Thể chế tư pháp cộng hòa nhân dân Trung Hoa
lượt xem 29
download
Thứ nhất là các cơ quan Nhà nước được trao quyền tư pháp mang tính hiến định, bao gồm Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân, đây là bộ phận hợp thành chủ yếu thể chế tư pháp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thể chế tư pháp cộng hòa nhân dân Trung Hoa
- Th.S Phạm Ngọc Thạch Phòng Nghiên cứu Chính trị Viện Nghiên cứu Trung Quốc
- Phần 1: Lược sử thể chế tư pháp Trung Quốc từ 1949 đến nay Phần 2: Giới thiệu về Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân
- Nắm được lịch sử thể chế tư pháp CHND Trung Hoa Hiểu được cơ cấu của Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân tại Trung Quốc
- CƠ CẤU CHÍNH TRỊ CHND TRUNG HOA ĐẢNG CỘNG SẢN NHÀ NƯỚC CHND TRUNG HOA TRUNG QUỐC ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC HIỆP THƯƠNG BỘ CHÍNH TRỊ CHÍNH TRỊ TOÀN QUỐC CHỦ TỊCH NƯỚC BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG QUỐC VỤ TÒA ÁN VIỆN KIỂM SÁT ĐẢNG NHÂN DÂN NHÂN DÂN VIỆN TỐI CAO TỐI CAO ĐẢNG ỦY CÁC CẤP CÁC BỘ, ỦY TÒA ÁN VIỆN KIỂM SÁT HỘI NGHỊ BAN TRỰC NHÂN DÂN NHÂN DÂN ĐỊA HIỆP THUỘC ĐỊA PHƯƠNG THƯƠNG PHƯƠNG CHÍNH TRỊ ĐỊA PHƯƠNG
- Thể chế tư pháp Trung Quốc gồm ba bộ phận: Thứ nhất là các cơ quan Nhà nước được trao quyền tư pháp mang tính hiến định, bao gồm Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân, đây là bộ phận hợp thành chủ yếu thể chế tư pháp. Thứ hai là các cơ quan Nhà nước thuộc bộ máy hành chính Nhà nước được trao một phần quyền tư pháp bao gồm các cơ quan công an, an ninh quốc gia và cơ quan quản lý hành chính tư pháp. Cuối cùng là các cơ quan bổ trợ tư pháp gồm các tổ chức chuyên môn được pháp luật trao quyền tham dự một số công việc tư pháp như các tổ chức luật sư, công chứng, trọng tài, hoà giải.
- Lược sử thể chế tư pháp Trung Quốc từ 1978 đến nay
- “Thông tri về việc xoá bỏ sáu bộ luật của Quốc dân đảng và xác lập lại nguyên tắc xét xử tại vùng giải phóng” của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1949 Điều 17 “Cương lĩnh chung” của Hội nghị Chính trị hiệp thương nhân dân Trung Quốc (12-1949): “Xoá bỏ tất cả các văn bản pháp luật của chính quyền phản động Quốc dân đảng và những thiết chế áp bức nhân dân, ban hành pháp luật bảo vệ nhân dân và xây dựng một thể chế tư pháp nhân dân”. Thể chế tư pháp Trung Quốc đã đặt được những nền móng đầu tiên với “Điều lệ tạm thời về tổ chức Toà án nhân dân ”, “Điều lệ tạm thời về tổ chức Phòng Kiểm sát nhân dân tối cao”, “Điều lệ về trừng trị tội phạm phản cách mạng” và “Điều lệ về trừng trị tham nhũng”.
- Điều 4 : “CHND Trung Hoa dựa vào các cơ quan Nhà nước và lực lượng xã hội, tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và quá độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo loại trừ bóc lột, thiết lập Nhà nước xã hội chủ nghĩa”. Những nguyên tắc Hiến định: Mọi công dân bình đẳng trước pháp luật; Quyền tự do thân thể của công dân là bất khả xâm phạm, quyền tự do đó không thể bị xâm phạm khi không có quyết định của Toà án nhân dân hoặc sự cho phép của Viện Kiểm sát nhân dân; Công dân có quyền bất khả xâm phạm về nơi ở; Mọi công dân đều phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tuân thủ kỷ luật lao động và tôn trọng đạo đức xã hội
- Kỳ họp thứ nhất Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc khoá I năm 1954 ban hành: Luật Tổ chức Toà án nhân dân Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân Tháng 12-1954, “Điều lệ về bắt giam” được công bố. Các cơ quan toà án, kiểm sát, công an, hành chính tư pháp đã được thành lập có hệ thống từ Trung ương xuống địa phương, công cụ hữu hiệu trấn áp kẻ thù của Nhà nước CHND Trung Hoa non trẻ, là cách thức để nhân dân thực hiện vai trò làm chủ trong xã hội. Thể chế tư pháp Trung Quốc về cơ bản đã hình thành và phát huy hiệu quả trong xã hội.
- “Đấu tranh chống phái hữu” (năm 1957), “Đại nhảy vọt” và phong trào Công xã nhân dân (năm 1958), đấu tranh chống “hữu khuynh” (năm 1959) và phong trào “Bốn trong sạch” (năm 1963-1965) Hệ thống cơ quan quản lý hành chính tư pháp mới được thành lập năm 1949 đã bị xoá sổ năm 1959. Nhiều nguyên tắc dân chủ và nguyên tắc tư pháp đặc thù bị xuyên tạc.
- Công tác tư pháp gần như bị vô hiệu hoá. Rất ít văn bản pháp luật được ban hành hoặc nếu có chỉ để sử dụng làm công cụ thực hiện “Cách mạng văn hoá”: “Sáu điểm về an ninh công cộng” được ban hành ở giai đoạn đầu của “Cách mạng văn hoá” Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Trung Quốc năm 1975 (còn gọi là bản Hiến pháp năm 1975) hoàn toàn loại trừ hệ thống cơ quan Viện Kiểm sát nhân dân khỏi bộ máy Nhà nước, xoá bỏ nguyên tắc “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật” cùng nhiều nguyên tắc dân chủ khác. Pháp luật bị coi thường, dân chủ chính trị bị chà đạp, quyền công dân bị xâm hại thô bạo là những thử thách ghê gớm đối với thể chế tư pháp Trung Quốc trong giai đoạn này.
- 1. Thể chế tư pháp này thiếu những cơ sở pháp lý cần thiết tối thiểu để vận hành. Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Dân sự không được ban hành Các bộ luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự cũng không tồn tại 2. Thể chế tư pháp này chịu tác động mạnh mẽ của các phong trào chính trị, đặc biệt là từ phong trào “chống phái hữu” năm 1957. Nhiều nguyên tắc dân chủ bị xuyên tạc. 3. Thể chế tư pháp Trung Quốc trong sự vận hành thiếu cơ chế giám sát, chế ước lẫn nhau. Quyền lực của cơ quan công an quá lớn Lời nói của lãnh tụ, đường lối của Đảng cao hơn pháp luật Đến năm 1978 thể chế tư pháp Trung Quốc chỉ còn tồn tại về mặt hình thức.
- Hội nghị Trung ương 3 khoá XI Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 12- 1978 mở ra một kỷ nguyên “Cải cách - Mở cửa”. Yêu cầu cải cách Xuất phát từ yêu cầu thay đổi cách thức quản lý của Nhà nước từ nhân trị sang pháp trị. Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm cho việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN mang đặc sắc Trung Quốc Xuất phát từ yêu cầu của việc đấu tranh chống lại những tiêu cực xuất hiện trong những điều kiện xã hội mới nói chung (như tham nhũng, hối lộ...) cũng như những vi phạm pháp luật và kỷ luật trong bản thân ngành tư pháp nói riêng (có pháp luật mà không theo, chấp pháp không nghiêm, vì tình riêng mà bất chấp luật pháp...). Do sự xuất hiện của chủ nghĩa bảo hộ địa phương và chủ nghĩa bảo hộ ngành trong công tác tư pháp. Xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế của Trung Quốc.
- Tái lập hệ thống cơ quan Viện Kiểm sát nhân dân tháng 3-1978 Củng cố hệ thống cơ quan Toà án nhân dân Khôi phục các cơ quan quản lý hành chính tư pháp ngày 13-9-1979, Thành lập cơ quan an ninh quốc gia năm 1983 Xây dựng các tổ chức chuyên môn được pháp luật giao quyền: Luật sư, công chứng, tổ chức hòa giải, trọng tài.
- Sự lãnh đạo của Đảng uỷ với cơ quan tư pháp chỉ được thông qua hệ thống tổ chức của Đảng, trong phạm vi cho phép của Hiến pháp và pháp luật. Quyền giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước với cơ quan tư pháp được thực hiện bằng việc xem xét, bàn bạc các báo cáo chuyên đề, đưa ra chất vấn, tổ chức thị sát, kiểm tra, thụ lý những trình bày của công dân với việc xử lý các vụ án của cơ quan tư pháp, thụ lý và thẩm tra các tố giác, khiếu nại của các cơ quan tư pháp, tổ chức các uỷ ban điều tra các vấn đề đặc biệt.
- Năm 1949, chế độ lãnh đạo của cơ quan kiểm sát theo ngành dọc. Năm 1951 trong đó xác lập chế độ lãnh đạo coi trọng cả hai theo đó cơ quan kiểm sát địa phương vừa chịu sự lãnh đạo của cơ quan kiểm sát cấp trên, vừa chịu sự lãnh đạo của Uỷ ban chính quyền nhân dân cùng cấp. Hiến pháp 1954 ban hành rồi sau đó là Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (9- 1954) đã phục hồi lại chế độ lãnh đạo theo ngành dọc. Hiến pháp năm 1978: Viện Kiểm sát các cấp địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác với Đại hội đại biểu nhân dân cùng cấp, Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên giám sát công tác kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân cấp dưới. Năm 1979, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân: quan hệ giám sát của Viện Kiểm sát cấp trên với Viện Kiểm sát cấp dưới đã được chuyển lại thành quan hệ lãnh đạo. Hiến pháp 1982 quy định Viện Kiểm sát do Đại hội đại biểu nhân dân thành lập, phải chịu trách nhiệm trước Đại hội đại biểu nhân dân cùng cấp và chịu sự giám sát của cơ quan này, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao lãnh đạo Viện Kiểm sát nhân dân các cấp và Viện Kiểm sát nhân dân chuyên ngành, Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên lãnh đạo công tác của Viện Kiểm sát nhân dân cấp dưới
- Quan hệ giữa Toà án nhân dân cấp trên và Toà án nhân dân cấp duới chỉ là quan hệ giám sát theo cấp xét xử. Toà án nhân dân cấp trên căn cứ các quy định của pháp luật tiến hành giám sát việc xét xử của Toà án nhân dân cấp dưới. Toà án cấp trên không được can thiệp bằng các biện pháp hành chính để chỉ đạo việc xét xử của Toà án nhân dân cấp dưới, mà phải thông qua các trình tự tố tụng luật định để xem xét. Trên thực tế, việc toà án cấp trên dùng phương thức lãnh đạo hành chính can thiệp vào công tác xét xử của Toà án nhân dân cấp dưới cũng đã và đang xảy ra. Sự can thiệp này đã làm mất tác dụng của chế độ phân cấp xét xử, biến chế độ xét xử hai lần thành xét xử một lần, xâm phạm đến quyền lợi về tố tụng của đương sự, phiên toà xét xử trở nên hình thức, phá vỡ nguyên tắc toà án độc lập xét xử.
- Luật về Kiểm sát viên và Luật về Thẩm phán được ban hành tháng 2/1995, được sửa đổi tại kỳ họp thứ 22 Uỷ ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khoá IX 30/6/2001, có hiệu lực 1/1/2002 hoàn thiện chế độ Hội thẩm nhân dân.từ Luật Công an ban hành năm 1995. Luật về Luật sư CHND Trung Hoa được ban hành tháng 5-1996ông an ban hành năm 1995
- Bước đầu hình thành một thể chế tư pháp độc lập. Bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Cải cách thể chế tư pháp đã và đang góp phần quan trọng vào công tác chống tham nhũng. Khung pháp lý cơ bản cho sự vận hành của thể chế tư pháp đã thiết lập.
- Những quan điểm coi các cơ quan tư pháp chỉ là công cụ để đấu tranh giai cấp, hình sự hoá các vụ án kinh tế, dân sự... vẫn tồn tại. Trung Quốc còn phải đối mặt với vấn đề nan giải là làm thế nào để thực hiện có hiệu quả việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật và bảo đảm chắc chắn tư pháp độc lập.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài " Tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân "
36 p | 661 | 241
-
Thực trạng giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nhân lực chất lượng cao - 1
6 p | 108 | 39
-
Biên Niên Sử nước Nga 1800-2000 phần 2
7 p | 277 | 37
-
Bài giảng Công tác xã hội với người khuyết tật: Bài 8 - Trần Văn Kham
28 p | 190 | 37
-
HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 1992 - CHƯƠNG II
9 p | 102 | 14
-
NỘI CHIẾN TẠI HOA KỲ VÀ CÔNG CUỘC TÁI THIẾT
6 p | 124 | 12
-
Phát huy vai trò chủ thể của nông dân và giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và các thể chế tự quản trong xây dựng nông thôn mới - Nguyễn Xuân Thắng
5 p | 74 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn