật Bản
năm 1999 về khởi nghiệp nghĩa là Việt Nam đi sau Nhật Bản chỉ khoảng 20 năm
về chiến lược khởi nghiệp.
Diễn đàn các nhà đổi mới sáng tạo châu u (2014) cũng không đưa ra khái
niệm khởi nghiệp cụ thể nhưng chỉ ra công thức của khởi nghiệp là chi phí cơ hội
hay chi phí khởi nghiệp phải nhỏ hơn lợi ích do nó mang lại. Điều này liên quan
đến nhiều yếu tố như nguồn tài chính có thể tiếp cận với chủ khởi nghiệp, thủ tục
đơn giản, trao đổi kỹ năng khởi nghiệp, kỹ năng sử dụng mạng điện tử và không
đóng cửa về địa lý đối với quyền sao chép. Liên minh châu u còn đưa ra một
chương trình hành động về khởi nghiệp đến năm 2020.
Bộ Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ (2016) không đưa ra cụ thể khái
niệm tổng quát về khởi nghiệp nhưng lại quy định một số chỉ tiêu đánh giá một
doanh nghiệp được coi là khởi nghiệp gồm: (a) mới được đăng ký thành lập trong
vòng 5 năm; doanh thu của bất kỳ năm tài chính không quá 250 triệu Ru-pi;
(c) nhằm đổi mới, phát triển, triển khai hoặc thương mại hóa sản phẩm mới, quy
trình hoặc dịch vụ tạo ra bởi công nghệ mới hoặc tài sản trí tuệ. Những thực thể bị

426
chia tách hoặc tái cấu trúc từ doanh nghiệp hiện có sẽ không được coi là khởi
nghiệp. Để được hưởng các ưu đãi về thuế, khởi nghiệp phải tuân thủ các loại thủ
tục nhất định nhưng phải có chứng chỉ về tham gia vườn ươm doanh nghiệp.
Từ một số quan niệm trên đây, mặc dù mang tính đặc thù quốc gia, có thể
hiểu khởi nghiệp là một quá trình hình thành ý tưởng kinh doanh và triển khai ý
tưởng đó vào thực tế theo đúng quy định pháp luật và sáng tạo giá trị được thị
trường chấp thuận. Khởi nghiệp là một hệ thống các công việc được chủ khởi
nghiệp chủ động và tích cực xây dựng và tổ chức thực hiện có sự ủng hộ của
chính phủ, sự hỗ trợ của các đối tượng hữu quan và huy động các nguồn lực khác
triệt để mọi cơ hội thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để thành công.
Chủ khởi nghiệp đóng vai trò quyết định đối với thành công trong khởi nghiệp và
môi trường khởi nghiệp hay hệ sinh thái khởi nghiệp đóng vai trò quan trọng.
Khởi nghiệp có thể hiểu đơn giản chỉ là một công việc phải thực hiện, còn theo
nghĩa rộng, khởi nghiệp là một sự nghiệp có điểm khởi đầu và có thể không có
điểm kết thúc, nó đòi hỏi tính chuyên nghiệp hóa cao cũng như những tố chất và
bản lĩnh doanh nhân.
Những kinh nghiệm thành công
Viện nghiên cứu spen của Mỹ năm 2006 tiến hành khảo sát các khởi
nghiệp của doanh nghiệp xã hội và môi trường. Kết quả cho thấy, có 19 yếu tố
thành công của khởi nghiệp khá đa dạng và khởi nghiệp thuộc các lĩnh vực khác
có thể có những bài học không giống với các bài học này bao gồm:
1. Khởi nghiệp không thực hiện tùy tiện mà phải có trọng điểm, được lãnh
đạo thống nhất và bộ máy quản lý xác định rõ ràng và hợp lý; 2. lãnh đạo và
quản lý tốt là điều kiện cơ bản để tăng quy mô khởi nghiệp; 3. Hiểu biết và thông
tin thị trường là căn cứ đặc biệt quan trọng để xác định quy mô; 4. Chủ động và
tích cực thực hiện công tác marketing về sản phẩm và dịch vụ là yếu tố cơ bản để
mở rộng quy mô thành công; 5. Xây dựng danh mục mặt hàng đa dạng, phù hợp
đóng vai trò quan trọng trong việc tăng quy mô; 6. Việc tăng quy mô áp dụng đối
với sản phẩm nhưng ít áp dụng đối với lĩnh vực tài chính phát triển cộng đồng;
7. Việc mở rộng quy mô khởi nghiệp về địa lý có ý nghĩa quan trọng; 8. Quan hệ
đối tác, mua bán doanh nghiệp và các cách tiếp cận khác thuộc tái cơ cấu chiến
lược đóng vai trò chủ yếu trong tăng độ bao phủ về địa lý hoặc mở rộng danh
mục sản phẩm; 9. Quan hệ đối tác cần có cam kết chặt chẽ, thương thảo cẩn thận

427
và tiêu tốn thời gian; 10. Việc nhân rộng mô hình khởi nghiệp là phương thức
tăng quy mô nhưng việc làm này không dễ dàng đạt đến thành công; 11. Công
tác tiêu chuẩn hóa là điều kiện tiên quyết để gia tăng khởi nghiệp; 12. Đầu tư
công nghệ góp phần quan trọng mở rộng dịch vụ, gia tăng hiệu năng và tiết kiệm
chi phí; 13. Đầu tư bài bản vào cơ sở hạ tầng cơ bản, công nghệ và nguồn lực là
điều kiện cốt yếu để tăng trưởng thành công; 14. Đội ngũ, kỹ năng và năng lực
quản lý mới cần được bổ sung kịp thời vào thời điểm tăng trưởng phù hợp;
15. Các tổ chức phải lấy việc đánh giá hiệu quả theo quy mô làm căn cứ ra quyết
định; 16. Việc mở rộng quy mô khởi nghiệp cần thời gian và chi phí; 17. Để tăng
quy mô đáng kể cần đầu tư vốn lớn mà nếu thiếu nguồn tài chính phù hợp có thể
không bảo đảm tính bền vững của tổ chức; 18. Môi trường pháp lý và quy định
đóng vai trò chủ yếu trong điều chỉnh hoặc tạo điều kiện mở rộng quy mô tăng
trưởng của khởi nghiệp; 19. Thị trường tài chính là điều kiện có tính nền tảng để
khởi nghiệp tăng quy mô.
Những kinh nghiệm thất bại
Bên cạnh các yếu tố khởi nghiệp thành công, Quỹ đầu tư mạo hiểm
CBInsights (Mỹ) tổng kết được 20 nguyên nhân thất bại từ phân tích, mổ xẻ
101 trường hợp doanh nghiệp khởi nghiệp thất bại tại Mỹ. Điểm đáng chú ý là
rất ít khởi nghiệp thất bại chỉ vì một nguyên nhân duy nhất và nguyên nhân
thất bại cũng khá đa dạng. Các nguyên nhân thất bại này trải rộng từ việc
thiếu sự phù hợp của sản phẩm với thị trường đến mâu thuẫn trong ban lãnh
đạo. Đây là những kinh nghiệm và bài học thực tế quan trọng đối với Việt
Nam trong quá trình xây dựng quốc gia khởi nghiệp để phòng ngừa cao nhất
khả năng thất bại, tăng tính tự tin của các nghiệp chủ. Các nguyên nhân thất
bại bao gồm (lưu ý: con số % cho thấy tỷ lệ số doanh nghiệp trả lời): 1. Thị
trường không có nhu cầu (42%); 2. Thiếu tiền mặt (29%); 3. Thiếu đội ngũ
lãnh đạo phù hợp (23%); 4. Không đủ khả năng cạnh tranh (19%); 5. Vấn đề
định giá/chi phí (18%); 6. Sản phẩm đơn điệu (17%); 7. Thiếu mô hình kinh
doanh (17%); 8. Hoạt động marketing nghèo nàn (14%); 9. Không quan tâm
đến khách hàng (14%); 10. Tung sản phẩm không đúng thời điểm (14%);
11. Thiếu tập trung thỏa đáng vào mục tiêu chính (13%); 12. Thiếu thống nhất
trong đội ngũ lãnh đạo hoặc nhà đầu tư (13%); 13. Vận hành thiếu nhất quán
(10%); 14. Thiếu sự đam mê (9%); 15. Địa điểm không phù hợp (9%);
16. Thiếu nguồn tài chính và bảo đảm lợi ích nhà đầu tư (8%); 17. Vi phạm